Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

MÔ HÌNH KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA đặc sắc TRUNG QUỐC ý NGHĨA lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.98 KB, 16 trang )

MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA ĐẶC SẮC TRUNG QUỐC – Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Công cuộc cải cách kinh tế của TQ được chính thức bắt đầu từ năm 1978, với
Hội nghị TW 3 khóa XI. Hội nghị này đã đưa ra những quyết định quan trọng cho
quá trình chuyển đổi nền kinh tế, đặc biệt bắt đầu chú ý coi trọng quy luật giá trị.
Trên cơ sở những đổi mới ban đầu, từ năm 1984, TQ đã chính thức thừa nhận nền
kinh tế của đất nước là kinh tế hàng hóa và một số công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô
theo cơ chế thị trường đã được thử nghiệm. Sau giai đoạn đầu tiên của cải cách từ
1978 đến 1993 Trung Quốc đã chính thức tuyên bố xây dựng nền kinh tế thị trường
XHCN đặc sắc Trung Quốc. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung chính thức được thay
thế bằng cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Sự chuyển đổi cơ chế này
là một nhân tố quan trọng của quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế ở Trung Quốc.
Sau một phần ba thế kỷ thực hiện công cuộc cải cách, Trung Quốc đã đạt
được những thành tựu kinh tế - xã hội to lớn cả thế giới phải khâm phục. Kinh tế
thị trường XHCN đặc sắc Trung Quốc là vấn đề mới và có nội hàm vô cùng phong
phú, đang trong quá trình hình thành và phát triển cùng với công cuộc cải cách của
nhân dân Trung Quốc. Việc làm sáng rõ bản chất của CNXH và kinh tế thị trường
XHCN có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, là đòi hỏi khách quan của công cuộc
cải cách, xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung cũng như ở Trung Quốc nói riêng.

1


1. Bản chất xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường đặc sắc Trung Quốc
Các nhà sáng lập CNMLN đã bàn về những đặc trưng cơ bản của CNXH từ
những góc độ khác nhau, nhưng tuyệt nhiên không dùng từ “bản chất” để khái quát
CNXH. Trên cơ sở phát triển nội dung cốt lõi, thực chất quan niệm mácxit về
CNXH, đồng thời tổng kết lịch sử xây dựng CNXH trong thực tiễn, ông Đặng Tiểu
Bình đã đưa ra quan niệm mới về bản chất CNXH: “Bản chất của CNXH là giải
phóng LLSX, xóa bỏ bóc lột, loại bỏ phân hóa hai đầu, cuối cùng là cùng giàu
có”1. Tư tưởng nêu trên thể hiện được những vấn đề có tính nguyên tắc của


CNXH: Một là, giữ vững và kiên trì chế độ cơ bản của CNXH, đồng thời khắc
phục những những quan điểm phiến diện quá cường điệu mặt QHSX tới mức tách
rời LLSX, chỉ bàn luận chung chung về CNXH, do đó góp phần nâng cao nhận
thức khoa học về CNXH. Hai là, bảo đảm sự thống nhất giữa LLSX và QHSX
XHCN; giữa nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của CNXH; giữa cơ sở vật chất và quan
hệ xã hội của CNXH; sự thống nhất giữa phương tiện phát triển và mục tiêu cuối
cùng của CNXH. Ba là, “Giải phóng và phát triển LLSX” là nhu cầu bức thiết phải
đặc biệt được chú trọng trong suốt thời kỳ lịch sử lâu dài xây dựng CNXH nhất là
trong giai đoạn đầu xây dựng CNXH ở TQ. Bốn là, khi đã xây dựng chế độ cơ bản
của CNXH phải dần dần giải phóng sức lao động thông qua cải cách. Năm là, cách
thức để TQ giữ vững và phát triển chế độ XHCN trong quá trình cải cách, đổi mới
đất nước là phải kiên trì hai nguyên tắc: Lấy chế độ công hữu XHCN làm chủ thể
và thực hiện cùng giàu có. Kiên trì không dao động chế độ công hữu làm chủ thể
và phân phối theo lao động là tiền đề để thực hiện bản chất của CNXH; còn hình
thức thực hiện chế độ công hữu và cơ cấu chế độ công hữu chỉ có thể căn cứ vào
nhu cầu thực tế của giải phóng và phát triển sức SX, căn cứ vào tiến trình thực tế
dần dần thực hiện cùng giàu có để xác định. Sáu là, kết hợp kế hoạch và thị trường.
Phá vỡ quan niệm truyền thống coi kinh tế kế hoạch là đặc trưng bản chất của
CNXH. Ông Đặng Tiểu Bình nói: “Kế hoạch nhiều hơn một chút hay thị trường
nhiều hơn một chút, không phải là sự khác biệt về bản chất giữa CNXH và CNTB.
Kinh tế kế hoạch không phải là của CNXH, CNTB cũng có kinh tế kế hoạch; kinh
1

Võ Đại Lược, Nghiên cứu so sánh đổi mới kinh tế Việt Nam và cải cách kinh tế Trung Quốc, CTQG, H, 2003, tr 288.

