Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của phát triển khu công nghiệp đến đời sống hộ nông dân ở huyện tiên du, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (964.4 KB, 108 trang )

MỤC LỤC
Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục bảng

vi

Danh mục hình

vii

I

MỞ ĐẦU

1

1.1

Tính cấp thiết của đề tài


1

1.2

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

2

1.3

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2

II

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

4

2.1

Cơ sở lý luận

4

2.1.1

Một số khái niệm cơ bản


4

2.1.2

Vai trò của công nghiệp hóa, của khu công nghiệp đến đời sồng người dân

5

2.1.3

Tính tất yếu phải phát triển các khu công nghiệp.

9

2.1.4

Đặc điểm hộ nông dân và kinh tế hộ nông dân

2.1.5

Nội dung nghiên cứu về ảnh hưởng của các khu công nghiệp tới đời
sống hộ nông dân

2.1.6

11
15

Các yếu tố ảnh hưởng của việc phát triển các khu công nghiệp tới việc
làm và đời sống của người lao động


19

2.2

Cơ sở thực tiễn

21

2.2.1

Kinh nghiệm thế giới về phát triển khu công nghiệp

21

2.2.2

Tình hình phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam

23

2.2.3

Tình hình phát triển các khu công nghiệp ở một số địa phương

24

2.2.4

Bài học kinh nghiệm cho huyện Tiên Du


27

2.2.5

Những nghiên cứu liên quan đến đề tài

28

III

ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

31

3.1

Đặc điểm địa bàn nghiên cứu

31

3.1.1

Đặc điểm về điều kiện tự nhiên

31
iii


3.1.2


Đặc điểm về điều kiện đất đai

32

3.1.3

Đặc điểm về kinh tế xã hội

33

3.1.4

Tình hình dân số và lao động

36

3.1.5

Kết cấu hạ tầng

37

3.1.6

Đánh giá chung về đặc điểm địa bàn nghiên cứu

39

3.2


Phương pháp nghiên cứu

43

3.2.1

Chọn điểm đại diện nghiên cứu

43

3.2.2

Chọn hộ nghiên cứu

43

3.2.3

Phương pháp thu thập thông tin

44

3.2.4

Phương pháp tổng hợp, xử lý số liệu

46

3.2.5


Phương pháp phân tích thông tin

46

3.3

Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu

46

3.3.1

Nhóm chỉ tiêu phản ánh quá trình công nghiệp hoá

46

3.3.2

Nhóm chỉ tiêu phản ánh những ảnh hưởng tới đời sống hộ nông dân

47

3.3.3

Nhóm chỉ tiêu phản ánh về vốn, tiền bồi thường

47

3.3.4


Nhóm chỉ tiêu phản ảnh về thu nhập, cơ cấu thu nhập của hộ bị thu hồi
đất sản xuất

47

IV

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

48

4.1

Thực trạng phát triển của các khu công nghiệp trên địa bàn huyện Tiên Du

48

4.1.1

Tình hình thu hồi đất sản xuất nông nghiệp ở 3 xã điều tra

48

4.1.2

Tình hình chung về các khu công nghiệp trên địa bàn huyện Tiên Du

49


4.2

Chính sách bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng trong việc phát
triển khu công nghiệp trên địa bàn huyện Tiên Du

53

4.2.1

Bồi thường, hỗ trợ về đất

53

4.2.2

Bồi thường, hỗ trợ tài sản trên đất

54

4.2.3

Tái định cư

54

4.2.4

Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm

56


4.3

Đánh giá ảnh hưởng của quá trình phát triển khu công nghiệp đến đời
sống của hộ nông dân trên địa bàn huyện Tiên Du

4.3.1

Tình hình thu hồi đất của các hộ điều tra để phát triển khu công
iv

56


nghiệp tại địa bàn nghiên cứu

56

4.3.2

Ảnh hưởng đến chất lượng lao động của các nhóm hộ điều tra

58

4.3.3

Ảnh hưởng đến lao động và việc làm các nhóm hộ điều tra

60


4.3.4

Ảnh hưởng đến cơ cấu lao động của các nhóm hộ điều tra

63

4.3.5

Ảnh hưởng đến sự thay đổi việc làm các nhóm hộ điều tra

65

4.3.6

Ảnh hưởng đến đời sống vật chất của các hộ dân trên địa bàn điều tra

67

4.3.7

Sự thay đổi chất lượng sống và điều kiện sống của các hộ dân

75

4.4

Đánh giá chung những ảnh hưởng của khu công nghiệp đến đời sống
hộ nông dân

83


4.4.1

Ảnh hưởng tích cực

83

4.4.2

Ảnh hưởng tiêu cực

84

4.5

Định hướng và giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động trong
vùng quy hoạch khu công nghiệp trong những năm tiếp theo

86

4.5.1

Định hướng

86

4.5.2

Những giải pháp chủ yếu để giải quyết việc làm cho người lao động
trong vùng quy hoạch khu công nghiệp.


87

V

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

95

5.1

Kết luận

95

5.2

Kiến nghị

96

TÀI LIỆU THAM KHẢO

98

PHỤ LỤC

100

v



DANH MỤC BẢNG
Số bảng

Tên bảng

Trang

3.1

Thống kê đất đai của huyện Tiên Du

32

3.2

Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu cùa huyện Tiên Du

34

3.3

Hiện trạng dân số huyện Tiên Du giai đoạn 2005 - 2014

37

4.1

Thực trạng thu hồi đất nông nghiệp ở 3 xã giai đoạn trước năm 2012

đến nay

48

4.2

Tình hình hoạt động của các khu công nghiệp trên địa bàn Huyện Tiên Du

50

4.3

Tình hình thu hồi đất và bồi thường hỗ trợ của các hộ dân để phát triển
khu công nghiệp tại địa bàn nghiên cứu

4.4

Đánh giá chất lượng lao động của nhóm hộ điều tra tại thời điểm có
khu công nghiệp

4.5

57
59

Tình hình nhân khẩu, lao động của các hộ trước và sau khi thu hồi đất
để phát triển khu công nghiệp trên địa bàn huyện Tiên Du

61


4.6

Cơ cấu lao động theo ngành của các hộ điều tra

64

4.7

Tình trạng việc làm trước và sau khi phát triển khu công nghiệp của
người lao động

66

4.8

Phương thức sử dụng tiền bồi thường của các hộ

68

4.9

Tài sản sở hữu của các hộ điều tra phỏng vấn

69

4.10 Bình quân thu nhập trên hộ/năm của các nhóm hộ trước và sau khi thu
hồi đất

71


4.11 Kết quả điều tra về thay đổi thu nhập của các hộ dân sau khi phát triển
khu công nghiệp

73

4.12 Tình hình tiếp cận các cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội sau khi phát triển
các khu công nghiệp của các hộ trên địa bàn điều tra
4.13 Ý kiến của các hộ điều tra về mức độ tác động của môi trường

