SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“MỘT SỐ KINH NGHIỆM LÀM ĐỒ DÙNG ĐỒ CHƠI TỪ NGUYÊN VẬT LIỆU
SẲN CÓ Ở ĐỊA PHƢƠNG NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHẤT LƢỢNG
GIẢNG DẠY TRẺ MẪU GIÁO”
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
Như chúng ta biết đối với trẻ mầm non hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo.
Vì vậy đồ chơi có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của trẻ thơ, là phương tiện cần thiết
cho hoạt động học và chơi của trẻ. Đồ chơi là nhu cầu tự nhiên không thể thiếu được đối
với cuộc sống hàng ngày của trẻ, chẳng khác gì bửa ăn giấc ngủ. Hay nói cách khác đồ
chơi là nguồn vui cho đời sống trẻ thơ, càng có nhiều loại đồ chơi thì trẻ càng học được
nhiều hơn. Bởi thông qua các loại đồ dùng, đồ chơi giúp trẻ trải nghiệm được sự hiểu biết
của mình, nhờ đó đáp ứng được tính tò mò, ham hiểu biết của trẻ. Hình thành cho trẻ trí
tưởng tượng và phát triển tư duy, ngôn ngữ trí nhớ lâu bền. Hình thành khả năng quan
sát, phân tích, tổng hợp, đồng thời ôn luyện củng cố kiến thức, kỹ năng cho trẻ và giáo
dục tình cảm, đạo đức, giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách con người mới xã hội
chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, trò chơi còn là nhu cầu tự nhiên đối với cuộc sống của trẻ. Nếu như
đứa trẻ thỏa mãn với nhu cầu tìm hiểu và khám phá ra những đồ dùng, đồ chơi thì trẻ sẽ
biết cách sử dụng đồ dùng, đồ chơi đó một cách phù hợp, sáng tạo. Nhưng đồ dùng, đồ
chơi này do ai làm và được làm từ đâu, có tốn kém hay không? đó là một điều quan
trọng.
Các bạn có biết không? Trong sinh hoạt gia đình, có rất nhiều vật liệu bị loại bỏ sau
khi sử dụng, chẳng hạn như vỏ lọ dầu gội đầu, vỏ lọ sửa của trẻ, hộp bìa cát tông, mo cau,
lác cói, vỏ sọ dừa…Nhưng chúng ta có thể biến những vật ấy thành đồ chơi, đồ dùng đẹp
và rất ấn tượng cho trẻ. Đó chính là những sản phẩm mang tính sáng tạo mà không tốn
kém nhiều. Đây cũng là một giaỉ pháp tích cực xử lý đồ phế liệu , mang lại lợi ích cho
con người và môi trường sống. Từ đó tôi nảy sinh ra ý tưởng làm một số đồ dùng, đồ
chơi từ nguyên vật liệu sẳn có ở địa phương, nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng giảng
dạy trẻ mẫu giáo.
B. PHẦNNỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận.
Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về Đức-Trí-Thể-Mỹ, hình
thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ bước vào lớp 1, hình thành
và phát triển ở trẻ những chức năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền
tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa
những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo. Để đạt được
mục tiêu này lực lượng giáo viên giữ vai trò hết sức quan trọng trong trường mầm non, là
người định hướng cho sự phát triển của trẻ.
Với trẻ mầm non “Chơi mà học, học mà chơi”, vì thế đồ dùng, đồ chơi là phương tiện hết
sức quan trọng, trong việc phát triển nhân cách con người của trẻ Nói cách khác, đối với
trẻ nhỏ, đồ dùng, đồ chơi là sách giáo khoa, là dụng cụ học tập đơn giản, dể dàng phục vụ
hoạt động học và chơi của trẻ. Tuy hiên không phải ai cũng có tiền để mua hoặc mua hết
các loại đồ chơi cho trẻ. Chúng ta không có khả năng mua đồ chơi cho trẻ, nhưng chúng
ta vẩn có thể đáp ứng nhu cầu học và chơi với đồ chơi của trẻ bằng cách tự làm lấy đồ
chơi cho trẻ.
