Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Skkn bài tập lịch sử dành ôn luyện thi học sinh giỏi, lớp 12 – lịch sử việt nam, giai đoạn từ năm 1945 đến 2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.63 KB, 25 trang )

Người thực hiện: Mai Thị Tám

A. PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông góp phần không nhỏ vào việc giáo
dục thế hệ trẻ theo mục tiêu chung, đáp ứng nhu cầu nhận thức xã hội và hành
động hợp quy luật của học sinh. Là thành viên của xã hội, học sinh cần quan tâm
đến vận mệnh xã hội, đến những diễn biến tác động đến quá trình sống, học tập,
lao động của mình. Những hiểu biết về quá khứ sẽ giúp học sinh hiểu hiện tại
sâu sắc hơn, hành động đúng đắn và sẽ đóng góp sức mình trong công cuộc xây
dựng đất nước; Bởi vì, lịch sử là sự kế tục và phát triển những tinh hoa của các
thế hệ, thế hệ sau kế thừa những di sản vật chất, những giá trị tinh thần của thế
hệ trước.
Trong giai đoạn hiện nay, càng mở rộng giao lưu, hội nhập quốc tế càng
cao, càng cần thiết phải giữ vững bản sắc dân tộc, giáo dục học sinh lòng yêu
nước, tình yêu quê hương, lòng tự hào dân tộc, từ đó các em sống có trách
nhiệm hơn đối với bản thân, gia đình, cộng đồng, xóm làng, đất nước. Đó là một
phần trách nhiệm thuộc về Thầy, Cô giáo dạy bộ môn Lịch sử.
Mặc dù chịu tác động của nền kinh tế thị trường và của xu hướng phát
triển nghề nghiệp, nhưng trong thời gian qua số lượng học sinh tham gia thi Đại
học, Cao đẳng khối C và tham gia các kì thi học sinh giỏi vẫn còn nhiều, một số
bài thi có chất lượng khá – tốt. Điều đó phản ánh sự quan tâm, định hướng đúng
của phụ huynh học sinh, của ngành giáo dục và của nhà trường cũng như sự
ham muốn học tập của học sinh. Tuy nhiên, để có kết quả như mong muốn trong
các kì thi đòi hỏi học sinh không những nỗ lực học tập, tự nghiên cứu và rèn
luyện, mà còn phải có sự giúp đỡ của Thầy, Cô giáo trong việc ôn luyện kiến
thức từ cơ bản đến nâng cao thông qua các bài giảng và bài tập nhận thức.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên và những kinh nghiệm qua thực tiễn
giảng dạy nhiều năm, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc luyện tập của

Trang 1



Người thực hiện: Mai Thị Tám

học sinh trong các kì thi học sinh giỏi, tôi đã biên soạn một số câu hỏi, bài tập
lịch sử lớp 12 – lịch sử việt Nam, giai đoạn từ năm 1945 đến năm 2000.
B. PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG
1. CƠ SỞ THỰC HIỆN
1.1. Cơ sở khoa học
Luật giáo dục sửa đổi, bổ sung năm 2010 quy định: “ Mục tiêu giáo dục là
đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe,
thẩm mĩ về nghề nghiệp, trung thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc”.
Như vậy, mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam để xây dựng
và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN), hòa nhập vào khu vực và thế giới
giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, định hướng XHCN, bảo vệ và
phát huy bản sắc dân tộc trong văn hóa và các lĩnh vực khác.
Mục tiêu của giáo dục THPT là “Nhằm giúp học sinh củng cố và phát
triển những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và có
những hiểu biết thông thường về kĩ năng và hướng nghiệp, có điều kiện phát
huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao
đẳng, trung cấp, học nghề đi vào cuộc sống lao động”.
Mục tiêu môn lịch sử ở bậc phổ thông là nhằm giúp cho học sinh có được
những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc, lịch sử thế giới, lịch sử địa
phương. Qua đó rèn luyện, bồi dưỡng kiến thức từ cơ bản đến nâng cao, từ dễ
đến khó. Góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng
yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, truyền thống Cách mạng; bồi
dưỡng các năng lực tư duy, hành động, thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống
xã hội. Thực hiện đúng quan điểm của UNESCO về bốn trụ cột của giáo dục:
Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống và học để làm người.


Trang 2


Người thực hiện: Mai Thị Tám

1.2. Cơ sở thực tiễn
Ý nghĩa và vai trò của môn Lịch sử đối với việc giáo dục thế hệ trẻ là điều
đã được xác nhận về lý luận và thực tiễn ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế
giới từ trước đến nay. Đáng tiếc là trong thời gian gần đây, chất lượng giảm sút
nhiều về mặt biết, hiểu, tự hào với quá khứ dân tộc và noi gương lịch sử trong
cuộc sống hiện tại. Nguyên nhân chủ quan và khách quan có nhiều. Song một
trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên thực trạng dạy Sử, học Sử ngày nay
là trách nhiệm của giáo viên và học sinh chưa nhận thức đầy đủ, toàn diện vai
trò, ý nghĩa của môn học, nhất là chưa đổi mới phương pháp dạy học. Hiện
tượng “Thầy đọc, trò chép”, học thuộc mà không nhớ, không hiểu, không làm
được bài thể hiện khá rõ nét trong việc kiểm tra, đánh giá, cũng như trong các kì
thi: thi tốt nghiệp THPT, thi học sinh giỏi cấp tỉnh, thành phố, thi ôlimpic, khu
vực và quốc gia. Tuy vậy, chúng ta không hoang mang, quá lo lắng. Bởi vì, bên
cạnh những thiếu sót, những hạn chế nêu trên vẫn có nhiều học sinh học giỏi Sử,
yêu thích bộ môn lịch sử. Nhiều bài thi, nhất là kỳ thi học sinh giỏi quốc gia
môn Lịch sử rất xuất sắc. Vấn đề là phải nâng cao nhận thức về môn Lịch sử và
đổi mới phương pháp bồi dưỡng, ôn tập bộ môn như thế nào cho có hiệu quả.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn và yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục
bộ môn, tôi lựa chọn đề tài “Bài tập lịch sử dành ôn luyện thi học sinh giỏi, lớp
12 – Lịch sử Việt Nam, giai đoạn từ năm 1945 đến 2000”.
2. NỘI DUNG:
2.1. Phần câu hỏi, bài tập:
Câu 1. Tại sao nói ngay khi mới thành lập, nước ta đã rơi vào tình thế “Ngàn
cân treo sợi tóc”. Đảng và chính phủ ta đã thực hiện chủ trương, sách lược như

thế nào trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm qua hai thời kì: trước ngày
6/3/1946 và từ 6/3/1946, tác dụng của nó?
Câu 2. Bằng những sự kiện lịch sử cụ thể, hãy làm sáng tỏ vai trò của chủ tịch
Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ chính quyền, giữ vững độc lập
Trang 3


