Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Hướng Dẫn Giải Toán Có Lời Văn Cho Học Sinh Lớp 1 _ www.bit.ly/taiho123

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.21 KB, 19 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO BÌNH LIÊU
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỒNG TÂM

Sáng kiến kinh nghiệm
HƯỚNG DẪN GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO
HỌC SINH LỚP 1

Họ và tên giáo viên: Ngô Thị Thuỷ
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Đồng Tâm

Huyện Bình Liêu - Quảng Ninh

Năm học 2009 - 2010

Trang 1


MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU

I/- Lý do chọn đề tài
II/- Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
III/- Thời gian - địa điểm nghiên cứu
IV/- Phương pháp nghiên cứu
V/ - Đối tượng nghiên cứu
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

I/- Cơ sở lý luận
II/- Cơ sở thực tiễn
CHƯƠNG II:



Những khó khăn của học sinh khi làm bài tập giải toán có lời văn

và phương pháp hướng dẫn học sinh làm bài có hiệu quả.
I/- Những khó khăn của học sinh khi làm bài tập giải toán có lời văn
II/- Một số phương pháp hướng dẫn học làm bài “giải toán có lời văn
đạt hiệu quả”
II.1. Nắm bắt nội dung chương trình
II.2. Dạy “Giải toán có lời văn” ở lớp 1
CHƯƠNG III: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM:

I/- Mục đích thực nghiệm
II/- Nhiệm vụ thực nghiệm.
III/- Quá trình thực nghiệm
IV) Kết quả thực nghiệm:
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

MỞ ĐẦU
Trang 2


I/- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Giải toán có lời văn là một trong những mạch kiến thức cơ bản xuyên suốt
chương trình toán cấp tiểu học, thông qua giải toán có lời văn, học sinh được
phát triển trí tuệ, được rèn luyện kĩ năng tổng hợp như: Đọc, viết, diễn đạt trình
bày tính toán. Tuy nhiên, đối với học sinh lớp 1 thì đây là một dạng kiến thức
khó bởi sự chú ý của các em ngắn, sức tập chung chưa cao, đồng thời tư duy
logic của các em còn tương đối hạn chế.
Qua thực tế giảng dạy cho học sinh lớp 1 nhiều năm ở trường Đồng Tâm,

bản thân tôi nhận thấy hầu hết học sinh lớp 1 đều học yếu dạng toán này. Nhiều
em gặp khó khăn khi tóm tắt đề bài, khó khăn khi viết câu văn mặc dù hầu hết
các em đều có thể thực hiện được phép tính .Vậy làm thế nào để giúp học sinh
lớp 1 có thể giải quyết được những khó khăn đó, làm thế nào để tất cả các học
sinh lớp 1 đều cảm thấy hứng thú khi học dạng bài tập này, đây chính là điều mà
hầu hết các giáo viên đều quan tâm. Với kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy lớp
1, bản thân tôi cũng đã nghiên cứu và tiến hành thực nghiệm với nhiều đối tượng
học sinh bước đầu thu được kết quả tương đối khả quan. Tuy nhiên để việc dạy
toán có lời văn được tốt, Tôi mạnh dạn chọn vấn đề: “Phương pháp hướng dẫn
học sinh giải bài toán có lời văn” để nghiên cứu nhằm giúp học sinh lớp 1 có
hứng thú hơn đối với dạng bài tập này từ đó các em có được tư duy logic của
một nhà khoa học trong tương lai.
II/- MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI

1, Mục đích của đề tài:
Tôi nghiên cứu đề tài: Những kinh nghiệm “hướng dẫn giải toán có lời
văn cho học sinh lớp 1” nhằm giúp học sinh lớp 1 nắm được các bước giải của
bài toán có lời văn một cách có hiệu quả.
2) Nhiệm vụ của đề tài.
1) Nghiên cứu những vấn đề chung về toán học lớp1
2) Nghiên cứu về cách hướng dần học sinh giải toán có lời văn ở lớp 1
3) Tìm hiểu thực trạng nguyên nhân và biện pháp thực hiện giải toán có lời
văn cho học sinh lớp 1 trường tiểu học Đồng Tâm
Trang 3


4) Phát hiện những khó khăn, vướng mắc, tồn tại khi học sinh giải toán có
lời văn cho học sinh lớp 1.
5) Đề xuất biện pháp giải quyết
III/ THỜI GIAN - ĐỊA ĐIỂM:


- Thời gian : Năm học 2008 – 2009 và năm học 2009 – 2010
- Địa điểm : Lớp 1 trường tiểu học Đồng Tâm – Bình Liêu – Quảng Ninh
IV/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1 ) Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
2) Phương pháp quan sát
3) Phương pháp điều tra và nghiên cứu thực tiễn
4) Phương pháp thực nghiệm sư phạm
V/ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 Cơ sở Nà
Khau trường tiểu học Đồng Tâm – Bình Liêu – Quảng Ninh.

