Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

BÀI GIẢNG TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ VỀ TƯ TƯỞNG CỦA JOHN LOCKE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.85 KB, 15 trang )

BÀI GIẢNG TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ VỀ TƯ TƯỞNG CỦA JOHN LOCKE
TS. ROBERT LANE
1 BỐI CẢNH
1.1 tiểu sử





người Anh, 1632-1704
bố theo phe quốc hội trong cuộc chiến chống lại Charles I
học triết học và y khoa tại Oxford
sống lưu vong ở Hà lan trong những năm 1680; ở lại đó cho đến sau Cách mạng Vinh
quang 1688, khi William of Orange lên ngôi vua nước Anh.

Tác phẩm triết học nổi tiếng


Luận văn về giác tính con người (1690) -- một tác phẩm nhận thức luận kinh điển



của truyền thống duy nghiệm
Hai luận văn về chính quyền (1690)
1. Luận văn thứ nhất: “chủ yếu là một cuộc bút chiến, một cuộc tranh cãi về sự
diễn giải kinh thánh, chống lại các tác phẩm Robert Filmer” – đặc biệt là tác
phẩm Patriarcha (1680), trong đó Filmer bảo vệ sự quan điểm cho rằng quyền
lực chính trị có nguồn gốc từ quyền lực thần thánh (phù hợp với quan điểm của
nền quân chủ Stuart về chính họ, đặc biệt là James I).
2. Luận văn thứ hai: về chính quyền dân sự (1690) – xuất bản hai năm sau khi


loại bỏ James II khỏi ngai vị nước Anh trong cuộc Cách mạng Vinh quang,
nhưng được viết trước sự kiện đó – một phần của tác phẩm liên quan đến việc
biện hộ cho sự nổi loạn chống lại quyền lực chính trị hiện hành; trong thực tế


Locke ủng hộ cách mạng lật đổ James II)
Locke tóm tắt các luận điểm của ông nhằm chống lại lý thuyết về quyền thần thánh
của Filmer trong chương 1 của Luận văn thứ hai. Thực tế, ông bắt đầu tác phẩm với
việc bác bỏ câu trả lời cho câu hỏi Q2 (Điều gì biện minh cho xã hội chính trị,
hay thẩm quyền chính trị có nguồn gốc từ đâu?) câu trả lời mà ông muốn bác bỏ
là: thẩm quyền thần thánh.

1.2 Locke người khai sinh ra Thuyết tự do


Locke ủng hộ quan điểm về một chính phủ giới hạn và sự khoan dung cho các quan điểm
và lối sống khác nhau – vì vậy ông là một trong những người hình thành truyền thống tự do
chính trị (với lập trường chính trị đề cao sự tự do cá nhân).
Truyền thống này theo sau Locke khi cho rằng sự tự do cá nhân bị đe dọa nhiều nhất bởi sự
can thiệp của chính quyền; vì vậy ủng hộ quan điểm về một chính phủ giới hạn. [trong truyền
thống này, chúng ta sẽ sớm đến với “Bàn về tự do” của John Stuart Mill, cũng như với Robert
Nozick]
Tuy nhiên, có một truyền thống tự do khác vốn bắt nguồn từ Jean Jacques Rousseau (người
Pháp, 1712-1778) xem sự đe dọa lớn nhất đối với sự tự do của con người là sự phân phối không
công bằng các nguồn lực và cơ hội. Theo truyền thống này, nếu bạn nghèo đói, hoặc nếu bạn
đang sống trong một hệ thống xã hội mà thiên vị cho một số cá nhân hay tầng lớp nào đó bằng
cách nô dịch cá nhân hay tầng lớp khác, thì bạn không tự do theo nghĩa đầy đủ nhất. Vì vậy thay
vì ủng hộ một chính phủ giới hạn, truyền thống này ủng hộ sự can thiệp của chính phủ để làm
giảm bớt nghèo đói và các bất công xã hội. [trong truyền thống này, chúng ta sẽ sớm đi đến với
John Rawls – nhưng lưu ý rằng Thuyết công lợi của John Stuart Mill nằm trong truyền thống

này]
1.3 Những điểm chính trong triết học chính trị của Locke



thẩm quyền chính trị phải dựa trên sự đồng thuận phổ thông
xã hội là một cấu trúc nhân tạo có mục đích phục vụ lợi ích của các thành viên của
nó, cụ thể hơn, để đảm bảo hòa bình và an ninh của các thành viên, để họ có thể theo



đuổi các nỗ lực cá nhân, và để bảo vệ quyền sống, tự do, tư hữu và sức khỏe
cá nhân có thể sống đời sống riêng tư của mình như mình muốn, bao lâu họ còn
tuân theo luật của tự nhiên (luật bắt nguồn từ Thượng đế, và có thể biết được thông



qua lý tính)
các sản phẩm của lao động của một người là tài sản của riêng người đó