2


tế thị trường không phải là CNTB, CNXH cũng có thị trường. Kế hoạch và thị
trường đều là công cụ kinh tế”2. Những nhận thức mới này đã loại bỏ tư tưởng trói

buộc, thủ cựu, mở ra phương hướng mới cho việc cải tổ thể chế kinh tế kế hoạch
hóa trước đây của TQ và là một cống hiến cho kho tàng lý luận CNXH khoa học.
Bảy là, bản chất của CNXH phản ánh lợi ích thiết thân của nhân dân TQ và nhu
cầu của thời đại. Khẳng định nghèo đói không phải là CNXH. Phát triển quá chậm
và tụt hậu, chủ nghĩa bình quân không phải là CNXH. Hai cực phân hóa giàu
nghèo và bất bình đẳng cũng không phải là CNXH. Không có luật pháp và không
coi trọng văn minh tinh thần cũng không làm tốt CNXH.
Tóm lại: CNXH mang đặc sắc TQ là không ngừng giải phóng, phát triển
LLSX, là thực hiện cùng giàu có, cải cách mở cửa, phát huy dân chủ và kiện toàn
pháp chế, phát triển văn minh vật chất và văn minh tinh thần, chủ trương duy trì
hòa bình thế giới, lấy CNMLN, tư tưởng Mao Trạch Đông và lý luận Đặng Tiểu
Bình làm kim chỉ nam, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, thực hiện chuyên chính dân
chủ nhân dân.
2. Đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường XHCN đặc sắc Trung Quốc
Đặc trưng kinh tế thị trường XHCN đặc sắc TQ được thể hiện ở bốn nội dung:
Thứ nhất, xây dựng chế độ kinh tế đa sở hữu, trong đó lấy công hữu làm chủ
thể, kinh tế nhiều chế độ sở hữu cùng phát triển.
Đây là kết quả tổng kết kinh nghiệm và bài học về chế độ sở hữu trước đây ở
TQ. Là chế độ kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường XHCN đặc sắc TQ. Do
vậy, Hội nghị TW3 khóa XI Đảng Cộng sản TQ cho rằng cần thiết phải xây dựng
chế độ kinh tế đa sở hữu, trong đó xác lập chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế
nhiều chế độ sở hữu cùng phát triển. Kiên trì xây dựng chế độ công hữu làm chủ
thể. Điều đó là do: Nhà nước TQ là nhà nước XHCN, do đó để bảo đảm từng bước
đạt tới mục tiêu cùng giàu có. Mặt khác, củng cố và phát triển nền chuyên chính
dân chủ nhân dân, cần phải kiên trì địa vị chủ thể của kinh tế công hữu.
Kinh tế công hữu: Bao gồm cả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và còn bao gồm
cả thành phần quốc hữu và tập thể tham gia trong kinh doanh sở hữu hỗn hợp. Địa vị
2

Sđd tr 290


3


chủ thể của kinh tế công hữu được thể hiện: Thú nhất, tài sản vốn công hữu chiếm
ưu thế trong tổng tài sản vốn xã hội. Ưu thế này thể hiện ở chỗ cần bảo đảm về
chất lượng nhất định nhưng phải chú trọng nâng cao chất hiệu quả. Vận dụng vào
thực tế, xem xét trong phạm vi cả nước thì tùy nơi, tùy ngành mà có sự khác biệt.
Thứ hai, kinh tế quốc hữu khống chế huyết mạch của nền kinh tế quốc dân, có vai
trò then chốt đối với việc phát huy tính ưu việt của chế độ XHCN, tăng cường thực
lực kinh tế, sức mạnh quốc phòng và sự gắn bó của dân tộc TQ.
Nhà nước XHCN TQ đưa ra giải pháp để thực hiện vai trò của kinh tế quốc
hữu:
+ Điều chỉnh lại cơ cấu kinh tế nhà nước. Đối với những ngành quan trọng và
lĩnh vực then chốt, liên quan đến huyết mạch của nền kinh tế quốc dân, kinh tế
quốc hữu phải chiếm vị trí chi phối. Ở những lĩnh vực khác có thể thông qua việc
tổ chức lại tài sản và điều chỉnh cơ cấu kinh tế mà tăng cường trọng điểm, nâng
cao chất lượng chung cho kinh tế quốc hữu. Tiêu chuẩn về tối ưu hóa kết cấu và bố
cục kinh tế quốc hữu không phải là nhất thành bất biến mà sẽ thay đổi cùng với sự
thay đổi của tình hình phát triển và môi trường kinh tế.
+ Chỉ cần kiên trì kinh tế quốc hữu là chủ thể, kinh tế quôc hữu khống chế các
huyết mạch của nền kinh tế quốc dân, sức điều tiết và sức cạnh tranh của nền kinh
tế quốc dân sẽ được tăng cường. Dưới tiền đề này, tỷ trọng kinh tế quốc hữu có thể
giảm đi một chút cũng sẽ không ảnh hưởng đến tính chất XHCN của TQ. Trong
đó, kinh tế tập thể: là bộ phận hợp thành quan trọng của kinh tế quốc hữu (công
hữu). Kinh tế tập thể có ba đặc trưng cơ bản: Thứ nhất, người làm việc trong các
doanh nghiệp vừa là chủ sở hữu vừa là người lao động, họ tạo thành tập thể và có
quyền điều hành doanh nghiệp; Thứ hai, thành quả kinh doanh được phân phối
trong nội bộ doanh nghiệp. Mọi tổ chức, cá nhân không thuộc doanh nghiệp, không
được chiếm hữu tài sản doanh nghiệp cũng như không được hưởng thành quả của