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Trang 4


I/- CƠ SỞ LÍ LUẬN;

Toán có lời văn là mạch kiến thức tổng hợp của các mạch kiến thức toán
học, giải toán có lời văn các em sẽ được giải các loại toán về số học, các yếu tố
đại số, các yếu tố hình học và đo đại lượng. Toán có lời văn là chiếc cầu nối
giữa toán học và thực tế đời sống, giữa toán học với các môn học khác. Khả
năng giải toán có lời văn chính là phản ánh năng lực vận dụng kiến thức của học
sinh, học sinh hiểu về mặt nội dung kiến thức toán học vận dụng vào giải toán
kết hợp với kiến thức tiếng việt để giải quyết vấn đề trong toán học. Từ ngôn
ngữ thông thường trong các đề toán đưa ra cho học sinh hiểu biết hướng giải đưa
ra phép tính kèm theo câu trả lời và đáp số của bài toán. Giải toán có lời văn góp

phần củng cố kiến thức toán, rèn luyện kĩ năng diễn đạt, tích cực góp phần phát
triển tư duy cho học sinh tiểu học.
II. Cơ sở thực tiễn:
Qua nhiều năm giảng dạy lớp 1 ở trường Tiểu học Đồng Tâm, tôi nhận
thấy hầu hết học sinh lớp 1 đều học yếu dạng toán: “Giải toán có lời văn”. Mà
đây là dạng kiến thức xuyên suốt trong quá trình học của học sinh. Do đó việc
rèn cho học sinh có được kĩ năng giải toán có lời văn là một vấn đề cần thiết
không chỉ ở trường Tiểu học Đồng Tâm mà cả ở các trường khác. Bởi nếu học
sinh không có kĩ năng giải dạng bài tập này thì học sinh sẽ rất khó khăn trong
việc tiếp thu kiến thức toán ở các lớp tiếp theo. Bên cạnh đó khi lên cấp 2 các
em còn phải học thêm những môn học có sử dụng dạng bài tập này như các
môn: Lý, Hoá, Sinh. Vì vậy, mỗi giáo viên dạy lớp 1 đều phải chú tâm vào việc
rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh ngay từ khi các em mới bắt đầu làm
quen, có như vậy mới phát triển tốt tư duy logic đồng thời giúp các em tiếp thu
các kiến thức tiếp theo được thuận lợi hơn.

Chương II: Những khó khăn của học sinh khi làm bài tập
giải toán có lời văn và phương pháp hướng dẫn học sinh làm bài có hiệu quả.
I. Những khó khăn của học sinh khi làm bài tập giải toán có lời văn
Trang 5


I.1 Khảo sát chất lượng:
Để việc dạy học sát đối tượng, tôi đã tiến hành kiểm tra khảo sát lại kiến
thức của học sinh lớp 1 tại cơ sở Nà Khau từ năm 2007 – 2009 sau khi đã học
dạng bài: “Giải toán có lời văn” với đề kiểm tra như sau:
Đề bài : Lớp 1A trồng được 14 cây, lớp 1B trồng được 20 cây. Hỏi cả 2
lớp trồng được bao nhiêu cây?
I.2 Kết quả khảo sát:
Năm


Sĩ số

Hs viết đúng

Hs viết đúng

Hs viết đúng

Hs giải đúng

học

HS

2007 - 14

câu lời giải
SL
%
9
64,2

phép tính
SL
%
10
71,4

đáp số

SL
%
10
71,4

cả 3 bước
SL
%
9
64,2

2008
2008 - 16

12

13

15

12

75

81,2

93,7

75


2009
I.3.Đánh giá và rút ra kết luận:
Qua kết quả thu được và qua trò chuyện trực tiếp với học sinh của các lớp
được kiểm tra, tôi thấy rằng học sinh lớp 1 còn gặp một số khó khăn trong việc
giải toán có lời văn đó là: Một số em chưa biết tóm tắt bài toán, chưa biết phân
tích đề toán để tìm ra cách giải, chưa biết tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt
vụng về thiếu lôgic. Ngôn ngữ toán học còn rất hạn chế, kĩ năng tính toán, trình
bày thiếu chính xác, thiếu khoa học chưa có biện pháp, phương pháp học toán và
giải toán một cách máy móc nặng nề dập khuôn, bắt truớc.
II. Một số phương pháp hướng dẫn học làm bài “giải toán có lời văn đạt
hiệu quả”
Năm học 2007 – 2008 tôi được phân công dạy lớp 1 tôi tìm hiểu ghi chép tập
hợp những ưu điểm, thiếu sót của học sinh trong lớp về giải toán có lời văn đồng
thời trao đổi bàn bạc với đồng nghiệp và đề xuất một số ý kiến để phát huy ưu
điểm và khắc phục thiếu sót của học sinh và giáo viên.
- Năm học 2008 – 2009 tôi tiếp tục dạy lớp 1 tôi mạnh dạn áp dụng một số
kinh nghiệm, đồng thời tiếp tục tìm hiểu thêm những vướng mắc của học

