1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở trường tiểu học Kim Đồng, đặc biệt
là chương trình lớp 4. Tôi đã đi sâu nghiên cứu việc bồi dưỡng phát huy năng
lực kể chuyện cho học sinh. Theo tôi, đây là một phân môn tương đối khó. Với
học sinh tiểu học vốn kiến thức, vốn sống, ngôn ngữ giao tiếp trong cả hai hình
thức nói – viết đều còn rất hạn chế. Học sinh muốn kể tốt thì các em phải có kĩ
năng quan sát tinh tế, ghi nhớ, sắp xếp các chi tiết, năng lực diễn đạt suy nghĩ
của mình bằng lời nói và thái độ tự tin, tự nhiên nhập vai,… Nhưng thực tế cho
thấy, trong giờ kể chuyện thì các em lại tỏ ra lúng túng chưa phát huy hết khả
năng và tính chủ động của mình trong học tập, khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ
văn học của các em còn nhiều hạn chế, chưa biết diễn đạt ý mình bằng những
câu văn hay, sử dụng từ chưa hợp lý, ý văn còn khô khan, rời rạc, chưa kết hợp
được lời kể với cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, giọng kể, …
Mặt khác, việc dạy và học phân môn này đang gặp nhiều khó khăn, không
chỉ đối với học sinh mà cả đối với giáo viên cũng rất lúng túng trong việc rèn kĩ
năng, truyền cảm hứng, hứng thú, sự tự tin, cử chỉ điệu bộ tự nhiên, giọng kể
truyền cảm,…cho học sinh.
Từ những lý do nêu trên, tôi đã chọn đề tài: “ Một số biện pháp giúp học
sinh phát huy năng lực kể chuyện ở lớp 4”.
2
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Thực trạng
1.Về phía giáo viên: Qua quá trình trực tiếp giảng dạy, làm công tác
khối đã tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn trao đổi với đồng nghiệp cũng
như thường xuyên dự giờ- thăm lớp tôi nhận thấy rằng đa số giáo viên dạy phân
môn kể chuyện còn có những hạn chế như sau:
- Một số giáo viên chưa thường xuyên chuẩn bị các đồ dùng dạy học để
minh hoạ cho câu chuyện. Giáo viên chỉ sử dụng tranh trong sách giáo khoa
(kích thước nhỏ) hoặc dùng tranh phô tô (chưa đảm bảo tính khoa học và thẩm
mỹ).
- Giáo viên nhiều khi chưa bao quát lớp. Không gọi các em học sinh hay
rụt rè, ngại nói và diễn đạt kém lên kể chuyện.
- Khi tổ chức các hoạt động trong giờ kể chuyện, giáo viên chưa phát
huy được được tính tích cực, năng động, sáng tạo của học sinh. Chưa linh hoạt
xử lí các tình huống nảy sinh trong tiết học.
- Một số giáo viên chưa kịp thời động viên, giúp đỡ học sinh khi gặp khó
khăn.
2. Về phía học sinh:
- Các em còn nhỏ tuổi nên chưa thực sự tự tin khi nói trước tập thể. Khi
kể chuyện các em còn lúng túng, quên nội dung. Đa số các em ngại nói và diễn
đạt kém, vốn từ giao tiếp còn hạn chế, chưa mạnh dạn, chưa biết dùng lời lẽ của
mình thể hiện giọng của nhân vật trong mỗi câu chuyện cho phù hợp, chưa sáng
tạo giọng kể, gần như các em chỉ học thuộc lòng. Khi kể chuyện trong nhóm,
trước lớp, một số em còn ngại ngùng không dám bộc lộ khả năng của mình vì sợ
mình kể không đúng, không hay các bạn sẽ cười. Vậy nên, khi tổ chức kể
chuyện để bình chọn người có giọng kể hay nhất, hấp dẫn nhất,… thì chỉ là
những học sinh học tốt, có năng khiếu trổ tài.
- Thông thường các em hay chọn những câu chuyện đã được học trong
sách giáo khoa chứ không phải là những câu chuyện mới lạ được biên soạn
3
thành sách truyện đọc riêng. Chính điều này đã giúp học sinh có nhiều thuận lợi
trong việc nhớ và thuộc nội dung câu chuyện nhưng lại hạn chế về sự hứng thú,
sự hào hứng chờ đợi các tình tiết diễn biến và kết thúc của câu chuyện vì những
câu chuyện này các em đã được học.
