Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (735.75 KB, 111 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN NGỌC HÀ

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI – 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN NGỌC HÀ

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐINH THỊ MINH TUYẾT

HÀ NỘI – 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn: “Thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, thống kê và kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận
văn là trung thực và có nguồn gốc cụ thể, rõ ràng và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình./.
Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2016
Học viên

Nguyễn Ngọc Hà


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành nghiên cứu luận văn về đề tài: ”Thực hiện chính sách đối
với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam”, trước hết, tôi xin đặc biệt cảm ơn PGS.TS
Đinh Thị Minh Tuyết, khoa quản lý Nhà nước về xã hội đã quan tâm, giúp đỡ
tận tình về nội dung và phương pháp nghiên cứu khoa học trong suốt quá trình
thực hiện luận văn này.
Tác giả luận văn xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, Khoa sau đại học,
Khoa quản lý nhà nước về xã hội, các thầy, các cô tại Học viện Hành chính
Quốc gia; ban giám đốc Trung tâm nuôi dưỡng người già và trẻ em khuyết tật

thành phố Hà Nội thuộc sở Lao động Thương binh và Xã hội, cán bộ và nhân
viên Trung tâm chăm sóc, nuôi dưỡng và điều trị nạn nhân bị nhiễm chất độc da
cam/ Điôxin, huyện Ba Vì, TP Hà Nội thuộc sở Lao động Thương binh vã Xã
hội, các cô giáo, y bác sĩ và các mẹ bảo mẫu Làng Hữu Nghị Việt Nam thuộc
Hội Cựu Chiến binh Việt Nam đã tạo điều kiện tốt nhất, góp ý kiến, ủng hộ,
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu đề tài.
Do những điều kiện chủ quan, khách quan chắc chắn kết quả nghiên cứu
của Luận văn còn những điểm thiếu sót. Tác giả luận văn rất mong tiếp tục nhận
được những ý kiến đóng góp để hoàn thiện, nâng cao chất lượng vấn đề được
lựa chọn nghiên cứu./.
Tác giả Luận văn

Nguyễn Ngọc Hà


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

NKT

Người khuyết tật

TEKT

Trẻ em khuyết tật

UBND


Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI
TRẺ EM KHUYẾT TẬT ...................................................................................... 9
1.1. Khái niệm về trẻ em khuyết tật và thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật ............................................................................................................... 9
1.1.1. Trẻ em khuyết tật .................................................................................. 9
1.1.2. Chính sách đối với trẻ em khuyết tật .................................................. 15
1.1.3. Thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật .................................. 22
1.2. Quy trình thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ............................ 23
1.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật ....................................................................................................... 23
1.2.2. Tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ..................... 24
1.2.3. Đôn đốc thực hiện chính sách đối với trẻ em khyết tật ...................... 24
1.2.4. Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách đối với
trẻ em khuyết tật............................................................................................ 25
1.3. Vai trò của thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ......................... 25
1.3.1. Thực hiện định hướng của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với trẻ
em khuyết tật ................................................................................................. 25
1.3.2. Điều chỉnh chính sách của nhà nước đối với trẻ em khuyết tật .......... 26
1.3.3. Huy động các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu chính sách đối với
trẻ em khuyết tật............................................................................................ 27
1.3.4. Thực hiện an sinh xã hội đối với trẻ em khuyết tật ............................ 28

1.4. Các yếu tố tác động đến thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ........... 29
1.4.1. Hệ thống thể chế nhà nước ................................................................. 29


1.4.2. Tính chất của vấn đề chính sách ......................................................... 30
1.4.3. Năng lực thực thi chính sách của cán bộ quản lý và công chức ......... 30
1.4.4. Điều kiện tài chính và cơ sở vật chất để thực thi chính sách .............. 31
1.5. Kinh nghiệm thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở một số nước
và giá trị tham khảo cho Việt Nam ..................................................................... 31
1.5.1. Kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở
Nhật Bản ....................................................................................................... 31
1.5.2. Kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
của Malaysia ................................................................................................. 33
1.5.3. Kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở
nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa ............................................................. 37
1.5.4. Giá trị tham khảo cho Việt Nam ......................................................... 39
Tiểu kết chương 1................................................................................................ 41
Chương 2. THỰC TRẠNG TRẺ EM KHUYẾT TẬT VÀ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM................................ 42
2.1. Thực trạng trẻ em khuyết tật và chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt
Nam hiện nay ...................................................................................................... 42
2.1.1. Thực trạng trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay ........................... 42
2.1.2. Thực trạng nội dung chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam...... 43
2.2. Phân tích thực trạng thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt
Nam ..................................................................................................................... 49
2.2.1. Quy trình thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam
....................................................................................................................... 49
2.2.2. Kết quả thực hiện một số chính sách đối với trẻ em khuyết tật ......... 54
2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt
Nam ..................................................................................................................... 69