Người thực hiện: Mai Thị Tám

dân tộc những năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 (từ ngày
2/9/1945 đến 19/12/1946).
Câu 3. Đường lối kháng chiến chống thực dân pháp của Đảng cộng sản Đông
Dương được thể hiện trong những văn kiện nào? Phân tích tính chất chính nghĩa
và tính nhân dân của đường lối kháng chiến chống pháp.
Câu 4. Vì sao Đảng ta quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954?
Bằng những sự kiện lịch sử hãy chứng tỏ Điện Biên Phủ thắng lợi là đỉnh cao
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Câu 5. Những thắng lợi quân sự nào của quân và dân ta đã tác động trực tiếp
đến việc triệu tập Hội nghị và kí kết Hiệp định Pa ri năm 1973 về Việt Nam?
Thắng lợi lớn nhất trong Hiệp định Pa ri là gì? Ý nghĩa lịch sử của Hiệp định Pa
ri.
Câu 6. Nêu những điểm giống và khác nhau giữa Hiệp định Giơnevơ năm 1954
về Đông Dương và Hiệp định Pa ri năm 1973 về Việt Nam: Hoàn cảnh kí kết,
nội dung cơ bản và tương quan lực lượng ở miền Nam Việt Nam sau khi Hiệp
định có hiệu lực.
Câu 7. Quân và dân miền Bắc đã đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại miền
Bắc của đế quốc Mĩ như thế nào? Nêu ý nghĩa của chiến thắng đó đối với tiến
trình phát triển của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước (1954 – 1975).
Câu 8. Sau Hiệp định Pari năm 1973, quân dân miền Nam đã giành những thắng
lợi như thế nào? Tác dụng của nó đối với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân

năm 1975.
Câu 9. Hãy nêu nội dung các giai đoạn phát triển của cách mạng miền Nam từ
năm 1954 đến năm 1975. Những thắng lợi quân sự nổi bật nào có ý nghĩa chiến
lược làm thất bại âm mưu của đế quốc Mĩ trong các chiến lược chiến tranh mà
đế quốc Mĩ đã thực hiện ở Việt Nam?
Câu 10. Vì sao Đảng ta thực hiện đường lối đổi mới đất nước? Nêu nội dung
đường lối đổi mới về kinh tế và chính trị của Đảng.

Trang 4


Người thực hiện: Mai Thị Tám

2.2. Gợi ý nội dung trả lời:
Câu 1. Tại sao nói ngay khi mới thành lập, nước ta đã rơi vào tình thế “Ngàn
cân treo sợi tóc”. Đảng và chính phủ ta đã thực hiện chủ trương, sách lược như
thế nào trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm qua hai thời kì: trước ngày
6/3/1946 và từ 6/3/1946, tác dụng của nó?
* Sau khi mới thành lập, nước ta đã rơi vào tình thế “Ngàn cân treo sợi
tóc”:
- Về đối ngoại: Quân đội các nước Đồng minh, dưới danh nghĩa giải giáp
quân Nhật, đã lũ lượt kéo vào nước ta.
+ Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc có 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc. Chúng
kéo theo bọn tay chân từ các tổ chức phản động như Việt Nam Quốc dân đảng
(Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách).
+ Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam quân đội Anh dọn đường cho quân Pháp
quay trở lại xâm lược nước ta. Lợi dụng tình hình đó bọn phản động ngóc đầu
dậy làm tay sai cho Pháp, chống phá cách mạng.
+ Ngoài ra trên cả nước lúc bấy giờ còn có 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp.
- Về đối nội:

+ Chính quyền cách mạng vừa mới thành lập còn non trẻ, chưa được củng
cố; lực lượng vũ trang còn non yếu.
+ Nền kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề.
Hậu quả nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 chưa được khắc phục. Nạn lụt
lớn làm vỡ đê 9 tỉnh miền Bắc, nạn hạn hán kéo dài làm cho nửa tổng số ruộng
đất không trồng cấy được. Nhiều xí nghiệp còn nằm trong tay tư bản Pháp. Các
cơ sở công nghiệp chưa phục hồi sản xuất. Hàng hóa khan hiếm, giá cả đắt đỏ,
đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
+ Về tài chính: Ngân sách Nhà nước đều như trống rỗng. Chính quyền
cách mạng lại chưa nắm được Ngân hàng Đông Dương. Trong lúc đó, quân

Trang 5


Người thực hiện: Mai Thị Tám

Trung Hoa Dân quốc tung ra thị trường các loại tiền của Trung Quốc đã mất giá,
làm cho nền tài chính nước ta thêm rối loạn.
+ Về văn hóa: di sản văn hóa lạc hậu do chế độ thực dân phong kiến để lại
hết sức nặng nề, hơn 90% dân số không biết chữ.
Khó khăn lớn nhất đưa nước ta đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”
là khó khăn về đối ngoại. Nghĩa là cùng một lúc ta phải đối phó với nhiều kẻ thù
quân Trung Hoa Dân quốc ở miền Bắc và quân Pháp ở miền Nam.
* Đảng và chính phủ ta đã thực hiện chủ trương, sách lược như thế nào
trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm qua hai thời kì: trước ngày 6/3/1946 và từ
6/3/1946, tác dụng của nó?
- Trước ngày 6/3/1946: Chủ trương hòa với Trung Hoa Dân quốc và
chống Pháp ở Nam bộ.
Để tiến hành hòa hoãn với Trung Hoa Dân quốc, Đảng và Chính phủ
thực hiện sách lược mềm dẻo và đảm bảo nguyên tắc cứng rắn, đó là:

+ Nhượng cho các đảng Việt quốc, Việt cách 70 ghế trong Quốc hội
không bầu cử, 4 ghế Bộ trưởng trong Chính phủ liên hiệp thống nhất.
+ Nhân nhượng cho Trung Hoa Dân quốc một số quyền lợi về kinh tế,
như cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương tiện giao thông vận tải,
cho phép dùng tiền Trung Quốc trên thị trường.
Đối với tổ chức phản cách mạng, tay sai của Trung Hoa Dân quốc (Việt
quốc, Việt Cách):
+ Chính quyền cách mạng dựa vào quần chúng, kiên quyết vạch trần âm
mưu và hành động chia rẽ, phá hoại của chúng.
+ Những kẻ phá hoại có đủ bằng chứng thì bị trừng trị theo pháp luật.
+ Chính phủ còn ban hành một số sắc lệnh nhằm trấn áp bọn phản cách
mạng.
Những biện pháp sách lược nhân nhượng trên đây đã hạn chế các hoạt
động chống phá của Trung Hoa Dân quốc và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ
chính quyền cách mạng của chúng.
Trang 6


Người thực hiện: Mai Thị Tám

Ngày 2/9/1945, trong khi nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn tổ chức mít tinh
chào mừng “Ngày độc lập”, thực dân Pháp xả súng vào đám đông làm 47 người
chết và nhiều người bị thương.
Đêm 22 rạng sáng 23/9/1945, được sự giúp đỡ của quân Anh, Pháp đánh
úp trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, mở đầu
cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.
Quân dân Sài Gòn – Chợ Lớn cùng với nhân dân Nam Bộ đã nhất tề
đứng lên chiến đấu chống xâm lược. Các chiến sĩ lực lượng vũ trang của ta đột
nhập sân bay Tân Sơn Nhất, đốt cháy tàu Pháp vừa cập bến Sài Gòn, đánh phá
kho tàng, phá nhà giam.

- Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh huy động lực
lượng cả nước chi viện cho Nam Bộ và Nam Trung Bộ kháng chiến. Hàng vạn
thanh niên hăng hái gia nhập quân đội, sung vào các “đoàn quân Nam tiến” sát
cánh cùng với nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ kháng chiến. Nhân dân Bắc
Bộ và Bắc Trung Bộ còn thường xuyên tổ chức quyên góp tiền, gạo, áo quần,
thuốc men v.v. ủng hộ nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ kháng chiến.
* Từ 6/3/1946: Chủ trương hòa với Pháp để đẩy 20 vạn quân Trung Hoa
Dân quốc ra khỏi nước ta.
- Sau khi chiếm đóng các đô thị ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân
Pháp thực hiện kế hoạch tiến quân ra Bắc nhằm thôn tính cả nước ta.
- Để thực hiện ý đồ trên, thực dân Pháp điều đình với Chính phủ Trung
Hoa Dân quốc và kí Hiệp ước Hoa – Pháp (28/2/1946). Theo đó, Trung Hoa
Dân quốc được Pháp trả lại các tô giới, nhượng địa của Pháp trên đất Trung
Quốc và được vận chuyển hàng hóa qua cảng Hài Phòng vào Vân Nam không
phải đóng thuế. Đổi lại, Pháp được đưa quân ra Bắc thay quân Trung Hoa Dân
quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật.
- Hiệp ước Hoa – Pháp đã đặt nhân dân ta trước sự lựa chọn một trong hai
con đường: hoặc cầm súng chiến đấu chống thực dân Pháp, không cho chúng đổ

Trang 7


Người thực hiện: Mai Thị Tám

bộ lên miền Bắc; hoặc hòa hoãn, nhân nhượng Pháp để tránh tình trạng phải đối
phó cùng một lúc với nhiều kẻ thù.
- Ngày 3/3/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp, do Chủ tịch Hồ
Chí Minh chủ trì, đã chọn giải pháp “Hòa để tiến”.
- Chiều ngày 6/3/1946, tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kí với G.Xanhtơni – đại diện Chính phủ Pháp

bản Hiệp định Sơ bộ. Với nội dung:
+ Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một
quốc gia tự do, có chính phủ riêng, nghị viện riêng, quân đội riêng, tài chính
riêng và là thành viên của Liên bang Đông Dương, nằm trong khối Liên hiệp
Pháp.
+ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thỏa thuận cho 15000 quân
Pháp vào miền Bắc thay quân Trung Hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân
Nhật, số quân này sẽ đóng ở những địa điểm quy định và rút dần trong thời hạn
5 năm.
+ Hai bên ngừng mọi cuộc xung đột ở miền Nam và giữ nguyên quân đội
của mình tại vị trí cũ, tạo không khí thuận lợi đi đến cuộc đàm phán chính thức
bàn các vấn đề ngoại giao của Việt Nam, chế độ tương lai của Đông Dương,
quyền lợi kinh tế và văn hóa của người Pháp ở Việt Nam.
Việc kí Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946, tạm thời hòa hoãn với Pháp, ta tránh
được cuộc chiến đấu bất lợi vì phải chống lại nhiều kẻ thù cùng một lúc, đẩy
được 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc cùng bọn tay sai ra khỏi nước ta.
Ta có thêm thời gian hòa bình củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị
lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
Câu 2. Bằng những sự kiện lịch sử cụ thể, hãy làm sáng tỏ vai trò của chủ tịch
Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ chính quyền, giữ vững độc lập
dân tộc những năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 (từ ngày
2/9/1945 đến 19/12/1946).

Trang 8


Người thực hiện: Mai Thị Tám

- Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay
mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam

Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỉ nguyên mới cho dân tộc.
- Một tuần sau khi nước VNDCCH ra đời (8/9/1945) Hồ Chủ tịch công bố
lệnh Tổng tuyển cử trong cả nước. Trên cơ sở đó, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc
hội được tổ chức vào ngày 6/1/1946.
- Ngày 2/3/1946, tại phiên họp đầu tiên của Quốc hội, Hồ Chí Minh đã
đứng ra thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến; phụ trách Ủy ban dự thảo
Hiến pháp. Tháng 11/1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã được Quốc hội thông qua.
- Phát động phong trào tăng gia sản xuất, khai hoang phục hóa, đồng thời
kêu gọi nhân dân cả nước “Nhường cơm sẻ áo”, lập “Hũ gạo cứu đói”, “Ngày
đồng tâm”... để chống “Giặc đói”. Phát động phong trào “Tuần lễ vàng”, xây
dựng “Quỹ độc lập”.
- Kí sắc lệnh thành lập cơ quan Bình dân học vụ (8/9/1945) và kêu gọi
toàn dân tham gia phong trào xóa nạn mù chữ để chống “Giặc dốt”.
- Đầu năm 1946, Hồ Chủ tịch kí sắc lệnh phát hành tiền Việt Nam. Khó
khăn về tài chính được giải quyết.
- Tháng 9/1945, kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ bùng nổ, cùng với
Trung ương Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào ủng
hộ Nam Bộ kháng chiến.
- Ngày 6/3/1946, Hồ Chủ tịch kí bản Hiệp định Sơ bộ, tạm hòa hoãn với
Pháp để đẩy 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc cùng tay sai ra khỏi nước ta,
giành thêm thời gian hòa bình củng cố chính quyền. Tháng 5/1946, Hồ Chủ tịch
ra sắc lệnh đổi tên Vệ quốc quân thành Quân đội quốc gia Việt Nam.
- Ngày 14/9/1946, Hồ Chủ tịch đã kí bản Tạm ước nhân nhượng Pháp một
số quyền lợi về kinh tế - văn hóa và tạo điều kiện cho ta có thêm thời gian chuẩn
bị bước vào kháng chiến.