nó. Thứ ba, về quan hệ với bên ngoài, doanh nghiệp không chịu sự can thiệp trực
tiếp của chính phủ cũng như sự ràng buộc của kế hoạch pháp lệnh, mà chủ yếu
quan hệ với thị trường và chịu sự chi phối của cơ chế thị trường. Thực tiễn cải cách
4


kinh tế ở TQ đã chứng minh, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tập thể ở cả thành
thị và nông thôn có sức sống và khả năng thích ứng với những nhu cầu và trình độ
phát triển SX khác nhau, do đó nó không thể được thay thế bằng kinh tế nhà nước.
Ví dụ, chế độ hợp tác cổ phần nhiều hình thức là một biện pháp có hiệu quả
thực hiện sự kết hợp giữa sức lao động và vốn, giữa phân phối theo lao động và
phân phối theo yếu tố SX.
Đối với kinh tế phi công hữu: Trung Quốc xác định kinh tế phi công hữu là bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường XHCN. Vấn đề được lập luận
là: phát triển kinh tế phi công hữu trong điều kiện kinh tế quốc hữu làm chủ thể là
yêu cầu khách quan của sự phát triển sức sản xuất của giai đoạn đầu của CNXH.
Đồng thời, quá trình cải cách chế độ công hữu của TQ hướng vào việc cải tạo chế độ
công hữu đơn nhất cũng chính là quá trình phát triển từng bước của kinh tế phi công
hữu. Sự nhìn nhận, đối xử đúng đắn hay không đối với kinh tế phi công hữu có liên
quan trực tiếp đến sự phát triển kinh tế thị trường XHCN Trung Quốc.
Bởi lẽ: giữa kinh tế phi công hữu và kinh tế thị trường có mối quan hệ chặt chẽ, tự
nhiên. Và, kinh tế phi công hữu có đặc trưng là quyền sở hữu được xác định rõ rệt,
quyền tự chủ trong các quyết sách và do đó cơ chế vận hành linh hoạt. Điều đó
thống nhất với các nguyên tắc và yêu cầu của thị trường. “Không có chế độ công hữu
thì không có CNXH; không có chế độ phi công hữu thì cũng không thể xây dựng thành
công kinh tế thị trường XHCN đặc sắc TQ”3. Thực tiễn TQ chứng minh rằng: kinh tế
phi công hữu đóng vai trò quan trọng với việc thỏa mãn các nhu cầu đa dạng của đời
sống vật chất và văn hóa xã hội; mở rộng việc làm; tăng tích lũy của nhà nước; thúc đẩy
toàn bộ nền kinh tế phát triển.
Quan điểm của TQ đối với kinh tế phi công hữu là: Nhà nước bảo vệ quyền

lợi hợp pháp của kinh tế phi công hữu theo pháp luật và khuyến khích phát triển
lành mạnh, liên hệ mật thiết với kinh tế công hữu đang chiếm vai trò chủ thể, làm
cho kinh tế thị trường XHCN đặc sắc TQ phát triển sôi động, mạnh mẽ và tràn đầy
sức sống; Đáng chú ý, kinh tế phi công hữu không chỉ được nhìn nhận và đánh giá
3

Hội đồng lý luận Trung ương, Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản TQ và Đảng Cộng sản VN: Chủ nghĩa xã hội
và kinh tế thị trường – Kinh nghiện của TQ và kinh nghiệm của VN, Nxb CTQG, H, 2003, tr 110.

5


như một lực lượng quan trọng trong phát triển nền kinh tế quốc dân, mà còn nhìn
nhận và đánh giá ở góc độ biến đổi tính chất của nó dưới ảnh hưởng của hạ tầng cơ
sở cũng như thượng tầng kiến trúc trong một nền kinh tế mới - kinh tế thị trường
XHCN đặc sắc TQ.
Về sở hữu đất đai: Đất đai ở thành phố thuộc sở hữu nhà nước. Đất đai ở
nông thôn thuộc sở hữu tập thể. Nông dân chỉ có quyền duy nhất với đất đai là
quyền sử dụng, không có quyền chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, khi nông dân
chuyển ra thành phố hay đi nơi khác thì phải trả lại đất cho tập thể để giao cho
người khác sử dụng. Tuy nhiên, một số nơi vẫn có sự chuyển nhượng đất nông
nghiệp, theo đó, đất đai được tập trung vào một số người có ưu thế để hình thành
doanh nghiệp tư nhân, nhưng phải có điều kiện: Công nghiệp phải phát triển để thu
hút nông dân ly nông và ly hương và phải bảo đảm tốt về mặt xã hội cho nông
thôn. Ngoài ra, đất đai ở TQ còn được tập trung bằng phương thức di chuyển theo
gia đình. (Việc quản lý, sử dụng đất đai ở nông thôn TQ không nhất thiết theo một
phương thức cụ thể, mà rất linh hoạt cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của mỗi địa phương).
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện phương thức phân phối xã hội chủ nghĩa, lấy
phân phối theo lao động làm chủ thể, cho phép một bộ phận người và khu vực giàu
có trước, lôi kéo giúp đỡ những người, khu vực khác giàu có sau, từng bước đi tới