76
77

4.14 Tình hình an ninh trật tự xã hội của người dân sau khi phát triển khu
79

công nghiệp
4.15 Ảnh hưởng đến đời sống văn hoá

81
vi


DANH MỤC HÌNH
Số hình

Tên hình

Trang

4.1


Diện tích đất nông nghiệp trước và sau khi thu hồi đất tại địa bàn điều tra

4.2

Tình trạng việc làm trước và sau khi phát triển khu công nghiệp của
người lao động

49
66

vii


I. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn quá trình phát triển của kinh tế thế giới cho thấy các nước có nền
kinh tế phát triển đều trải qua quá trình công nghiệp hoá, đô thị hóa đất nước. Về cơ
bản có thể xem công nghiệp hoá là quá trình xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở
vật chất của ngành công nghiệp, của các ngành sản xuất khác và các ngành thương
mại và dịch vụ, đồng thời đó cũng là quá trình xây dựng và phát triển hệ thống kết
cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và phục vụ yêu cầu nâng cao đời
sống về mọi mặt của dân cư. Công nghiệp hoá dẫn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
công - nông nghiệp, chuyển dịch cơ bản dân số và lao động, và từ đó sẽ hình thành
các khu đô thị mới.
Quá trình công nghiệp hoá ở mỗi quốc gia là sự hình thành hệ thống cơ sở
vật chất của các ngành kinh tế quốc dân mà trước hết là các ngành công nghiệp. Kết
quả chính của quá trình này còn bao gồm hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng
xã hội trên phạm vi cả nước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và nâng cao đời
sống của nhân dân.

Kết quả trên đây của quá trình công nghiệp hóa tất yếu gắn liền sự hình thành
các cơ sở, các khu công nghiệp, các khu thương mại, dịch vụ và các khu dân cư mới.
Điều đó dẫn tới sự hình thành các khu đô thị mới hoặc sự mở rộng quy mô của các khu
đô thị đã có. Do vậy, có thể khẳng định rằng đô thị hoá là một quá trình tất yếu và phổ
biến của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển.
Nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước theo đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta, sự hình thành các khu
công nghiệp mới và mở rộng các khu công nghiệp hiện có là một xu hướng tất yếu.
Tỉnh Bắc Ninh cũng không nằm ngoài quy luật chung đó, chúng ta không thể phủ
nhận được rằng; trong những năm gần đây, tình hình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh
Bắc Ninh đã và đang có nhiều chuyển biến tích cực, thu nhập của người dân được
nâng cao, nhu cầu về đời sống vật chất cũng như tinh thần và các dịch vụ khác ngày
càng cao, quá trình công nghiệp hoá trong tỉnh đang diễn ra khá mạnh mẽ.
1


Tiên Du là một huyện thuộc tỉnh Bắc Ninh với 4 khu công nghiệp tập trung
và 1 cụm công nghiệp làng nghề, do đó quá trình công nghiệp hoá ở huyện Tiên Du
cũng đang diễn ra khá mạnh mẽ. Sự hình thành các khu công nghiệp mới, các khu
đô thị mới trong thời gian qua là một xu hướng tất yếu để hoà nhập với sự phát triển
của đất nước. Tuy nhiên, đồng thời với các khu công nghiệp mới vấn đề tạo lập khu
tái định cư cho người dân thuộc diện quy hoạch sẽ được tiến hành như thế nào? Đời
sống kinh tế - xã hội của người dân sau khi giao đất nông nghiệp cho việc giải
phóng mặt bằng như thế nào? Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này tôi đã
tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của phát triển các khu công
nghiệp đến đời sống hộ nông dân ở huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu chung
Đề tài thực hiện góp phần ổn định và nâng cao đời sống của các hộ nông dân
chịu ảnh hưởng của quá trình thu hồi đất phục vụ xây dựng các khu công nghiệp

trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề công nghiệp hoá và tác
động ảnh hưởng của phát triển khu công nghiệp tới đời sống của người dân bị thu
hồi đất.
- Đánh giá thực trạng quá trình phát triển khu công nghiệp trên địa bàn
huyện Tiên Du và đánh giá được những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của phát
triển các khu công nghiệp tới đời sống người nông dân bị thu hồi đất trong vùng
chịu ảnh hưởng.
- Đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần ổn định và nâng cao mức sống
của người dân bị thu hồi đất trong vùng chịu ảnh hưởng của các khu công nghiệp.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lao động, việc làm, thu nhập, môi
trường, xã hội của các hộ gia đình trong phạm vi ảnh hưởng của các khu công
nghiệp huyện Tiên Du.
2


1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
* Về không gian: Đề tài được thực hiện trên địa bàn khu công nghiệp thuộc
huyện Tiên Du gồm các xã Hoàn Sơn, Đại Đồng và Nội Duệ
* Về thời gian: Đề tài nghiên cứu các số liệu thứ cấp giai đoạn 2012 - 2013;
số liệu sơ cấp năm 2014.
* Về nội dung: Đề tài chỉ giới hạn trong nghiên cứu những ảnh hưởng về lao
động, việc làm, thu nhập, môi trường, xã hội đối với những hộ nông dân bị thu hồi
đất nông nghiệp trong vùng ảnh hưởng của các khu công nghiệp, từ đó đề ra một số
giải pháp cơ bản nhằm góp phần ổn định và nâng cao đời sống của các hộ nông dân
vùng chịu ảnh hưởng.


3


II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
* Khái niệm công nghiệp hoá
Có thể thấy CNH là con đường tất yếu để phát triển kinh tế của các nước,
nhưng cần hiểu như thế nào về CNH. Ngay từ năm 1963 Tổ chức phát triển công
nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) đã đưa ra khái niệm quy ước về công nghiệp
hoá: “CNH là một quá trình phát triển kinh tế, trong đó một bộ phận nguồn lực ngày
càng tăng của đất nước được huy động để phát triển một cơ cấu kinh tế đa ngành
với công nghệ hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận chế biến
luôn thay đổi để sản xuất ra tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có khả năng bảo đảm
tốc độ tăng trưởng cao cho toàn bộ nền kinh tế và sự tiến bộ về xã hội”.
Từ khái niệm trên đây, có thể đưa ra khái niệm chung nhất về CNH như sau:
Công nghiệp hoá là quá trình tác động của công nghiệp với công nghệ ngày càng
hiện đại vào hoạt động kinh tế và đời sống xã hội, làm biến đổi toàn diện nền kinh
tế, đưa nền kinh tế từ nông nghiệp lạc hậu tới nền công nghiệp hiện đại.
Theo văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI, công nghiệp
hóa là quá trình chuyển đổi cơ bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
quản lý kinh tế, quản lý xã hội từ dựa vào lao động thủ công là chính sang dựa vào
lao động kết hợp cùng với phương tiện, phương pháp công nghệ, kỹ thuật, tiên tiến
hiện đại để tạo ra năng suất lao động cao (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011)
* Khái niệm khu công nghiệp
Theo Nghị định số 192/CP ngày 28/12/1994 của Chính phủ, các Khu công
nghiệp được định nghĩa là các khu vực công nghiệp tập trung, không có dân cư,
được thành lập với các ranh giới được xác định nhằm cung ứng các dịch vụ để hỗ
trợ sản xuất. Khu công nghiệp thường được Chính phủ cấp phép đầu tư với hệ thống
hạ tầng kỹ thuật và pháp lý riêng. Những khu công nghiệp có quy mô nhỏ thường