Trang 9



Người thực hiện: Mai Thị Tám

Như vậy, trong năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Hồ
Chủ tịch cùng Trung ương Đảng và Chính phủ lãnh đạo nhân dân ta giải quyết
nhiều khó khăn về đối nội, đối ngoại và tích cực chuẩn bị lực lượng về mọi mặt
chuẩn bị kháng chiến lâu dài với Pháp.
Sau Hiệp định Sơ bộ, Pháp đã có những hành động phá hoại Hiệp định và
khiêu khích ta. Láo xược hơn nữa ngày 18/12/1946, Pháp gửi tối hậu thư đòi
Chính phủ ta phải giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu....Trước tình hình đó, không
thể nhân nhượng được nữa, ngày 19/12/1946, Hồ Chủ tịch đã ra lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến và phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp.
Câu 3. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng cộng sản Đông
Dương được thể hiện trong những văn kiện nào? Phân tích tính chất chính nghĩa
và tính nhân dân của đường lối kháng chiến chống Pháp.
* Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng cộng sản Đông
Dương được thể hiện trong những văn kiện: Nghị quyết Hội nghị Ban Thường
vụ Trung ương Đảng ngày 18 và 19/12/1946; Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đêm 19/12/1946; Thư của Hồ Chí Minh ngày
21/12/1946 và tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của Trường Chinh
tháng 3/1947.
* Phân tích tính chất chính nghĩa và tính nhân dân của đường lối kháng
chiến chống Pháp:
- Tính chất chính nghĩa:
+ Trước âm mưu và hành động xâm lược của Pháp đối với nước ta, Đảng,
Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương hòa hoãn với Pháp bằng cách kí
Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946 nhân nhượng cho Pháp
một số quyền lợi. Song thực dân Pháp tiếp tục lấn tới ngang nhiên xé bỏ Hiệp
định và có những hành động khiêu khích ta. Trước tình thế đó, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Đảng và Chính phủ ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.


Trang 10


Người thực hiện: Mai Thị Tám

+ Cuộc kháng chiến toàn quốc của nhân dân ta là cuộc kháng chiến bảo vệ
nền độc lập của dân tộc đã giành được trong cách mạng tháng Tám năm 1945.
Đây là cuộc kháng chiến hoàn toàn chính nghĩa, vì thế trong suốt 9 năm tiến
hành cuộc kháng chiến nhân dân ta luôn nhận được sự đồng tình ủng hộ của
nhân dân tiến bộ trên thế giới, đặc biệt là nhân dân Pháp.
+ Cũng xuất phát từ cuộc kháng chiến chính nghĩa nên ta chủ trương
kháng chiến lâu dài để chống lại âm mưu “Đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp
và cuối cùng giành được thắng lợi.
- Tính nhân dân:
+ Trong đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta
chủ trương kháng chiến toàn dân. Nhờ có đường lối này ta đã tập hợp được đông
đảo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến và phục vụ kháng chiến. Trong Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: Bất kì đàn
ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không phân chia tôn giáo, đảng phái. Hễ
là người Việt Nam phải cầm vũ khí chống thực dân Pháp......Đáp lại lời kêu gọi,
toàn thể nhân dân đứng lên kháng chiến.
+ Trong quá trình kháng chiến, ta đánh địch ở khắp các mặt trận và sử
dụng vũ khí có sẵn trong tay, như Hồ Chủ Tịch đã kêu gọi: “Ai có súng dùng
súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc...”
+ Nhờ tính nhân dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp mà ta đánh
bại được âm mưu “Dùng người việt đánh người việt, lấy chiến tranh nuôi chiến
tranh” của Pháp.
Câu 4. Vì sao Đảng ta quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954?
Bằng những sự kiện lịch sử hãy chứng tỏ Điện Biên Phủ thắng lợi là đỉnh cao

của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
* Đảng ta mở chiến dich Điện Biên Phủ năm 1954 vì:
- Tháng 5/1953, để thoát khỏi thế sa lầy thất bại, thực dân Pháp câu kết
với Mĩ thực hiện Kế hoạch Na-va âm mưu giành thắng lợi quân sự để “kết thúc
chiến tranh trong danh dự”.
Trang 11


Người thực hiện: Mai Thị Tám

- Dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ 10/12/1953 đến đầu năm 1954, quân dân
ta đã chủ động mở nhiều cuộc tấn công chiến lược giành thắng lợi to lớn ở Tây
Bắc, Trung Lào, Thượng Lào… làm cho Kế hoạch Na-va đứng trước nguy cơ bị
phá sản.
- Trước tình hình đó, để bảo vệ Lai Châu và Thượng Lào, thực dân Pháp
tăng cường xây dựng Điện Biên Phủ trở thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất
Đông Dương, một “Pháo đài không thể công phá”, “một Vecđoong” của thế kỉ
XX, “một con nhím khổng lồ” ở rừng núi Tây Bắc và coi Điện Biên Phủ là trung
tâm điểm của Kế hoạch Na-va. Vì vậy, muốn kết thúc chiến tranh trong thế
chiến thắng ta phải tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
- Tháng 12/1953, Trung ương Đảng đã họp và nhận định: Điện Biên Phủ
là tập đoàn cứ điểm mạnh, nhưng thế yếu của Điện Biên Phủ là dễ bị cô lập, chỉ
tiếp tế được bằng đường hàng không.
- Quân đội ta đã trưởng thành và có kinh nghiệm có thể đánh địch ở tập
đoàn cứ điểm.
- Hậu phương của ta đã vững mạnh, tinh thần đoàn kết chiến đấu của nhân
dân đang lên cao, có thể khắc phục những khó khăn chi viện cho chiến trường.
Trên cơ sở phân tích tình hình, Trung ương Đảng đã quyết định mở chiến
dịch Điện Biên Phủ, biến Điện Biên Phủ thành điểm “Điểm quyết chiến chiến
lược giữa ta và địch”.

* Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi là đỉnh cao của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954):
- Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến dịch quân sự có sự chuẩn bị lực
lượng quy mô lớn nhất: Để phục vụ cho chiến dịch thắng lợi, Đảng ta đã huy
động 4 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn pháo binh và nhiều tiểu đoàn công binh,
thông tin, vận tải, quân y…, với tổng số khoảng 55000 quân; hàng chục nghìn
tấn vũ khí đạn được, 27000 tấn gạo với 624 ô tô vận tải; huy động hàng vạn dân
công lên Tây Bắc xẻ núi, mở đường vận chuyển hàng chục vạn tấn vũ khí, lương
thực ra chiến trường.
Trang 12


