Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

đánh giá tác động của dồn điền đổi thửa đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại huyện lý nhân, tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (18.52 MB, 91 trang )

MỤC LỤC
Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục bảng

vi

Danh mục hình

vii

Danh mục chữ viết tắt

viii

MỞ ĐẦU

1

1


Tính cấp thiết của đề tài

1

2

Mục đích của đề tài

3

3

Yêu cầu của đề tài

3

Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

4

1.1 Cơ sở lý luận về dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp

4

1.1.1 Manh mún đất đai và sự cần thiết phải dồn điền đổi thửa

4

1.1.2 Tác động của dồn điền đổi thửa tới sử dụng đất nông nghiệp


9

1.2 Những nghiên cứu về công tác dồn điền đổi thửa trên thế giới và Việt Nam

10

1.2.1 Vấn đề sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới

10

1.2.2 Kết quả thực hiện dồn điền đổi thửa ở Việt Nam

17

1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp

21

1.3.1 Nhóm các yếu tố về điều kiện tự nhiên

22

1.3.2 Nhóm các yếu tố kinh tế - xã hội

22

1.3.3 Nhóm các yếu tố về tổ chức cơ sở vật chất, kỹ thuật

24


Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

26

2.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

26

2.2 Nội dung nghiên cứu:

26

2.2.1 Đánh giá khái quát điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội có liên quan
đến sử dụng đất

26

2.2.2 Đánh giá tình hình quản lý đất đai và hiện trạng sử dụng đất của
huyện Lý Nhân

26

iii


2.2.3 Tìm hiểu được tình hình thực hiện chính sách dồn điền đổi thửa ở
huyện Lý Nhân

26


2.2.4 Tác động của công tác dồn điền đổi thửa đến sử dụng đất sản xuất
nông nghiệp trên địa bàn huyện Lý Nhân

26

2.2.5 Hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp trước và sau khi thực
hiện dồn điền đổi thửa

27

2.2.6 Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp sau khi
thực hiện chính sách dồn điền đổi thửa
2.3 Phương pháp nghiên cứu

27
27

2.3.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu

27

2.3.2 Phương pháp thu thập thông tin

28

2.3.3 Phương pháp phân tích và xử lý số liệu

28

2.3.4 Phương pháp xác định hệ thống chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả sử dụng

đất sản xuất nông nghiệp trước và sau khi dồn đổi ruộng đất
2.3.5 Phương pháp minh họa bằng bản đồ, hình ảnh

29
31

Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

32

3.1.Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội

32

3.1.1 Điều kiện tự nhiên

32

3.1.2 Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội

38

3.2 Đánh giá tình hình quản lý đất đai và hiện trạng sử dụng đất của huyện
Lý Nhân

42

3.2.1 Hiện trạng sử dụng đất huyện Lý Nhân năm 2014

42


3.2.2 Tình hình biến động các loại đất trong thời gian nghiên cứu

43

3.3.Tình hình thực hiện chính sách Dồn điền đổi thửa ở huyện Lý Nhân

44

3.3.1 Các văn bản pháp lý về dồn điền đổi thửa trên địa bàn huyện Lý
Nhân, tỉnh Hà Nam

44

3.3.2 Các bước thực hiện quá trình dồn đổi ruộng đất

47

3.3.3 Kết quả đạt được

50

3.4.Tác động của công tác dồn điền đổi thửa đến sử dụng đất sản xuất nông
nghiệp trên địa bàn huyện Lý Nhân

iv

52



3.4.1 Tác động của công tác DĐĐT đến diện tích, năng suất, sản lượng
một số cây trồng chính trước và sau DĐĐT

52

3.4.2 Dồn điền đổi thửa làm thay đổi hệ thống giao thông, thuỷ lợi

54

3.4.3 Một số kiểu sử dụng đất trước và sau DĐĐT

55

3.4.4 Tác động của công tác DĐĐT đến việc cơ giới hoá trong sản xuất
nông nghiệp

57

3.4.5 Tác động của DĐĐT đến việc hình thành các trang trại

58

3.4.6 Tác động của DĐĐT đến việc quản lý và sử dụng đất công ích

61

3.4.7 Tạo tâm lý ổn định cho người nông dân yên tâm đầu tư sản xuất

61


3.5 Hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp trước và sau khi thực hiện dồn
điền đổi thửa

62

3.5.1 Dồn điền đổi thửa mang lại giá trị kinh tế

62

3.5.2 Dồn điền đổi thửa góp phần nâng cao hiệu quả xã hội

66

3.5.3 Dồn đổi ruộng đất góp phần bảo vệ môi trường

68

3.5.4 Nhận xét chung

72

3.6 Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất sản xuất
nông nghiệp của nông hộ sau khi thực hiện chính sách DĐĐT

74

3.6.1 Giải pháp về chính sách

74


3.6.2 Giải pháp kỹ thuật chuyển dịch cơ cấu sản xuất

75

3.6.3 Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai

75

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

76

TÀI LIỆU THAM KHẢO

79

PHỤ LỤC

81

v


DANH MỤC BẢNG
STT

Tên bảng

Trang


1.1

Thực trạng manh mún đất đai năm 2010

7

1.2

Diện tích và số thửa ruộng của mỗi hộ nông dân Trung Quốc

1.3

Tình hình biến động về số lượng và quy mô trang trại nông nghiệp ở
một số nước Châu Âu

3.1

11
16

Bảng tổng hợp tình hình phát triển kinh tế, xã hội của huyện Lý Nhân
năm 2014

39

3.2

Hiện trạng sử dụng đất huyện Lý Nhân năm 2014

42


3.3

Tình hình biến động diện tích theo mục đích sử dụng từ năm 2010 đến
năm 2014

3.4

43

Thực trạng ruộng đất nông nghiệp huyện Lý Nhân trước và sau dồn
điền đổi thửa

3.5

50

Diện tích, năng suất, sản lượng một số cây trồng chính trước DĐĐT
(2010) và sau DĐĐT (2014)

53

3.6

Diện tích đất giao thông, thuỷ lợi nội đồng trước và sau DĐĐT

54

3.7


Một số kiểu sử dụng đất chính trước và sau DĐĐT

56

3.8

Sự thay đổi vật tư và các thiết bị phục vụ sản xuất sau khi dồn điền

3.9

đổi thửa

57

Số trang trại sản xuất nông nghiệp sau dồn đổi ruộng đất

59

3.10 Giá thuê đất công ích thực tế trước và sau dồn điền đổi thửa

61

3.11 Mức độ đầu tư, chi phí của các hộ trên 1 sào lúa trước và sau dồn điền
đổi thửa

63

3.12 Hiệu quả kinh tế sử dụng đất trên một hecta đất nông nghiệp tại 2 xã
điều tra


65

3.13 Mức độ sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu, BVTV bình quân 1 hộ điều
tra trước và sau DĐĐT

68

3.14 Kết quả phỏng vấn nông hộ sau dồn điền đổi thửa

vi

70


DANH MỤC HÌNH
STT

Tên hình

Trang

1.1

Quy mô sản xuất nông nghiệp các vùng

3.1

Sơ đồ vị trí huyện Lý Nhân trong tỉnh Hà Nam

3.2


Giao thông nội đồng sau khi đã dồn điền đổi thửa xã Bắc Lý Huyện

8
32

Lý Nhân

55

3.3

Cây lạc xuân ở Huyện Lý Nhân sau khi đã dồn điền đổi thửa

56

3.4

Áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp ở Lý Nhân sau khi DĐĐT

58

3.5

Mô hình chăn nuôi hỗn hợp của gia đình ông Trần Văn Phước xóm 6 xã
Nhân Khang huyện Lý Nhân

3.6

59


Mô hình chăn nuôi kết hợp lúa – cá của gia đình bà Nguyễn Thị Én xóm
6 xã Nhân Khang huyện Lý Nhân

3.7

60

Mô hình trang trại chăn nuôi của gia đình ông Nguyễn Đức Vĩnh thôn
Yên Trạch xã Bắc Lý huyện Lý nhân

3.8

Sơ đồ tình trạng manh mún đất đai trước và sau DĐĐT khu đồng xã
Bắc Lý.