Ngày nay, trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế phát triển, đồ chơi cho trẻ
cũng rất phong phú, hiện đại. Trong số đó, có những loại đồ chơi bổ ích, nhưng cũng
không ít đồ chơi còn mang tính bạo lực, phi giáo dục, độc hại đối với trẻ em. Những loại
đồ chơi phù hợp để phát triển trí tuệ cho trẻ mang tính giáo dục càng được bổ sung phong
phú đa dạng bao nhiêu thì kích thích được tính tò mò ham hiểu biết cùng khám phá của
trẻ bấy nhiêu. Đồ dùng, đồ chơi phải phù hợp với quy luật phát triển trí tuệ của trẻ ở đúng
độ tuổi mới có tác động góp phần hình thành và phát triển trí tuệ ở trẻ. Bên cạnh đó, đồ
chơi cùng với sự thể hiện diễn cảm tình cảm của cô sẽ góp phần giáo dục và phát triển
nhân cách cho trẻ.
Trẻ mầm non luôn có nhu cầu với đồ chơi mới lạ, trẻ thích được tự tay tạo ra đồ chơi cho
mình. Để thỏa mãn được nhu cầu đó của trẻ, đòi hỏi giáo viên mầm non phải luôn sáng
tạo ra nhiều đồ dùng, đồ chơi phù hợp với nội dung bài dạy, phù hợp với tình huống giáo
dục trong các hoạt động hàng ngày cho trẻ. Đồ chơi đẹp sẽ giúp trẻ ham thích cái đẹp,
biết phân biệt được cái đẹp, cái xấu về hình dáng, màu sắc, cấu trúc, bố cục. Từ đó trẻ
biết yêu cái đẹp và trân trọng cái đẹp. Đồ chơi đẹp còn giúp trẻ phát triển óc thẩm mỹ và
khuyến khích trẻ sáng tạo ra nhiều cái đẹp. Có càng nhiều đồ chơi thì càng giúp trẻ ham
thích hoạt động, tìm tòi, khám phá, phát triển óc sáng tạo của mình.
2. Cơ sở thực tiễn.
Với tầm quan trọng đó nên đồ dùng, đồ chơi trở thành nhiệm vụ tất yếu không thể thiếu
được đối với trường mầm non.Trong thực tế qua nhiều năm phòng giáo dục đã tổ chức
hội thi “Làm đồ dùng, đồ chơi từ nguyên vật liệu sẳn có ở địa phương” nhằm để nâng cao
tay nghề cho giáo viên. Đối với trường tôi năm nào cũng tổ chức làm đồ dùng, đồ chơi
với nhiều hình thức: làm tập trung, tự làm đồ chơi hàng tháng rồi nộp lên cho trường
chấm, song những đồ chơi hiện có trong lớp lại mang tính phổ biến, hạn chế về số lượng
và ít được thay đổi. Vì vậy trẻ sẽ không phát huy được tính tích cực sáng tạo trong các
hoạt động.