Trang 6


sinh cũng như của giáo viên về giải toán có lời văn, bổ sung thêm cách tháo
gỡ, tích luỹ thêm kinh nghiệm và áp dụng vào thực tế.
- Năm học 2009 – 2010 tôi tiếp tục dạy lớp 1 áp dụng kinh nghiệm và đánh giá
kết quả học tập của học sinh về “ giải toán có lời văn” ở lớp 1 từ cơ sở lí luận
và thực tiễn, qua thực tế giảng dạy tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kinh
nghiệm về phương pháp hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn ở lớp 1như
sau:
II.1 Nắm bắt nội dung chương trình
Để dạy tốt môn toán nói chung, giải toán có lời văn nói riêng điều đầu tiên

mỗi giáo viên phải nắm thật chắc nội dung chương trình sách giáo khoa toán 1,
trong chương trình toán 1 giai đoạn đầu học sinh còn đang học chữ nên chưa đọc
ngay bài toán có lời văn. Mặc dù đến tận tuần 23 học sinh mới được học cách
giải “bài toán có lời văn” xong chúng ta đã có ý ngầm chuẩn bị từ xa cho việc
làm này ngay từ bài”phép cộng trong phạm vi 3, luyện tập ở tuần 7”.
- Bắt đầu từ tuần 7 cho đến các tuần 16 trong hầu hết các tiết dạy về phép cộng
trừ tron phạm vi ( không quá ) 10 đều có các bài tập thuộc dạng “nhìn tranh
nêu phép tính” ở đây học sinh được làm quen với việc :
+ Xem tranh vẽ.
+ Nêu bài toán bằng lời
+ Nêu câu trả lời
+ Điền phép tính thích hợp ( với tính huống trong tranh )
Ví dụ: Sau khi xem tranh vẽ ở trang 46 ( SGK ), học sinh tập nêu bằng lời : “có
một quả bóng trắng và 2 quả bóng xanh. Hỏi có tất cả mấy quả bóng?” rồi tập
nêu miệng câu trả lời: “có tất cả 3 quả bóng”, sau đó viết vào dãy 5 ô trống để có
phép tính :
1
+
2
=
3
- Tiếp theo đó kể từ tuần 17 học sinh được làm quen với việc đọc tóm tắt rồi
nêu đề toán bằng lời, sau đó nêu cách giải và tự điền số và phép thích thích
hợp vào dãy 5 ô trống. Ở đây không còn tranh vẽ nữa ( xem bài 3b – trang
87, bài 5 trang 89).
Trang 7


- Việc ngầm chuẩn bị cho học sinh các tiền đề giải toán có lời văn là chuẩn bị
cho học sinh cả về viết câu lời giải và viết phép tính. Chính vì vậy ngay sau

các bài tập “nhìn tranh điền phép tính thích hợp vào dãy 5 ô trống” chúng ta
chịu khó đặt thêm cho các em những câu hỏi để các em trả lời miệng.
Ví dụ : Từ bức tranh “ 3 con chim trên cành, 1 con chim bay tới” ở trang 47SGK, sau khi học sinh điền phép tính vào dãy ô trống:
3

+

1

=

4

Gíao viên nên hỏi tiếp: “vậy có tất cả mấy con chim?” để học sinh trả lời
miệng : “Có tất cả 4 con chim”; hoặc “Số chim có tất cả là bao nhiêu? (Số chim
có tất cả là 4)...
Cứ làm như vậy nhiều lần, học sinh sẽ quen dần với cách nêu lời giải bằng
miệng. Do đó các em sẽ dễ dàng viết được các câu lời giải sau này.
- Tiếp theo, trước khi chính thức học “Giải các bài toán có lời văn” học sinh
được học bài nói về cấu tạo của một bài toán có lời văn gồm 2 thành phần
chính là những cái đã cho (đã biết ) và những cái phải tìm (chưa biết ). Vì
khó có thể giải thích cho học sinh “bài toán là gì?” nên mục tiêu của tiết này
là chỉ giới thiệu cho các em 2 bộ phận của một bài toán:
+ Những cái đã cho (dữ kiện )
+ Và cái phải tìm (câu hỏi )
Để làm việc này sách toán một đã vẽ 4 bức tranh , kèm theo là bốn đề toán:
2 đề còn thiếu dự kiến, 1 đề còn thiếu câu hỏi, 1 đề thiếu cả dữ kiến lẫn câu hỏi
“biểu thị bằng dấu...”Học sinh quan sát tranh rồi nêu miệng đề toán, sau đó điền
số vào chỗ các dữ kiện rồi điền từ vào chỗ câu hỏi ( còn để trống ). Từ đó giáo
viên giới thiệu cho các em bài toán thường có 2 phần