Người thực hiện: Mai Thị Tám

- Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra với tính chất ác liệt nhất qua ba đợt:
+ Đợt 1 (13/3 đến 17/3/1954): Quân ta tấn công và làm chủ phân khu phía
Bắc, Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo…
+ Đợt 2 (30/3 đến 26/4/1954): Quân ta tấn công các cao điểm phía Đông
phân khu Trung tâm… kết hợp đánh lấn, bao vây chia cắt Trung tâm Mường
Thanh… buộc Mĩ lập cầu hàng không thả dù tiếp tế…, đe dọa ném bom nguyên
tử…
+ Đợt 3 (1/5 đến 7/5/1954): Quân ta đồng loạt tấn công phân khu Trung
tâm và phân khu Nam… Chiều ngày 7/5/1954 giành thắng lợi hoàn toàn…
- Đây là chiến thắng quân sự đạt kết quả lớn nhất trong 9 năm kháng
chiến: Đã diệt và bắt sống 16200 tên địch, trong đó có 1 thiếu tướng, hơn 1000
sĩ quan, hạ sĩ quan; bắn rơi, phá hủy 62 máy bay, thu toàn bộ vũ khí và các
phương tiện kĩ thuật… Giải phóng toàn bộ Tây Bắc.
- Đây là chiến thắng có ý nghĩa quyết định xoay chuyển cục diện chiến
tranh ở Đông Dương, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao của
ta giành thắng lợi và có ảnh hưởng quốc tế to lớn:

+ Đập tan Kế hoạch quân sự lớn nhất của thực dân Pháp (Kế hoạch Nava) và ý chí xâm lược của thực dân Pháp.
+ Buộc thực dân Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ chấm dứt chiến tranh,
tôn trọng quyền dân tộc cơ bản của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.
+ Góp phần làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ ở
Đông Nam Á.
+ Là tấm gương cổ vũ, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới.
Câu 5. Những thắng lợi quân sự nào của quân và dân ta đã tác động trực tiếp
đến việc triệu tập Hội nghị và kí kết Hiệp định Pa ri năm 1973 về Việt Nam?
Thắng lợi lớn nhất trong Hiệp định Pari là gì? Ý nghĩa lịch sử của Hiệp định Pa
ri.

Trang 13


Người thực hiện: Mai Thị Tám

* Những thắng lợi quân sự của quân và dân ta đã tác động trực tiếp đến
việc triệu tập Hội nghị Pari là:
- Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 ở miền
Nam: Thắng lợi đã làm lung lay ý chí xâm lược của Mĩ, buộc Mĩ phải tuyên bố
“Phi Mĩ hóa” chiến tranh xâm lược (tức thừa nhận thất bại của “Chiến tranh cục
bộ”) và chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, chịu đến bàn
đàm phán ở Pari để bàn về chấm dứt chiến tranh.
- Thắng lợi của quân dân miền Bắc trong cuộc đấu tranh chống chiến
tranh phá hoại lần thứ nhất của Mĩ. Ngày 1/11/1968, Mĩ tuyên bố ngừng hẳn
chiến tranh phá hoại miền Bắc và chịu đến bàn thương lượng với ta.
* Những thắng lợi quân sự của quân và dân ta đã tác động trực tiếp đến
việc kí kết Hiệp định Pari năm 1973 về Việt Nam là:
- Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 đã giáng đòn nặng nề vào chiến

lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, buộc Mĩ phải tuyên bố “Mĩ hóa” trở lại chiến
tranh xâm lược (tức thừa nhận sự thất bại của “Việt Nam hóa chiến tranh”).
- Thắng lợi của quân dân miền Bắc trong cuộc đấu tranh chống chiến
tranh phá hoại lần thứ hai của Mĩ, đặc biệt đã đánh bại cuộc tập kích bằng không
quân của Mĩ cuối năm 1972 làm nên “Trận Điện Biên Phủ trên không”. Đây là
trận thắng quyết định của ta đã buộc Mĩ phải tuyên bố ngừng hẳn các hoạt động
chống phá miền Bắc (15/1/1973) và kí với ta Hiệp định Pari về chấm dứt chiến
tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973).
* Thắng lợi lớn nhất trong Hiệp định Pari năm 1973 về việc chấm dứt
chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam là: Hoa kì và các nước cam kết tôn trọng
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
* Ý nghĩa của Hiệp định Pari:
Là thắng lợi của sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao,
là kết quả của sự đấu tranh kiên cường, bất khuất của quân dân ta ở hai miền đất
nước, mở ra bước ngoặc mới của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước.

Trang 14


Người thực hiện: Mai Thị Tám

Câu 6. Nêu những điểm giống và khác nhau giữa Hiệp định Giơnevơ năm 1954
về Đông Dương và Hiệp định Pa ri năm 1973 về Việt Nam: Hoàn cảnh kí kết,
nội dung cơ bản và tương quan lực lượng ở miền Nam Việt Nam sau khi Hiệp
định có hiệu lực.
* Về hoàn cảnh ký kết:
- Điểm giống nhau: Cả hai Hiệp định đều được ký kết trong cục diện
chiến tranh lạnh và trật tự hai cực Ianta; Đều là kết quả của quá trình đấu tranh
kiên cường bất khuất của dân tộc Việt Nam vì mục tiêu độc lập tự do. Sau một
thời gian vừa đánh trên chiến trường, vừa đàm phán trên bàn hội nghị. Cả hai

Hiệp định đều diễn ra trong lúc ta liên tiếp giành được những thắng lợi về quân
sự, tạo nên thế áp đảo, buộc kẻ thù phải chấp nhận đàm phán.
- Điểm khác nhau:
+ Hiệp định Giơnevơ được kí kết trong lúc thực dân Pháp bị thất bại hoàn
toàn ở chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Ta kí Hiệp định buộc thực dân Pháp
công nhận các quyền dân tộc cơ bản của ba nước Đông Dương. Trên thế giới xu
thế hòa hoãn đang tác động tiêu cực. Nội bộ phe XHCN đoàn kết, thống nhất.
+ Hiệp định Pari được ký kết trong lúc Mĩ mới chỉ bị thất bại trong chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc
lần thứ hai. Ta ký Hiệp định buộc Mĩ rút hết quân Mĩ và quân đồng minh Mĩ về
nước. Để cho nhân dân miền Nam tự quyết định tương lai chính trị của mình
thông qua cuộc Tổng tuyển cử tự do trong cả nước. Trên thế giới diễn ra xu thế
vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình. Nội bộ phe XHCN đang
có sự chia rẽ sâu sắc như Liên Xô, Trung Quốc, nhưng đều ủng hộ Việt Nam
chống Mĩ.
* Về nội dung Hiệp định:
- Điểm giống nhau:
+ Đều buộc kẻ thù phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nước ta
là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Vấn đề thống nhất nước

Trang 15


Người thực hiện: Mai Thị Tám

Việt Nam do nhân dân Việt Nam tự quyết định không có sự can thiệp của nước
ngoài.
+ Cả hai Hiệp định đều đặt vấn đề ngừng bắn để giải quyết các vấn đề
khác bằng con đường hòa bình.
+ Đều quy định Ủy ban quốc tế kiểm tra, giám sát việc thi hành Hiệp