được gọi là cụm công nghiệp (Nghị định số 192/CP của Chính phủ, 1994)

4


* Khái niệm hộ nông dân
Hộ nông dân là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học nông nghiệp và
phát triển nông thôn, vì tất cả các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông
thôn chủ yếu được thực hiện qua sự hoạt động của hộ nông dân.
Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt động nông nghiệp theo nghĩa rộng bao
gồm cả nghề rừng, nghề cá, và hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn. Trong các
hoạt động phi nông nghiệp khó phân biệt các hoạt động có liên quan với nông
nghiệp và không có liên quan với nông nghiệp.
Khái niệm hộ nông dân gần đây được định nghĩa như sau: "Nông dân là các
nông hộ thu hoạch các phương tiện sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia
đình trong sản xuất nông trại, nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về
cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia một phần trong thị trường hoạt động với
một trình độ hoàn chỉnh không cao" (Frank Ellis, 1993).
* Khái niệm về đời sống
Đời sống của con người được thể hiện thông qua thu nhập, điều kiện sống của
mỗi con người, đó là chất lượng sống.
Chất lượng đời sống là sự phản ánh, sự đáp ứng những nhu cầu xã hội, trước
hết là những nhu cầu vật chất cơ bản tối thiểu của con người. Sau đó, là điều kiện
nảy sinh các nhu cầu tinh thần. Mức đáp ứng đó càng cao thì chất lượng đời sống
càng cao (Nguyễn Thị Kim Thoa, 2003).
Chất lượng cuộc sống còn thể hiện ở sự cảm giác được hài lòng (hạnh phúc)
hoặc (thỏa mãn) với những nhân tố của cuộc sống, mà những nhân tố đó được coi là
quan trọng nhất đối với bản thân một con người. Thêm vào đó, chất lượng là sự cảm
giác được hài lòng với những gì mà con người có được.
2.1.2 Vai trò của công nghiệp hóa, của khu công nghiệp đến đời sồng người dân

* Vai trò của công nghiệp hóa
- Thứ nhất: công nghiệp hóa với quá trình đô thị hóa. Thông qua việc quy
hoạch phát triển sản xuất công nghiệp, công nghiệp hóa thúc đẩy quá trình phân bố
lại dân cư ở các vùng, tạo điều kiện đô thị hóa đất nước. Thực tế cho thấy quá trình
công nghiệp hóa thường đi đôi với quá trình đô thị hóa…
Công nghiệp hoá với sự mở rộng sản xuất công nghiệp, theo đó là sự phát triển
5


các ngành dịch vụ. Sự phát triển của các ngành này đã thu hút một lượng lớn lao
động ở nông thôn vào thành thị, dẫn đến yêu cầu phải mở rộng các khu vực thành
thị vốn đã trở nên chật hẹp so với yêu cầu mới làm cho các vùng nông thôn ven các
đô thị lớn dần trở thành các đô thị vệ tinh. Sự mở rộng sản xuất công nghiệp nhiều
khi được thực hiện bằng việc xây dựng các khu công nghiệp mới ngay tại các vùng
nông thôn, miền núi. Điều này đã thu hút lực lượng lao động tại chỗ cho yêu cầu
sản xuất công nghiệp và một bộ phận dân cư khác lại tổ chức các hoạt động dịch vụ
đáp ứng những yêu cầu mới của khu công nghiệp (Nguyễn Hữu Đoàn, 2002)
- Thứ hai: công nghiệp hóa thúc đẩy các mối liên kết trong kinh tế. Để thực
hiện quá trình sản xuất, ngành này phải sử dụng sản phẩm của các ngành khác và
ngược lại. Quá trình này tạo ra các mối liên kết xuôi, ngược giữa các ngành với
nhau. Hoạt động sản xuất của công nghiệp chế biến yêu cầu đầu vào từ sản phẩm
của công nghiệp khai thác, của nông nghiệp và chính bản thân các ngành công
nghiệp chế biến với nhau. Ngược lại, hoạt động sản xuất của nông nghiệp lại yêu
cầu phân bón hoá học, thuốc trừ sâu và các công cụ sản xuất từ công nghiệp. Trong
các quá trình trên, để đưa sản phẩm từ nơi này đến nơi khác lại phải có các dịch vụ
vận chuyển, thương mại… công nghiệp hoá đã thúc đẩy các mối liên kết ngày càng
phát triển sâu rộng. Đây chính là cơ sở để tạo ra cơ cấu kinh tế ngày càng năng động
cho đất nước.
- Thứ ba: công nghiệp hóa là con đường cơ bản nâng cao khả năng cạnh tranh
của nền kinh tế. Sức mạnh cạnh tranh quốc gia, theo cách tiếp cận của “diễn đàn

kinh tế thế giới” về đánh giá khả năng cạnh tranh quốc gia đã xếp hạng trên cơ sở
371 chỉ tiêu của 8 nhóm. Đó là:
+ Sức cạnh tranh của nền kinh tế, trên cơ sở đánh giá toàn bộ nền kinh tế vĩ mô.
+ Vai trò của Chính phủ trong việc đưa ra các chính sách tạo môi trường cho
cạnh tranh.
+ Nền tài chính quốc gia, hoạt động thị trường tài chính và chất lượng dịch
vụ tài chính.
+ Cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
+ Trình độ quản lý và khả năng thu được lợi nhuận của các doanh nghiệp.
6


+ Trình độ khoa học - công nghệ, cùng với sự thành công trong nghiên cứu
cơ bản và ứng dụng.
+ Chất lượng nguồn lực
Như vậy, khả năng cạnh tranh của quốc gia phụ thuộc vào sức mạnh tổng
hợp của nền kinh tế bao gồm cả hoạt động kinh tế vĩ mô và vi mô: từ các chính sách
của Chính phủ đến trình độ quản lý của doanh nghiệp; từ cơ sở hạ tầng của nền kinh
tế đến khả năng huy động các yếu tố nguồn lực. Rõ ràng chỉ có công nghiệp hoá
mới có thể thúc đẩy sự phát triển tổng lực của nền kinh tế
* Vai trò của khu công nghiệp.
Chủ trương phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung được Đảng
khởi xướng từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VI Ban chấp hành Trung ương năm
1994 và được tiếp tục khẳng định tại văn kiện Đại hội XI của Đảng về chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020.
KCN, KCX ở nước ta được hình thành và phát triển từ năm 1991, khởi đầu là
KCX Tân Thuận tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong 24 năm phát triển, kết quả hoạt
động của các KCN đã góp phần thúc đẩy công nghiệp phát triển, tăng trưởng kinh
tế, hình thành các trung tâm công nghiệp gắn liền với phát triển đô thị, đẩy nhanh
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, góp phần giải quyết

việc làm cho lao động địa phương, đào tạo cán bộ quản lý, công nhân lành nghề, tạo
điều kiện để xử lý các tác động tới môi trường một cách tập trung. Các KCN thực
sự đóng vai trò tích cực trong công cuộc CNH, HĐH đất nước.
Việc thu hồi đất để xây dựng các KCN, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật ở nước ta được tiến hành mạnh mẽ từ khi thực hiện đường lối đổi mới,
chuyển nền kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình này được thúc đẩy nhanh hơn từ những năm
1990, khi nền kinh tế nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định rõ: Đẩy mạnh CNH - HĐH, xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ,…tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại (Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XI, 2011).
7