+ Những số đã cho
+ Số phải tìm (câu hỏi )
Bài này giúp các em hiểu sâu hơn về cấu tạo của “Bài toán có lời văn”
• Các loại toán có lời văn trong chương trình chủ yếu là 2 loại toán “
Thêm – Bớt” thỉnh thoảng có biến tấu một chút:
Trang 8


- Bài toán có “Thêm” thành bài toán gộp, chẳng hạn: “An có 4 quả bóng, Bình
có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?”, dạng này khá phổ biến.
- Bài toán “Bớt” thành bài toán tìm số hạng, chẳng hạn: “Lớp 1A có 35 bạn,
trong đó có 20 bạn nữ. Hỏi lớp 1A có bao nhiêu bạn nam?”, dạng này ít gặp
vì dạng này hơi khó ( trước đây dạy ở lớp 2)
• Về hình thức trình bày bài giải, học sinh phải trình bày bài giải đầy
đủ theo quy định thống nhất từ lớp 1 đến lớp 5.
- Câu lời giải.
- Phép tính giải
- Đáp số
Ví dụ : Xét bài toán “ Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An
có tất cả mấy còn gà?”
* Học sinh lớp 1 cũ chỉ cần giải toán trên như sau:
Bài giải
5 + 4 = 9 (con gà)
Học sinh lớp một hiện nay phải giải như sau:
Bài giải
Nhà An có tất cả số con gà là :
5 + 4 = 9 (con gà)
Đáp số : 9 con gà
• Về số lượng bài toán trong một tiết học được rút bớt để dành thời
gian cho trẻ viết câu lời giải. Chẳng hạn trước đây trong một tiết “

Bài toán nhiều hơn” học sinh phải giải 8 bài toán (4 bài mẫu , 4 bài
luyện tập), thì bây giờ trong tiết “ Giải toán có lời văn (thêm)” học
sinh phải giải 4 bài (1 bài mẫu 3 bài luyện tập, 3 bài luyện tập)...
• Để lường trước về vốn từ và khả năng đọc hiểu của học sinh khi
“Giải bài toán có lời văn chương trình toán 1 đã có những giải pháp
hạn chế dùng các vần khó và tiếng khó trong đề toán như : Thuyền,
quyển, Quỳnh,...tăng cường dùng các vần và tiếng dễ đọc, dễ viết
như: cam, gà, Lan,...trong các đề toán.
Trang 9


- Lựa chọn câu hỏi trong đề toán sao cho học sinh chỉ cẩn chỉnh sửa một chút
xíu thôi là đọc ngay câu lời giải.
- Cài sẵn “cốt câu” lời giải vào tóm tắt để học sinh có thể dựa vào tóm tắt mà
viết câu lời giải.
- Cho phép thậm chí khuyến khích học sinh tự nghĩ ra nhiều cách đặt lời giải
khác nhau. Chẳng hạn, với bài toán: “An có 4 quả bóng. Bình có 3 quả bóng.
Hỏi cả 2 bạn có mấy quả bóng?”; Học sinh có thể đặt lời giải theo rất nhiều
cách khác nhau.
+ Cả hai bạn có :............
+ Hai bạn có : ...............
+ An và Bình có :...........
+ Tất cả có : ...................
+ Số bóng tất cả là :...............
II.2. Dạy “Giải toán có lời văn” ở lớp 1
II.2.1. Quy trình “giải toán có lời văn” thông thường qua 4 bước:
- Đọc và tìm hiểu đề bài
- Tìm đường lối giải bài toán
- Trình bày bài giải
- Kiểm tra lại bài giải

a) Đọc và tìm hiểu đề toán
Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài toán thì điều quan trọng đầu tiên
là phải giúp các em đọc và hiểu đựơc nội dung bài toán. Gíao viên cần tổ chức
cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như “ thêm, và, tất
cả,...” hoặc “ bớt, bay đi, mất đi, còn lại,...” (có thể kết hợp quan sát tranh vẽ để
hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần gạch chân các từ chính trong
đề bài. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho dễ nhìn.
Trong thời gian đầu, giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách
đàm thoại “ bài toán cho gì ? hỏi gì? và dựa vào câu trả lời của học sinh để viết
tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. Đây là cách rất
tốt đẻ giúp trẻ ngầm phân tích đề toán. Nếu học sinh gặp khó khăn trong khi đọc
Trang 10