3.9

60
62

Mô hình trang trại nuôi trồng thủy sản hộ gia đình bà Trần Thị Trúc
thôn Tú Yên xá Bắc Lý huyện Lý Nhân.

vii

67


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


BCĐ

Ban chỉ đạo

BTV

Ban thường vụ

CNH - HĐH

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

DĐĐT

Dồn điền đổi thửa

DĐRĐ

Dồn đổi ruộng đất

GCNQSDĐ

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

HĐND

Hội đồng nhân dân

HTX


Hợp tác xã

HUV

Huyện ủy viên

NN & PTNT

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

NTM

Nông thôn mới

TTCN

Tiểu thủ công nghiệp

TN & MT

Tài nguyên và môi trướng

UBND

Ủy ban nhân dân

viii



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, không thể thay thế của sản xuất nông
nghiệp. Trong lịch sử phát triển nông nghiệp, cải cách ruộng đất luôn là khâu bứt
phá quyết định mọi quan hệ sản xuất và ảnh hưởng rõ rệt nhất đến quá trình phát
triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Có thể nói đất đai cần thiết cho tất cả các
ngành kinh tế quốc dân. Tuy nhiên tài nguyên đất đai có hạn. Bởi vậy việc quản lý,
sử dụng đất đai hợp lý, hiệu quả và bền vững là một đòi hỏi cấp thiết không chỉ
riêng đối với quốc gia nào.
Trong công cuộc cải cách kinh tế nông nghiệp nông thôn những năm trước
đây, Đảng và Nhà nước ta đã có hàng loạt những chính sách mới về đất đai nhằm thúc
đẩy sản xuất nông nghiệp, giải quyết vấn đề lương thực của cả nước, trong đó điển
hình là Luật đất đai năm 1993. Nghị định số 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ
“Ban hành bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử
dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp”. Theo đó ruộng đất được
chia đến tận tay người nông dân. Những chính sách mới về quyền sử dụng đất đai đã
làm thay đổi hoàn toàn quan hệ sản xuất ở nông thôn, người nông dân đã thực sự trở
thành người chủ mảnh đất của riêng mình. Đó là động lực cho sự phát triển vượt bậc
của nền nông nghiệp nước ta sau giải phòng miền Nam. Điều đó đã đưa Việt Nam từ
một nước hàng năm phải nhập khẩu một lượng lớn lương thực, vươn lên thành một
nước xuất khẩu lớn trên thế giới về một số mặt hàng nông sản như: gạo, cà phê, chè,
hạt tiêu, thuỷ sản…
Vai trò to lớn của sự phân chia ruộng đất cho hộ nông dân như nói trên là
không thể phủ nhận. Song với bối cảnh ngày nay, đất nước đang trên đà phát triển
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong môi trường hội nhập kinh tế quốc
tế, ngành nông nghiệp không những có nhiệm vụ quan trọng là đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia mà còn phải đảm bảo tối đa nguyên liệu cho ngành công
nghiệp, tăng khối lượng nông sản xuất khẩu. Như vậy đòi hỏi chúng ta phải xây
dựng được một nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ


1


thuật vào đồng ruộng thật hiệu quả. Nhưng trên thực tế, khi chia ruộng đất cho nông
dân theo tinh thần của Nghị định 64/CP của Chính Phủ, chúng ta đã thực hiện
phương châm công bằng xã hội: ruộng tốt cũng như ruộng xấu, ruộng xa cũng như
ruộng gần đều được chia đều tính trên một nhân khẩu cho các gia đình, dẫn đến tình
trạng ruộng đất bị phân tán nên không đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền
nông nghịêp trong hoàn cảnh mới. Vậy nên nó đã cho thấy một số hạn chế, điển
hình là tình trạng manh mún ruộng đất.
Sự manh mún ruộng đất đã dẫn đến tình trạng chung là hiệu quả của sản xuất
thấp, hạn chế khả năng đổi mới và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất. Ngoài ra, tình trạng manh mún ruộng đất còn gây nên những khó khăn trong
quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên đất.
Để khắc phục tình trạng manh mún ruộng đất như nói trên, thì việc dồn đổi
ruộng đất từ nhiều ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn; liền khu, liền khoảnh là việc làm hết
sức cần thiết, đáp ứng được đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng một nền sản
xuất nông nghiệp hàng hoá, áp dụng cơ giới hoá và tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
đồng ruộng; đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, tạo điều kiện cho các hộ
nông dân trong việc yên tâm sử dụng và khai thác đất nông nghiệp lâu dài và hiệu
quả, đồng thời nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai.
Nắm bắt được tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra chủ chương
“Dồn đổi ruộng đất” để việc sử dụng đất có hiệu quả hơn.
Trên thực tế, một số tỉnh đã triển khai làm điểm, thậm chí có những nơi đã đưa
ra những chính sách riêng để triển khai dồn điền đổi thửa giữa các hộ xã viên. Việc
dồn điền đổi thửa cũng đã thành công ở nhiều nơi, nhiều chỗ nhưng cũng có những
địa phương không thành công. Mặt khác mức độ thành công ở mỗi nơi là khác nhau.
Có nơi công việc chỉ diễn ra nhanh chóng trong một vài tháng, nhưng có nơi kéo dài
hàng năm, gây tốn kém sức người và tiền của.
Lý Nhân là một huyện của tỉnh Hà Nam đã thực hiện công tác đồn điền đổi

thửa, xong công tác đồn điền đổi thửa có ảnh hưởng đến sử dụng đất của các hộ nông
dân hay không thì chưa đánh giá và tổng kết lại để đưa ra các kinh nghiệm, những
vấn đề tồn tại trong việc thực hiện dồn điền đổi thửa và những khuyến nghị hữu ích

2


cho các địa phương khác thực hiện dồn điền đổi thửa được hiệu quả hơn.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“Đánh giá tác động của dồn điền đổi thửa đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
tại huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam”.
2. Mục đích của đề tài
- Đánh giá thực trạng và ảnh hưởng của dồn điền đổi thửa đến hiệu quả sử
dụng đất sản xuất nông nghiệp.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu liên quan đến vấn đề dồn điền đổi thửa
nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp.
3. Yêu cầu của đề tài
- Nắm được điều kiện tự nhiên- kinh tế xã hội có liên quan đến sử dụng đất
nông nghiệp của huyện Lý Nhân.
- Tình hình sử dụng đất và hiệu quả sử dụng đất trước và sau khi dồn điền đổi thửa.
- Những ảnh hưởng của công tác dồn điền đổi thửa đến sử dụng đất canh tác
trên địa bàn nghiên cứu.
- Hiệu quả của các loại hình sử dụng đất trước và sau khi dồn điền đổi thửa.