Qua 24 năm hình thành và phát triển KCN ở Việt Nam, nhiều KCN đã và
đang đóng vai trò quan trọng và tạo ra một khí thế phát triển mới cho nền kinh tế cả
nước. Tại các vùng hay địa phương có các KCN hoạt động mạnh thì mức độ tăng
trưởng kinh tế ở đó cao hơn những nơi KCN chưa phát triển. Việc phát triển các
KCN trong thời gian qua không những thúc đẩy các ngành dịch vụ phát triển, thúc
đẩy CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn, mà còn đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, góp
phần đáng kể vào việc hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN.
Điều này được thể hiện qua một số khía cạnh sau:
- Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng các KCN có tác dụng kích thích sự
phát triển kinh tế địa phương, góp phần rút ngắn sự chênh lệch phát triển giữa nông
thôn và thành thị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Điều này có
thể dễ dàng nhận nhất ở những vùng có KCN phát triển mạnh như Biên Hòa, Nhơn
Trạch (Đồng Nai), Thuận An (Bình Dương), Tiên Sơn, Yiên Phong (Bắc Ninh)…
cùng với quá trình phát triển KCN, các điều kiện về kỹ thuật hạ tầng trong khu vực
đã được cải thiện đáng kể, nhu cầu về các dịch vụ gia tăng, góp phần thúc đẩy hoạt
động kinh doanh cho các cơ sở dịch vụ trong vùng.

- Cùng với các chính sách ưu đãi về tài chính và công tác quản lý thuận lợi
của Nhà nước, có thể nói việc thu hút nguồn vốn để đầu tư xây dựng hoàn thiện và
đồng bộ các kết cấu hạ tầng trong KCN có vai trò quyết định trong việc thu hút đầu
tư. Việc các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế (doanh nghiệp quốc
doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh)
tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN không những tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp trong KCN hoạt động hiệu quả, mà còn tạo sự đa dạng hóa
thành phần doanh nghiệp tham gia xúc tiến đầu tư góp phần tạo sự hấp dẫn trong
việc thu hút doanh nghiệp công nghiệp vào KCN.
- Việc đầu tư hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật trong KCN không những thu hút
các dự án đầu tư mới mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô
để tăng năng lực sản xuất và cạnh tranh, hoặc di chuyển ra khỏi các khu đông dân
cư, tạo điều kiện để các địa phương giải quyết các vấn đề ô nhiễm, bảo vệ môi
trường đô thị, tái tạo và hình thành quỹ đất mới phục vụ các mục đích khác của
8


cộng đồng trong khu vực như KCN Tân Tạo (thành phố Hồ Chí Minh), Việt Hương
(Bình Dương) ... (Đặng Kim Sơn, 2001)
- Quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN còn
đảm bảo sự liên thông giữa các vùng, định hướng cho quy hoạch phát triển các
khu dân cư mới, các khu đô thị vệ tinh, hình thành các ngành công nghiệp phụ trợ,
dịch vụ… các công trình hạ tầng xã hội phục vụ đời sống người lao động và cư
dân trong khu vực như: nhà ở, trường học, bệnh viện, khu giải trí…
- Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đón bắt và thu hút đầu tư các ngành
như điện, giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, cảng biển, các hoạt động
dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, xúc tiến đầu tư, phát triển thị trường địa
ốc… đáp ứng nhu cầu hoạt động và phát triển của các KCN (Đặng Kim Sơn, 2001)
Quá trình phát triển các KCN ở Việt Nam trong những năm qua đã thể hiện
sự đúng đắn trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng. Các KCN đã có những

đóng góp không nhỏ trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu, nâng cao trình độ và hiện
đại hóa công nghệ, tăng cường khả năng tổ chức quản lý sản xuất và quản lý nhà
nước, từ đó làm giảm chi phí sản xuất, tăng cường năng lực cạnh tranh của sản
phẩm trong quá trình hội nhập. Các KCN cũng thể hiện vai trò không thể thiếu
trong việc xây dựng và hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN
nhằm thích ứng với nền công nghiệp tiên tiến, hiện đại, nó cũng đặt ra cho các cơ
quan quản lý nhà nước những mục tiêu khắc phục các yếu kém, hạn chế, nâng cao
hơn nữa hiệu quả và vai trò của KCN trong các giai đoạn tới, góp phần tích cực hơn
nữa vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước (Đặng Kim Sơn, 2001)
2.1.3. Tính tất yếu phải phát triển các khu công nghiệp.
Trong những năm qua, các KCN tập trung trong vùng là nhân tố động lực
đóng góp quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của vùng, biến vùng
thuần nông thành vùng kinh tế trọng điểm có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, phổ
biến trên 10%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong GDP với tốc độ khá nhanh.
Nhiều tỉnh thuần nông trước đây nhờ phát triển KCN sẽ nhanh trở thành những tỉnh
công nghiệp như Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương... Bộ mặt nông thôn đổi mới
9


theo hướng văn minh, hiện đại. Nhiều nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài có quy trình sản xuất công nghiệp hiện đại, công nghệ cao được xây
dựng và phát triển thu hút hàng chục tỉ USD và hàng nghìn tỉ đồng của các nhà đầu
tư trong và ngoài nước. Các KCN đã và đang thu hút hàng trăm nghìn lao động
nông thôn, tạo ra thị trường sức lao động mới để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
cấu lao động xã hội trong vùng. Hệ thống kết cấu hạ tầng được xây dựng mới và
nâng cấp, nhất là khu vực nông thôn, tỷ lệ hộ nghèo giảm (Đức Nguyên, 2015)
Tại sao phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn? Vì nông
nghiệp, nông thôn là khu vực đông dân cư nhất, lại có trình độ phát triển nhìn chung là
thấp nhất so với các khu vực khác của nền kinh tế. Nông dân chiếm hơn 70% dân số và