đề toán thì giáo viên nên cho các em nhìn tranh và trả lời câu hỏi. Ví dụ : Với
bài 3 trang 118 giáo viên có thể hỏi:
- Em thấy dưới ao có mấy con vịt? ( ... có 5 con vịt)
- Trên bờ có mấy con vịt? (...có 4 con vịt)
- Em có bài toán thế nào? (...)
Sau đó giáo viên cho học sinh đọc đề toán ở sách giáo khoa trong trường hợp
không có tranh ở sách giáo khoa thì giáo viên có thể gắn mẫu vật (gà, vịt,...) lên
bảng từ (bảng cài, bảng nỉ,...) để thay cho tranh; hoặc dùng tóm tắt bằng lời hoặc
sơ đồ đoạn thẳng để hỗ trợ học sinh đọc đề toán.
• Thông thường có 3 cách tóm tắt đề toán :
- Tóm tắt bằng lời :
- Ví dụ: Nga
Hằng

: 3 quyển
: 2 quyển


A

Cả hai bạn có:..quyển?
Ví dụ 2: Hạnh có : 35 que tính
Vinh có: 43 que tính

? que tính

- Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thằng :
- Tóm tắt bằng sơ đồ mẫu vật...
Với các cách tóm tắt trên sẽ làm cho học sinh dễ hiểu và dễ sử dụng.
Với cách viết thẳng cột như : 14 quyển



26 quả

12 quyển

33 quả

... quyển

... quả

Kiểu tóm tắt như thế này khá gần gũi với cách đặt tính dọc nên có tác dụng
gợi ý cho học sinh lựa chọn phép tính giải.
Có thể lồng “ cốt câu” lời giải vào trong tóm tắt, để dựa vào đó học sinh dễ
viết câu lời giải hơn. Chẳng hạn, dựa vào dòng cuối của tóm tắt (A) học sinh có

thể viết ngay câu lời giải là : “Cả hai bạn có:” hoặc “ Số vở cả hai bạn có:”hoặc :
“ Cả hai bạn có số vở là:”. Cần lưu ý trước đây người ta thường đặt dấu ? lên
trước các từ như : quyển, quả,...Song làm như vậy thì hơi thiếu chuẩn mực về
Trang 11


mặt Tiếng Việt vì tất cả học sinh đều biết là dấu ? phải đặt cuối câu hỏi. Nếu
tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng hoặc sơ đồ mẫu vật thì đặt dấu ? ở đằng trước các
từ như quyển, quả,...cũng được vì các tóm tắt ấy không phải là những câu. Tuy
nhiên học sinh thường có thói quen cứ thấy dấu... là điền số (dấu) vào đó nên
giáo viên cần lưu ý các em là : Riêng trong trường hợp này (trong tóm tắt) thì
dấu ... thay cho từ “ mấy” hoặc “ bao nhiêu” ; các em sẽ phải tìm cho ra số đó để
ghi vào đáp số của bài giải chứ không phải để ghi vào chỗ ... trong tóm tắt. Nếu
không thể giải thích được cho học sinh hiểu được ý trên thì chúng ta cứ quay lại
lối cũ tức là đặt dấu hỏi (?) ra đằng trước theo kiểu “Còn?quả” cũng được,
không nên quá cứng nhắc.
Giai đoạn đầu nói chung bài toán nào cũng nên tóm tắt rồi cho học sinh dựa
vào tóm tắt nêu đề toán. Cần lưu ý dạy giải toán là một quá trình không nên vội
vàng yêu cầu các em phải đọc thông thạo đề toán, viết được các câu lời giải
phép tính, đáp số để có một bài chuẩn mực ngay từ tuần 23, 24. Chúng ta cần
bình tĩnh rèn cho học sinh từng bước miễn sao đến cuối năm (tuần 33,34,35) trẻ
đọc và giải được bài toán là đạt yêu cầu.
b) Tìm cách giải bài toán
* Sau khi giúp học sinh tìm hiểu đề toán để xác định cái đã cho và cái phải tìm,
chẳng hạn:
- Bài toán cho gì? ( Nhà An có 5 con gà )
- Còn cho gì nữa ? ( Mẹ mua thêm 4 con gà )
- Bài toán hỏi gì? ( Nhà An có tất cả mấy con gà ? )
Giáo viên nêu tiếp : “ Muốn biết nhà An có mấy con gà em làm phép tính gì?
( tính cộng ) Mấy cộng mấy? ( 5+4 ) ; 5+4 = mấy? ( 5+4 = 9) ; hoặc : “ Muốn