Câu hỏi đầu tiên mà Locke phát biểu trong Luận văn thứ hai: nguồn gốc (khởi nguồn)
của quyền lực chính trị là gì? với “quyền lực chính trị” Locke muốn nói:
“quyền làm luật và phạt tử hình, quyền đối với tất cả các hình phạt khác nhằm mục đích quản lý và
bảo vệ tài sản, quyền sử dụng sức mạnh của cộng đồng khi thực thi những luật như vậy, và khi bảo vệ
cộng đồng khỏi tự tấn công từ bên ngoài; tất cả những điều này chỉ vì sự tốt đẹp chung.”


Định nghĩa này về quyền lực chính trị gợi ý hai điều thú vị:



Locke (như Plato, Aristotle and Hobbes) quan tâm đến quyền lực chính trị quy



phạm – ông muốn biết làm thế nào người cai trị có được quyền làm luật, vv…
Ông thừa nhận rằng, bất kể nguồn gốc của quyền lực chính trị quy phạm là gì, nó có
những giới hạn – nó được thực thi chỉ vì lợi ích chung.

2 TÌNH TRẠNG ĐẠO ĐỨC TỰ NHIÊN CỦA CON NGƯỜI
2.1 Luật tự nhiên
Locke cho rằng đạo đức tồn tại trước khi hình thành nhà nước, và con người có một số quyền
và bổn phận tự nhiên mà không phụ thuộc vào sự tồn tại của xã hội dân sự. Các quyền và bổn
phận có trước nhà nước này dựa vào luật tự nhiên. Theo quan điểm của Locke, luật tự nhiên:


không phải là một luật khoa học có tính mô tả; nhưng, nó là một luật đạo đức quy



phạm – luật khuyên con người phải sống như thế nào
không phụ thuộc vào luật dân sự (luật do nhà nước xây dựng) hoặc thỏa ước xã



hội
thể đạt được bằng cách sử dụng lý tính – con người có thể biết những luật này là



gì bằng cách suy luận

phản ánh ý chí của Thượng đế -- do vậy chúng được tiết lộ trong kinh thánh, cũng



như thông qua lý tính của con người
phổ quát – chúng áp dụng cho mọi người, mọi thời đại

Nhưng điều này không chỉ ra bất cứ điều gì về nội dung của luật tự nhiên – những gì mà
luật này thực sự bắt chúng ta phải làm. Locke tiết lộ những gì ông nghĩ như là một phần của
nội dung đó khi ông miêu tả luật nền tảng của tự nhiên
“... theo luật nền tảng của tự nhiên, con người phải được bảo vệ tới mức tối đa có thể…
...luật tự nhiên nền tảng thứ nhất, luật sẽ chi phối ngay cả việc lập pháp, là bảo tồn xã hội, và mọi
thành viên của nó”.

Luật nền tảng này được biện minh một cách hợp lý bởi sự kiện chúng ta là tạo vật của
Thượng đế, “được tạo ra để làm hài hòng ngài chứ không phải làm hài lòng người khác”.
Vì Thượng đế tạo ra chúng ta (một yêu sách thần học được Locke chấp nhận là đúng đắn), nên sẽ
là khôn ngoan khi thừa nhận rằng Ngài mong chúng ta tồn tại bao lâu Ngài muốn. Đây là một
yêu sách nền tảng đối với triết học chính trị của Locke: đó là lý do tại sao Locke tin rằng con


người không có quyền hủy hoại chính họ và do vậy không thể chuyển một quyền như vậy tới chủ
quyền tối cao.
Từ luật tự nhiên nền tảng này, con người có thể suy ra các luật khác: ví dụ, từ luật là tất
cả phải được bảo vệ tới mức tối đa có thể (cộng với thực tế là con người cần một số thứ để sinh
tồn), dẫn đến mỗi người có quyền tự nhiên để tiếp cận với những gì anh ta cần cho sự sinh sống
của mình.
2.2 Trạng thái tự nhiên
Trong trạng thái tự nhiên (xã hội trước khi thành lập chính phủ), con người là:




tự do theo đuổi mục đích của riêng mình, và
bình đẳng về quyền lực

Nhưng điều này không phải là nguyên nhân dẫn tới chiến tranh tất cả chống lại tất cả.
Locke không chấp nhận thuyết vị kỉ tâm lý của Hobbes – thay vào đó, ông tin rằng con người
duy lý sẽ, bằng lý tính, nhận ra luật tự nhiên mệnh lệnh cho anh ta phải bảo vệ cuộc sống, sự
thịnh vượng, và tài sản của người khác bao lâu mà việc làm như vậy không đặt chính mình vào
tình trạng nguy hiểm.
“trạng thái tự nhiên có luật tự nhiên quản lý, luật bắt buộc đối với mọi người: và lý tính, là luật đó,
dạy tất cả mọi người, khi anh ta hỏi nó, rằng tất cả mọi người là bình đẳng và độc lập, không ai có quyền
làm hại đến sinh mạng, sức khỏe, sự tự do hay tài sản của người khác”