hơn 76% lực lượng lao động cả nước, đóng góp từ 25% đến 27% GDP của cả nước…
Hơn thế nữa, Đảng ta coi đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, còn vì
nông dân, nông thôn Việt Nam có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp cách mạng
của đất nước trước đây và trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Khu vực nông nghiệp,
nông thôn hiện có tài nguyên lớn về đất đai và các tiềm năng thiên nhiên khác: hơn
7 triệu ha đất canh tác; các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm
nông - lâm - hải sản (như cà-phê, gạo, hạt tiêu...). Nông nghiệp, nông thôn còn giữ
vai trò chủ đạo trong cung cấp các nguồn nguyên, vật liệu cho phát triển cụm công
nghiệp - dịch vụ.
Bộ mặt nông thôn Việt Nam trong thời gian vừa qua đã có nhiều đổi mới, từ
chỗ bị thiếu ăn, phải nhập khẩu gạo, đến nay đã và đang xuất khẩu gạo đứng thứ hai
trên thế giới (sau Thái Lan). Tuy nhiên, vẫn còn đó những hạn chế, yếu kém, mà
nhiều năm nay vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu. Chẳng hạn, vốn đầu tư cho khu vực
này vẫn thấp (chiếm 10% - 15% tổng đầu tư toàn xã hội); sản phẩm nông nghiệp lại
chủ yếu thiên về số lượng, chứ chưa nâng cao về chất lượng, giá thành nông sản còn
cao, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất còn thấp; sản lượng nông sản tuy tăng
nhưng chi phí đầu vào vẫn tăng cao, trong khi giá các mặt hàng nông sản trên thị
trường quốc tế lên xuống bất thường. Trong khi đó, các chính sách và biện pháp mà
Nhà nước đã áp dụng cho phát triển nông nghiệp những năm gần đây chưa tạo bước
đột phá mạnh. Trình độ dân trí của một bộ phận nông dân (nhất là vùng sâu, vùng
10


xa) chưa được cải thiện, đời sống, xã hội nông thôn mặc dù có sự chuyển biến song
chưa mạnh và không đồng đều. Tình trạng đó dẫn đến sự chênh lệch giữa khu vực
thành thị và nông thôn ngày càng lớn. Thêm nữa, kinh nghiệm từ các nước trên thế
giới và trong khu vực (như Singapo, Thái Lan, Trung Quốc, Thụy Điển, Tây Ban
Nha...) đều cho thấy bài học: công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
là cơ sở để chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế đất nước (Phạm Thanh Hà, 2015)
Tóm lại, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

chính là từng bước để phát triển nông thôn Việt Nam theo hướng hiện đại, xóa dần
khoảng cách giữa thành thị với nông thôn. Để làm được điều này, cần rất nhiều giải
pháp, trong đó một giải pháp quan trọng là phải phát triển dịch vụ và du lịch. Với tính
chất là ngành kinh tế tổng hợp mang tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, du
lịch phát triển sẽ tạo nhiều công ăn việc làm cho lao động nông thôn mà không cần
phải đào tạo công phu, từ đó góp phần từng bước nâng cao tích lũy và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn. Tiếp tục khuyến khích phát triển mạnh thêm du lịch sẽ giúp
cho nông thôn giải quyết hàng loạt vấn đề: tạo công ăn việc làm, nâng cao dân trí,
phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, từ đó, làm thay đổi cơ cấu kinh tế và lao động
trong nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ, phát triển nông thôn văn minh,
hiện đại phù hợp với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.1.4. Đặc điểm hộ nông dân và kinh tế hộ nông dân
* Hộ nông dân có những đặc điểm sau:
- Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở vừa là một đơn vị sản xuất vừa là
một đơn vị tiêu dùng.
- Quan hệ giữa tiêu dùng và sản xuất biểu hiện ở trình độ phát triển của hộ tự cấp,
tự túc. Trình độ này quyết định quan hệ giữa hộ nông dân và thị trường.
- Phương thức tổ chức sản xuất của hộ hông dân mang tính kế thừa truyền
thống gia đình và không đồng đều giữa các hộ gia đình với nhau.
- Hộ nông dân ngoài việc tham gia vào quá trình tái sản xuất vật chất còn tham
gia vào quá trình tái sản xuất nguồn nhân lực phục vụ cho các ngành sản xuất khác
nhau. Các hộ nông dân ngoài hoạt động nông nghiệp còn tham gia vào hoạt động
phi nông nghiệp với các mức độ rất khác nhau.
11


Kinh tế hộ nông dân vẫn tồn tại như một hình thái sản xuất đặc thù nhờ các
đặc điểm:
- Khả năng của nông dân thoả mãn nhu cầu của tái sản xuất đơn giản nhờ sự
kiểm soát tư liệu sản xuất, nhất là ruộng đất. Nhờ giá trị xã hội của nông dân hướng

vào quan hệ qua lại hơn là vào việc đạt lợi nhuận cao nhất.
- Nhờ việc chuyển giao ruộng đất từ thế hệ này sang thế hệ khác chống lại sự
tập trung ruộng đất vào tay một số ít nông dân.
- Khả năng của nông dân thắng được áp lực của thị trường bằng cách tăng thời
gian lao động vào sản xuất.
- Đặc trưng của nông nghiệp không thu hút việc đầu tư vốn do có tính rủi ro
cao và hiệu quả đầu tư thấp.
- Khả năng của nông dân kết hợp được hoạt động nông nghiệp và phi nông
nghiệp để sử dụng hết lao động và tăng thu nhập. Tuy vậy, ở tất cả các xã hội nền
kinh tế nông dân phải tìm cách để tồn tại trong các điều kiện rất khó khăn do áp lực
của các chế độ hiện hành gây ra.
- Việc huy động thặng dư của nông nghiệp để thực hiện các lợi ích của toàn xã
hội thông qua địa tô, thuế và sự lệch lạc về giá cả. Các tiến bộ kỹ thuật làm giảm giá
trị của lao động nông nghiệp thông qua việc làm giảm giá thành và giá cả của sản
phẩm nông nghiệp. Vì vậy, nông dân chỉ còn có khả năng tái sản xuất đơn giản nếu
không có sự hỗ trợ từ bên ngoài.
Như vậy, sản xuất của hộ nông dân tiến hoá từ tình trạng tự cấp sang sản xuất
hàng hoá ở các mức độ khác nhau. Trong quá trình tiến hoá ấy hộ nông dân thay đổi
mục tiêu và cách thức kinh doanh cũng như phản ứng với thị trường. (Chu Tiến
Quang, 2001)
Hộ nông dân hoàn toàn tự cấp theo lý thuyết của Tchayanov có mục tiêu tối đa
hoá lợi ích. Lợi ích ở đây là sản phẩm cần để tiêu dùng trong gia đình. Người nông
dân phải lao động để sản xuất lượng sản phẩm cho đến lúc không đủ sức để sản xuất
nữa, do vậy nông nhàn (thời gian không lao động) cũng được coi như một lợi ích.
Nhân tố ảnh hưởng nhất đến nhu cầu và khả năng lao động của hộ là cấu trúc dân số
của gia đình.
12


Hộ nông dân tự cấp hoạt động như thế nào còn phụ thuộc vào các điều kiện sau:

- Khả năng mở rộng diện tích (có thể bằng tăng vụ) có hay không:
- Có thị trường lao động không, vì người nông dân có thể bán sức lao động để
tăng thu nhập nếu có chi phí cơ hội của lao động cao.
- Có thị trường vật tư không vì có thể tăng thu nhập bằng cách đầu tư thêm
một ít vật tư (nếu có tiền để mua và có lãi).
- Có thị trường sản phẩm không vì người nông dân phải bán đi một ít sản
phẩm để mua các vật tư cần thiết hay một số hàng tiêu dùng khác.
Trong các điều kiện này người nông dân có phản ứng một ít với thị trường,
nhất là thị trường lao động và thị trường vật tư.
Tiến lên một bước nữa, hộ nông dân bắt đầu phản ứng với thị trường, tuy vậy
mục tiêu chủ yếu vẫn là tự cấp. Đây là kiểu hộ nông dân “nửa tự cấp” có tiếp xúc
với thị trường sản phẩm, thị trường lao động, thị trường vật tư. Hộ nông dân thuộc
kiểu này vẫn chưa phải một xí nghiệp kiểu tư bản chủ nghĩa hoàn toàn phụ thuộc
vào thị trường. Các yếu tố tự cấp vẫn còn lại rất nhiều và vẫn quyết định cách sản
xuất của hộ. Vì vậy, trong điều kiện này nông dân có phản ứng với giá cả, với thị
trường chưa nhiều. Tuy vậy, thị trường ở nông thôn là những thị trường chưa hoàn
chỉnh, đó đây vẫn có những giới hạn nhất định.
Cuối cùng đến kiểu hộ nông dân sản xuất hàng hoá là chủ yếu: Người nông
dân với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh của gia đình.
Kiểu nông dân này phản ứng với thị trường vốn, thị trường ruộng đất, thị trường vật
tư, lao động và thị trường sản phẩm. Tuy vậy, giả thiết rằng người nông dân là
người sản xuất có hiệu quả không được chứng minh trong nhiều công trình nghiên
cứu. Điều này, có thể giải thích do hộ nông dân thiếu trình độ kỹ thuật và quản lý,
do thiếu thông tin thị trường, do thị trường không hoàn chỉnh. Đây là một vấn đề
đang còn tranh luận. Vấn đề ở đây phụ thuộc vào trình độ sản xuất hàng hoá, trình
độ kinh doanh của nông dân (Nguyễn Văn Nam, 2014)
* Những đặc trưng cơ bản của kinh tế hộ nông dân
- Sự thống nhất chặt chẽ giữa việc sở hữu quản lý và sử dụng các yếu tố sản
13



xuất. Sở hữu trong kinh tế hộ là sở hữu chung, tất cả mọi thành viên trong hộ đều có
quyền sở hữu tư liệu sản xuất vốn có cũng như các tài sản khác của hộ. Mặt khác, do
dựa trên cơ sở kinh tế chung và có ngân quỹ nên các thành viên trong hộ có ý thức
trách nhiệm cao và bố trí sắp xếp công việc trong hộ cũng rất linh hoạt và hợp lý cho
từng người, từng việc tạo nên việc thống nhất cao trong tổ chức sản xuất của hộ
- Sự gắn bó giữa lao động quản lý và lao động sản xuất. Trong nông hộ, mọi
thành viên thường gắn bó chặt chẽ với nhau theo quan hệ huyết thống. Hơn nữa,
kinh tế hộ lại tổ chức ở quy mô nhỏ, người quản lý điều hành và đồng thời cũng là
người tham gia lao động sản xuất. Cho nên, tính thống nhất giữa lao động quản lý
và lao động là rất cao.
- Kinh tế hộ có khả năng thích nghi và tự điều chỉnh cao. Do kinh tế hộ có quy
mô nhỏ nên bao giờ cũng thích nghi nhanh hơn so với các hình thức sản xuất khác
có quy mô sản xuất lớn hơn, do vậy mà có thể mở rộng sản xuất khi có điều kiện
thuận lợi và thu hẹp quy mô khi gặp điều kiện bất lợi.
- Có sự gắn bó chặt chẽ giữa quá trình sản xuất với lợi ích của những người
lao động. Trong khi kinh tế hộ, mọi người gắn bó với nhau không chỉ trên cơ sở
cùng huyết thống mà còn trên cơ sở kinh tế nên dễ dàng đồng tâm hiệp lực xậy
dựng và phát triển kinh tế hộ, tạo sự liên kết chặt chẽ hơn giữa kết quả sản xuất và
lợi ích của người lao động. Lợi ích kinh tế là động lực thúc đẩy hoạt động của mỗi
cá nhân, là nhân tố nâng cao hiệu quả sản xuất của kinh tế hộ.
- Kinh tế hộ là đơn vị sản xuất có quy mô nhỏ nhưng hiệu quả. Sản xuất với
quy mô nhỏ không đồng nghĩa với lạc hậu và năng suất thấp. Kinh tế hộ nông dân
vẫn có khả năng cho năng suất lao động cao hơn các xí nghiệp nông nghiệp có quy
mô lớn. Đặc biệt kinh tế hộ nông dân là hình thức kinh tế hợp nhất với đặc điểm sản
xuất nông nghiệp mà đối tượng sản xuất chủ yếu là cây trồng và vật nuôi. Thực tế
phát triển sản xuất nông nghiệp trên thế giới đã chứng minh cho chúng ta thấy rõ:
kinh tế nông hộ có quy mô nhỏ chủ yếu sử dụng lao động gia đình gắn bó với vật
nuôi và cây trồng là đơn vị sản xuất có hiệu quả (Đào Thế Tuấn, 1997).


14


2.1.5 Nội dung nghiên cứu về ảnh hưởng của các khu công nghiệp tới đời sống hộ
nông dân
* Ảnh hưởng đến đất đai
Quá trình phát triển nhanh các khu công nghiệp đã làm diện tích đất nông
nghiệp bị thu hẹp, nhu cầu về sử dụng đất chuyên dùng xây dựng hệ thống cơ sở
hạ tầng và đất đô thị tăng lên rất nhanh. Điều này đã dẫn đến tình trạng “nuốt
chửng” những diện tích đất nông nghiệp vốn rất cần thiết cho một đô thị như: sản
xuất lương thực, thực phẩm, tạo mảng không gian xanh có vai trò “giải độc” cho
môi trường sống, tạo khu nghỉ ngơi cho người dân…Việc thu hồi đất nông nghiệp
đã tác động tới đời sống của các hộ dân vì họ thiếu phương tiện lao động và kế
sinh nhai truyền thống, trong đó có nhiều hộ rơi vào tình trạng bần cùng hoá (Lưu
Song Hà, 2009)
Để phục vụ các khu công nghiệp, theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, bình quân mỗi năm có hàng chục nghìn ha đất nông nghiệp được
thu hồi, trong 4 năm từ năm 2011 – 2014, tổng diện tích đất nông nghiệp đã lấy là
hơn 300 nghìn ha. Hai vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và phía Bắc là nơi được
thu hồi đất nhiều nhất, trong đó những địa phương đứng đầu là: Thái Nguyên, Đồng
Nai, Bình Dương, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh... Điều đó tác động tới đời sống
khoảng 2 triệu người với gần 600 nghìn hộ nông dân. Số liệu cho thấy, trung bình
cứ mỗi ha đất thu hồi, sẽ làm hơn 10 lao động nông dân mất việc.
Việt Nam là quốc gia xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới, năm 2014 xuất
khẩu 6,2 triệu tấn gạo. Dù vậy không có nghĩa là chúng ta không có nguy cơ mất
cân đối an ninh lương thực trong tương lai, nhất là thiếu lương thực cục bộ ở khu
vực dân cư nghèo, khi diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp, dân số tăng, tình hình
thiên tai, dịch bệnh, giá lương thực tăng cao... Mục tiêu hàng đầu của nước ta là giữ
diện tích lúa ít nhất ở mức 3,8 triệu - 4 triệu ha, sản lượng đạt khoảng 44-45 triệu
tấn lúa/năm như hiện nay thì an ninh lương thực của Việt Nam được bảo đảm.