3


Chương 1.TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở lý luận về dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp

1.1.1. Manh mún đất đai và sự cần thiết phải dồn điền đổi thửa
1.1.1.1. Manh mún đất đai
a. Khái niệm
Manh mún ruộng đất được hiểu trên hai khía cạnh: một là sự manh mún về
mặt ô thửa, trong đó một đơn vị sản xuất (thường là nông hộ) có quá nhiều mảnh
ruộng với kích thước quá nhỏ và bị phân tán ở nhiều xứ đồng. Hai là sự manh mún
thể hiện trên quy mô đất đai của các đơn vị sản xuất, số lượng ruộng đất quá nhỏ
không tương thích với số lượng lao động và các yếu tố sản xuất khác.
Cả hai kiểu manh mún trên đều dẫn đến tình trạng là hiệu quả sản xuất thấp,
khả năng đổi mới và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là vấn đề cơ giới
hoá, thuỷ lợi hoá trong nông nghiệp,... dẫn đến tình trạng sử dụng đất kém hiệu quả.
Vì thế người ta luôn tìm cách khắc phục tình trạng này.
b. Nguyên nhân manh mún ruộng đất
Tình trạng manh mún ruộng đất do các nguyên nhân sau:
+ Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng manh mún ruộng đất là sự phức tạp
của địa hình, nhất là các vùng đồi núi, trung du. Do địa hình bị chia cắt nên đất đai ở đa
số các địa phương hầu như đều có 3 loại đất: đất cao, đất vàn, đất thấp, trũng.
+ Chế độ thừa kế chia đều ruộng đất cho tất cả con cái. Ở Việt Nam ruộng
đất của cha mẹ thường được chia đều cho tất cả các con sau khi ra ở riêng. Vì thế
tình trạng phân tán ruộng đất gắn liền với chu kỳ phát triển của nông hộ.
+ Do tâm lý tiểu nông của các hộ sản xuất nhỏ. Do quy mô sản xuất nhỏ lẻ,
các hộ nông dân ngại thay đổi, nhất là những thay đổi liên quan đến ruộng đất.
+ Phương pháp chia ruộng bình quân theo nguyên tắc có tốt, có xấu, có xa,
có gần khi thực hiện Nghị định 64 CP năm 1994. Việc chia nhỏ các thửa ruộng để
có sự công bằng giữa các hộ đó góp phần không nhỏ làm tăng tình trạng manh mún

4


ruộng đất. Quan điểm muốn bảo vệ sự công bằng cho những người dân được chia

ruộng và nhiều lý do sau đây khiến đa số các địa phương chia nhỏ ruộng cho nông
dân, đó là:
- Tất cả các hộ đều phải có ruộng gần, xa, tốt, xấu, cao, thấp. Có như vậy mới
thể hiện tính công bằng.
- Độ phì tự nhiên của đất ở các khu khác nhau phải chia đều cho các hộ.
- Do hiệu quả kinh tế của các loại hình sử dụng đất khác nhau nên phải chia
đều đất cho các hộ.
- Các chân đất thường không an toàn do các vấn đề như úng, hạn, chua... do
đó việc chia đều rủi ro cho các hộ cũng là chỉ tiêu quan trọng trong khi chia ruộng.
- Ngoài ra, giá đất luôn biến động, tăng cao đặc biệt là các khu đất gần các
trục đường chính hoặc trong tương lai sẽ nằm trong quy hoạch khu đô thị, khu công
nghiệp... vì thế đất ở đó phải được chia đều cho các hộ để mọi người đều có thể
hưởng "thành quả" đền bù đất hay cùng chịu "rủi ro"nếu đất đai bị chuyển mục đích
sử dụng.
1.1.1.2. Sự cần thiết phải dồn điền đổi thửa
Đất đai là yếu tố sản xuất không thể thiếu trong quá trình sản xuất nói chung,
đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp. Xuất phát điểm là một quốc gia thuần nông,
Việt Nam có những thế mạnh về đất đai và đã tạo ra được những thành tựu nhất
định trong ngành sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, năng suất lao động của nông
nghiệp Việt Nam hiện nay còn thấp so với các quốc gia khác trong khu vực và trên
thế giới. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng đó là do vấn đề manh mún
đất đai trong sản xuất nông nghiệp của Việt Nam. Hiện nay, theo tiêu chuẩn của thế
giới, Việt Nam là một trong những quốc gia có mức độ manh mún đất đai cao nhất
so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Theo điều tra, diện tích đất sản
xuất nông nghiệp bình quân đầu người trên thế giới là 0,52 ha, trong khu vực là
0,36 ha thì ở Việt Nam là 0,25 ha.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới cơ

5



chế kinh tế nông nghiệp nông thôn, thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ
trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên trước nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa (CNH – HĐH) đất nước, nền nông nghiệp và đặc biệt là vấn đề ruộng đất
trong nông nghiệp đã bộc lộ những tồn tại, nảy sinh mới cần phải được quan tâm giải
quyết, đó chính là tình trạng ruộng đất quá manh mún về diện tích và ô thửa.
Trong giai đoạn 10 năm (2001 - 2010), diện tích đất nông nghiệp có xu
hướng giảm. Theo số liệu của Tổng cục Quản lý đất đai, Bộ Tài nguyên Môi
trường, bình quân mỗi năm đất nông nghiệp giảm gần 100 nghìn hécta, đặc biệt
năm 2007 giảm 120 nghìn hécta. Cùng với đó là sự gia tăng dân số ở Việt Nam,
trong những năm vừa qua, nhất là dân số ở vùng nông thôn làm cho bình quân đất
sản xuất trên đầu người ngày càng giảm mạnh. Năm 2000 trung bình diện tích đất
nông nghiệp tính trên đầu người là 680 m2, năm 2005: 630 m2, năm 2011: 437 m2
(Niên giám Thống kê năm 2000, 2005, 2011). Cùng với sự sụt giảm trong diện tích
bình quân đầu người là sự thu hẹp về quy mô sản xuất; theo Viện Chính sách và
Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn (1999), 70,36% hộ nông dân có
diện tích canh tác khoảng 0,5 ha; chỉ có 3,46% số hộ có diện tích canh tác lớn hơn 3
ha. Đến năm 2010, tỷ lệ hộ có diện tích đất canh tác nhỏ hơn 0,5 ha có giảm nhưng
không đáng kể: cả nước tỷ lệ này vẫn là 67,38%. Trong đó, Đồng bằng sông Hồng
đạt tỷ lệ cao nhất với 94,46%, Miền núi phía Bắc: 63,9%, Bắc Trung Bộ và Duyên
hải miền Trung: 79,54%, Tây Nguyên: 24,08%, Đông Nam Bộ: 35,48%, Đồng bằng
sông Cửu Long: 47,96% (Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, 2011).
Theo Điều tra nông thôn của dự án DANIDA (2010) với bộ số liệu điều tra
tiếp cận nguồn lực của hộ gia đình Việt Nam (VARHS) được tiến hành điều tra trên
địa bàn 12 tỉnh của Việt Nam trong khoảng thời gian từ tháng 7/2008 đến tháng
8/2010 tại 12 tỉnh cho thấy diện tích đất canh tác trung bình của một hộ nông dân là
0,85 ha, trung bình mỗi hộ có 4,7 mảnh đất khác nhau, tổng khoảng cách từ nơi ở
đến ruộng của các hộ nông dân khoảng 4,7 km.