Vì con người trong trạng thái tự nhiên là tự do và bình đẳng


có nghĩa vụ hành động để “bảo vệ” (không làm hại) sinh mạng và tài sản của



người khác (cũng như họ có nghĩa vụ bảo vệ chính họ và tài sản của họ)…
ngoại trừ để trừng phạt người khác vì vi phạm luật tự nhiên (không theo cách
hung hăng hay “quá mức”, nhưng chỉ theo cách mà tỷ lệ với sự vi phạm)…và
1. mọi người có quyền để trừng phạt như vậy đối với những người vi phạm
luật tự nhiên: “..mọi người có quyền trừng phạt người vi phạm, và là người
thực thi luật tự nhiên”
2. sự biện minh chủ yếu cho sự trừng phạt là sự ngăn chặn: để ngăn chặn
người vi phạm, cũng như người khác, khỏi vi phạm luật tự nhiên; và mục đích
của sự ngăn chặn này là để “bảo vệ” con người. Vì tất cả mọi người có quyền



bảo vệ loài người, tất cả mọi người có quyền trừng phạt người vi phạm luật tự


nhiên để ngăn chặn những vi phạm trong tương lai.
Ngoài ra, bên bị thiệt hại có quyền trừng phạt người vi phạm để nhận lại sự bồi
thường tư người vi phạm

Vì vậy, trong trạng thái tự nhiên của Locke (không như Hobbes), nếu mọi người là duy
lý, họ sẽ tuân theo luật tự nhiên và hòa bình sẽ được bảo đảm và không ai có nhu cầu thực
thi quyền trừng phạt của mình tới những người vi phạm luật tự nhiên.
Nhưng không phải tất cả mọi người đều duy lý
“khi vi phạm luật tự nhiên, người vi phạm tuyên bố anh ta sống theo quy tắc khác với quy tắc của lý
tính và công lý chung vốn là thước đo mà Thượng đế đặt lên các hành động của con người vì sự anh toàn
của con người; và vì vậy anh ta trở thành mối đe dọa với nhân loại, sự ràng buộc, vốn đảm bảo cho mọi
người khỏi bị tổn thương và bạo lực, bị anh ta coi thường và phá vỡ”

Vì vậy trong trạng thái tự nhiên. Luật tự nhiên (luật quy pham) mệnh lệnh rằng con người
phải tôn trọng các quyền tự nhiên của người khác. Nhưng đôi khi con người vẫn vi phạm các
quyền tự nhiên của người khác.
2.3 Quyền lực thực thi của luật tự nhiên
“Quyền trừng phạt” được miêu tả ở trên được Locke gọi là quyền lực thực thi của luật tự
nhiên. “Quyền lực” này thực sự bao gồm ba quyền:



tự mình pháp quyết xem một hành động có vi phạm luật tự nhiên hay không
gắng để ngăn chặn người khác khỏi vi phạm luật tự nhiên, bằng bạo lực nếu cần




thiết
tự mình phán quyết (trên cơ sở suy nghĩ thận trọng và chu đáo) đâu là hình
phạt thích hợp cho người vi phạm và cố gắng để thực thi sự trừng phạt đó

Điều quan trong có tính quyết định đối với giải thích của Locke về thẩm quyền của chính phủ
dân sự là cá nhân trong trạng thái tự nhiên có một số quyền như là quyền lực thực thi luật tự
nhiên, bao gồm quyền trừng phạt: điều này là vì, theo quan điểm của Locke, thẩm quyền của
chính phủ dân sự phải bắt nguồn từ thẩm quyền mà cá nhân có trong trạng thái tự nhiên, trước
khi có xã hội dân sự. Vì vậy nếu cá nhân trong trạng thái tự nhiên không có quyền trừng phạt
người khác, thì họ không thể chuyển quyền đó tới chủ quyền tối cao.
2.4 Trạng thái chiến tranh.