Bên cạnh đó, trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của mỗi gia đình, thường có rất nhiều
sản phẩm bị loại bỏ sau khi sử dụng, chẵng hạn như vỏ chai dầu gội, sữa tắm, lon bia, vỏ
hộp sữa, bìa lịch cũ, đĩa CD bị cũ… đó là nguồn vật liệu rất phong phú và đa dạng, có thể
tận dụng làm những việc hữu ích. Nếu chúng ta có ý thức thu gom, chọn lọc từ nguồn phế
thải đó và có ý tưởng làm các đồ dùng, đồ chơi thì có thể biến những chiếc hộp, bìa to
nhỏ thanh ô tô, tàu hỏa, nhà cửa, bàn ghế… Từ những lon bia chúng ta có thể tạo thành
chú sâu nhỏ học toán, học chữ đưa vào các giờ dạy, các góc chơi của trẻ ở trường mầm
non. Làm như vậy chúng ta sẽ tiết kiệm được tiền mua sắm vật liệu, tạo ra nhiều đồ chơi
mang tính sáng tạo phong phú cho lớp học của mình. Những đồ chơi này vừa dễ làm, dễ
sử dụng trong các giờ học và các hoạt động. Qua đó hình thành ý thức tuyền truyền với
mọi người xung quanh, từ trẻ đến phụ huynh học sinh về việc bảo vệ môi trường. Và như
vậy, chúng ta đã giảm thiểu được lượng rác thải, giảm chi phí cho việc xử lý rác thải
trong vệ sinh môi trường.
Từ những lý do trên, bản thân tôi là một giáo viên mầm non, tôi đã dựa vào kinh nghiệm
của những người đi trước và kinh nghiệm của bản thân… tôi xin đưa ra “Một số kinh
nghiệm làm đồ dùng, đồ chơi từ nguyên vật liệu sẳn có ở địa phương nhằm nâng cao
hiệu quả chất lượng giảng dạy cho trẻ mẫu giáo”.
* Khảo sát thực trạng.
Quá trình thực hiện việc chăm sóc giáo dục trẻ ở độ tuổi 4-5 tuổi, trong một năm qua bản
thân tôi đã gặp một số thuận lợi và khó khăn sau:
- Thuận lợi.
Bản thân được sự quan tâm giúp đỡ, chỉ đạo sâu sát của ban giám hiệu nhà trường, được
nhà trường đầu tư về cơ sở vật chất tạo điều kiện cho tôi được đi học hỏi, bồi dưỡng
chuyên môn, học tập tham quan ở các trường bạn.
Đa số phụ huynh quan tâm đến việc học tập của con em mình, phối hợp thường xuyên
với giáo viên, đóng góp những vật liệu làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ.
Các giáo viên trong trường tham gia nhiệt tình trong việc làm đồ chơi tự tạo.
Bản thân đã nhiều năm tham gia hội thi làm đồ dùng, đồ chơi cấp huyện, cấp tĩnh nên
cũng đã đúc rút được một số kinh nghiệm trong việc làm đồ dùng, đồ chơi.
- Khó khăn:
Đồ dùng, đồ chơi để tổ chức hoạt động học và chơi cho trẻ luôn thay đổi theo từng chủ
điểm, có số lượng nhiều nên giáo viên chưa đáp ứng đầy đủ các loại đồ dùng đồ chơi cho
trẻ. Do đó chất lượng các giờ hoạt động đạt rất thấp. Cụ thể vào đầu năm học các loại đồ
dùng đồ chơi ở các lĩnh vực cho mỗi trẻ còn rất ít ( 4-6 loại đồ dùng, đồ chơi/1 cháu).
Có khoảng 65% trẻ hứng thú chơi và học.
25% trẻ kỹ năng chơi chưa thành thạo.
10% trẻ chơi không có nề nếp.
Các loại đồ dùng, đồ chơi tính thẩm mỹ chưa cao, độ bền chưa có và mua là chủ yếu.
Một số phụ huynh chưa nhận thức rõ vai trò của đồ chơi trong quá rình hoạt động học và
chơi của trẻ.
Trong lớp có một số cháu còn chậm chạp, khả năng tiếp thu kỹ năng, kiến thức của trẻ
không đồng đều nên quá trình chọn đồ dùng, đồ chơi cho các hoạt động trong ngày của
trẻ còn lúng túng.