định.
- Điểm khác nhau:
+ Hiệp định Giơnevơ: Các bên tham dự Hội nghị (9 nước) cam kết tôn
trọng các quyền dân tộc cơ bản của ba nước Đông Dương; Các bên tham chiến
thực hiện cuộc tập kết chuyển quân, chuyển giao khu vực; Quân đội nhân dân
Việt Nam và quân viễn chinh Pháp tập kết ở hai miền Nam – Bắc lấy vĩ tuyến
17 làm giới tuyến quân sự tạm thời. Sau hai năm, quân Pháp rút về nước.
+ Hiệp định Pari: Hoa Kì và các nước cam kết tôn trọng các quyền dân
tộc cơ bản của Việt Nam; Hai bên (Hoa Kì và Việt Nam) tiến hành trao trả tù
binh và dân thường bị bắt; Các bên công nhận thực tế miền Nam Việt Nam có
hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.
Không quy định tập kết chuyển quân, mà vẫn giữ nguyên vị trí. Mĩ phải rút quân
về nước trong một thời gian ngắn 29/3/1973.
* Về tương quan lực lượng ở miền Nam Việt Nam sau khi Hiệp định có
hiệu lực:
- Sau hiệp định Giơnevơ: do việc tập kết chuyển quân, so sánh lực lượng
ở miền Nam không có lợi cho ta.
- Sau Hiệp định Pari: Mĩ phải rút hết quân về nước, quân đội Sài Gòn
khủng hoảng và suy yếu, so sánh lực lượng ở miền Nam có lợi cho ta.
Câu 7. Quân và dân miền Bắc đã đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại miền
Bắc của đế quốc Mĩ như thế nào? Nêu ý nghĩa của chiến thắng đó đối với tiến
trình phát triển của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước (1954 – 1975).
* Quân dân miền Bắc đã đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc
của đế quốc Mĩ:
Trang 16


Người thực hiện: Mai Thị Tám

- Từ cuối năm 1964 đến năm 1972, đế quốc Mĩ đã tiến hành hai cuộc

chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc. Đây là một bộ phận cuộc chiến tranh
xâm lược của Mĩ khi chúng tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Việt
Nam hóa chiến tranh” ở Miền Nam Việt Nam.
- Âm mưu của Mĩ là phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng; phá công
cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc; Ngăn chặn sự chi viện từ bên ngoài vào
miền Bắc và chi viện của miền Bắc đối với miền Nam; Uy hiếp tinh thần và làm
lung lay quyết tâm chiến đấu của nhân dân ta.
- Tính chất của cuộc chiến tranh phá hoại là rất dã man vì mục tiêu bắn
phá của chúng là: Phá hoại cầu đường, các cơ sở kinh tế, quân sự, bệnh viện,
trường học, nơi đông dân cư... và có tính chất hủy diệt. Mức độ đánh phá rất
quyết liệt.
- Trước tình hình đó, miền Bắc chuyển hướng xây dựng kinh tế, vừa sản
xuất, vừa chiến đấu, vừa chi viện cho miền Nam, chống lại chiến tranh phá hoại
của Mĩ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân miền Bắc đã thực hiện cuộc chiến
tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập
tự do”, quân dân miền Bắc sôi nổi tham gia các phong trào thi đua yêu nước, với
kết quả: Trong hơn 4 năm (từ ngày 5/8/1964 đến 1/11/ 1968) bắn rơi và phá
hủy 3243 máy bay, trong đó có 6 máy bay B52, 3 máy bay F111, loại khỏi vòng
chiến đấu hàng nghìn phi công; bắn cháy và bắn chìm 143 tàu chiến. Ngày
1/11/1968, Mĩ tuyên bố ngừng chiến tranh phá hoại miền Bắc.
- Ngày 26/4/1972, máy bay Mĩ ném bom một số nơi thuộc Liên khu IV.
- Ngày 16/4/1972, Mĩ tuyên bố phong tỏa Hải Phòng, cùng các cửa sông,
luồng lạch, vùng biển miền Bắc.
- Từ ngày 18/12/1972 đến 29/12/1972, Mĩ mở cuộc tập kích không quân
bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng.
- Cuộc chiến tranh phá hoại lần này vượt xa cuộc chiến tranh phá hoại lần
thứ nhất về số lượng bom đạn, quy mô, thủ đoạn, bắn phá liên tục 24/24 giờ
trong ngày. Chúng hy vọng nhanh chóng hủy diệt tiềm lực kinh tế, quốc phòng
Trang 17



Người thực hiện: Mai Thị Tám

của ta, gây sức ép làm giảm sức tiến công ta trên chiến trường miền Nam, tạo
thế mạnh trên bàn đàm phán.
- Nhờ sự chuẩn bị từ trước, miền Bắc đã chủ dộng chống trả địch ngay từ
đầu và đã đánh bại hoàn toàn cuộc tập kích bằng không quân của đế quốc Mĩ,
làm nên trận “Điện biên phủ trên không”. Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần
thứ hai của Mĩ (từ 6/4/1972 đến 15/1/1973), miền Bắc bắn rơi 735 máy bay Mĩ
(trong đó có 67 máy bay B52, 10 máy bay F111), bắn chìm 125 tàu chiến, loại
khỏi vòng chiến đấu hàng trăm phi công Mĩ. Trận “Điện biên phủ trên không” là
trận thắng quyết định của ta, buộc Mĩ tuyên bố chấm dứt hoạt động đánh phá
miền Bắc và kí với ta Hiệp định Pa ri về việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Việt Nam (27/1/1973).
* Ý nghĩa của chiến thắng đó đối với tiến trình phát triển của cuộc kháng
chiến chống Mĩ, cứu nước (1954 – 1975):
Đập tan âm mưu mở rộng chiến tranh phá hoại của Mĩ, bảo vệ vững chắc
chế độ XHCN miền Bắc; giữ vững chi viện của miền Bắc đối với miền Nam;
Cỗ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của quân dân hai miền; Phối hợp với
cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam làm phá sản hoàn toàn các chiến lược
chiến tranh của Mĩ: “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh”; Buộc
Mĩ kí với ta Hiệp định Pa ri năm 1973.
Câu 8. . Sau Hiệp định Pari năm 1973, quân dân miền Nam đã giành những
thắng lợi như thế nào? Tác dụng của nó đối với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Xuân năm 1975.
* Những thắng lợi của quân dân miền Nam sau Hiệp định Pari:
Với Hiệp định Pari năm 1973, ta “đánh cho Mĩ cút”. Ngày 29/3/1973,
toàn lính Mĩ cuối cùng đã rút khỏi nước ta. Nhưng Mĩ vẫn giữ lại hơn 2 vạn cố
vấn quân sự, lập ra Bộ chỉ huy quân sự, tiếp tục viện trợ quân sự, kinh tế cho
chính quyền Sài Gòn.