2.3.1. Kết quả thực hiện chính sách đối với TEKT ở Việt Nam .................. 69
2.3.2. Hạn chế trong tổ chức thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở
Việt Nam ....................................................................................................... 72


2.3.3. Nguyên nhân hạn chế trong thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật ở Việt Nam ................................................................................... 72
Tiểu kết chương 2................................................................................................ 74
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY TRÌNH THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM ....... 76
3.1.Quan điểm và định hướng giải quyết vấn đề trẻ em khuyết tật ở Việt Nam 76
3.1.1. Quan điểm về giải quyết vấn đề trẻ em khuyết tật ở Việt Nam ......... 76
3.1.2. Định hướng về giải quyết vấn đề trẻ em khuyết tật ở Việt Nam ........ 79
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy trình thực hiện chính sách đối với TEKT ở Việt
Nam ..................................................................................................................... 82
3.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục nâng cao nhận thức xã
hội về trẻ em khuyết tật, phổ biến các chính sách đối với trẻ em khuyết tật 82
3.2.2. Tăng cường sự tham gia của người dân, đặc biệt là chính bản thân gia
đình có trẻ em khuyết tật và trẻ em khuyết tật .............................................. 84
3.2.3. Hoàn thiện chính sách của Nhà nước đối với trẻ em khuyết tật trong
một số lĩnh vực .............................................................................................. 85
3.2.4. Bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật............................... 86
3.2.5. Theo dõi, giám sát đánh giá, kiểm tra, sơ tổng kết hoạt động thực hiện
chính sách đối với trẻ em khuyết tật ............................................................. 88
3.2.6. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa, huy động nguồn lực của các tổ chức xã
hội trong thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ............................. 88
3.2.7. Phối hợp các Bộ, ngành trong việc bảo đảm thực hiện chính sách về
người khuyết tật, trẻ em khuyết tật ............................................................... 89
3.3. Đề xuất mô hình tổ chức chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và hướng nghiệp

cho trẻ em khuyết tật ở Việt Nam ....................................................................... 93
Tiểu kết chương 3................................................................................................ 96
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 100


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Trước tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp như nội chiến, nạn
khủng bố, khủng hoảng người di cư, dịch bệnh; sự biến đổi khí hậu toàn cầu, ô
nhiễm môi trường, thiên tai, tai nạn đã làm người khuyết tật, trẻ em khuyết tật
tăng lên đáng kể trong những năm gần đây. Nhiều tổ chức thế giới như Tổ chức
Lao động quốc tế, Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên Hợp Quốc,
Tổ chức Y tế thế giới, Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc và các tổ chức khác tiếp
tục khẳng định về quyền con người, quyền của trẻ em, quyền của người khuyết
tật cũng như quyền của trẻ em khuyết tật trong các Hiến chương, Công ước,
Nghị quyết đồng thời xây dựng nhiều chương trình, đề án hỗ trợ người khuyết
tật đặc biệt là trẻ em khuyết tật, tuy nhiên nhiều người khuyết tật, trẻ em khuyết
tật vẫn đang gặp nhiều khó khăn và chịu nhiều thiệt thòi, chưa được tiếp cận với
các dịch vụ dành cho người khuyết tật, nhiều trẻ em khuyết tật đang bị lãng
quên. Do đó việc xây dựng và thực hiện chính sách cho người khuyết tật và trẻ
em khuyết tật ở các nước trên thế giới là vô cùng quan trọng, giúp người khuyết
tật và trẻ em khuyết tật giảm bớt khó khăn trong cuộc sống, tự vươn lên, vượt
qua những mặc cảm, tự ti và phát triển với khả năng của mình để hòa nhập với
cộng đồng và xã hội.
Tại Việt Nam, sau chiến tranh chống Mỹ hàng triệu người bị thương và tàn
tật, những người còn sống tiếp tục phải đối mặt với các vấn đề nghiêm trọng về
kinh tế, xã hội và môi trường mà cuộc chiến đã gây ra, nhiều trẻ em dị tật bẩm
sinh do di chứng của chất độc da cam/ Đi ô xin, nhiều trẻ vẫn tiếp tục bị khuyết
tật do bom mìn chưa nổ còn sót lại sau chiến tranh. Ngoài hậu quả của chiến

tranh, việc gây ra khuyết tật còn do ô nhiễm môi trường, thiên tai, bệnh dịch, tai
nạn…Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam đã có nhiều
chương trình, đề án hỗ trợ người khuyết tật, trẻ em khuyết tật, tuy nhiên đất