6



Bảng 1.1. Thực trạng manh mún đất đai năm 2010
Diện tích đất
Tỉnh

canh tác (ha)
(trung bình)

Diện tích
đất canh
tác

Tổng
Số mảnh khoảng cách
đất

(trung vị)

đến các
mảnh (m)

Lào Cai

1,06

0,74

5,1

6.499


Phú Thọ

0,51

0,26

6,2

4.084

Lai Châu

0,95

0,78

5,3

9.655

Điện Biên

1,19

0,89

6,1

12.196


Nghệ An

0,68

0,31

4,8

3.871

Quảng Nam

0,36

0,26

4,5

3.180

Khánh Hòa

1,00

0,41

2,5

4.242


Đắk Lắk

1,47

1,10

2,9

5.754

Đắk Nông

2,61

2,00

2,1

7.188

Lâm Đồng

1,37

1,08

2,9

5.036


Long An

1,52

0,70

2,0

2.298

Vùng đồng bằng phía Bắc

0,41

0,22

5,5

4.034

Miền núi phía Bắc

1,06

0,83

5,5

9.602


Tây Nguyên

1,83

1,25

2,4

6.066

Đồng bằng phía Nam

0,94

0,36

2,7

2.828

Total N = 1995

0,85

0,36

4,7

4.766


(Nguồn: Số liệu của dự án DANIDA, 2010)
Theo số liệu điều tra của Bộ Tài nguyên và Môi trường, đến năm 2011 Việt
Nam vẫn còn 69% số hộ sử dụng đất sản xuất có quy mô dưới 0,5 ha; 34,7% số hộ
có quy mô dưới 0,2 ha. Như vậy, có thể thấy đất sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam
đang bị phân tán lớn, quy mô sản xuất nhỏ, số thửa canh tác nhiều.

7


Hình 1.1. Quy mô sản xuất nông nghiệp các vùng
(Nguồn: Trung tâm Tư vấn Chính sách nông nghiệp – CAP, 2010)
Sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ sẽ có nhiều khó khăn cho quá trình sản
xuất và phát triển cơ giới hoá trong nông nghiệp, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, thực
hành thâm canh và chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Việc đưa máy móc vào trong sản
xuất nông nghiệp sẽ khó có thể thực hiện hiệu quả khi diện tích quá nhỏ. Phần lớn
hiện nay ở Việt Nam diện tích đất canh tác nhỏ hơn 0,5 ha/thửa, đặc biệt là đồng
bằng sông Hồng. Do đó hình thành rất nhiều đường bờ để ngăn cách các thửa ruộng
với nhau. Sự tồn tại của những đường bờ ngăn cách đó gây khó khăn cho sự vận
hành của máy móc hiện đại. Ngoài ra, những đường bờ ngăn đó cũng sẽ lấy đi một
phần diện tích đất sản xuất không nhỏ.
Đồng thời manh mún ruộng đất gây cản trở cho việc quy hoạch giao thông,
thuỷ lợi và các cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất; gây nên sự phức tạp, tốn kém trong
công tác quản lí ruộng đất, xây dựng hồ sơ địa chính từ đó mà dễ phát sinh tiêu cực
trong quản lí đất đai. Tiền của của Nhà nước cũng bị lãng phí trong quá trình lập hồ
sơ ruộng đất (chi tăng 35-50% nếu như ruộng đất vẫn còn manh mún).
Chi phí sản xuất sẽ gia tăng vì các hộ phải tốn nhiều thời gian để di chuyển
giữa các thửa ruộng. Theo bảng số liệu trên, trung bình khoảng cách giữa các thửa
ruộng gần 5 km; với con số trung bình là 5 thửa ruộng thì hộ nông dân cần phải đi


8


một đoạn đường gần 25 km trên lượt di chuyển đến tất cả các thửa ruộng. Chi phí đi
lại về thời gian và tiền bạc tốn kém hơn rất nhiều. Ngoài ra việc phải canh tác trên
nhiều thửa ruộng với quy mô nhỏ sẽ gia tăng chi phí đầu vào đối với sản xuất (Viện
Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, 2011).
Vấn đề thủy lợi trong sản xuất quy mô nhỏ sẽ có nhiều khó khăn. Với một hệ
thống thủy lợi chung cho một cánh đồng có thể không đạt hiệu quả vì còn tồn tại
quá nhiều đường bờ ngăn ruộng. Ngoài ra việc sản xuất quy mô nhỏ còn làm gia
tăng mâu thuẫn giữa các hộ nông dân, gây ra những tác động xấu về mặt xã hội
trong đời sống nông thôn.
Tình trạng manh mún hạn chế chính đến các quyền của hộ nông dân sử dụng
đất như quyền được thế chấp, thừa kế.
Như vậy, đất đai trong sản xuất nông nghiệp của Việt Nam hiện nay đang rất
manh mún. Tình trạng này sẽ có tác động trực tiếp xấu đến tính hiệu quả sản xuất
trong nông nghiệp. Những tác động gián tiếp đến việc làm, thu nhập của nông dân
và tác động đến tăng trưởng chung của cả nền kinh tế là khó tránh khỏi. Vì vậy,
Việt Nam cần phải có những chính sách thích hợp để hạn chế mức độ manh mún đất
sản xuất nông nghiệp trong thời gian tới. Chuyển đổi ruộng đất chống manh mún,
phân tán tạo ra ô thửa lớn là việc làm cần thiết, tạo tiền đề cho việc thực hiện công
nghiệp hoá hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
1.1.2. Tác động của dồn điền đổi thửa tới sử dụng đất nông nghiệp
1.1.2.1. DĐĐT đã tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất
Sau dồn điền đổi thửa (DĐĐT) diện tích trên một thửa đất tăng lên, nông
dân có điều kiện áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, luân canh tăng vụ và
chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, hình thành các
mô hình cánh đồng mẫu lớn cho thu nhập cao.
- Những vùng đất úng trũng cấy lúa một vụ hoặc 2 vụ bấp bênh đã được
chuyển sang đào ao, lập vườn nuôi trồng thủy sản kết hợp trồng cây ăn quả hoặc

khoanh vùng cải tạo để phát triển mô hình cá lúa…
- Những vùng đất cao, vàn cao thuận tiện việc giao thông hoặc gần các trung
tâm đô thị thường được chuyển sang trồng các loại cây rau màu cao cấp, trồng hoa