Được cố vấn Mĩ chỉ huy và nhận viện trợ của Mĩ, chính quyền Sài Gòn
ngang nhiên phá hoại Hiệp định Pari, chúng huy động gần như toàn bộ lực
Trang 18


Người thực hiện: Mai Thị Tám

lượng tiến hành chiến dịch “Tràn ngập lãnh thổ”, liên tiếp mở những cuộc hành
quân “Bình định – lấn chiếm” vùng giải phóng. Đây thực chất là hành động tiếp
tục thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Níchxơn.
Trước tình hình trên, tháng 7/1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp
Hội nghị lần thứ 21. Hội nghị nêu rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam
trong giai đoạn hiện tại tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân . Hội
nghị nhấn mạnh trong bất cứ tình hình nào cũng phải tiếp tục con đường bạo lực
cách mạng, phải nắm vững chiến lược tiến công, kiên quyết đấu tranh trên cả ba
mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao.
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 21 của Đảng, từ
cuối năm 1973 quân dân ta ở miền Nam vừa kiến quyết đánh trả, quyết đánh
địch bảo vệ vùng giải phóng, vừa chủ động mở những cuộc tiến công địch, mở
rộng vùng giải phóng.
Cuối năm 1974 đầu năm 1975, ta mở đợt hoạt động quân sự đông – xuân
vào hướng Nam Bộ, trọng tâm là đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ.
Quân ta đã giành thắng lợi vang dội trong chiến dịch đường 14 – Phước Long.
Sau chiến thắng này của ta, chính quyền Sài Gòn phản ứng mạnh và đưa
quân chiếm lại, nhưng đã thất bại. Còn Mĩ chỉ phản ứng yếu ớt, chủ yếu dùng áp
lực từ xa đe dọa.
Phối hợp với đấu tranh quân sự, nhân dân ta ở miền Nam đẩy mạnh đấu
tranh chính trị, ngoại giao nhằm tố cáo hành động của Mĩ và chính quyền Sài
Gòn vi phạm hiệp định, phá hoại hòa bình, hòa hợp dân tộc, đòi lật đổ chính
quyền Sài Gòn, thực hiện các quyền tự do dân chủ...

* Tác dụng đối với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân năm 1975:
Những thắng lợi trên đã làm cho thế và lực giữa ta và địch thay đổi có lợi
cho ta: Lực lượng của ta ngày càng lớn mạnh, lực lượng địch suy yếu cả về
chính trị, tinh thần và sức chiến đấu. Tất cả điều đó làm cho thời cơ giải phóng
hoàn toàn miền Nam nhanh chóng chín muồi.

Trang 19


Người thực hiện: Mai Thị Tám

Vùng giải phóng được xây dựng vững mạnh, đảm bảo yêu cầu của hậu
phương tại chỗ phục vụ cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân năm 1975.
Câu 9. Hãy nêu nội dung các giai đoạn phát triển của cách mạng miền Nam từ
năm 1954 đến năm 1975. Những thắng lợi quân sự nổi bật nào có ý nghĩa chiến
lược làm thất bại âm mưu của đế quốc Mĩ trong các chiến lược chiến tranh mà
đế quốc Mĩ đã thực hiện ở Việt Nam?
*Giai đoạn từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960:
- Mĩ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam thông qua chế độ độc
tài phát xít của bọn tay sai Ngô Đình Diệm. Nhân dân miền Nam tiến hành đấu
tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, đồng thời ra sức tìm phương
pháp đấu tranh thích hợp để vừa đẩy mạnh cách mạng miền Nam, hạn chế tổn
thất, vừa bảo vệ miền Bắc.
- Vào cuối giai đoạn này cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng
chuyển hẳn sang thế tiến công; từ đấu tranh chính trị tiến lên khởi nghĩa từng
phần mở đầu bằng phong trào “Đồng khởi” năm 1959 – 1960, tiêu biểu là cuộc
“Đồng khởi” ở Bến Tre ( 17/1/1960) đã giáng đòn nặng nề vào chính sách thực
dân mới của Mĩ, làm lung lay tận gốc chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, đánh
bại chiến tranh một phía của Mĩ.
* Giai đoạn từ 1961 đến giữa 1965:

- Đế quốc Mĩ thi hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Cuộc chiến
tranh thực hiện bằng quân đội Sài Gòn là chủ yếu với tiền của, vũ khí, phương
tiện chiến tranh của Mĩ, định đè bẹp và tiêu diệt cách mạng miền Nam. Cách
mạng miền Nam từ khởi nghĩa từng phần, tiến lên thành chiến tranh cách mạng,
kết hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, đánh địch bằng ba mũi giáp
công trên ba vùng chiến lược, phát huy sức mạnh to lớn của chiến tranh nhân
dân ở miền Nam để đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ và tay
sai.
- Thắng lợi quân sự có ý nghĩa chiến lược: Chiến thắng Bình Giã
(2/12/1964) đánh bại “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ.
Trang 20


Người thực hiện: Mai Thị Tám

* Giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1968:
- Đế quốc Mĩ thi hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân viễn
chinh vào tham chiến trên quy mô lớn ở miền Nam, đẩy mạnh chiến tranh phá
hoại miền Bắc. Cả nước ta trực tiếp đánh Mĩ, đẩy mạnh chiến tranh nhân dân
phát triển đến trình độ cao trên cả hai miền, đánh thắng “Chiến tranh cục bộ” tạo
bước ngoặt quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
- Thắng lợi quân sự có ý nghĩa chiến lược:
+ Ở miền Nam: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968
đánh bại “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ.
+ Ở miền Bắc: Chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mĩ
(1965 – 1968), buộc Mĩ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn
đàm phán với ta ở Pari.
* Giai đoạn từ năm 1969 đến tháng 1/1973:
- Đế quốc Mĩ thi hành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, xuống
thang chiến tranh, rút dần quân Mĩ về nước nhưng kéo dài và mở rộng chiến

tranh sang Lào, Campuchia. Quân dân ta phối hợp với quân dân Lào và
Campuchia đánh bại một bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh”.
- Thắng lợi quân sự có ý nghĩa chiến lược:
+ Ở miền Nam: Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 đánh bại chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh” của Mĩ.
+ Ở miền Bắc: Chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mĩ,
buộc Mĩ phải kí kết Hiệp định Pari vào 27/1/1973.
* Giai đoạn từ năm 1973 đến năm 1975:
- Sau Hiệp định Pari, Mĩ tiếp tục chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”
lập Bộ chỉ huy quân sự ở Sài Gòn tiếp tục chỉ huy cho chính quyền Sài Gòn thực
hiện chiến dịch “Lấn chiếm” và “Bình định”. Ta tạo lực, tạo thế, tạo thời cơ,
kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân năm 1975, kết thúc
thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Trang 21