biết nhà An có tất cả mấy con gà em tính thế nào? ( 5 + 4 = 9 ) ; hoặc : “Nhà An
có tất cả mấy con gà ?” (9) Em tính thế nào để được 9? ( 5 + 4 = 9).
Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp “ 9 này là 9 con gà”, nên ta viết “
con gà “ vào trong dấu ngoặc đơn: 5 + 4 = 9 ( con gà ).
Tuy nhiên cũng có những học sinh nhìn tranh ở sách giáo khoa để đếm ra kết
quả mà không phải là do tính toán. Trong trường hợp này giáo viên vẫn xác
Trang 12


nhận kết quả là đúng, xong cần hỏi thêm : “ Em thích thế nào?” ( 5 + 4 = 9 ).
Sau đó nhấn mạnh : “ Khi giải toán em phải nêu được phép tính để tìm ra đáp số
( ở đây là 9). Nếu chỉ nêu đáp số thì chả phải là giải toán.
* Sau khi học sinh đã xác định được phép tình nhiều khi việc hướng dẫn học
sinh đặt câu lời giải còn khó hơn ( thậm chí khó hơn nhiều) việc chọn phép tính
và tính ra đáp số. Với học sinh lớp 1, lần đầu tiên được làm quen với cách giải
loại toán này nên các em rất lúng túng. Thế nào là câu lời giải, vì sao phải viết
câu lời giải? Không thể giải thích cho học sinh lớp 1 hiểu một cách thấu đáo nên
có thể giúp học sinh bước đầu hiểu và nắm được cách làm. Có thể dùng 1 trong
các cách sau:
Cách 1 : Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu ( Hỏi ) và cuối
( mấy con gà ?) đề có câu lời giải : “ Nhà An có tất cả :” hoặc thêm từ “là” để có
câu lời giải :” Nhà An có tất cả là:”
Cách 2 : Đa từ “con gà” ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ “Hỏi” và
thêm từ Số ( ở đầu câu ), là ở cuối câu để có : “Số con gà nhà An có tất cả là :”
Cách 3 : Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt coi đó là “ từ khoá” của câu
lời giải rồi thêm thắt chút ít.
Ví dụ: Từ dòng cuối cùng của dòng tóm tắt : “ Có tất cả:...con gà?”. Học sinh
viết câu lời giải : “ Nhà An có tất cả :”
Cách 4 : Gíao viên nêu miệng câu hỏi: “ Hỏi nhà An có tất cả mấy con
gà?” để học sinh trả lời miệng : “Nhà An có tất cả 9 con gà “ rồi chèn phép tính

vào để có cả bước giải ( gồm câu lời giải và phép tính):
Nhà An có tất cả:
5 + 4 = 9 (con gà)
Cách 5 : Sau khi học sinh tính xong : 5 + 4 = 9 ( con gà ) giáo viên chỉ
vào 9 và hỏi : “9 con gà ở đây là số gà của nhà ai?” (là số gà nhà An có tất cả) từ
câu trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải: “ Số gà nhà
An có tất cả là “ v.v...

Trang 13


Ở đây giáo viên cần tạo điều kiện cho các em tự nêu nhiều câu lời giải khác
nhau sau đó bàn bạc để chọn câu thích hợp nhất không nên bắt buộc học sinh
nhất nhất phải viết theo 1 kiểu.
c) Trình bày bài giải
Có thể coi việc trình bày bài giải là trình bày một sản phẩm của tư duy
thực tế hiện nay các em học sinh lớp 1 trình bày bài giải còn rất hạn chế kể cả
học sinh khá giỏi. Cần rèn cho học sinh nề nếp và thói quen trình bày bài giải
một các chính xác, khoa học, sạch đẹp, dù tron giấy nháp, bảng lớp, bảng con
hay vở, giấy kiểm tra. Cần trình bày bài giải một bài toán có lời văn như sau:
Bài giải
Nhà An có tất cả là :
5 + 4 = 9 ( con gà )
Đáp số : 9 con gà
Nếu lời giải ghi: “ Số gà nhà An là: “thì phép tính có thể ghi: “ 5 + 4 = 9 (con)”.
(Lời giải đã có sẵn danh từ “gà”). Tuy nhiên nếu học sinh viết quá chậm mà gặp
phải các từ khó như “ thuyền, quyển,...” thì có thể lược bớt danh từ cho nhanh
Giáo viên cần hiểu rõ lí do tại sao từ “con gà” lại được đặt trong dấu ngoặc
đơn ? Đúng ra thì 5 + 4 = 9 thôi ( 5 + 4 = 9) chứ 5 + 4 không thể bằng 9 con gà
được. Do đó, nếu viết : “ 5 + 4 = 9 con gà” là sai. Nói cách khác , nếu vẫn