cùng giàu có.
Đảng Cộng sản TQ và giới lý luận cho rằng: Chế độ kinh tế cơ bản lấy công
hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều chế độ sở hữu cùng phát triển thực hiện ở giai đoạn
đầu của CNXH, quyết định phương thức thực hiện phân phối, trong đó phải kiên
trì chế độ phân phối theo lao động làm chủ thể, nhiều phương thức phân phối
cùng tồn tại. Lý luận phân phối mới đã phá vỡ lý luận phân phối truyền thống ở
những nội dung sau:
Một là, lấy chế độ phân phối theo lao động làm chủ thể, các phương thức
phân phối song song cùng tồn tại, kết hợp phân phối theo lao động với phân phối
theo yếu tố sản xuất; Một mặt, kiên trì lấy phân phối theo lao động làm chủ thể
6


trong XH, làm cho tỷ trọng phân phối theo lao động chiếm địa vị chủ thể trong tất
cả các phương thức phân phối; lượng thu nhập phân phối theo lao động của người
lao động trong kinh tế công hữu làm tiêu chuẩn đối chiếu về mức thu nhập của
người lao động trong các hình thức sở hữu khác. Mặt khác, song song phát triển
các hình thức phân phối khác, kết hợp phân phối theo lao động với phân phối theo
yếu tố SX, cho phép khuyến khích các yếu tố SX như vốn, kỹ thuật tham gia vào
phân phối. Lý luận phân phối trên không chỉ thể hiện quy luật khách quan của sự
phát triển LLSX trong giai đoạn đầu của CNXH mà còn thể hiện yêu cầu vận hành
nền kinh tế thị trường XHCN. Tất cả các hình thức sở hữu phù hợp với ba điều có
lợi đều có thể và nên khuyến khích sử dụng để phục vụ cho CNXH.
Tương tự như vây, tất cả các phương thức phân phối phù hợp với ba điều có
lợi đều có thể và nên khuyến khích sử dụng. Trong điều kiện của nền kinh tế thị
trường XHCN, muốn phát huy vai trò mang tính nền móng của thị trường đối với
việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực thì phải phát triển mạnh thị trường các yếu
tố SX như LĐ, tiền vốn, kỹ thuật, thông tin…Trong quá trình SX hàng hóa, đối với
LĐ sống tạo ra giá trị thì yêu cầu thực hiện chế độ phân phối theo LĐ làm chủ thể;
các yếu tố SX khác như tiền vốn, kỹ thuật, thông tin… là những điều kiện quan

trọng mà SX hàng hóa không thể thiếu được thì đòi hỏi cho phép tham gia vào
phân phối lợi ích thu được ở giai đoạn đầu của CNXH. Kết hợp phân phối theo LĐ
với phân phối theo yếu tố SX tạo điều kiện thuận lợi cho việc động viên tính tích
cực của quảng đại thành viên XH, có lợi cho việc phân bổ và sử dụng hợp lý các
nguồn lực, có lợi cho phát triển sức SX của XH.
Hai là, thực hiện chính sách ưu tiên năng suất, hiệu quả và chú trọng công bằng.
TQ cho đây là một nguyên tắc, bởi lẽ: phát triển LLSX là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của CNXH; năng suất là nền tảng của công bằng, công bằng lại là tiền đề
cho năng suất, thực hiện tốt hai điều này cũng là yêu cầu cơ bản của kinh tế thị
trường XHCN ở TQ. Đồng thời, trong các tầng bậc phân phối khác nhau, lại có sự
xử lý khác nhau trong mối quan hệ giữa năng suất và công bằng. Trong quá trình
tái sản xuất, lĩnh vực phân phối lần đầu phải kiên trì nguyên tắc ưu tiên năng suất,
7


chú ý hơn nữa tới năng suất và hiệu quả là chính để thúc đẩy sản xuất phát triển.
Trong lĩnh vực phân phối lại thì nên kiên trì nguyên tắc chú trọng công bằng,
đề xướng công bằng nhiều hơn để hạn chế phân hóa hai đầu.
Ba là, cho phép khuyến khích một bộ phận người giàu lên trước bằng lao
động và kinh doanh trung thực, đề xướng người giàu trước giúp người giàu sau,
cuối cùng thực hiện xã hội cùng giàu có. Về vấn đề này, TQ cho rằng: Trong chính
sách phân phối phải xóa bỏ chủ nghĩa bình quân, xóa bỏ “nồi cơm lớn”; cho phép
cổ vũ một số người, một số khu vực giàu lên trước, dần đạt được mục đích cùng
giàu có. Chính sách này lấy việc thừa nhận sự khác biệt làm tiền đề, lấy lao động
chính đáng và kinh doanh hợp pháp làm điều kiện, cuối cùng lấy thực hiện cùng
giàu có làm mục tiêu. Cách thực hiện như trên nhờ thế mà kết hợp được tính
nguyên tắc của CNXH với tính linh hoạt của chính sách và phản ánh được yêu cầu
khách quan của lực lượng sản xuất. Cùng giàu có thể hiện bản chất của CNXH
nhưng không phải cùng giàu có của chủ nghĩa bình quân. Thực hiện quá trình cùng
giàu có chỉ có thể bằng cách khuyến khích một số nơi, một số người giàu lên trước,