Hobbes cho rằng trạng thái tự nhiên (cuộc sống bên ngoài xã hội chính trị, ví dụ như trạng
thái vô chính phủ) là một trạng thái chiến tranh mà tất cả chống lại tất cả; ông không phân biệt
giữa trạng thái tự nhiên và trạng thái chiến tranh. Mặt khác, Locke lại nghĩ có một sự khác biệt
quan trọng giữa chúng. Locke định nghĩa trạng thái chiến tranh như sau:
“trạng thái chiến tranh: xảy ra khi một cá nhân vi phạm các quyền tự nhiên của người khác,
như lỗ lực giết chết anh ta, hoặc nô lệ anh ta, hoặc ăn cắp tài sản của anh ta”
Trong trạng thái chiến tranh:


cá nhân có quyền tự nhiên để bảo vệ chính anh ta chống lại những ai vi phạm quyền



tự nhiên của anh ta
khi A bắt đầu trạng thái chiến tranh giữa anh ta và B bằng cách ăn trộm tài sản của B,

thì B có quyền giết A khi A đang cố gắng để ăn trộm của B – thậm chí nếu A chỉ
cố gắng ăn trộm “con ngựa hay áo choàng” của B.

Trạng thái chiến tranh có thể bắt đầu trong trạng thái tự nhiên và trong xã hội dân sự
trong trạng thái tự nhiên:

trong xã hội dân sự:

“trạng thái chiến tranh tiếp tục ngay cả

Nhưng…nếu có một “biểu hiện rõ ràng

khi việc trộm cắp đã xảy ra, và nạn nhân cócủa sự bất công” (kẻ gây hấn được thả tự do
quyền giết kẻ trộm “cho đến khi kẻ gây hấn bởi vì hệ thống pháp luật suy đồi), điều này
đề nghị hòa bình …”

sẽ khởi đầu một trạng thái chiến tranh khác,
mà nạn nhân có quyền tương tự như được
miêu tả ở trên.

“Một lý do vĩ đại” mà con người đưa chính họ ra khỏi trạng thái tự nhiên và vào trong
xã hội (là lý do mà chính phủ được thành lập) là tránh khỏi trạng thái chiến tranh (dù, như
chính Locke minh họa trong III:20, trạng thái chiến tranh có thể xảy ra ngay cả trong xã hội dân
sự, nếu hệ thống tư pháp không công bằng).
2.5 Tài sản


Locke muốn giải thích làm tại sao cá nhân lại có quyền đối với một tài sản, mà cá nhân
khác lại không có quyền, dù Thượng đế đã trao trái đất và tất cả những gì thuộc về nó
chung cho cả loài người.

Dựa trên các giả định sau…


Thượng đế trao trái đất và tất cả những gì thuộc về trái đất cho chúng ta để chúng ta




sinh tồn
mỗi chúng ta có quyền lấy những gì chúng ta cần để sống
mỗi cá nhân khởi đầu với “tài sản” của riêng anh ta, là chính anh ta và lao động của
anh ta

… Locke miêu tả những điều kiện sau đối với quyền sở hữu của cá nhân:
C1. Bạn có quyền giành lấy những gì mà bạn “trộn lẫn” sức lao động của chính bạn với
C2. Bạn có quyền giành lấy chỉ vừa đủ mà bạn có thể sử dụng trước khi nó bị hỏng (để
cho một thứ gì đó bị hỏng là phá hoại mục đích ban đầu của Thượng đế khi ban cho chúng ta
tài sản)
C3. Bạn có quyền giành lấy vừa đủ để còn lại đủ cho người khác sinh sống
Bất cứ tài sản nào không đáp ứng được ít nhất một trong ba điều kiện trên cho sở hữu tư nhân
thì là sở hữu chung. Với những điều kiện này, quyền sở hữu tài sản của cá nhân sẽ bị giới hạn
rất nhiều so với xã hội hiện đại….và ngay chính với xã hội của Locke. Nhưng Locke đưa ra
thêm giải định khác: trong trạng thái tự nhiên, con người phát minh ra tiền. Điều này ảnh hưởng
tới sự mở rộng quyền tự nhiên đối với tài sản bằng cách thay đổi điều kiện thứ nhất và nới
lỏng hai điều kiện kia.
thay đổi điều kiện 1: bằng tiền, X có thể trả Y vì công lao động của Y – và công lao động khi
đó là của X. Ví dụ Tôi thuê ba người lao động đốn cây và dựng một ngôi nhà cho tôi trong rừng.
Vì tôi trả cho công lao động của họ, nên sản phẩm lao động của họ (ngôi nhà và mảnh đất được
phát quang) là của tôi.
nới lỏng điều kiện 2: những thứ dễ bị hỏng có thể chuyển thành tiền không bị hỏng (“một số

thứ tồn tại lâu dài mà con người có thể giữ mà không bị hư hỏng” “vàng, bạc có thể tích trữ mà
không làm tổn thương đến ai; những kim loại này không bị hỏng trong tay của người sở hữu”.