muốn được kết quả là 9 con gà thì ta phải viết như sau mới đúng: "5 con gà
+ 4 con gà = 9 con gà". Song cách viết phép tính với các danh số đầy đủ như
vậy khá phiền phức và dài dòng, gây khó khăn và tốn nhiều thời gian đối với
học sinh lớp 1. Ngoài ra học sinh cũng hay viết thiếu và sai như sau:
5 con gà + 4 = 9 con gà
5 + 4 con gà = 9 con gà
5 con gà + 4 con gà = 9
Về mặt toán học thì ta phải dừng lại ở 9, nghĩa là chỉ được viết 5 + 4 = 9
thôi. Song vì các đơn vị cũng đóng vai trò rất quan trọng trong các phép tính
giải nên vẫn phải tìm cách để đưa chúng vào phép tính. Do đó, ta mới ghi
thêm đơn vị "con gà" ở trong dấu ngoặc đơn để chú thích cho số 9 đó. Có
Trang 14


thể hiểu rằng chữ "con gà” viết trong dấu ngoặc ở đây chỉ có một sự ràng
buộc về mặt ngữ nghĩa với số 9, chứ không có sự ràng buộc chặt chẽ về
toán học với số 9. Do đó, nên hiểu: 5 + 4 = 9 (con gà) là cách viết của một
câu văn hoàn chỉnh như sau: "5 + 4 = 9, ở đây 9 là 9 con gà". Như vậy cách
viết 5 + 4 = 9 (con gà) là một cách viết phù hợp. Trong đáp số của bài giải
toán thì không có phép tính nên ta cứ việc ghi: " Đáp số : 9 con gà" mà
không cần ngoặc đơn.
d) Kiểm tra lại bài giải:
Học sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp 1 thường có thói quen khi làm
bài xong không hay xem, kiểm tra lại bài đã làm. Giáo viên cần giúp học
sinh xây dựng thói quen học tập này. Cần kiểm tra về lời giải, về phép tính,
về đáp số hoặc tìm cách giải hoặc câu trả lời khác.
II.2.2 Biện pháp khắc sâu loại “Bài toán có lời văn"
Ngoài việc dạy cho học sinh hiểu và giải tốt "Bài toán có lời văn" giáo
viên cần giúp các em hiểu chắc, hiểu sâu loại toán này. ở mỗi bài, mỗi tiết
về "Giải toán có lời văn" giáo viên cần phát huy tư duy, trí tuệ, phát huy tính

tích cực chủ động của học sinh bằng việc hướng cho học sinh tự tóm tắt đề
toán, tự đặt đề toán theo dữ kiện đã cho, tự đặt đề toán theo tóm tắt cho
trước, giải toán từ tóm tắt, nhìn tranh vẽ, sơ đồ viết tiếp nội dung đề toán
vào chỗ chấm (...), đặt câu hỏi cho bài toán.
Ví dụ 1: Nhìn tranh vẽ, viết tiếp vào chỗ chấm để có bài toán, rồi giải bài
toán đó:
Bài toán: Dưới ao có ... con vịt, có thêm ... con vịt nữa chạy xuống.
Hỏi ..........................................................................?
Ví dụ 2: Giải bài toán theo tóm tắt sau:


:

7 hình tròn

Tô màu

:

3 hình tròn

Không tô màu : .......... hình tròn?
II.2.3 Một số phuơng pháp thường sử dụng trong dạy: "Giải bài toán
có lời văn" ở lớp 1.
Trang 15


a) Phương pháp trực quan
Khi dạy “Giải bài toán có lời văn” cho học sinh lớp 1 thường sử dụng
phương pháp trực quan giúp học sinh tìm hiểu đề bài, tóm tắt đề toán thông

qua việc sử dụng tranh ảnh, vật mẫu, sơ đồ … giúp học sinh dễ hiểu đề bài
hơn từ đó tìm ra cách giải thuận lợi. Đặc biệt trong sách giáo khoa Toán 1 có
hai loại tranh vẽ giúp học sinh “Giải toán có lời văn” đó là: Một loại gợi ra
phép cộng, một loại gợi ra phép trừ. Như vậy chỉ cần nhìn vào tranh vẽ học
sinh đã định ra được cách giải bài toán. Trong những trường hợp này bắt
buộc giáo viên phải sử dụng tranh vẽ và phương pháp trực quan.
b) Phương pháp hỏi đáp (đàm thoại)
Sử dụng khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phân tích đề bài, tìm đường lối
giải, chữa bài làm của học sinh ...
c) Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề.
Với mục đích giúp các em khắc sâu những kiến thức về “Giải toán có lời
văn” trong quá trình giảng dạy giáo viên nên áp dụng phương pháp dạy học
này. Mỗi dạng toán “thêm, bớt” giáo viên có thể biến tấu để có những bài
toán có vấn đề. Chẳng hạn bài toán “bớt” trở thành bài toán tìm số hạng, bài
toán “thêm” trở thành bài toán tìm số trừ.
Giáo viên có thể tạo tình huống có vấn đề bằng cách cho sẵn lời giải, học
sinh tự đặt phép tính hoặc cho sẵn phép tính học sinh đặt câu lời giải. Cho
hình vẽ học sinh đặt lời bài toán và giải.
Với những tình huống khó có thể phối hợp với các phương pháp khác để
giúp học sinh thuận lợi cho việc làm bài như : Phương pháp thảo luận nhóm,
phương pháp kiến tạo ...