hình thành hiệu ứng làm mẫu và thông qua những người giàu lên trước, giúp đỡ
những người giàu có sau, cuối cùng thực hiện cùng giàu có.
Bốn là, xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội nhiều tầng nấc, hoàn thiện chế độ
cứu tế xã hội, xã hội hóa việc cung cấp bảo hiểm xã hội cơ bản nhất.
Cùng với quá trình cải cách, để duy trì sự ổn định xã hội, TQ đã thực hiện
nguyên tắc công bằng trong kinh tế, luôn chú ý xây dựng và hoàn thiện chế độ bảo
hiểm xã hội phù hợp với nền kinh tế thị trường XHCN.
TQ xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội nhiều tầng nấc, xã hội hóa công tác
bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm y tế, dưỡng lão… Ngoài ra trong quá trình hoàn
thiện cơ cấu và phương thức phân phối thu nhập còn phải chú ý bảo hộ thu nhập
hợp pháp theo luật. Chống các hình thức thu nhập bất chính, điều chỉnh thu nhập
bất hợp lý; thông qua chính sách phân phối thu nhập và thuế, Nhà nước điều tiết
những thu nhập quá cao, phòng ngừa phân hóa hai cực và sự cách biệt quá lớn về
giàu nghèo.
8


Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN với sự điều
hành vĩ mô của Nhà nước. TQ cho rằng, phương thức phân bổ các nguồn tài
nguyên là yếu tố quyết định hiệu quả vận hành của hệ thống kinh tế. Xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN làm cho vai trò nền móng của thị
trường trong phân bổ các nguồn tài nguyên được phát huy một cách đầy đủ, sẽ
nâng cao mạnh mẽ hiệu quả vận hành của nền kinh tế, tăng cường sức sống của
nền kinh tế. Để xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN, TQ đề ra
nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: xử lý tốt mối quan hệ giữa điều hành vĩ mô của nhà nước với
vai trò điều tiết của cơ chế thị trường. Trong điều kiện kinh tế thị trường, tất cả các
hoạt động kinh tế đều phải tuân theo yêu cầu quy luật giá trị, thích ứng với sự thay
đổi của cung - cầu; cần phải thông qua công năng của đòn bẩy giá cả và cơ chế
cạnh tranh để phân bổ tài nguyên vào đúng khâu có hiệu quả, loại bỏ cơ chế xin cho và đặc quyền của doanh nghiệp nhà nước. Cần phải sử dụng ưu điểm của thị

trường phản ứng nhanh nhạy với các tín hiệu kinh tế, thực hiện cơ chế chọn lọc tự
nhiên, tốt thì chiến thắng, yếu kém thì bị đào thải đối với doanh nghiệp, thúc đẩy
cân đối giữa sản xuất và nhu cầu. Tuy nhiên, vai trò mang tính nền móng của thị
trường đối với phân bổ các nguồn lực cần phải được tiến hành dưới sự điều hành vĩ
mô của Nhà nước. Bởi vì, để khắc phục những nhược điểm và bất cập của tính tự
phát thị trường, cần phải dựa vào sự chỉ đạo, điều hành vĩ mô của Nhà nước đối
với hoạt động kinh tế. Đặc biệt ở thời kỳ đang chuyển đổi thể chế kinh tế khi nâng
cấp kết cấu sản nghiệp và kinh tế phát triển với gia tốc nhanh, thì củng cố và hoàn
thiện vai trò điều hành vĩ mô của nhà nước càng quan trọng.
Nguyên tắc 2, cần phải giữ vững cân bằng tổng lượng kinh tế, thúc đẩy kết
cấu kinh tế tối ưu hóa, thực hiện kinh tế tăng trưởng ổn định.
Sự cân bằng tổng cung xã hội với tổng cầu xã hội là tiền đề cơ bản cho sự tăng
trưởng ổn định của nền kinh tế quốc dân. Chỉ khi tổng lượng kinh tế cân bằng, toàn
bộ sản phẩm và dịch vụ hình thành tổng cung đều có thể thực hiện được giá trị của
chúng, tức tổng sức mua của XH có năng lực chi trả thể hiện tổng nhu cầu có thể
9


thực hiện được thì nền kinh tế quốc dân mới vận hành thông suốt. Vì vậy, sự cân
bằng giữa kết cấu cung sản phẩm và dịch vụ trong tổng cung xã hội với kết cấu
nhu cầu là cơ sở của cân bằng tổng lượng kinh tế. Bất kỳ sự cân bằng tổng lượng
nào cũng lấy sự cân bằng kết cấu nhất định làm nội dung. Chỉ có trên cơ sở cân
bằng kết cấu kinh tế mới có khả năng tránh được tình hình: trong khi một sản phẩm
ngắn hạn cung thấp hơn so với cầu, lại tồn tại một số sản phẩm dài hạn nào đó
cung vượt quá cầu. Nền kinh tế quốc dân không thể phát triển lành mạnh trong tình
huống kết cấu kinh tế không cân bằng như vậy. Nhiệm vụ điều hành kinh tế vĩ mô
của Nhà nước chính là hiểu biết những tình huống và nắm được toàn cục phát triển
của nền kinh tế, dựa vào xu thế thay đổi của nền kinh tế quốc dân và tính quy luật
mà vận dụng các biện pháp điều tiết dựa trên vai trò của cơ chế thị trường, điều
hành quan hệ kinh tế trên các mặt nhằm giữ vững cân bằng tổng lượng kinh tế,