nới lỏng điều kiện 3: tiền làm cho buôn bán mở rộng; kết quả là, nó trở nên có lợi cho cá
nhân sở hữu để một lượng đất đai mà có thể tạo ra nhiều hơn nhu cầu của chính anh ta; điều này
dẫn đến một số cá nhân sở hữu nhiều đất, trong khi cá nhân khác không sở hữu đất. Nhưng điều
này có thể chấp nhận được, vì đất được trồng trọt đáng giá gấp 10 lần đất không được trồng
trọt, tức là nó sẽ tạo ra gấp 10 lần. Điều đó là chấp nhận được đối với những người sở hữu
nhiều đất và những người không sở hữu đất, vì chủ đất sẽ sử dụng đất đó để tạo ra đủ nguồn lợi
cho phép mọi người sinh sống. Một cách nhìn khác vào điều này là: cá nhân không nhất thiết cần
đất để sống; anh ta cần những những gì đất tạo ra. Vì vậy C3 không hàm ý rằng sẽ là sai khi chủ
đất sở hữu quá nhiều đất trong khi người khác lại không có đất; bao lâu những người không sở
hữu đất có đủ những thứ cần thiết để sinh sống, thì C3 không bị vi phạm.
Việc xuất hiện tiền làm xói mòn các điều kiện mà luật tự nhiên quy định đối với việc
chiếm hữu và sở hữu tài sản, dẫn đến một quyền tự nhiên để sở hữu một lượng tài sản gần
như vô hạn.
Điều quan trọng là điều này xảy ra trong trạng thái tự nhiên, trước khi xuất hiện chính
quyền. Đây là một lý do cho việc xuất hiện chính quyền để bảo vệ quyền của cá nhân đối
với tài sản của anh ta.
3 QUAN HỆ CHÍNH TRỊ
Khi dịch chuyển từ trạng thái tự nhiên sang xã hội dân sự, cá nhân vẫn giữ lại một số
quyền tự nhiên (như quyền bảo vệ chính mình) nhưng trao nhiều quyền cho nhà nước (như
quyền tự nhiên để trừng phạt người khác). Câu hỏi đối với Locke là: làm sao sự chuyển dịch
này từ nhà nước tự nhiên sang xã hội dân sự được biện minh về mặt đạo đức?
3.1 Chuyển giao quyền thực thi Luật tự nhiên
Theo quan điểm của Locke, một xã hội chính trị là một xã hội trong đó mọi người chuyển
quyền thực thi luật tự nhiên cho “cộng đồng”. Sau đó cộng đồng trở thành một dạng “trọng tài”,
với thẩm quyền:
1. giải quyết bất đồng giữa các cá nhân liên quan đến việc liệu luật tự nhiên đã bị vi


phạm hay chưa
2. quyết định sự trừng phạt nào cho một hành vi vi phạm cụ thể (“quyền làm luật”)
3. trừng phạt những người bên ngoài cộng đồng làm tổn thương các thành viên của
cộng đồng (“quyền chiến tranh và hòa bình”)


4. “sử dụng” “quyền lực” của các thành viên để thực thi các luật

Mục đích của tất cả điều này là để bảo vệ “tài sản [bao gồm thân thể và cuộc sống] của tất cả
các thành viên của xã hội, trong trừng mực tối đa có thể”. Đây là định nghĩa nổi tiếng của Locke
về quyền lực chính trị ở cuối chương I:
“quyền lực chính trị, là quyền để xây dựng luật, phạt tử hình, và tất cả các hình phạt khác để quản lý
và bảo vệ tài sản, và sử dụng sức mạnh của cộng đồng, khi thực thi những luật này, và khi bảo vệ cộng
đồng khỏi sự tổn thương bên ngoài; và tất cả những điều này là vì lợi ích chung”

Vậy, xã hội chính trị đi đến tồn tại khi cá nhân chuyển giao quyền thực thi luật tự nhiên
cho cộng đồng. Đầy là cây trả lời của Locke cho câu hỏi thứ nhất: “Xã hội chính trị là gì?”.
3.2 Từ trạng thái tự nhiên đến xã hội dân sự
Sự chuyển dịch từ trạng thái tự nhiên sang xã hội dân sự trải qua hai bước:
1. tạo ra một cộng đồng sở hữu chung quyền thực thi luật tự nhiên của mọi người:
“cách duy nhất, qua đó cá nhân tự tước bỏ sự tự do tự nhiên của chính mình, và khoác lên mình các
ràng buộc của xã hội dân sự, là sự đồng ý với người khác để gia nhập và liên kết thành một cộng đồng,
vì cuộc sống tiện lợi, an toàn, hòa bình giữa họ, vì sự sự đảm bảo cho sự hưởng thụ những tài sản của
họ, và sự an toàn lớn hơn chống lại người khác không thuộc về cộng đồng”

Cộng đồng này giống như “một cơ thể, với một năng lực để hành động như một cơ thể, với
chỉ duy nhất một ý chí là sự quyết định của đa số”. Khi tạo ra một cộng đồng, cá nhân kết hợp
chính họ vào trong một thực thể đơn nhất với khả năng đưa ra các quyết định thông qua xem xét
điều gì đa số của nó muốn.