Tuy nhiên việc thu hồi đất nông nghiệp đã tác động tới đời sống của các hộ
dân vì họ thiếu phương tiện lao động và kế sinh nhai truyền thống, trong đó có
nhiều hộ rơi vào tình trạng bần cùng hoá.
15


* Ảnh hưởng tới môi trường
Việc hình thành các KCN nhằm tạo điều kiện để các chủ doanh nghiệp đầu
tư mở rộng qui mô sản xuất, song thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp đã nhập dây
chuyền công nghệ lạc hậu hàng chục năm. Điều này, không chỉ làm giảm sức cạnh
tranh, mà còn khiến hoạt động sản xuất không ổn định, gây ô nhiễm môi trường
(Phan Tiến Ngọc, 2006)
Việc xử lý chất thải của các nhà máy trước khi thải ra môi trường đang làm
đau đầu các nhà quản lý. Theo ước tính, mỗi KCN thải khoảng từ 3.000 - 10.000 m3
nước thải/ngày đêm. Như vậy, tổng lượng nước thải công nghiệp của các KCN trên
cả nước lên khoảng 500.000 - 700.000m3/ngày đêm.
Ngay cả ở những KCN đã có trạm xử lý nước thải tập trung, thì chất lượng
thực tế của các công trình này vẫn còn hạn chế, chưa đạt được những tiêu chuẩn quy
định, gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ở một số KCN tập trung các ngành công
nghiệp nhẹ như dệt may, thuộc da, ngành hoá chất… độc hại cao.
Ngoài ra, tại các KCN, ô nhiễm khí bụi và tiếng ồn là loại hình ô nhiễm khó
kiểm soát và không được quan tâm. Khí thải của các cơ sở sản xuất chứa nhiều chất
độc hại được xả trực tiếp vào môi trường, ảnh hưởng đến sức khoẻ của nhân dân
quanh vùng.
Theo kết quả quan trắc, nồng độ chất SO2, CO và NO2 gần KCN hoặc trong
các KCN đang gia tăng. Nồng độ bụi tại ven các trục giao thông chính đều đã vượt
tiêu chuẩn cho phép từ 2 - 6 lần. Tại nhiều nhà máy cơ khí, luyện kim, công nghiệp
hoá chất, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến khoáng sản… trong
KCN, nồng độ bụi và khí độc hại (điển hình là khí SO2) trong không khí, vượt tiêu
chuẩn cho phép từ 2 - 5 lần.

Cùng với đó, người dân đang phải gánh chịu những ảnh hưởng tiêu cực từ
việc phát triển các KCN ở địa phương, sự ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt, sự thoái
hoá đất đai do những chất thải độc hại từ KCN gây ra…
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự gia tăng ô nhiễm môi trường trong KCN,
trong đó phải nói đến công tác quy hoạch các KCN còn nhiều điểm không hợp lý,
như việc bố trí một số KCN gần đường giao thông, khoảng cách quá gần khu dân
16


cư. Do đó, ô nhiễm trong KCN dễ dàng gây những ảnh hưởng không tốt tới môi
trường xung quanh. Thêm vào đó là nhận thức về việc bảo vệ môi trường trong các
KCN của các cấp chính quyền địa phương chưa cao, chưa đánh giá đúng mức vấn
đề môi trường đối với việc phát triển bền vững. Các cơ quan Nhà nước ở địa
phương và Trung ương chưa có chế tài và giám sát chặt chẽ việc xây dựng KCN
theo quy hoạch và theo đúng dự án đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Do
đó, trong báo cáo khả thi, các hạng mục xử lý nước thải, chất thải và bảo vệ môi
trường, trên thực tế không được triển khai. Mặt khác, chi phí xây dựng hệ thống xử
lý chất thải cùng với việc chưa có cơ chế hỗ trợ thoả đáng từ phía Nhà nước, là một
trong những nguyên nhân khiến các nhà đầu tư chậm triển khai các hệ thống này.
Chất thải công nghiệp cũng đang là mối nguy cơ đe dọa tới cuộc sống của
một số địa phương có KCN đóng trên địa bàn. Chất thải công nghiệp chưa được xử lý
kỹ càng, sẽ gây ô nhiễm trầm trọng tới nguồn nước, không khí, tiếng ồn…. Về vấn đề
này đã có khá nhiều địa phương phải trả giá; đời sống người dân thật sự bị đe dọa. Nếu
chúng ta không đánh giá đúng và không đưa ra những giải pháp hữu hiệu, tổ chức tốt
việc phòng chống ô nhiễm thực tại này sẽ gây những tác hại khôn lường.
* Ảnh hưởng tới lao động, việc làm
Việc phát triển khu công nghiệp đã tạo ra một kênh thu hút lao động rất có tiềm
năng và hiệu quả, góp phần quan trọng giải quyết việc làm cho lao động.
Những năm gần đây, lực lượng lao động trong khu công nghiệp gia tăng
mạnh mẽ gắn liền với sự gia tăng của các khu công nghiệp thành lập mới và mở

rộng. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn ít, thiếu đồng bộ, dẫn đến chất
lượng nguồn nhân lực thấp, đang là rào cản cho việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, văn minh và bền vững.
Tại các khu công nghiệp, phần lớn lao động vừa mới thoát ra khỏi đồng ruộng hoặc
các trường phổ thông chưa qua đào tạo ngành nghề cơ bản. Tình trạng thiếu việc
làm trong thời vụ đang là khó khăn hiện nay ở nông thôn. Năng lực của hệ thống
chính trị cấp cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn. Mức hưởng thụ
của người nông dân còn thấp, khoảng cách thu nhập và đời sống giữa thành thị và
nông thôn ngày càng tăng. Giá cả leo thang đang là những vấn đề bức xúc, ảnh
17