II. Nguyên nhân
Tôi nhận thấy chất lượng tiết học kể chuyện của các em chưa cao là do
những nguyên nhân sau:
- Các em chưa nắm chắc yêu cầu của đề bài.
- Kiến thức văn học, vốn từ ngữ, kĩ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ (lời kể,
giọng điệu, diễn cảm), hình thể (cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, ánh mắt,…)còn hạn
chế.
- Bản thân học sinh chưa ham học nên chưa chú trọng tích lũy vốn từ,
rèn luyện kỹ năng.
- Chưa biết cách liên kết câu, ý, đoạn, bài làm cho câu chuyện kể bị rời
rạc, không hấp dẫn người nghe.
- Chưa chú trọng việc tự học, tự đọc sách để học tập lời hay, ý đẹp.
- Do phương pháp dạy của giáo viên vẫn còn ảnh hưởng theo lối dạy cũ
chưa linh hoạt thay đổi hình thức, phương pháp, xử lí tình huống nảy sinh,…
khiến học sinh thụ động tiếp thu, giáo viên chưa phát huy được học sinh.
- Do điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhà trường còn hạn chế
chưa đáp ứng được yêu cầu giảng dạy và học tập.
III. Một số biện pháp
Một số biện pháp giúp học sinh phát huy năng lực kể chuyện ở lớp 4 cụ
thể như sau:
1. Nắm bắt đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh tiểu học:
Chúng ta đã biết đặc điểm tư duy của học sinh tiểu học còn mang tính
trực quan cụ thể, nó được chuyển dần từ trực quan cụ thể sang trừu tượng, khái
4
quát. Vì thế khi dạy giáo viên cần chú ý đến các đồ dùng trực quan, phát huy tối
đa vai trò của thiết bị dạy học.
Dạy tốt phân môn kể chuyện, rèn kĩ năng kể chuyện tốt ở các em, giáo
viên sẽ tạo điều kiện tốt cho sự phát triển năng khiếu ở học sinh tạo điều kiện
ươm mầm cho những nhân tài mai sau. Trong giai đoạn ở tiểu học, nếu các em
được nghe và học kể chuyện đầy đủ thì các em được bồi dưỡng nhận thức, tình
cảm, được làm giàu vốn từ ngữ và phát triển tư duy, đặc biệt là tư duy hình
tượng, góp phần làm cho tuổi thơ của các em thêm thú vị, nhiều màu săc, ý
nghĩa.
2. Nắm vững phương pháp, giảng dạy:
Giáo viên cần giảng dạy đúng đặc trưng bộ môn là kể chuyện chứ không
phải đọc chuyện, giảng văn hay là làm bài tập. Khi dạy người giáo viên phải biết
hướng dẫn các em kể lại bằng ngôn ngữ, cử chỉ, điệu bộ. Biết dựa vào các tranh
vẽ để nhớ lại nội dung từng đoạn của câu chuyện.
Thực hiện kể chuyện giúp các em rèn luyện tổng hợp nhiều kĩ năng như:
Kỹ năng ghi nhớ, kỹ năng kể chuyện và kỹ năng nói trước đông người, kỹ năng
đóng vai theo nội dung truyện. Khi kể chuyện phải diễn tả ý của mình sao cho
lời lẽ chân thật, chặt chẽ, chính xác, giàu cảm xúc, hấp dẫn người nghe.
3. Chuẩn bị đồ dùng, thiết bị:
a)Tranh, ảnh phóng to:
Theo chương trình sách giáo khoa, đa số các câu chuyện đều được kể theo
tranh, mỗi bức tranh sẽ tương ứng với nội dung của một đoạn truyện. Tranh ảnh
là đồ dùng trực quan cần thiết cho tất cả các môn học, đặc biệt là phân môn kể
chuyện. Giáo viên sử dụng tranh vẽ để minh hoạ cho nội dung truyện, làm cho
lời kể mẫu của mình sinh động và hấp dẫn hơn. Vì vậy, giáo viên phải chuẩn bị
đầy đủ tranh vẽ thể hiện nội dung, diễn biến câu chuyện. Học sinh dựa vào tranh
5
để gợi nhớ lại nội dung câu chuyện, vừa là công cụ làm cho việc thể hiện lại câu
chuyện thêm sinh động và hấp dẫn.
b) Chuẩn bị một số dụng cụ hoá trang sắm vai đơn giản, dễ làm:
Thực tế chúng ta thấy, tiết học nào giáo viên, học sinh có chuẩn bị dụng
cụ học tập thì tiết học đó hết sức sôi nổi. Dụng cụ hoá trang góp phần quan trọng
trong việc gây hứng thú cho học sinh kể và gây sự chú ý theo dõi của người
xem. Chỉ cần thay đổi một vài kiểu dáng nho nhỏ cũng đã tạo được niềm hứng
khởi rất lớn cho bạn được đóng vai kể và giúp người xem bớt nhàm chán.