Việc chuyển giao quyền thực thi luật tự nhiên của cá nhân sang cộng đồng dựa trên sự đồng
thuận tự nguyện: “con người, bởi bản chất, là tự do, bình đẳng, độc lập, không ai có thể bị bắt
ra khỏi tình trạng của họ, và buộc phải phục tùng quyền lực chính trị của người khác, mà không
có sự đồng thuận của anh ta” [sự đồng thuận có thể công khai hay ngầm]
Nhưng công đồng không phải là nhà nước – vì “không có một cơ quan được thành lập chính
thức” để ban hành và củng cố luật
2. Chuyển giao quyền thực thi luật tự nhiên cho một dạng chính thể


Cộng đồng chuyển giao quyền thực thi luật tự nhiên của mình cho một dạng chính thể nào
đó, mà không chuyển giao trực tiếp cho những cá nhân cụ thể; đó là dạng chính thể sẽ xác định
các cá nhân cụ thể nào có quyền thực thi hợp pháp quyền lực chính trị.
Các thành viên có thể quyết định trao quyền thực thi luật tự nhiên cho:
1. chính thể dân chủ
2. chính thể đầu sỏ
3. chính thể quân chủ lập hiến

Việc lựa chọn dạng chính thể sẽ được quyết định bởi quy tắc đa số; trong bước 1, mỗi cá
nhân ngầm đồng ý tuân theo các quyết định của đa số trong cộng đồng; nếu điều này không được
chấp nhận thì
• mỗi cá nhân trong cộng đồng vẫn có nhiều tự do để làm những gì anh ta muốn như

trong trạng thái tự nhiên
• trong thực tế, khả năng để đạt được sự đồng thuận 100% là không thể.
3.4 “Mục đích của xã hội chính trị và chính quyền”
3.4.1 Tại sao chúng ta dời bỏ trạng thái tự nhiên
Các cá nhân đồng ý chuyển giao quyền thực thi luật tự nhiên cho cộng đồng (bước thứ nhất
khi rời khỏi trạng thái tự nhiên) để bảo vệ tài sản của họ. Ở đây Locke sử dụng từ “tài sản” theo
nghĩa rộng bao gồm “sinh mạng, sự tự do, và đất đai”
“vì tất cả cố gắng trở thành những ông vua ở mức tối đa như có thể, và mọi người là tương đương,

và phần lớn không tuân theo sự vô tự và công chính, nên việc thụ hưởng tài sản của anh ta trong trạng
thái này là không an toàn, và không đảm bảo. Điều này làm anh ta sẵn sàng rời bỏ tình trạng này, dù là
tự do, nhưng chứa đầy sợ hãi và sự đe dọa liên tục; và sẵn lòng gia nhập vào trong một xã hội với người
khác, những người mà cũng sẵn sàng gia nhập, để bảo vệ lẫn nhau về cuộc sống, tự do, và đất đai, mà
tôi vốn gọi chung là tài sản.”
Do đó, mục đích chính và vĩ đại mà con người liên kết thành một cộng đồng, và đặt họ bên dưới một
chính quyền, là để bảo vệ tài sản của họ”

“Dạng chính thể” mà cộng đồng chuyển giao sự thực thi quyền lực tự nhiên sẽ bảo vệ tài
sản của cá nhân bằng cách cung cấp:
1. một bộ luật là tiêu chuẩn được chấp nhận về đúng sai để giải quyết các bất đồng


2. một quan toàn vô tư, người quyết định sự bất đồng sẽ được giải quyết như thế nào,

thực hiện như thế nào theo đúng luật
3. một sức mạnh để củng cố các quyết đinh hợp pháp của quan tòa

3.4.2 Giới hạn đối quyền lực chính quyền. Sau khi giải thích tại sao cá nhân lại trao quyền thực
thi luật tự nhiên tới cộng đồng, Locke lập luận như sau:
1. Cá nhân tạo ra xã hội dân sự vì lợi ích của chính họ (để bảo vệ tài sản của họ).
2. Do đó, quyền lực của xã hội “không bao giờ được mở rộng quá xa ngoài lợi ích

chung”
3. Do đó, cá nhân không thể đưa ra một sự đồng thuận trói buộc để tham dự vào
trong một sự dàn xếp mà không cải thiện điều kiện của họ so với tình trạng tự
nhiên.
4. Do đó, nếu một chính phủ hành động để làm giảm sự thịnh vượng của các công
dân của nó tới bên dưới mức của trạng thái tự nhiên, thì chính phủ không còn
có thẩm quyền – nó sẽ là, như thể nó đã tuyên bố chiến tranh với các công dân của

nó, hoặc như thể nó đã nô lệ họ. Những công dân này có quyền nổi loạn chính đáng,
phế truất người cai trị, và bắt họ phải bồi thường cho những ai mà nó gây hại
4 Quyền lực của chính phủ (Luận văn thứ 2 XI - XIII).
4.1 Phân chia quyền lực
Locke liệt kê ba quyền lực chính trị tách biệt (dù chúng thuộc về một thực thể duy nhất,
nhưng về mặt khái niệm, chúng tách biệt nhau):




lập pháp -- quyền làm luật
hành pháp -- quyền củng cố luật
liên bang -- quyền chiến tranh, hòa bình, và quan hệ với các cộng đồng khác