Vào đầu năm học, kết quả kết quả khảo sát đàu vào cho thấy:
Lĩnh vực
Xếp loại Tốt
Xếp
Khá
LVPTNT
5/20 = 25%
LVPTTM
loại
Xếp loại TB
Xếp
Yếu
loại
7/20 = 35%
4/20 = 20%
4/20 = 20%
5/20 = 25%
7/20 = 35%
5/20 = 25%
3/20 = 15%
LVPTNN
4/20 = 20%
8/20 = 40%
6/20 = 30%
2/20 = 10%
LVPTTC
6/20 = 30%
8/20 = 40%
4/20 = 20%
2/20 = 10%
Mặc dù gặp nhiều khó khăn, song với lòng yêu nghề mến trẻ tôi đã tìm tòi một số biện
pháp tối ưu, thu hút lôi cuốn trẻ tham gia vào các hoạt động một cách tích cực và có hiệu
quả.
3. Biện pháp
3.1. Xây dựng kế hoạch hoạt động.
Như chúng ta biết một giờ hoạt động chung hoặc hoạt động vui chơi của trẻ đạt kết quả
tốt nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Song yếu tố xây dựng kế hoạch hoạt động của trẻ đóng
vai trò rất quan trọng. Nếu chúng ta chủ động lên kế hoạch trước một cách cụ thể, rõ ràng
thì kết quả giờ hoạt động đó đạt kết quả cao. Nhưng việc lên kế hoạch cho một hoạt động
phải dựa vào các yếu tố sau:
Phải dựa vào kế hoạch đầu năm của nhà trường đề ra: 20 loại đồ dùng đồ chơi/1 cháu.
Dựa vào nội dung chương trình của chủ điểm đó.
Nắm được tác dụng của đồ chơi xem nó củng cố những kiến thức, kỹ năng gì cho giờ
hoạt động chung.
Đồ chơi phải phù hợp với nội dung chủ điiểm mình đang học.
Dựa vào khả năng của trẻ: Khả năng tiếp thu bài, khă năng vận dụng những kinh nghiệm
của trẻ trong quá trình chơi, sự linh hoạt tìm tòi, khám phá, khả năng tự làm đồ chơi của
trẻ.
Dựa vào nguyên vật liệu thiên nhiên, phế liệu sẳn có trong địa phương để lên kế hoạch
nội dung cho hoạt động đó.
Ví dụ: Chủ điiểm phương tiện giao thông – Giờ hoạt động góc.
*Cô giáo lên kế hoạch cho trẻ chơi ở góc học tập gồm các nội dung sau:
- Chơi tranh lô tô về một số phương tiện giao thông.
- Cắt, dán tranh về một số phương tiện giao thông.
- Trẻ tô màu tranh về một số phương tiện giao thông
* Ở góc nghệ thuật:
- Cho trẻ múa hát về một số phương tiện giao thông.
- Làm đồ chơi: Làm thuyền từ lá cây, làm xe đạp từ ống hút sữa, làm ô tô, tàu hỏa từ mo
cau….
3.2. Thiết kế mẫu đồ chơi và chọn nguyên vật liệu.
Tư duy của trẻ là tư duy trực quan hình tượng, nên việc sử dụng đồ dùng, đồ chơi trong
giảng dạy và vui chơi là rất quan trọng. Đặc biệt, trẻ ở độ tuổi này rất thích tự tìm tòi,
khám phá những điều mới lạ trong cuộc sống, qua thao tác với đồ chơi, trẻ sẽ tích lũy
thêm kinh nghiệm và hiểu biết nhiều hơn. Nếu trong một tiết học, cô không sử dụng đồ
dùng trực quan thì sẽ không thu hút được sự chú ý của trẻ và trẻ chóng chán, khiến chất
lượng dạy và học không cao. Đồ dùng trực quan là một minh họa sinh động để giúp trẻ
chú ý và tiếp thu một cách nhanh chóng nội dung vấn đề cô cần truyền đạt. Chính vì vậy
khi thiết kế mẫu đồ chơi và chọn nguyên vật liệu phải đảm bảo được những tính sau:
Đảm bảo tính sư phạm, tức là có tác dụng hình thành, củng các khái niệm về toán, khám
phá khoa học, hấp dẫn, kích thích trí tò mò của trẻ, trẻ có thể thao tác với đồ chơi trong
nhiều trò chơi.