4. Tác phong sư phạm của giáo viên:
Trong tiết dạy giáo viên cần gần gũi, nhẹ nhàng và trực tiếp theo dõi giúp
đỡ các em với thái độ niềm nở. Đặc biệt là đối với môn kể chuyện thì vấn đề này
giáo viện lại càng phải quan tâm hơn. Vì trong mỗi tiết kể chuyện thường có
không ít em có thói quen rụt rè , ngại nói sẽ nói nhỏ và nói ấp a ấp úng, diễn đạt
kém. Những lúc này nếu giáo viên có nét mặt nhăn nhó, khó chịu thì lại càng
cho các em rụt rè hơn và thậm chí còn hoảng sợ không nhớ đến nội dung chuyện
và lần sau sẽ không dám kể nữa. Nếu khi kể chuyện nối tiếp đoạn trong nhóm
những học sinh trung bình không nhớ được nội dung thì giáo viên nhẹ nhàng gợi
mở cho học sinh những câu hỏi gợi ý… Dần dần giúp các em tự tin, mạnh dạn
hơn. Tác phong sư phạm của giáo viên là yếu tố quan trọng trong việc tiếp xúc,
tổ chức học tập và truyền thụ kiến thức cho học sinh.
5. Tạo không khí thoải mái, tự nhiên cho tiết học:
Tổ chức cho học sinh khởi động vào đầu tiết học vừa tạo không khí dễ
chịu giữa cô và trò, vừa khơi dậy những kiến thức có sẵn của học sinh có liên
quan cần thiết đến câu chuyện sắp kể . Giáo viên chỉ cần cho học sinh làm khởi
động đơn giản như trò chơi " Xem hành động đoán nhân vật" hoặc khởi động
bằng cách thi sắp xếp tranh đúng và nhanh theo trình tự câu chuyện hay thi tìm
những bài thơ, bài hát, bài văn liên quan đến nội dung câu chuyện…Sẽ giúp cho
tiết học diễn ra tự nhiên, thoải mái, nhẹ nhàng hơn.
6
6. Luyện kể chuyện phân biệt lời nhân vật:
Giáo viên cần tiến hành luyện cho học sinh đọc diễn cảm trong bước
luyện đọc phân vai. Việc này có vai trò rất quan trọng trong việc luyện cho học
sinh kể phân vai. Học sinh biết kể giọng phù hợp với từng nhân vật trong truyện
và giúp học sinh dễ thuộc nội dung câu chuyện, thuộc lời của mỗi nhân vật hơn.
Trước hết giáo viên cho học sinh luyện đọc phân vai theo theo nhóm. Sau đó
cho học sinh đọc thi trước lớp.
7. Chú trọng rèn luyện giọng kể diễn cảm:
Luyện kỹ năng kể lại câu chuyện diễn cảm là một nhiệm vụ hết sức quan
trọng, nó vừa hình thành những phẩm chất, nhân cách vừa góp phần phát triển tư
duy, ngôn ngữ, đạo đức, thẩm mỹ cho học sinh.
8. Thực hiện sắm vai phải thường xuyên, khoa học:
Trong quá trình giảng dạy phân môn kể chuyện, giáo viên phải thường
xuyên tổ chức cho học sinh sắm vai khi có bài học phù hợp (kể cả lúc có người
dự giờ hay không có người dự giờ). Tuy thời gian đầu sẽ khó khăn vì các em
còn nhỏ nhưng dần dần sẽ quen với cách đóng vai và sẽ trở thành nhu cầu học
tập của các em. Giáo viên không cung cấp trước lời nói của nhân vật, để các em
tự tìm lấy. Giáo viên không bày sẵn các tình huống mà để các em dựa vào câu
chuyện xử lý các tình huống đó... Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
các em.