Người thực hiện: Mai Thị Tám

- Thắng lợi có ý nghĩa chiến lược: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân
năm 1975 với ba chiến dịch: Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử đã đánh sập chính quyền Sài Gòn, kết thúc thắng lợi cuộc kháng
chiến chống Mĩ cứu nước.
Câu 10. Vì sao Đảng ta thực hiện đường lối đổi mới đất nước? Nêu nội dung
đường lối đổi mới về kinh tế và chính trị của Đảng.
* Vì bối cảnh lịch sử trong nước và thế giới lúc này đòi hỏi Đảng ta phải
thực hiện đường lối đổi mới đất nước:
- Hoàn cảnh đất nước:
+ Trong hơn một thập kỉ thực hiện hai kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 –
1985), cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đạt được những thành tựu và ưu

điểm đáng kể trên lĩnh vực của đời sống xã hội. Song cách mạng cũng gặp
không ít khó khăn, đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng, trước hết là khủng
hoảng kinh tế - xã hội. Một trong những nguyên nhân cơ bản của khó khăn, yếu
kém là do mắc phải “Sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách
lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”.
+ Để khắc phục sai lầm, khuyết điểm đưa đất nước vượt qua khủng hoảng
và đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên. Đảng và Nhà nước ta phải
tiến hành đổi mới.
- Hoàn cảnh thế giới:
+ Dưới tác động của cách mạng khoa học – kĩ thuật làm cho quan hệ của
các nước thay đổi theo xu thế mới.
+ Cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng của Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa khác cũng đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới.
Như vậy, đổi mới là vấn đề cấp bách, có ý nghĩa sống còn đối với chủ
nghĩa xã hội ở nước ta đồng thời là vấn đề phù hợp với xu thế chung của thời
đại.
* Nội dung đường lối đổi mới về kinh tế và chính trị của Đảng:

Trang 22


Người thực hiện: Mai Thị Tám

Đường lối đổi mới của Đảng được đề ra đầu tiên tại Đại hội VI
(12/1986), được điều chỉnh, bổ sung phát triển Đại hội VII (6/1991), Đại hội
VIII (6/1996), Đại hội IX (4/2001).
- Đổi mới kinh tế:
+ Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, nhằm phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế và tạo sức mạnh
tổng hợp của nền kinh tế nhiều thành phần.

+ Cải tạo quan hệ sản xuất, các thành phần kinh tế lạc hậu kìm hãm sự
phát triển. Cải tạo đi đôi với sử dụng và thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa. Cải tạo phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời
kì quá độ.
+ Xóa bỏ cơ chế quản lí kinh tế tập trung, bao cấp, hình thành cơ chế thị
trường có sự quản lí của Nhà nước.
+ Thực hiện chính sách mở cửa, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở
rộng sự phân công lao động và hợp tác kinh tế quốc tế, tích cực khai thác nguồn
vốn, khai thác công nghệ, khai thác thị trường.
- Đổi mới chính trị:
+ Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân
dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng của Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
+ Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về
nhân dân.
+ Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, tập hợp mọi lực lượng của
dân tộc, phấn đấu sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
+ Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác,

Trang 23


Người thực hiện: Mai Thị Tám

C. PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN
Từ cơ sở lí luận và thực tiễn giảng dạy ôn thi học sinh giỏi đòi hỏi người
giáo viên lịch sử phải tâm huyết với nghề, nhiệt tình trong nghiên cứu giảng dạy,
tìm tòi và sáng tạo trong việc thực hiện đổi mới nội dung và phương pháp dạy
học. Đặc biệt là đổi mới phương pháp ôn luyện thi, biên soạn những câu hỏi, bài

tập lịch sử phù hợp với đối tượng học sinh để giúp các em thuận lợi trong học
tập và xác định đúng trọng tâm trong quá trình ôn tập và rèn luyện kĩ năng
làm bài. Từ đó thu hút ngày càng nhiều học sinh giỏi tham gia ôn thi bộ môn và
chắc chắn rằng chất lượng bài làm được nâng cao hơn.
Kết quả thực tế bản thân thực hiện trong thời gian qua ở các trường trung
học phổ thông Lương Thế Vinh - Kbang và THPT Phan Bội Châu ( kết quả học
sinh giỏi) như sau:
* Tại trường THPT Lương Thế Vinh – Kbang:
- Năm học 2004 – 2005: Có 03 HS giỏi cấp tỉnh (01 giải Ba, 02 giải KK).
- Năm học 2005 – 2006: Có 03 HS giỏi cấp tỉnh (01 giải Nhì, 02 giải
Ba); 01 HS giỏi cấp quốc gia (giải Nhì) được tuyển thẳng vào khoa Lịch sử
trường Đại học sư phạm Quy Nhơn.
- Năm học 2006 – 2007: Có 04 HS giỏi cấp tỉnh (01 giải Nhì; 02 giải Ba,
01 giải KK); 01 HS giỏi cấp quốc gia (giải KK).
- Năm học 2007 – 2008: Có 04 HS giỏi cấp tỉnh (02 giải Ba; 02 giải KK);
01 HS giỏi cấp quốc gia (giải KK).
- Năm học 2008 – 2009: Có 04 HS giỏi cấp tỉnh.
- Năm học 2009 – 2010: Có 02 HS giỏi cấp tỉnh (01 giải Ba, 01 giải KK);
01 HS giỏi cấp quốc gia (giải KK).
* Tại trường THPT Phan Bội Châu – Pleiku:
Năm học 2012 – 2013: Có 01 HS đạt giải Nhất cấp tỉnh.
Để có nội dung câu hỏi, bài tập dành cho bồi dưỡng học sinh giỏi là cả
một quá trình đúc kết từ kinh nghiệm thực tế giảng dạy của bản thân và để có
chất lượng học sinh giỏi bộ môn đòi hỏi phải hội tụ nhiều yếu tố, trong đó năng
Trang 24


Người thực hiện: Mai Thị Tám

lực học tập của học sinh là quan trọng nhất, còn tài liệu là mang tính chất tham

vấn. Tuy nhiên, sự định hướng của Thầy, Cô là điều kiện cần để học sinh tự tin,
xác định đúng trọng tâm, hiểu sâu kiến thức và giảm thiểu thời gian ôn tập để
các em đạt kết quả cao nhất trong kì thi.
Trong khuôn khổ đề tài tôi chỉ trình bày một số câu hỏi và bài tập mang
tính chọn lọc giai đoạn lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 2000. Nội dung
câu hỏi, bài tập còn mang tính chủ quan sẽ được điều chỉnh, bổ sung hàng năm
cho đầy đủ và phù hợp với thực tế chương trình giảng dạy, chắc chắn còn nhiều
thiếu sót rất mong sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp.
Trân trọng cảm ơn!

Trang 25


×