9


cây cảnh hoặc xây dựng trang trại chăn nuôi tập trung theo hướng công nghiệp…
- Trên chân đất vàn đã tiến hành quy hoạch lại đồng ruộng thành vùng
chuyên canh lúa, cùng với việc hoàn thiện hệ thống giao thông thủy lợi nội đồng để
tổ chức sản xuất thâm canh các giống lúa cho năng suất cao, chất lượng đáp ứng
nhu cầu thị trường, đồng thời đảm bảo mục tiêu an ninh lương thực ở địa phương.
1.1.2.2. DĐĐT tạo ra lãnh thổ hợp lý cho quá trình tổ chức sản xuất
Chính sách DĐĐT đã tạo ra quy mô ô thửa lớn, một mặt tiết kiệm được diện
tích làm bờ, mặt khác có nhiều khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất, đặc biệt là cơ giới hóa mạnh trong khâu làm đất tưới tiêu chủ động nên đã
tiết kiệm được chi phí sản xuất, nhờ vậy mà hiệu quả sử dụng đất tăng lên.
1.1.2.3. DĐĐT tạo tâm lý cho người nông dân an tâm đầu tư sản xuất
Hộ nông dân sẽ an tâm hơn sau khi thực hiện dồn điền đổi thửa, họ được cấp
đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ phát huy tối đa hơn các quyền sử
dụng đất theo luật định; đầu tư đúng hướng để khai thác tiềm năng đất đai đồng thời
cải tạo, bồi bổ đất làm tăng độ phì nhiêu cho đất để sử dụng ổn định và lâu dài.
1.2. Những nghiên cứu về công tác dồn điền đổi thửa trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Vấn đề sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới
Tình trạng manh mún ruộng đất xảy ra ở nhiều nơi và nhiều nước trên thế
giới tại các thời kỳ khác nhau của lịch sử phát triển. Những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng manh mún cũng rất đa dạng, như: Đặc điểm phân bố địa lý, sức ép gia
tăng dân số, tính chất của nền nông nghiệp còn kém phát triển, đặc điểm tâm lý của
cộng đồng dân cư nông thôn, hệ quả của một hay nhiều chính sách ruộng đất hoặc
sự quản lý lỏng lẻo kém hiệu quả trong công tác quản lý đất đai, … muốn giải quyết

triệt để tình trạng này đòi hỏi phải có những hiểu biết cụ thể về nguyên nhân của
vấn đề này.
Theo Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2011) tập trung ruộng
đất là một yêu cầu đặt ra trong quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn của
các nước. Tập trung ruộng đất tạo điều kiện thuận lợi để áp dụng khoa học kỹ thuật
tiên tiến vào sản xuất thâm canh tăng năng suất lao động, tăng khối lượng và tỷ suất
nông sản hàng hóa, giảm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Vì vậy việc tích tụ

10


ruộng đất trong quá trình công nghiệp hóa hầu như đã trở thành quy luật, diễn ra ở
nhiều nước. Tuy nhiên chủ trương, biện pháp và mức độ tích tụ ruộng đất ở mỗi
quốc gia không hoàn toàn giống nhau.
1.2.1.1. Trung Quốc
Nhà nước Trung Quốc đã tiến hành cải cách nông nghiệp và nông thôn từ
năm 1978. Quá trình cải cách được chia thành 2 giai đoạn, giai đoạn 1 từ năm 1978
đến 1984, giai đoạn 2 từ năm 1985 đến 1990 và sau đó có đề ra phương hướng phát
triển nông nghiệp và nông thôn cho thập kỷ 90.
Văn kiện số 01 năm 1984 quy định “ Kéo dài thời hạn khoán ruộng đất để
khuyến khích nông dân đầu tư, bồi bổ sức đất, thực hiện thâm canh”. Chủ trương
này nhằm kiện toàn chế độ khoán sản phẩm đến hộ nông dân, khắc phục tình trạng
nông dân "bóc ngắn cắn dài”, sản xuất có tính chất lạm dụng độ màu mỡ của đất
đai. Thời hạn khoán ruộng đất từ 15 năm trở lên, đối với loại kinh doanh chu kỳ sản
xuất dài có tính chất khai hoang như vườn, rừng, đồi hoang,… thì thời hạn khoán
cần phải dài hơn. Trước khi kéo dài thời hạn khoán, nếu quần chúng có yêu cầu
điều chỉnh ruộng đất thì có thể dựa vào nguyên tắc “đại ổn định, tiểu điều chỉnh”
(nghĩa là, về cơ bản phải ổn định nhưng có thể điều chỉnh một phần nhỏ ruộng đất
khoán chưa hợp lý) thông qua thương lượng một cách đầy đủ sau đó tập thể thống
nhất điều chỉnh. Ngoài ra văn kiện này còn cho phép hộ nông dân có quyền nhượng

ruộng khoán, cụ thể là “khuyến khích từng bước tập trung ruộng đất vào tay những
người làm ruộng giỏi”.
Bảng 1.2. Diện tích và số thửa ruộng của mỗi hộ nông dân Trung Quốc

1986

Diện tích/ hộ
(ha)
0,446

Số thửa ruộng/hộ
(thửa)
5,85

Diện tích T.bình/thửa
(ha)
0,08

1988

0,466

5,67

0,078

1990

0,420


5,52

0,076

1998

0,470

3,02

0,18

Năm

(Nguồn: Bộ nông nghiệp Trung Quốc, 2000)
Chỉ thị số 18 năm 1990 của Trung Quốc quy định “ổn định quan hệ ruộng đất
nhận khoán không có nghĩa là không cho phép có sự điều chỉnh về mảnh ruộng và

11


số lượng ruộng khoán, những thửa ruộng quá phân tán, không thuận tiện cho việc
canh tác thì có thể căn cứ vào nguyện vọng của quần chúng mà tiến hành điều chỉnh
theo nguyên tắc số lượng và giá trị ngang bằng”. Trong quá trình thực hiện khoán
ruộng đất cho các hộ nông dân, một số địa phương đã thực hiện việc khoán đất tốt
kèm đất xấu, cho nên ruộng đất nhận khoán phân tán, manh mún không thuận tiện
cho nông dân canh tác. Những năm gần đây một số địa phương đã căn cứ nguyện
vọng của quần chúng, tiến hành nhận ruộng đất và điều chỉnh. Kết quả đã diễn ra
tốt, nhưng cần phải giữ vững hai nguyên tắc:
Một là, tôn trọng nguyện vọng của quần chúng, không được áp đặt.