Ví dụ: Ở giờ hoạt động chung “Làm quen một số con vật sống trong gia đình” thì trong
giờ hoạt động góc, ở góc nghệ thuật cô cho trẻ thực hiện gắn các con vật sống trong gia
đình bằng ngao, ốc. Cũng từ những con vật đó cô sử dụng vào tiết toán cho trẻ đếm hoặc
cho trẻ nhận hình đoán tên bài hát ở tiết âm nhạc….
Đảm bảo tính phù hợp: Phù hợp về màu sắc, kích thước, an toàn, không độc hại, không
nguy hiểm.
Đảm bảo tính phổ biến: Nguyên liệu dễ tìm, có thể sử dụng vào nhiều nội dung giáo dục
khác nhau.
Ví dụ: Làm cây dừa từ lác cói cô có thể sử dụng vào dạy toán như đếm số lượng, cao
thấp, to nhỏ hoặc sử dụng vào giờ học môi trường xung quanh (cho trẻ làm quen với cây
dừa), cũng có thể cho sử dụng vào giờ hoạt động góc ( cho trẻ chơi ở góc xây dựng: Xây
dựng trường mầm non , xây vườn cây...)
Đảm bảo tính sáng tạo: Từ một loại vật liệu có thể tạo hình thành nhiều đồ chơi khác
nhau; có ý tưởng mới trong khai thác, sử dụng.
Ví dụ: Từ chai dầu rửa bát cô có thể tạo ra quả thanh long, quả dứa, bàn ghế, con chim
cánh cụt….
3.3. Tận dụng các nguyên liệu sẳn có ở địa phƣơng.
Việc tận dụng các nguyên vật liệu dễ kiếm, rẻ tiền để làm các đồ dùng, đồ chơi giúp giáo
viên vừa có điều kiện tiết kiệm chi phí làm đồ dùng đồ chơi vừa có thể phối hợp cùng
phụ huynh trong việc chăm sóc giáo dục trẻ. Nguồn vật liệu sẳn có ở địa phương chúng ta
có thể huy động từ trẻ và từ phụ huynh:
Nguồn vật liệu có từ trẻ: Trước khi bước vào chủ điểm mới tôi phải giới thiệu cho trẻ biết
chủ điểm mình sắp học để từ đó trẻ sưa tầm, thu gom đồ chơi, nguyên vật liệu cùng cô.
Nguồn vật liệu có từ phụ huynh: Muốn khai thác nguồn vật liệu có từ phụ huynh , vấn đề
đầu tiên là giáo viên phải có nghệ thuật trong mối quan hệ với phụ huynh. Bởi trong một
lớp học không phải phụ huynh nào cũng nhiệt tình trong việc học tập của con mình, do đó
giáo viên cần phải tuyên truyền cho phụ huynh biết về tầm quan trọng của đồ dùng đồ
chơi trong việc học tập của trẻ, gặp gỡ, tâm sự, trao đổi với phụ huynh về việc học tập
của trẻ, về khó khăn trong việc sưu tầm nguyên vật liệu cho phụ huynh biết. Để từ đó phụ
huynh tìm cách giúp đỡ cô trong việc tìm kiếm nguyên vật liệu. Đồng thời trong các buổi
họp phụ huynh tôi luôn trưng bày các sản phẩm tự tạo của trẻ làm ra cho phụ huynh biết.
Qua đó tôi gợi ý một số nguyên vật liệu và nhờ mỗi phụ huynh kiếm giúp tôi ít n hất từ 23 loại nguyên vật liệu trở lên. Đối với những phụ huynh khéo tay, tôi nhờ phụ huynh tạo
mẫu đồ chơi và giúp cô làm đồ dùng đồ chơi. Nhờ thế mà tôi đã huy động tối đa nguồn
vật liệu sẳn có ở địa phương.