thúc đẩy kết cấu kinh tế đạt tối ưu, thực hiện kinh tế tăng trưởng ổn định.
Nguyên tắc 3, vận dụng các biện pháp: kinh tế, pháp luật và hành chính cần
thiết phụ trợ để thực hiện nhiệm vụ điều hành vĩ mô.
Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phương
thức điều hành vĩ mô của Nhà nước phải chuyển từ trực tiếp là chủ yếu sang gián
tiếp. Biện pháp kinh tế chủ yếu bao gồm vận dụng các chính sách tài chính, tiền tệ
và chỉ đạo công tác kế hoạch hóa để điều tiết nền kinh tế quốc dân. Để bảo đảm sự
hài hòa trong chính sách điều hành vĩ mô và vận dụng tổng hợp các đòn bẩy kinh
tế, cần phải xây dựng được cơ chế phối hợp qua lại ràng buộc lẫn nhau giữa tài
chính, tiền tệ và kế hoạch. Ngoài ra, cần xây dựng một hệ thống tổ chức điều hành
có uy tín và chế độ tương quan, nhằm làm cho các cơ quan điều hành vĩ mô có thể
độc lập hoạt động theo chức năng của mình, đồng thời lại có thể phối hợp được
nhịp nhàng theo một mục tiêu thống nhất, tăng cường hiệu quả chỉnh thể của điều
hành vĩ mô. Vận dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế có thể giúp cho hoạt động vi
mô của doanh nghiệp thực sự phù hợp với mục tiêu vĩ mô của nhà nước, thực hiện
phân bổ tối ưu nguồn tài nguyên và hợp lý hóa kết cấu sản nghiệp. Biện pháp pháp
luật bao gồm vận dụng các quy phạm pháp luật và pháp quy về quản lý kinh tế, làm
10


cho các hoạt động kinh tế có thể được tiến hành theo trật tự. Trong quá trình chuyển
đổi sang thể chế kinh tế thị trường XHCN, sử dụng biện pháp hành chính trong
phạm vi nhất định vẫn cần thiết, nhưng phạm vi này sẽ ngày càng thu nhỏ cùng với
sự hoàn thiện của các biện pháp kinh tế và biện pháp pháp luật. Cần lấy biện pháp
kinh tế là chủ yếu, vận dụng tổng hợp các biện pháp, phát huy vai trò của hệ thống
điều hành vĩ mô, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển cao liên tục và bền vững.
Như vậy, tính chất cơ bản của thể chế kinh tế thị trường XHCN là dưới sự
điều tiết vĩ mô của nhà nước, thị trường đóng vai trò cơ sở trong việc phân phối
nguồn lực; hoạt động kinh tế phải tuân theo quy luật giá trị, phù hợp với quan hệ
cung cầu, thông qua giá cả và cơ chế cạnh tranh để tiến hành phân phối các nguồn

lực vào những lĩnh vực có hiệu quả, thực hiện quy luật đào thải tự nhiên của thị
trường. TQ cho rằng, phương thức chủ yếu để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
XHCN là: “Thể chế kinh tế thị trường pháp trị tự do, cạnh tranh bình đẳng, can
thiệp có giới hạn, giám sát, quản lý theo pháp luật”.
Thứ tư, mở cửa đối ngoại, tích cực tham gia hợp tác và cạnh tranh quốc tế,
nâng cao tiềm lực mọi mặt của đất nước TQ. Mở cửa đối ngoại là giải pháp chiến
lược nhằm hiện đại hóa TQ và cũng là quốc sách cơ bản lâu dài để hiện đại hóa
CNXH. Nội dung chủ yếu của mở cửa đối ngoại bao gồm: Xác định quốc sách mở
cửa đối ngoại, thực hiện mở cửa trên mọi lĩnh vực, xây dựng các thể chế với hình
thức mở. Mạnh dạn tiếp thu những thành tựu văn minh thế giới (của cả CNXH và
CNTB), sử dụng cả hai nguồn tài nguyên, hai thị trường trong nước và quốc tế.
Mở cửa đối ngoại đa nguyên, đặc biệt xây dựng các đặc khu kinh tế. Xử lý chính xác
mối quan hệ giữa mở cửa, tranh thủ ngoại lực và tự lực cánh sinh.
Sự lạc hậu của TQ là do trong suốt một thời gian lịch sử dài bế quan tỏa cảng,
Nhà nước XHCN phải có nhiệm vụ khắc phục sự lạc hậu đó và không ngừng phát
triển lớn mạnh, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. Do đó, phải mở cửa,
học hỏi khoa học công nghệ tiến tiến và các phương pháp quản lý kinh doanh của
các nước phát triển, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Mở cửa đối ngoại của TQ không phải chỉ một phương diện, một lĩnh vực nào
11