Hai là, phải đảm bảo theo nguyên tắc số lượng và giá trị ngang bằng.
Như vậy từ những năm 1978 Trung Quốc đã tiến hành cải cách nông nghiệp,
thực hiện hình thức khoán sản lượng đến hộ nông dân mà thực chất là khoán ruộng
đất hoàn thành công cuộc thiết kế lại đồng ruộng thông qua chuyển đổi ruộng đất.
Tỉnh Sơn Đông của Trung Quốc cũng đã thực hiện chương trình dồn điền đổi
thửa từ năm 1988, quy định quy mô tối đa là 4 thửa/hộ, giúp giảm từ

7,6

thửa/hộ xuống còn 3,4 thửa/hộ. Khả năng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật tăng từ
7 đến 15% so với trước dồn điền đổi thửa. Tuy nhiên, đến năm 1998, đa số nông
dân chống đối phong trào này vì dồn điền đổi thửa không phù hợp với điều kiện và
chiến lược phát triển sản xuất của nông hộ. Qua kinh nghiệm này cho thấy dồn điền
đổi thửa cần dựa trên sự tự nguyện của nông dân và áp dụng một cách linh hoạt đối
với từng địa bàn, khu vực khác nhau sao cho phù hợp.
Không chỉ Trung Quốc, nhiều nước khác cũng nóng vội muốn can thiệp hành
chính một lần để giảm chi phí giao dịch vì họ cho rằng nếu để hộ nông dân tự làm
thông qua thị trường điều chỉnh thì chi phí sẽ rất cao và mất nhiều thời gian. Tuy
nhiên, việc can thiệp hành chính này không đảm bảo được rằng ruộng đất sẽ không
bị chia nhỏ lại sau dồn điền đổi thửa (bán một lần, chia thừa kế cho con cái, …).
Hơn nữa các biện pháp can thiệp hành chính thường phải tiến hành song song với
việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn nhưng Chính phủ lại thường thiếu vốn để
đầu tư cho việc này.
1.2.1.2. Nhật Bản
Xuất phát điểm từ chính sách trước những năm 1960 mỗi hộ nông dân Nhật

12


có nhiều thửa ruộng phân tán, xa nhau quy mô mỗi thửa chỉ từ 500 m2 đến 1000 m2.

Vào thời kỳ này, sản xuất nông nghiệp chủ yếu sử dụng lao động thủ công và
sức kéo gia súc. Đã xuất hiện sự chênh lệch lớn về thu nhập giữa lao động nông
nghiệp và lao động của các ngành khác. Để chấn hưng nông nghiệp, năm 1961
Chính phủ Nhật Bản đã ban hành Luật cơ bản về nông nghiệp. Một trong ba mục
tiêu chính của Luật cơ bản nông nghiệp là đưa nông nghiệp từ quy mô nhỏ lên quy
mô lớn. Để thực hiện mục tiêu này Bộ nông nghiệp đề ra “Sự nghiệp xây dựng
ruộng đất với ba mục tiêu: rộng, chắc chắn, sâu”.
- Rộng: nâng kích thước thửa ruộng lên 0,3 ha.
- Chắc chắn: cải tạo nền đất yếu, nhiều bùn, hay mún trên cơ sở kiến thiết
xây dựng thoát nước cho từng thửa ruộng và toàn khu vực để có thể sử dụng máy
móc thuận lợi.
- Sâu: cải tạo tầng canh tác ruộng đất đảm bảo độ dày khoảng 1m (theo các
chuyên gia Nhật Bản thì Nhật Bản học tập kinh nghiệm chuyển đổi xử lý đất của
Cộng hoà Liên Bang Đức).
Để đáp ứng nhu cầu trên phải làm hai việc:
- Về mặt hành chính: đó là xử lý chuyển đổi đất từ các thửa nhỏ ở xa nhau
thành các thửa có kích thước lớn.
- Về mặt kỹ thuật: gắn liền với việc xử lý kích thước thửa ruộng là việc xây
dựng hệ thống tưới tiêu và san ủi mặt bằng. Việc chuyển đổi đất là công việc rất
phức tạp vì đất đai thuộc sở hữu tư nhân và việc chuyển đổi phải tiến hành đồng
thời với một số biện pháp, công việc khác mới phát huy có hiệu quả. Trước khi
chuyển đổi phải xây dựng quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp cho mục đất phi
nông nghiệp với yêu cầu ít nhất 8 năm kể từ khi xử lý, không được thay đổi mục
đích. Việc quy hoạch đất nông nghiệp và mục đích phi nông nghiệp cũng nhằm mục
đích kêu gọi đầu tư tạo việc làm, tăng thu nhập cho nông dân, giảm việc nông dân
di cư vào thành phố. Giới hạn tối đa cho diện tích này là 30% diện tích toàn khu
nông nghiệp.
Việc chuyển đổi đất dựa trên nguyên tắc tương ứng về diện tích và giá trị với

13



ba điều kiện:
- Đất phi nông nghiệp xen kẽ được chuyển đổi ra khu đất quy hoạch cho mục
đích phi nông nghiệp.
- Đất được chuyển đổi tương ứng với đất có sẵn về diện tích, vị trí và giá trị
trong đó giá trị là yếu tố chính.
- Yêu cầu của một thửa ruộng sau chuyển đổi tối thiểu là 3000m2, nhưng phải
tiếp giáp với mương tiêu, mương tưới và đường giao thông.
Công tác dồn điền đổi thửa, xử lý ruộng đất như nêu trên là khó khăn phức
tạp vì quyền sử dụng đất thuộc tư nhân và việc chuyển đổi phải tiến hành với một số
biện pháp như công tác quy hoạch sử dụng đất...mới phát huy hiệu quả trong sử
dụng đất. Kết quả là khoảng 2 triệu ha trong 2,7 triệu ha đất trồng lúa nước ở Nhật
Bản đã được chuyển đổi. Trước chuyển đổi bình quân một hộ có 3,4 thửa ruộng, sau
khi chuyển đổi còn 1,8 thửa. Việc xử lý chuyển đổi đất nông nghiệp đã làm tăng
hiệu suất của máy nông nghiệp, tăng sức sản xuất của đất đai, làm tăng năng suất
lao động của người nông dân, tạo điều kiện phát triển hàng hoá để nâng cao sức
cạnh tranh của nông nghiệp. Vì vậy, cùng những yêu cầu khác, việc chuyển đổi xử
lý đất nông nghiệp đã góp phần quan trọng đưa năng suất lúa từ 3000 kg gạo/ha
năm 1960, lên 6000 kg gạo/ha năm 1992. Hiện nay việc chuyển đổi xử lý ruộng đất
được tiếp tục khuếch trương lên 1 ha hoặc 2 ha, có thể lên tới 3 ha hoặc 6 ha, tiến
gần đến quy mô thửa ruộng.
1.2.1.3. Thái Lan
Đồng bằng Chao phraya của Thái Lan có sức ép về dân số thấp hơn. Quá
trình phân nhỏ ruộng đất tuy chưa đến mức quá manh mún nhưng nó lại có một
nguyên nhân khác đó chính là việc xây dựng siêu đô thị Băng Kok. Một sự phát
triển theo chiều thuận là công nghiệp sẽ rút bớt lao động nông thôn ra thành thị làm
cho quy mô ruộng đất nông nghiêp tăng lên. Tuy nhiên ở Chao phraya lại khác,
cách đây khoảng 120 năm vùng này dân cư vẫn còn thưa thớt, cả vùng có đến 2
triệu ha đất nhưng dân cư chỉ có khoảng trên 300 ngàn người. Nhưng bắt đầu xây