9. Kể chuyện kết hợp hài hoà giữa giọng kể và ánh mắt, động tác, cử
chỉ, điệu bộ, nét mặt:
Có câu “Ánh mắt là cửa sổ tâm hồn” quả đúng không sai. Ánh mắt của
người kể có vai trò rất quan trọng trong kể chuyện, nó là yếu tố cơ bản để làm
cho người kể tạo dựng được câu chuyện có hồn. Nếu biết kết hợp hài hoà giữa
ánh mắt với động tác, điệu bộ, cử chỉ, nét mặt thì câu chuyện kể mới sống động,
hấp dẫn, thu hút được người xem. Muốn làm được điều này đòi hỏi người kể
7
phải nhập vai, phải hoà mình vào câu chuyện. Vì vậy người kể phải hiểu rõ tâm
trạng vui buồn, hay tức giận, day dứt,…của mỗi nhân vật trong từng đoạn
chuyện, trong cả câu chuyện. Học sinh cần tìm hiểu về mỗi quan hệ giữa các
nhân vật trong truyện với nhau. Để tiết dạy kể chuyện thành công thì giáo viên
cần dặn dò học sinh về nhà đọc kĩ bài và tìm hiểu tính cách của từng nhân vật,
chuẩn bị kĩ cho bài học.
10. Thường xuyên tổ chức hoạt động:
Dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh, học sinh cùng
tranh luận, hợp tác để giải quyết vấn đề. Tổ chức cho học sinh luyện kể theo
nhóm là luyện cho tất cả học sinh đều được kể chỉ trong một thời gian ngắn và
tạo điều kiện để những học sinh có tính rụt rè, e ngại khắc phục dần dần. Từ chỗ
kể cho 2- 4 bạn nghe rồi dần dần sẽ mạnh dạn kể cho nhiều người nghe. Giáo
viên tiến hành cho học sinh kể theo nhóm trong hoạt động kể từng đoạn câu
chuyện theo tranh. Yêu cầu trưởng nhóm phân công mỗi em kể một đoạn
chuyện. Nên chia nhóm nhỏ 4 em là hợp lý nhất. Sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh
sao cho các đối tượng học sinh xen kẽ nhau: Học sinh khá- giỏi với học sinh
trung bình- yếu. Học sinh nam với học sinh nữ. Học sinh mạnh dạn tự tin với
học sinh nhút nhát, tự ti. Học sinh có khả năng diễn đạt tốt, năng khiếu kể
chuyện hay với học sinh có khả năng diễn đạt yếu, khả năng kể chuyện kém. Để
học sinh tự giúp đỡ, học tập lẫn nhau.
11. Phát huy học sinh, giúp học sinh kể sáng tạo:
Giúp học sinh kể sáng tạo là một yêu cầu cao, tương đối khó đối với học
sinh. Nhưng làm được điều này thì câu chuyện kể không những trở nên sinh
động hơn mà còn làm giàu thêm vốn từ cho học sinh. Đặc biệt đối với những
câu chuyện kể có yêu cầu kể phân vai dựng lại câu chuyện thì điều này lại là yếu
tố hết sức quan trọng. Để luyện được cho học sinh biết kể sáng tạo đòi hỏi giáo
viên phải có hệ thống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt tỉ mỉ, đồng thời trong quá trình
học sinh kể, giáo viên yêu cầu học sinh theo dõi bạn kể phải tìm ra được những
8
chi tiết nào sáng tạo trong lời kể, trong điệu bộ, trong cử chỉ,... của bạn. Đồng
thời có thể đưa ra những ý kiến của bản thân làm mới câu chuyện.
12. Tạo động lực thi đua:
Thường xuyên tạo không khí thi đua giữa các cá nhân và giữa các nhóm
với nhau. Trong quá trình cho học sinh kể thi giáo viên nhận xét cụ thể từng em.
Như vậy sẽ làm cho các đối tượng phải cố gắng chăm chỉ, đồng thời tạo cho mỗi
em trong nhóm luôn phát huy hết khả năng của mình để không ảnh hưởng xấu
đến kêt quả của cả nhóm, để giúp cả nhóm hoàn thành câu chuyện, đạt kết quả
tốt nhất.