3.4. Giáo viên tích cực học hỏi, sƣu tầm nguyên vật liệu.
Để có nhiều mẫu đồ chơi đẹp, nhiều cách làm, nhiều kinh nghiệm trong quá trình làm đồ
dùng đồ chơi cho trẻ, bản thân tôi không ngừng nêu cao tinh thần học hỏi bạn bè đồng
nghiệp, học hỏi từ các trường bạn, từ các đợt đi tham quan, học kinh nghiệm của những
người đi trước. Bên cạnh đó bản thân tôi luôn tìm tòi nghiên cứu từ các tài liệu làm đồ
dùng đồ chơi để tạo ra các loại đồ chơi mới lạ, hấp dẫn với trẻ. Không chỉ vậy, trong quá
trình trẻ chơi tôi luôn quan sát và ghi lại những nguyên vật liệu, đồ chơi mà trẻ thích và
nắm được tâm sinh lý của từng trẻ để cung cấp đồ chơi kịp thời cho trẻ.
Ngoài việc tích cực học hỏi để làm đồ dùng đồ chơi cho trẻ, cô giáo cần đầu tư cho việc
tìm kiếm nguyên vật liệu đảm bảo, phù hợp nội dung chủ đề chủ điểm.
Sưu tầm nguyên vật liệu sẳn có ở địa phương.
Ví dụ: Trước khi học chủ điểm “ Phương tiện giao thông” tôi phải tìm kiếm các loại tranh
ảnh về phương tiện giao thông, các loại nguyên vật liệu (như long bia, chai nước mắm,
ngao,đũa, hộp sữa…)để làm ô tô, máy bay, tàu thủy, thuyền buồm, xe đạp…
Các nguyên vật liệu đó không phải dĩ nhiên có, mà tôi phải kết hợp với cô thầy ở các
trường cấp I, cấp II trong xã để xin các loại họa báo củ, hoặc các loại tranh ảnh có trong
sách tập san củ…liên hệ ở các em học sinh về các loại đồ chơi mà các em thực hành qua
các môn học kỹ thuật, mỹ thuật như xếp chong chóng, xếp thuyền, xếp máy bay…và các
bức tranh về phương tiện giao thông.
3.5. Đồ chơi làm ra phải đảm bảo tính tƣơng quan về nội dung, kích thƣớc, màu sắc
và đảm bảo tính hiện thực.
Khi làm đồ dùng đồ chơi để phục vụ cho một nội dung dạy, giáo viên phải suy nghĩ, tìm
tòi để làm ra các cặp đồ dùng có mối quan hệ lôgic hợp lý. Như vậy giáo viên có thể mới
cung cấp được kiến thức chính xác, khoa học, phù hợp với chủ điểm.
Ví dụ: Khi dạy bài “So sánh số lượng hai nhóm trong phạm vi 5” ở chủ điểm thế giới
động vật. Tôi đã chọn cặp đối tượng “Thỏ - cà rốt” để dạy trẻ. Tôi chọn cặp đối tượng
như vậy vì lý do sau:
-
Đúng với chủ điểm đang thực hiện.
- Thỏ và cà rốt có quan hệ lôgíc với nhau: Cà rốt là thức ăn mà thỏ rất ưa thích. Thỏ tôi chọn
nguyên vật liệu có màu trắng để làm, cà rốt tôi chọn nguyện vật liệu có màu gạch và cắt làm sao
nhỏ hơn chú thỏ.
Hoặc khi dạy “Làm quen với phương tiện giao thông đường bộ”. Tôi làm các loại phương
tiện giao thông đường bộ như: Ô tô, Xe đạp, xe máy…Ô tô tôi làm có kích thước lớn hơn
xe máy, xe đạp, còn xe máy có kích thước nhỏ hơn ô tô nhưng to hơn xe đạp và bánh của
các loại xe tôi làm có dạng hình tròn và có màu đen.