dựng đô thị khổng lồ Băng Kok kể từ vài chục năm gần đây đã làm cho dân số vùng

14


tăng nhanh bình quân 3% năm. Đất nông nghiệp mất đi trung bình 1% năm kể từ
năm 1970 trở lại đây. Các trang trại bị chia nhỏ giảm dần về quy mô ruộng đất.
Trung bình một hộ năm 1950 có 4,8 ha đến năm 1963 còn 4,5 ha, năm 1978 là 4,1
ha và 15 năm sau, năm 1993, chỉ còn 3,5 ha. Sự giảm quy mô trung bình ruộng đất
ở Thái Lan một phần nữa còn được giải thích bởi sự chia đều ruộng đất cho con cái
thừa kế và sự chậm tiến bộ về mặt công nghệ, kỹ thuật sản xuất. Giai đoạn 20 năm
từ 1955 đến 1975 là giai đoạn giá nông sản (lúa) khá thấp, công nghệ sản xuất “bão
hoà” (Molle và Srijant, 2000) không khuyến khích được tập trung ruộng đất. Trên
thực tế, giá nông sản thấp và sự bần cùng hoá nông dân luôn đi cùng với sự chia
nhỏ quy mô sản xuất bởi vì lợi ích đầu tư ruộng đất lúc đó không cao, bởi vì người
ta cần chia nhỏ và đa dạng hoạt động để tránh rủi ro và cũng còn bởi vì thiếu những
người có đủ tiền bạc, thực lực để mà mua đất vào.
1.2.1.4. Tích tụ ruộng đất ở một số nước Âu Mỹ
Các nước Âu Mỹ bình quân ruộng đất trên đầu người khá cao, tốc độ đô thị
hóa nhanh, nhu cầu lao động công nghiệp nhiều, chính quyền khuyến khích việc
đẩy nhanh tốc độ tích tụ ruộng đất, mở rộng quy mô trang trại bằng các chế độ và
chính sách cụ thể, khuyến khích sản xuất kinh doanh của các trang trại lớn.
Tuy nhiên để tránh tích tụ ruộng đất quá lớn trong tổng địa phương, một số
nước như Pháp, Anh có biện pháp quản lý thông qua hội đồng quy hoạch đất đai
của tỉnh, huyện, với hội đồng quản trị gồm những đại diện nông dân địa phương,
những chuyên viên ruộng đất và hai ủy viên Chính phủ. Hội đồng này mua đất trên
thị trường tạo ra quỹ đất dự trữ và bán lại công khai cho các hộ nông dân mua đất
theo giá thị trường.
Kể từ sau cách mạng nông nghiệp lần thứ 2 cuối thế kỷ 19 đầu hế kỷ 20, một
loạt các trang trại nhỏ, manh mún năng suất thấp đã bị loại bỏ thay thế vào đó là các

trang trại quy mô vừa năng suất lao động cao. Ví dụ ở Pháp năm 1950 có xấp xỉ
2,29 triệu nông hộ với quy đất 14 ha/hộ, đến năm 1993 chỉ còn 0,8 triệu hộ với quy
mô 35 ha/hộ.

15


Bảng 1.3. Tình hình biến động về số lượng và quy mô trang trại nông nghiệp
ở một số nước Châu Âu
Số lượng,

Năm

1955

1960

1970

1987

Pháp

2.885

1.588

1.263

982


Số trang trại

Đức

2.051

1.709

1.075

983

(1.000)

Anh

543

467

327

254

Hà Lan

349

308


181

128

Pháp

14

19

23

29

Diện tích bình

Đức

11

10

14

15

quân (ha)

Anh


36

41

55

71

Hà Lan

7

9

12

16

quy mô

Tên nước

(Nguồn: Bùi Huy Đáp, Nguyễn Điền, Nông nghiệp Châu Âu những kinh nghiệm
phát triển, 1996)
Ở nước Mỹ năm 1950 với quy mô bình quân 86 ha/hộ đến năm 1992 chỉ còn
1,92 triệu hộ với quy mô 198 ha/hộ. Tiến trình tích tụ ruộng đất và vốn nhanh chóng
của các nông hộ ở các nước phát triển chủ yếu là nhờ thành tựu khoa học công nghệ
phát triển trong quá trình cơ giới hoá nông nghiệp của cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ 2.

Ngoài ra có một số nghiên cứu khác trong các nước phát triển về quá trình
tập trung hay phân hoá quy mô nông hộ trong đó có quy mô ruộng đất. Quy mô
ruộng đất được thể hiện qua kinh tế quy mô trong nông nghiệp ở hai khía cạnh:
+ Sự phù hợp giữa quy mô các nguồn lực (đất đai, đàn gia súc, vốn, lao động
và công nghệ) và khả năng quản lý sử dụng các nguồn lực trong nông hộ. Theo khái
niệm này, quy mô kinh tế được mở rộng nhằm hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh của
nông sản. Các chi phí có thể được giảm nhờ tăng quy mô bao gồm: chi phí quản lý
trang trại, chi phí áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, chi phí tư vấn, đào tạo,…
+ Sự phù hợp giữa quy mô các mảnh thửa trong trồng trọt và các đàn gia súc
trong chăn nuôi với khả năng đầu tư thâm canh và áp dụng hiệu quả khoa học tiến
bộ kỹ thuật.

16


Phương thức tăng quy mô ô thửa có thể hỗ trợ quá trình đầu tư, thâm canh,
cơ giới hoá qua đó có thể làm tăng hiệu quả sản xuất/1 đơn vị diện tích. Nhưng
nhiều ý kiến cho rằng quá trình tập trung thâm canh trên đây chỉ phát huy tác dụng
khi sản xuất hàng hoá phát triển. Nói cách khác quy mô của các ô thửa, đàn gia
súc,... phụ thuộc vào quy mô sản xuất, trình độ sản xuất và khả năng đầu tư của
nông hộ. Trong trường hợp lao động dư thừa và sản xuất có nhiều rủi ro, người
nông dân nhỏ thường chọn giải pháp đầu tư vào lao động hơn là đầu tư vào các
nguồn lực khác và vì thế họ ít quan tâm đến việc dồn điền đổi thửa. Quy mô sản
xuất phụ thuộc vào đặc điểm của các loại hình nông hộ và khả năng áp dụng khoa
học công nghệ vào sản xuất …Ví dụ như quy mô sản xuất có hiệu quả hiện nay ở
Pháp là từ 50 ha đến 100 ha/nông hộ, nhưng ở Mỹ (do khả năng cơ giới hoá cao)
quy mô ruộng đất nông hộ phải từ 200 ha đến 300 ha thì mới đạt hiệu quả cao nhất.
1.2.2. Kết quả thực hiện dồn điền đổi thửa ở Việt Nam
1.2.2.1. Khái quát việc thực hiện dồn điền đổi thửa ở Việt Nam
Việt Nam bắt đầu con đường đổi mới kinh tế của mình vào năm 1986. Mục

tiêu của chính sách đổi mới là chuyển nền kinh tế Việt Nam từ mô hình kế hoạch
hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong
lĩnh vực nông nghiệp, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị năm 1988 là bước ngoặt cơ
bản. Nội dung chính của chính sách này là công nhận hộ nông dân là một đơn vị
kinh tế tự chủ, tự do hoá thị trường đầu vào và đầu ra của sản xuất cũng như các tư
liệu sản xuất khác (ngoại trừ đất đai) và giao đất sử dụng ổn định, lâu dài cho người
dân. Chính sách mới này đã dẫn đến xoá bỏ hợp tác hoá trong nông nghiệp. Từ đó,
nông nghiệp Việt Nam bước vào một giai đoạn mới tương đối ổn định. Tuy nhiên,
thời gian giao đất còn quá ngắn và một số quyền sử dụng đất khác chưa được luật
pháp hoá. Điều này dẫn đến nông dân có thể ít có động cơ đầu tư dài hạn trên đất.
Luật Đất đai năm 1993 ra đời đã giải quyết được những vấn đề nêu trên. Theo đó
nông dân được giao đất ổn định và lâu dài. Họ được giao 5 quyền sử dụng đất bao
gồm: quyền chuyển nhượng, trao đổi, cho thuê, thừa kế và thế chấp. Nguyên tắc
quan trọng nhất trong việc giao đất là duy trì sự công bằng. Thông thường ở nhiều
nơi trên miền Bắc, đất đai được chia bình quân theo định suất (hoặc bình quân theo