Không giống Hobbes, người cho rằng tất cả quyền lực của chủ quyền tối cao phải thuộc về
một thực thể duy nhất (có thể là một cá nhân hay một hội đồng), Locke ủng hộ sự phân chia và
phân phối những quyền lực này giữa các thực thể khác nhau.
4.2 Giới hạn chung đối với quyền lập pháp
Quyền lập pháp là “quyền lực tối cao của cộng đồng”
Nhưng nó không có quyền tuyệt đối (như quyền lực dân sự trong hệ thống của Hobbes)




nó hành động như một người được ủy thác hoặc ủy quyền hoặc một tác nhân liên
quan đến cộng đồng, ví dụ, cộng đồng giao phó nhánh lập pháp với sự thịnh vượng
của nó [ khế ước mà qua đó cộng đồng từ bỏ quyền thực thi luật tự nhiên là một




khế ước ủy nhiệm, không phải là khế ước chuyền nhượng]
khi cộng đồng thấy rằng niềm tin đã mất (khi nhánh hành pháp chống lại lợi ích của
cộng đồng), quyền thực thi luật tự nhiên sẽ trở về với cộng đồng, sau đó có thể
chuyển giao nó cho một bên khác:

…“quyền lực tối cao vĩnh viễn nằm trong tay cộng đồng để bảo vệ họ khỏi bất cứ nỗ lực, ý định của
bất cứ cơ quan, thậm chí cơ quan lập pháp của nó, mỗi khi nào chúng trở nên quá dại dội, hay quá xấu
xa tiến hành những ý định chống lại sự tự do của người dân”


Một sự cảnh báo: cộng đồng có quyền tối cao, nhưng chỉ bên ngoài khuôn khổ của
chính quyền: “quyền lực tối cao này của người dân không bao giờ có thể xảy ra cho
đến khi chính phủ bị giải tán” Trong khi vẫn còn có một chính phủ, nhánh lập
pháp có quyền lực chính trị tối cao.

5 Giải tán chính quyền
5.1 Khi chính quyền đánh mất thẩm quyền hợp pháp của nó
Có hai điều kiện chung cấu thành “sự giải thể” của chính quyền – khi những điều kiện này
thỏa ứng, chính quyền tự động đánh mất thẩm quyền cai trị của nó.
1. Chính quyền thay bản chất của nó
Locke liệt kê ra bốn trường hợp
(a)

Khi ông vua (có quyền hành pháp) thay đổi luật lệ do cơ ban lập pháp tạo ra (ví dụ ông

ta coi ý chí tùy tiện của mình như là luật pháp)
(b)

Khi ông vua cấm cơ quan lập pháp làm các công việc của nó


(c)

Khi ông vua thay đổi đổi cách bầu cử được tiến hành mà không có sự đồng thuận của

cộng đồng
(d)

Khi xã hội được giao cho một quyền lực bên ngoài (hoặc bởi một ông vua hoặc bởi

chính cơ quan lập pháp; nếu là trương hợp sau, thì đây là “tội lớn nhất mà con người phạm phải
liên quan đến người khác”).


Nhưng thường thì, khi những thay đổi như vậy xảy ra, đã quá muộn để cộng đồng có thể cứu
vãn bằng cách tạo ra một cơ quan lập pháp mới (dù họ có quyền làm như vậy, nếu họ có thể). Và
đây là lý do mà Locke thừa nhận rằng một chính quyền không cần thực sự thay đổi theo một
trong những cách liệt kê ở trên để cho nó “giải tán” (đánh mất thẩm quyền của nó). Những chỉ
điều sau đây là đủ:
2. Chính quyền đánh mất niềm tin của cộng đồng bằng cách vi phạm các quyền sở hữu
cá nhân – theo nghĩa rộng của Locke về “tài sản” vốn bao gồm “sinh mạng, sự tự do, và tài
sản”.
Theo quan điểm của Locke, sự vi phạm này là đủ nghiêm trọng để lấy lại thẩm quyền của
một chính quyền được bầu, vì lý do là cộng đồng và chính quyền được hình thành trước hết
là để đảm bảo sự bảo vệ tài sản của cá nhân (bao gồm cả “sinh mạng” và “tự do”).
5.2 "Nổi noạn"
Locke coi việc không tuân theo chính quyền đã đánh mất thẩm quyền hợp pháp của nó là hợp
pháp đối với cộng. Theo ông, cộng đồng có thể loại bỏ bằng vũ lực, nhưng vẫn hợp pháp, đối với
chính quyền trong điều kiện như vậy (trước hợp pháp, giờ không còn hợp pháp). Như ông viết
cuối chương XIII:
…“quyền lực tối cao vĩnh viễn nằm trong tay cộng đồng để bảo vệ họ khỏi bất cứ nỗ lực, ý định của