9
C. KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
I. Kết quả:
Bước vào đầu năm học 2014 – 2015, tôi đã mạnh dạn áp dụng cách dạy tiết
kể chuyện với những biện pháp như đã nêu ở trên và thấy giờ dạy thành công,
đạt hiệu quả cao, từ phía học sinh có sự tiến bộ rõ rệt. Tiết kể chuyện góp phần
hình thành nhân cách, đem lại cảm xúc, thẩm mỹ, niềm vui cho các em, kể
chuyện góp phần làm cho tâm hồn các em trong sáng, thánh thiện hơn. Từ chỗ
học sinh sợ tiết này, thờ ơ với việc tham gia xây dựng bài, ngại tham gia kể
chuyện trong nhóm hoặc trước lớp. Đến nay, các em đã rất hăng hái tham gia kể
chuyện. Ngoài việc các em tự kể được một đoạn hay toàn bộ câu chuyện các em
còn nhận xét được bạn kể một cách chân thật nhất theo nhận thức của bản thân.
Nếu như trước đây, các em nêu ý kiến của mình một cách ấp úng, nét mặt gượng
gạo thì nay đã hết sức hào hứng, lưu loát và lộ rõ vẻ thích thú. Tiết học thật vui,
nhẹ nhàng.Và đặc biệt hơn nữa, tôi còn nhận được sự tin yêu từ phía học sinh.
Sau mỗi tiết dạy kể chuyện, tôi cảm thấy lòng mình thanh thản và tự tin khi học
sinh học tập tích cực chủ động, sáng tạo, ngày càng tiến bộ. Các em không chỉ
mạnh dạn trong tiết kể chuyện mà còn ở tất cả các tiết học. Tình cảm giữa cô và
trò ngày càng trở nên gắn bó thân thiết. Từ đó các em có thể trò chuyện, chia sẻ
những cảm xúc, suy nghĩ cũng như những khó khăn trong cuộc sống thường
ngày với cô giáo, thật sự coi cô như “người mẹ hiền thứ hai”. Đó cũng chính là
động lực thúc đẩy tôi tiếp tục tìm tòi và áp dụng những kinh nghiệm đã tích lũy
được vào sự nghiệp trồng người của mình.
* Kết quả khảo sát học sinh hoàn thành nội dung học tập phân môn kể chuyện:
Đầu năm học 2014 - 2015
Cuối năm học 2014 - 2015
SL
%
SL
%
Số HSHT
21
61,76
33
97,06
Số HS chưa HT
13
38,24
1
2,94
II. Bài học kinh nghiệm:
Với vai trò là người giáo viên, qua thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi nhận
thấy rằng muốn dạy tiết kể chuyện đạt hiệu quả cao, người giáo viên cần:
10
- Có lòng nhiệt tình, tâm huyết của người thầy, nhận thức đúng và đầy đủ về
tầm quan trọng của tiết học, không ngừng học tập, tìm tòi nâng cao chất lượng
giảng dạy, luôn cải tiến phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm
trung tâm, phát huy tính tích cực của học sinh.
- Giáo viên cần phải chú trọng phần chuẩn bị, đầu tư trí tuệ và thời gian cho
mỗi tiết day. Xây dựng giáo án chu đáo, chi tiết với hệ thống câu hỏi gợi mở
thích hợp nhằm phát huy tính tích cực học tập, mạnh dạn tham gia phát biểu ý,
kể chuyện, diễn đạt bằng ngôn ngữ (lời kể, giọng điệu, diễn cảm), hình thể (cử
chỉ, điệu bộ, nét mặt, ánh mắt,…).
- Cần phát huy vai trò chủ đạo của người thầy, động viên tạo niềm tin, sự
thoải mái, tự nhiên, niềm hưng phấn và ý thức độc lập suy nghĩ trong quá trình
học tập của học sinh.
- Dạy học phân hóa đối tượng ( Học có năng khiếu yêu cầu cao hơn phải kể
toàn bộ câu chuyện. Còn đối với học sinh trung bình, yếu thì chỉ yêu cầu kể một
đoạn, một phần câu chuyện)
- Thường xuyên quan tâm, rèn luyện cho học sinh kĩ năng trình diễn, diễn
thuyết trước đông người.
- Khuyến khích học sinh tham khảo những câu chuyện hay để học cách diễn
đạt, cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh sinh động. Giúp các em rèn luyện khả năng
tự học, tự bồi dưỡng cho mình.
Trên đây là một số kinh nghiệm, vận dụng của bản thân không tránh khỏi sự
thiếu sót, kính mong sự góp ý tận tình của các đồng chí cán bộ quản lí, quý thầy
giáo, cô giáo để giúp tôi từng bước hoàn thiện phương pháp giảng dạy, mang lại
hiệu quả ngày càng cao hơn cho các tiết học.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Chư Ty, ngày 19 tháng 10 năm 2015
Người viêt:
Nguyễn Thị Loan