17


nhân khẩu). Những tiêu chuẩn khác cũng được xem xét khi giao đất là các chính sách
xã hội, chất lượng đất, tình hình thuỷ lợi, khoảng cách đến thửa ruộng và khả năng
luân canh cây trồng. Do đó, để duy trì nguyên tắc công bằng mỗi hộ thường được
giao nhiều thửa với nhiều hạng đất khác nhau, ở các cánh đồng khác nhau với chất
lượng đất khác nhau.
Vào năm 1998, Chính phủ đã đề ra chính sách khuyến khích nông dân đổi
ruộng cho nhau để tạo thành những thửa có diện tích lớn hơn. Từ đó, các tỉnh miền
Bắc, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Hồng đã thành lập các hội đồng thực hiện thí
điểm công tác dồn điền, đổi thửa. Theo báo cáo, trên toàn quốc có khoảng trên 700
xã ở 18 tỉnh đã và đang thực hiện dồn điền, đổi thửa, tuy nhiên tiến trình vẫn còn rất
chậm. Trên thực tế ở những vùng này đất đai được chia lại cho các hộ nông dân với

mục tiêu là giảm số thửa ruộng. Ví dụ: Ở tỉnh Thanh Hoá số thửa ruộng đã giảm
51% trong 3 năm thực hiện chính sách này (1998 – 2001). Trung bình số thửa ruộng
của một hộ đó giảm từ 7,8 thửa xuống còn 3,8 thửa (Viện Quy hoạch và Phát triển
nông nghiệp, năm 2003). Trong các báo cáo gửi Chính phủ và UBND (Ủy ban nhân
dân) tỉnh, khi rút kinh nghiệm công tác dồn điền, đổi thửa, các địa phương đều đưa
ra kết luận công tác dồn điền, đổi thửa nên áp dụng ở những vùng mà manh mún đất
đai đang là vấn đề lớn và không có mâu thuẫn về đất đai. Điều đó có nghĩa dồn
điền, đổi thửa không nên dẫn đến những mâu thuẫn mới liên quan đến đất đai.
Nguyên tắc quan trọng nhất trong dồn điền, đổi thửa là các hộ nông dân tự nguyện
đổi đất cho nhau để tạo thành những thửa lớn hơn. Tuy nhiên, ở rất nhiều tỉnh quá
trình giao lại đất đã xảy ra, trong đó các hộ nông dân được tham gia rất ít vào quá
trình này, ngoại trừ việc đánh giá chất lượng đất và xác định hệ số trao đổi giữa các
hạng đất.
1.2.2.2. Tình hình dồn điền đổi thửa ở một số tỉnh
Dồn điền đổi thửa không phải là một tiêu chí trong xây dựng nông thôn mới
(NTM), song với những địa phương có diện tích đất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ,
phân tán, bình quân mỗi hộ dân sở hữu nhiều ô, thửa ruộng phân tán trên nhiều cánh
đồng như hầu hết các xã của Thành phố Hà Nội thì việc làm này hết sức cần thiết.
Nếu tiến hành thành công DĐĐT sẽ có tác động tích cực tới hầu hết 19 tiêu chí

18


trong xây dựng NTM. Chính vì vậy, để triển khai thắng lợi Chương trình 02CTr/TU, Ban chỉ đạo thành phố Hà Nội đã xác định một trong những khâu đột phá
là tập trung chỉ đạo thực hiện công tác DĐĐT diện tích đất nông nghiệp không nằm
trong quy hoạch công nghiệp và quy hoạch đô thị. Ngay sau khi UBND Thành phố
Hà Nội có kế hoạch và hướng dẫn, các huyện, thị xã đã nhanh chóng xây dựng kế
hoạch và ban hành nghị quyết về công tác DĐĐT, đồng thời giao chỉ tiêu kế hoạch
cụ thể để các xã căn cứ phấn đấu thực hiện. Các xã đã bám sát hướng dẫn của Sở
NN-PTNT tiến hành xây dựng phương án DĐĐT trình duyệt, đồng thời rà soát nhân

khẩu, hộ khẩu, diện tích đất nông nghiệp giao theo Nghị định số 64/CP, một số xã
đã và đang tiến hành đo đạc, quy hoạch giao thông, thủy lợi nội đồng.
Sau 2 năm thực hiện (2012 - 2013), toàn thành phố Hà Nội đã dồn điền đổi
thửa được 75.965,3 ha/76.365,07 ha, một diện tích đất nông nghiệp rất lớn mà hơn
10 năm qua chưa làm được. Như vậy, Hà Nội đã dồn điền đổi thửa được 99,48% kế
hoạch. Một số huyện thực hiện dồn được diện tích lớn như: Chương Mỹ hơn 10,2
nghìn ha, Sóc Sơn hơn 10,3 nghìn ha, Phú Xuyên hơn 8,9 nghìn ha, Mỹ Đức hơn
7,5 nghìn ha… Trong đó, có nhiều huyện thực hiện vượt chỉ tiêu theo kế hoạch dồn
điền đổi thửa như Phú Xuyên, Sóc Sơn, Ba Vì, Sơn Tây, Thạch Thất.
Trong quá trình triển khai, toàn bộ diện tích đất nông nghiệp đã dồn điền đổi
thửa đều được quy hoạch lại và đào đắp giao thông, thủy lợi nội đồng theo tiêu
chuẩn, tiêu chí nông thôn mới. Cơ giới hóa đã và đang được các xã, hợp tác xã và cá
nhân đầu tư ở một số khâu chính như: làm đất, gieo cấy và thu hoạch… Thực tế,
mỗi hộ gia đình trước dồn điền đổi thửa có 7-15 ô, thửa, thậm chí 27-39 ô, thửa như
ở Sóc Sơn, Chương Mỹ… Đến nay, chỉ còn 1-2 ô, thửa, cá biệt một vài nơi còn 3 ô,
thửa/hộ, rất thuận lợi cho người dân trong tổ chức sản xuất, giảm đỡ ngày công, tiết
kiệm chi phí vật tư, phân bón, thuốc trừ sâu nên đa số người dân nông thôn của Hà
Nội rất phấn khởi, tin tưởng vào chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và
Thành phố.
Sau dồn điền đổi thửa, nhiều cánh đồng mẫu lớn sản xuất lúa chất lượng cao
đã hình thành ở hầu hết các huyện có qui hoạch sản xuất lúa. Nhiều mô hình sản
xuất nông nghiệp hàng hóa đem lại giá trị kinh tế cao ra đời, như: mô hình hoa ở

19


×