hưởng lớn đến cuộc sống của người nông dân (Nguyễn Thị Hải Vân, 2014)
* Ảnh hưởng tới thu nhập hộ nông dân
Sản xuất nông nghiệp ở các địa phương vẫn theo phương thức cũ, nhỏ lẻ,
phân tán nên hiệu quả kinh tế thấp và có nguy cơ kém bền vững trước thiên tai dịch
bệnh và biến động của thị trường. Diện tích đất nông nghiệp giảm nhanh do quá
trình phát triển các khu công nghiệp, từ đó làm hạn chế cơ hội để nâng cao thu nhập
từ ngành chính là trồng trọt, trong khi khả năng phát triển chăn nuôi, thủy sản và
các ngành nghề phi nông nghiệp còn hạn chế. Các sản phẩm rau quả và chăn nuôi
gia súc, gia cầm có sức cạnh tranh thấp.
Người nông dân bị thu hồi đất cho công nghiệp hóa, hay đô thị hóa cũng rơi
vào tình trạng tư liệu sản xuất bị mất hoặc giảm đi, trong lúc chưa chuẩn bị kịp các
điều kiện để chuyển đổi nghề nghiệp. Phần đông nông dân có tiền (tiền đền bù do bị
thu hồi đất) cũng khó tìm phương án nào cho hiệu quả để sử dụng cho sản xuất, kinh
doanh làm cho nó sinh sôi nảy nở. Nhiều hộ nông dân đang rơi vào cảnh thua thiệt
trước "vòng xoáy" của các quy luật thị trường, nhất là ở những nơi hợp tác xã không
còn tồn tại, chính quyền cơ sở lại yếu kém, thì không biết dựa vào đâu? Bởi vậy, sự
nghiệt ngã của tình cảnh "nghèo thì nghèo thêm, giàu thì giàu nhanh hơn" đang là tác
nhân chính khoét sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo giữa người giàu và người nghèo,

giữa nông thôn và thành thị. Đây là nguyên nhân chính của hiện tượng số người tự do
di cư ra thành thị kiếm việc làm đang tăng lên. Họ luôn trong tâm lí lo sợ rủi ro, bởi
vậy, tư duy "ăn chắc, mặc bền" vẫn là phổ biến, có đồng nào đổ vào "xây nhà xây
cửa" chắp vá, cơi nới một cách manh mún và rất tốn kém (Nguyễn Văn Nam, 2014)
* Ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sự phát triển của các KCN đã đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH, HĐH. Trong quá trình đó, cơ cấu ngành kinh tế thay đổi theo hướng
giảm tỉ trọng của khu vực nông nghiệp và gia tăng nhanh tỉ trọng của khu vực công
nghiệp và dịch vụ. Đối với sản xuất nông nghiệp nói riêng, góp phần làm thay đổi
về cơ cấu diện tích gieo trồng và cơ cấu giá trị sản xuất. Các loại cây trồng có giá trị
kinh tế thấp, sử dụng nhiều lao động đang có xu hướng giảm dần diện tích. Các loại
cây cần ít lao động hơn và cho giá trị kinh tế cao hơn đang được tăng dần diện tích
18


canh tác. Trong tổng giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp thì xu hướng chung là
giảm dần tỉ trọng của ngành trồng trọt và tăng tỉ trọng ngành chăn nuôi (Phạm
Thanh Hà, 2015)
* Ảnh hưởng tới xã hội nông thôn
Năng lực của hệ thống chính trị cấp cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu phát triển
của thực tiễn. Mức hưởng thụ của người nông dân còn thấp, khoảng cách thu nhập
và đời sống giữa thành thị và nông thôn ngày càng tăng. Giá cả leo thang đang là
những vấn đề bức xúc, ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người nông dân.
Do thúc đẩy tăng trưởng nhanh các khu công nghiệp nhưng chưa quan tâm
giải quyết đúng mức ngay từ đầu những yếu tố hạ tầng xã hội hỗ trợ thiết yếu như:
giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao,... dẫn đến tình trạng đời sống văn hóa tinh
thần của những cộng đồng dân cư mới và công nhân ở trọ xung quanh các khu công
nghiệp thực sự bức xúc, đôi khi trở thành nơi sản sinh ra các loại tệ nạn xã hội.
Nhìn chung việc tổ chức triển khai xây dựng các dự án đều theo đúng trình
tự, đúng qui định của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước

thu hồi đất. Tuy nhiên, hiện nay do giá cả thị trường bất động sản luôn biến động,
cùng với sự lôi kéo kích động của các phần tử xấu nên việc khiếu kiện đông người
vượt cấp kéo dài, nội dung chủ yếu là đòi nâng giá bồi thường, nâng cấp loại đất bồi
thường, giảm giá đất tái định cư, v.v. làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Sự tập trung cao của lao động tại các KCN đang khiến cho vấn đề xã hội
ngày càng trở thành áp lực lớn đối với chính quyền địa phương và người dân quanh
KCN. Đó là tình trạng thiếu nhà ở, điều kiện sinh hoạt khó khăn, thiếu các công
trình phúc lợi công cộng, giá cả hàng hóa tiêu dùng tăng và đáng lo ngại nhất vẫn là
nảy sinh tệ nạn xã hội (Đức Nguyên, 2015)
2.1.6. Các yếu tố ảnh hưởng của việc phát triển các khu công nghiệp tới việc làm và
đời sống của người lao động
* Các nhân tố phát triển kinh tế - cơ cấu kinh tế:
Quan hệ cung cầu trên thị trường hình thành nhu cầu tiêu dùng và sản xuất
của xã hội.
19


Lao động và đất đai là hai bộ phận cơ bản của sản xuất nông nghiệp, số
lượng và chất lượng của lao động có ý nghĩa to lớn đối với cơ cấu ngành trong nông
nghiệp và nông thôn.
Cơ sở hạ tầng là điều kiện quan trọng để mở rộng nâng cao giá trị của nông
sản hàng hoá, tiết kiệm chi phí trong sản xuất, nó cũng là tiền đề cho chuyển dịch cơ
cấu kinh tế.
Khoa học công nghệ ngày nay phát triển rất mạnh và đã trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp
Cơ chế chính sách là yếu tố chủ quan của Nhà nước tác động vào nền kinh
tế, nhằm mục đích phát triển nền kinh tế đúng hướng và có hiệu quả
Các yếu tố ảnh hưởng khác như nguồn vốn, sự phát triển của các KCN, khu
đô thị, kinh nghiệm, tập quán, truyền thống dân cư ở nông thôn cũng ảnh hưởng tới

sự hình thành và phát triển các ngành sản xuất và kinh tế nông thôn.
* Yếu tố phát triển khu công nghiệp.
Việc thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp không chỉ ảnh hưởng đến
chỗ ở, việc làm của người dân mà còn ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập và đời sống
cả về vật chất lẫn tinh thần của gia đình họ.
* Yếu tố xã hội.
- Biến động về dân số tự nhiên là do tác động của sinh đẻ và tử vong.
- Biến động cơ học là do tác động của quá trình di dân.
- Yếu tố giáo dục:
Giáo dục theo nghĩa rộng là tất cả các dạng học tập của con người nhằm
nâng cao kiến thức và kỹ năng của con người trong suốt cả cuộc đời.
- Yếu tố ảnh hưởng tiếp theo là y tế và sức khoẻ:
Sức khoẻ có tác động đến chất lượng lao động trong cả hiện tại và tương lai.
- Yếu tố về tính kỷ luật và chất lượng lao động:
Ngoài những yếu tố ảnh hưởng trên thì các nhà quản lý cho rằng yếu tố về
tính kỷ luật và chất lượng trong lao động ngày nay là rất cần thiết

20


×