3.6. Khuyến khích trẻ làm một số đồ dùng đồ chơi cùng cô.
Công việc này tuy đơn giản nhưng có giá trị rất lớn. Nó khắc sâu kiến thức mà trẻ đã
được học trên tiết học, đồng thời củng cố kỹ năng tạo hình cho trẻ.
Tạo hứng thú cho trẻ khi được sử dụng những đồ dùng do mình làm ra trong tiết học.
Giáo dục trẻ ý thức biết trân trọng và giữ gìn sản phẩm do chính mình làm ra.
Cung cấp thêm đồ dùng đồ chơi cho lớp.
Ví dụ: Để phục vụ cho các tiết học về số lượng tôi tổ chức vẽ các đồ vật con vật, đối
tượng theo chủ điểm, sau đó tôi sẽ lưu lại một số tranh đẹp, cắt dán các chi tiết cần thiết
rồi bồi lên bìa cứng để trẻ sử dụng trong tiết học.
Trong bài tập đo độ dài cùng một đơn vị đo, tôi và trẻ làm một số đồ dùng để đo như: Vẽ
, tô màu và cắt theo hình bông hoa, hình bàn tay, bàn chân…rồi dùng các đồ dùng này
làm thước đo chiều dài các đối tượng.
4. Kết quả và bài học kinh nghiệm.
4.1. Kết quả.
Trong quá trình thực các biện pháp trên tôi đã thu được một số kết quả sau:
* Đối với bản thân:
Qua một thời gian làm và sử dụng đồ dùng đồ chơi tự tạo từ nguyuên vật liệu sẳn có ở địa
phương, bản thân đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm trong việc sưu tầm nguyên vật liệu
và nâng cao tay nghề trong việc làm đồ dùng đồ chơi cho trẻ.
Bản thân đã tạo được môi trường giáo dục với nhiều đồ dùng đồ chơi phong phú cho trẻ
hoạt động học và chơi.
Các loại đồ dùng, đồ chơi được làm từ nguyên vật sẳn có ở địa phương.
Các loại đồ dùng, đồ chơi được làm từ nguyên vật sẳn có ở địa phương.
Đến nay các loại đồ dùng, đồ chơi tương đối đầy đủ cho mỗi trẻ tham gia hoạt động ở các
chủ đề chủ điểm và đạt kế hoạch trường giao (20 loại đồ dùng, đồ chơi/1 cháu)
* Đối với trẻ:
Sau khi thử nghiệm các đồ dùng, đồ chơi tự tạo vào trong giảng dạy và tổ chức các hoạt
động cho trẻ, tôi thấy chất lượng ngày càng được nâng cao.
Các thao tác của trẻ khi sử dụng đồ dùng đồ chơi rất thành thạo.
100% trẻ thực sự thích thú tham gia vào giờ học, giờ chơi, do đó kiến thức của trẻ ngày
càng được nâng cao, giờ học diễn ra thuận lợi.
Trẻ tiếp thu bài học nhanh, khả năng giao tiếp của trẻ tốt hơn.
Kết quả thể hiện rất rỏ qua việc khảo sát chất lượng cuối năm:
Lĩnh vực
Xếp loại Tốt Xếp loại Khá Xếp loại TB
LVPTNT
10/20 = 50% 6/20 = 30%
4/20 = 20%
LVPTTM
9/20 = 45%
6/20 = 30%
5/20 = 25%
LVPTNN
10/20 = 50% 6/20 = 30%
4/20 = 20%
LVPTTC
8/20 = 40%
4/20 = 20%
8/20 = 40%
Xếp
Yếu
loại
*Đối với phụ huynh:
Đa số phụ huynh nhận thức tốt tác dụng của đồ dùng đồ chơi đối với việc học tập của trẻ.