bất cứ cơ quan, thậm chí cơ quan lập pháp của nó, mỗi khi nào chúng trở nên quá dại dội, hay quá xấu
xa tiến hành những ý định chống lại sự tự do của người dân”

Vì vậy, theo Locke, cộng đồng có thể đứng lên và phế truất bằng vũ lực một chính
quyền đã đánh mất thẩm quyền của nó. Nhưng đây không phải là sự nổi loạn. Locke sử
dụng từ “nổi loạn” không phải để đề cập tới sự lật đổ một chính quyền được bầu ra bởi cộng
đồng, mà tới sự từ chối từ bỏ quyền lực của chính phủ được bầu khi cộng đồng yêu cầu nó làm
như vậy-Các điều kiện để coi như nổi loạn:
1) Chính quyền đánh mất niềm tin của nó ở cộng đồng vốn bầu ra nó, do vậy đánh mất

thẩm quyền thực thi quyền tự nhiên mà cộng đồng trao cho nó.
2) Chính quyền (và giờ là bất hợp pháp) từ chối từ bỏ quyền lực, và nỗ lực giữ quyền

lực bằng sức mạnh, do đó bắt đầu trạng thái chiến tranh. Theo Locke, sự từ chối


từ bỏ quyền lực này là sự nổi noạn. đó là một chính quyền bất hợp pháp đang nổi
loạn, chứ không phải cộng đồng nổi loạn!
Vì vậy, theo Locke, đó không phải là cộng đồng nổi loạn chống lại chính quyền; mà chính
quyền nổi loạn khi nó từ chối từ bỏ quyền lực mà ban đầu nó được trao cho, và giờ quyền
lực đó không còn là của nó hợp pháp nữa.
5.3 Cá nhân đi đến chống lại cộng đồng
Dù Locke thừa nhận rằng cộng đồng có thể giải tán chính quyền của nó (khế ước giữa cộng
đồng và chính phủ là ủy nhiệm, chứ không phải chuyển nhượng), ông chỉ ra rằng cá nhân không
thể rời bỏ cộng đồng một khi anh ta đã gia nhập:
“… quyền lực mà mỗi cá nhân trao cho cộng đồng, khi anh ta trở thành một thành viên cộng đồng,
không bao giờ trở lại với cá nhân một lần nữa, bao lâu xã hội còn tồn tại, nó sẽ mãi nằm trong tay cộng
đồng; bởi vì nếu không có quyền lực này sẽ không thể có cộng đồng, như vậy sẽ trái với thỏa thuận ban
đầu…”


Nói cách khác, khế ước giữa cá nhân và cộng đồng là khế ước chuyển nhựng
Điều này phủ hợp với quan điểm của Locke là cộng đồng có thể hoạt động chỉ nếu mỗi cá
nhân sẵn lòng phục tùng ý chí của đa số, như thừ nhận các kết quả bầu cử của đa số, dù
ứng cứ viên mà anh ta ủng hộ có thất bại.
Nhưng nó mâu thuẫn với quan điểm của ông là “quyền lực của xã hội …không bao giờ
được mở rộng ra ngoài lợi ích chung”.
Tất cả những điều này gợi ý là sự giải thích theo kiểu khế ước xã hội về thẩm quyền của
chính quyền là hợp lý khi miêu tả quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng là không quá mạnh cũng
không quá yếu. Quan hệ này ….
… phải đủ mạnh để mỗi cá nhân tôn trọng ý

… phải đủ yếu để cho phép cá nhân rời bỏ

chí của đa số -- nếu không cộng đồng sẽ không nếu cộng đồng bắt đầu hoạt động theo cách đe
thể bầu chọn một cơ quan lập pháp

dọa đến sự thịnh vượng của họ.

Bằng cách không cho phép cá nhân rời khỏi cộng đồng, dù sự chấp thuận của đa số cho một
chính phủ đang hành động chống lại lợi ích tốt nhất của cộng đồng, Locke dường như thiên về
phía quá mạnh, tức là khế ước giữa cá nhân và cộng đồng quá mạnh.




×