mà mở cửa đối ngoại trên mọi phương diện, mọi tầng bậc: chính trị, kinh tế, văn hóa,
khoa học và công nghệ, thực hiện phân công LĐ quốc tế một cách tự giác.
Mục đích mở cửa kinh tế trên mọi lĩnh vực tầng bậc nhằm: Tranh thủ các
nguồn tài nguyên quốc tế to lớn bao gồm các mặt vật chất, vốn, thông tin, tri thức.
Thực hiện phân phối hợp lý các nguồn tài nguyên trong phạm vi rộng và tích cực
tham gia hợp tác, cạnh tranh quốc tế. Phát huy đầy đủ lợi thế so sánh và ưu thế
phát triển theo chiều sâu. Không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế của
nền kinh tế. Tăng cường khả năng tự lực cánh sinh và nguồn sức mạnh tổng hợp

của TQ. Thúc đẩy hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân và tăng cường tiềm lực mọi
mặt cho đất nước.
Trong việc thực hiện mở cửa, cần ra sức phát triển ngoại thương, mở rộng
xuất khẩu, tích cực thu hút thiết bị, kỹ thuật hiện đại, tiên tiến, tích cực sử dụng có
hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài. Không chỉ sử dụng tiền vay chính phủ nước
ngoài, tiền vay của IMF…mà còn cho phép thương nhân nước ngoài đầu tư trực
tiếp, thành lập các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài;
Thậm chí còn đầu tư ra nước ngoài và phát hành trái khoán, tích cực phát triển
công trình nhận thầu nước ngoài và hợp tác lao động, phát triển viện trợ kỹ thuật kinh tế đối ngoại và hợp tác cùng có lợi dưới nhiều hình thức.Học hỏi sáng tạo
những phương thức kinh doanh và quản lý tiên tiến của các nước phát triển.
Xây dựng những đặc khu kinh tế để thực hiện chủ trương mở cửa kêu gọi đầu
tư, hợp tác kinh tế với nước ngoài của TQ là một sáng kiến quan trọng trên phương
diện mở cửa kinh tế đối ngoại. TQ đã triển khai và xây dựng thành công nhiều đặc
khu kinh tế như: Thâm Quyến, Chu Hải, Hạ Môn, Sán Đầu. Những đặc khu kinh tế
này không chỉ tạo ra những thành tựu kinh tế được cả thế giới biết đến về xây dựng
thành công mô hình kinh tế hướng ngoại, mà còn trở thành cánh cửa và cây cầu
của công cuộc mở cửa đối ngoại của TQ; là tấm gương về sự thành công trong cải
cách mở cửa của TQ, có tác dụng lôi kéo, phát huy tính tích cực của cả nền kinh tế
TQ.
Về tư tưởng chỉ đạo, TQ luôn nhấn mạnh phải xử lý tốt, chính xác các mối
12


quan hệ có lợi cho công cuộc cải cách mở cửa, phát triển lành mạnh, có trật tự,
trong đó phải xử lý tốt và chính xác các mối quan hệ giữa mở cửa đối ngoại và giữ
vững độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh. Tư tưởng trên TQ rút ra từ kinh nghiệm lịch
sử, TQ cho rằng, Nhà nước XHCN trong mở cửa đối ngoại nếu bỏ qua nguyên tắc
này sẽ làm mất đi cơ sở, nền móng để xây dựng, phát triển. TQ xác định: Độc lập,
tự chủ, tự lực cánh sinh trong quá khứ, hiện tại hay trong tương lai đều là điểm tựa
của TQ. Kiên trì mở cửa đối ngoại để có thể tăng cường khả năng tự lực cánh sinh,

thúc đẩy kinh tế phát triển. Nói cách khác: Mở cửa đối ngoại của TQ là mở cửa
đối ngoại lấy tự lực cánh sinh làm cơ sở, là tự lực cánh sinh dưới tiền đề của mở
cửa đối ngoại. Trong mở cửa đối ngoại, tất yếu phải tăng cường khả năng tự lực
cánh sinh, hình thành cơ chế phát triển tuần hoàn và thúc đẩy lẫn nhau giữa tự lực
cánh sinh và mở cửa đối ngoại; tăng cường phòng ngừa và chống đỡ rủi ro của nền
kinh tế thế giới, từ đó duy trì độ an toàn của nền kinh tế TQ.
Ngoài ra mở cửa đối ngoại của TQ còn phải chú trọng xử lý chính xác các
mối quan hệ giữa mở cửa đối ngoại và kiên trì bốn nguyên tắc cơ bản, giữa mở
cửa đối ngoại với bình đẳng, cùng có lợi; mở cửa đối ngoại với ổn định; giữa mở
cửa đối ngoại với tăng cường văn minh tinh thần… Xử lý đúng đắn mối quan hệ
này trên thực tế vẫn luôn là thách thức đặt ra cho TQ và là vấn đề không thể xem
thường trong bối cảnh TCH và sự phức tạp của tình hình chính trị thế giới ngày
nay.
3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của mô hình kinh tế thị trường XHCN đặc
sắc Trung Quốc
Đề xuất lý luận xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN đặc sắc TQ có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn:
Thứ nhất, ý nghĩa đối với Trung Quốc.
- Đây là bước đột phá lớn so với lý luận XHCN truyền thống và mang ý nghĩa
thời đại trong lĩnh vực kinh tế chính trị học, làm phong phú và phát triển lý luận
kinh tế chính trị học của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Tháo gỡ những ràng buộc về tư tưởng, đem lại nhận thức mới về kinh tế kế
13