Phụ huynh nhiệt tình giúp đỡ giáo viên trong việc tìm kiếm nguyên vật liệu để làm đồ
dùng đồ chơi.
Phụ huynh thấy được tầm quan trọng và trách nhiệm của mình trong việc kết hợp với
giáo viên cùng quan tâm chăm sóc giáo dục trẻ, phụ huynh đã quan tâm hơn tới nội dung
của các môn học, biết hướng dẫn, rèn luyện một số kỹ năng cơ bản cho trẻ lúc ở nhà.
4.2.Bài học kinh nghiệm:
Với kết quả đạt được trên đây bản thân tôi đã đúc rút ra một số kinh nghiệm như sau:
Là một giáo viên phải thực sự đam mê, tâm huyết với việc dạy học của mình, thường
xuyên quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho trẻ học tập, phải quan tâm đúng
mức, luôn theo dõi động viên, khuyến khích nhằm tạo điều kiện cảm xúc giúp trẻ phấn
khởi trong các hoạt động học tập.
Giáo viên phải biết lên kế hoạch hoạt động học và chơi cho trẻ, nhưng phải phù hợp với
chủ điểm, phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ.
Giáo viên phải nắm vững phương pháp các bộ môn để đưa đồ dùng vào các hoạt động
một cách hợp lý. Đồng thời giáo viên chọn đồ dùng, đồ chơi phải phù hợp với chủ đề,
chủ điểm.
Tích cực tham khảo tài liệu trong và ngoài chương trình, học hỏi đồng nghiệp để nâng
cao trình độ, hình thức và phương pháp giảng dạy phù hợp.
Bản thân giáo viên phải chịu khó, kiên trì trong việc sưu tầm nguyên vật liệu và làm đồ
dùng đồ chơi cho trẻ, có khả năng tạo hình tốt để tạo ra nhiều đồ chơi đẹp , phù hợp với
độ tuổi trẻ.
Cần có sự phối kết hợp với phụ huynh một cách khéo léo, lôi cuốn phụ huynh để phụ
huynh cùng đóng góp các vật liệu sẳn có ở địa phương.
Giáo viên cần phải tạo ra nhiều cơ hội cho trẻ được tham gia vào các hoạt động, được
tham gia giúp cô làm đồ chơi trên cơ sở hứng thú, theo nhu cầu của trẻ mới đạt hiệu quả
cao nhất trong công tác giáo dục trẻ.
C. KẾT LUẬN.
Công việc làm đồ dùng đồ chơi từ nguyên vật liệu sẳn có ở địa phương nhằm nâng
cao hiệu quả chất lượng giảng dạy trẻ mẫu giáo, là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng
không thể thiếu được của người giáo viên. Công việc này
nó xuyên suốt cả quá trình hoạt động học và chơi của trẻ ở bất cứ độ tuổi nào. Do đó mỗi
một giáo viên phải nắm được vai trò, tác dụng của đồ dùng đồ chơi
đối với trẻ để xây dựng kế hoạch chọn nguyên vật liệu phù hợp với trẻ và tình hình thực
tế của địa phương, biết tìm ra các giải pháp sáng tạo trong khi kàm đồ dùng đồ chơi để
thực hiện tốt chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
Trên đây là một số bài học kinh nghiệm mà bản thân tôi đúc rút ra từ tình hình
thực tế giảng dạy. Những gì tôi đã làm tuy chưa cao nhưng cũng là sự cố gắng của bản
thân.
Tuy nhiên bài sáng kiến kinh nghiệm của tôi cũng không tránh khỏi những hạn chế, kính
mong sự góp ý, giúp đỡ của hội đồng sư phạm nhà trường, bạn bè đồng nghiệp, phòng
giáo dục đào tạo để tôi có nhiều kinh nghiệm hơn trong công tác giảng dạy.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HĐKH NHÀ TRƢỜNG
Ngƣời viết
Lê Thị Nga