Trang 16


Chương III
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
I/- MỤC ĐÍCH THỰC NGHIỆM

- Khẳng định hướng đi đúng và cấp thiết của đề tài.

- Kiểm chứng phương pháp đề ra.
- Đánh giá tính khả thi của phương pháp đề ra.
II/- NHIỆM VỤ THỰC NGHIỆM.

- Soạn các bài thực nghiệm và áp dụng trực tiếp để hướng dẫn học sinh
- Kiểm tra, đánh giá, phân tích và xử lí kết quả thực nghiệm để xác định
chất lượng học sinh về mặt kiến thức, kỹ năng, kĩ xảo và sự phát triển của tư duy
ở mức độ hiểu, nắm vững và vận dụng kiến thức. Từ đó khẳng định tính đúng
đắn và khả thi của phương pháp hướng dẫn học sinh làm bài tập giải toán có lời
văn
- Tạo hứng thú và niềm vui cho học sinh học môn toánvà giúp học sinh có
phương pháp học tập hiệu quả.
III/- QUÁ TRÌNH THỰC NGHIỆM

1) Địa bàn thực nghiệm:
Quá trình thực nghiệm được tiến hành ở chương trình lớp 1 trường Tiểu
học Đồng Tâm - Bình Liêu - Quảng Ninh năm học 2009 - 2010
2) Đối tượng thực nghiệm:
Tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm với đối tượng là học sinh lớp 1 cơ sở
Nà Khau trường Tiểu học Đồng Tâm - Bình Liêu.
3) Nội dung thực nghiệm: Các nội dung đã nêu ở chương II
IV) Kết quả thực nghiệm:


HS biết tóm Hs viết

Hs viết

số


tắt đề bài

đúng câu lời đúng phép

phù hợp

giải

tính
Trang 17

Hs viết

Hs viết

đúng đáp số đúng cả 3
bước trên


8

SL
8

%
100

SL
6


%
75

SL
8

%
100

SL
8

%
100

SL
6

%
75

KẾT LUẬN CHUNG
VÀ KIẾN NGHỊ
Qua việc nghiên cứu và áp dụng phương pháp dạy toán có lời văn cho học
sinh lớp 1, bản thân tôi nhận thấy: Muốn dạy tốt dạng bài toán này thì mỗi giáo
viên phải nắm vững nội dung chương trình, cấu trúc sách giáo khoa về giải toán
có lời văn ở lớp 1 từ đó giáo viên mới xác định được trong mỗi tiết học cần phải
dạy cái gì, dạy như thế nào để học sinh vừa nắm vững được kiến thức vừa cảm
thấy hứng thú khi học. Đặc biệt đối tượng học sinh lớp 1 là đối tượng có thời
gian chú ý ngắn, hiếu động nên khi giảng dạy giáo viên cần nhẹ nhàng, tỉ mỉ để

giúp các em có được phương pháp học tập sáng tạo, rèn cho các em tính cẩn
thận và tăng thêm sự chú ý vào bài học.
Qua kết quả thực nghiệm, ta có thể nhận thấy tỉ lệ học sinh biết đặt phép
tính và tính đúng, biết ghi đáp số đúng đạt kết quả tương đối cao và đồng đều, số
học sinh còn sai sót có giảm so với kết quả khảo sát của 2 năm học trước, đồng
thời học sinh rất thích học dạng toán này, đây là kết quả đáng mừng. Tuy nhiên
với số lượng học sinh thực nghiệm ít, thời gian nghiên cứu ngắn nên đề tài
không tránh khỏi những sai sót rất mong được sự đóng góp của đồng nghiệp để
phương pháp dạy học của bản thân ngày càng tiến bộ.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Trang 18


Nhận xét của BGH nhà trường: ……………………………………………….
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
Nhận xét của Ban giám khảo…………………………………………………..
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
Người thực hiện:


Ngô Thị Thuỷ

Trang 19



×