hoạch hóa và kinh tế thị trường, coi chúng thuộc vào những chế độ kinh tế cơ bản
của XH, từ đó đặt nền móng lý luận cho việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường
XHCN đặc sắc TQ.
- Tạo cơ sở lý luận cho việc mở cửa toàn diện lĩnh vực đối ngoại, thúc đẩy TQ
hướng ra thế giới một cách tích cực, năng động nhằm nhanh chóng hiện đại hóa đất

nước, hiện đại hóa CNXH và bắt kịp xu hướng phát triển chung của thời đại.
Thứ hai, ý nghĩa đối với Việt Nam.
Việt Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN có nhiều nét tương đồng với TQ, thì mô hình kinh tế thị trường
XHCN đặc sắc TQ là những kinh nghiệm phong phú, bổ ích mà VN có thể và cần
phải nghiên cứu, tham khảo để phục vụ cho việc xây dựng thành công của CNXH.
Ngoài cải cách kinh tế, TQ còn quan tâm cải cách hệ thống chính trị tương ứng.
Đúng như ông Đặng Tiểu Bình đã chỉ ra: “Mọi cải cách cuối cùng có thành công
được hay không là quyết định bởi cải cách thể chế chính trị”. Đây là gợi mở mà
Việt Nam nên tham khảo.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu và học tập kinh nghiệm của TQ, VN cũng cần nhận
diện sâu sắc những khác biệt giữa ý nguyện của ĐCS TQ được thể hiện trong các
văn kiện với diễn biến thực tế đời sống KT - XH Trung Quốc.
Thứ ba, những thách thức lớn TQ đang gặp phải hiện nay.
- Khá đông dân chúng TQ không thích ứng được với sự biến đổi xã hội nhanh
chóng nên dễ rơi vào trạng thái hoang mang, hỗn loạn.
- Cơ cấu kinh tế và xã hội biến đổi nhanh chóng khiến cho mô thức quản lý
đất nước trước đây trên chừng mực rất lớn lại mất tác dụng. Sự tách rời nghiêm
trọng, sự không hài hòa, không thích ứng giữa hạ tầng kinh tế biến đổi nhanh
chóng với thượng tầng kiến trúc biến đổi chậm chạp đã trở thành nguồn gốc gây ra
những vấn đề XH mang tính phổ biến, thậm chí có khả năng bùng nổ nghiêm trọng
như quan liêu, tham nhũng hoành hành, không đủ việc làm, thất nghiệp gia tăng
nghiêm trọng, thị trường hỗn loạn, môi trường sinh thái bị phá hoại…
- Các lực lượng thị trường, nhà nước và xã hội đang đẩy TQ trượt theo ba
14


hướng biến thành một xã hội “không ngừng mất cân bằng”, “nhanh chóng bị ngăn
cách”, đây là cái họa bên trong đe dọa sự thống nhất, ổn định, phồn vinh và dân
chủ ở TQ.

+ Sự mất cân đối và ngăn cách giữa thành thị và nông thôn.
+ Sự mất cân đối và ngăn cách giữa Miền Đông và Miền Tây.
+ Sự mất cân đối và ngăn cách giữa các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội.
Như năm 2001 “khoảng cách 2 triệu người TQ (trên 700 ngàn cán bộ từ cấp
huyện trở lên, kể cả đã về hưu và thân nhân gia đình họ) chiếm tới 70% của cải vật
chất của xã hội, trong khi 1,2 tỷ dân chiếm phần còn lại. Dân số đô thị trên 470 triệu
người nhưng chiếm khoảng 88% của cải vật chất của xã hội, trong khi đó trên 800
triệu dân còn lại chiếm chừng 12% của cải vật chất của xã hội”4.
Như vậy, khi chấp nhận kinh tế thị trường phát triển tương đối “nóng”, TQ đã
vấp phải nhiều khó khăn về các vấn đề xã hội, mục tiêu công bằng xã hội trên thực
tế đã bị “hy sinh”. Chính vì như thế, bắt đầu từ Đại hội lần thứ XVI, đặc biệt là từ
hội nghị Trung ương 5 khóa XVI Đảng Cộng sản TQ và Đại hội XVII đã điều
chỉnh theo hướng “phát triển hài hòa”, xây dựng “xã hội hài hòa”, “thế giới hài
hòa”. Đây là những vấn đề thực tiễn của TQ mà Đảng Cộng sản VN cần quan tâm
khi xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN và theo đó là thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tài liệu học tập các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa X, NXB
CTQG, Hà Nội 2008.
4

Thông tấn xã VN, Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 4/11/2002.

15


- Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 139 - 140.
- Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb.

Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2013, tr. 38 - 48.
- Vũ Đình Bách, Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Những vấn đề
lý luận và thực tiễn đặt ra trong tình hình hiện nay, Nxb CTQG, H. 2008.
- Hội thảo Việt Nam - Trung Quốc về chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị
trường, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003.
- Về lý luận xã hội hài hòa XHCN Trung Quốc, CTQGHCM, 2007.
- Chiến lược “Hưng biên phú dân” của Trung Quốc, Viện nghiên cứu TQ, 2009.
- Nhìn lại 30 năm cải cách mở cửa của TQ, TTXVN, 2010.

16



×