1


nước trong thời kỳ đó còn nghèo do đó việc hỗ trợ, chăm sóc cho người khuyết
tật, trẻ em khuyết tật là rất hạn chế.
Chuyển sang giai đoạn phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, Đảng, Nhà
nước, chính phủ cũng như các tổ chức chính trị xã hội đã có điều kiện quan tâm
nhiều hơn đến người khuyết tật và trẻ em khuyết tật thông qua hàng loạt các
chính sách, đạo luật nhằm hỗ trợ người khuyết tật như trong Bộ Luật lao động,
Pháp lệnh người khuyết tật được ban hành ngày 30 tháng 7 năm 1998, luật giáo
dục, luật phổ cập giáo dục tiểu học, luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em,
luật dạy nghề cùng hệ thống văn bản pháp quy liên quan, gần đây là việc dự
thảo, thu thập ý kiến đóng góp xây dựng Bộ luật lao động sửa đổi, bổ sung và
ban hành Luật NKT ngày 17/6/2010 nhằm bảo đảm sự bình đẳng cho NKT,
TEKT, dần dần người khuyết tật, trẻ em khuyết tật đã tiếp cận được các dịch vụ
y tế, phục hồi chức năng, giáo dục, việc làm, văn hóa, thể thao, giải trí, giao
thông tại các nơi công cộng và công nghệ thông tin.
Căn cứ vào Luật người khuyết tật năm 2010, Nghị định Quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người khuyết tật; Đề án giúp người
khuyết tật giai đoạn 2012 đến 2020 (trong đó có nhiều phần về trẻ em khuyết
tật), nhiều chính sách cho người khuyết tật đã được xây dựng và tổ chức thực
hiện, đặc biệt các chính sách đối với TEKT. Theo thống kê của Bộ Lao động và
Thương binh Xã hội, hiện nay cả nước có khoảng 1,2 triệu trẻ em khuyết tật và
nhiều trẻ em đang sống tại gia đình và cộng đồng chưa được chăm sóc sức khỏe,
giáo dục và các dịch vụ khác. Trước thực trạng này Đảng và Nhà nước đưa ra
nhiều chủ trương, chính sách, đề án hỗ trợ trẻ em khuyết tật nhằm tạo điều kiện

tốt nhất để trẻ em khuyết tật có cuộc sống tốt đẹp và được hưởng đầy đủ các
quyền về cả tinh thần và vật chất như những trẻ em bình thường khác; cấp giấy
phép hoạt động cho các Trung tâm chăm sóc TEKT, trung tâm phục hồi chức
năng cho TEKT, hỗ trợ chính sách cho những người chăm sóc TEKT, đưa các
chương trình giáo dục phù hợp cho TEKT tại các cơ sở bảo trợ xã hội, các
Trung tâm chăm sóc TEKT, hỗ trợ kinh phí nuôi dưỡng hàng tháng, một số tỉnh,
2


thành phố đã tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề về các chính sách của Nhà
nước đối với TEKT. Song với số TEKT quá lớn như hiện nay, việc thực hiện
chính sách đối với TEKT chưa được đồng bộ, thiếu kinh phí hoạt động, thiếu
cán bộ, nhân viên có trình độ, chuyên môn và kỹ năng trong lĩnh vực này, việc
xác định mức độ khuyết tật của trẻ em ở nhiều tỉnh còn lúng túng và nhiều bất
cập, nhiều trẻ em còn bị lãng quên và bị phân biệt, đối xử. Để trẻ em khuyết tật
phát triển với khả năng thực sự của mình, hòa nhập với gia đình, với cộng đồng
nơi các em sinh ra, đưa các chương trình chăm sóc y tế, phục hồi chức năng và
giáo dục hòa nhập tại cộng đồng là một vấn đề khó khăn và đầy thách thức.
Tháo gỡ và đổi mới công tác chăm sóc trẻ khuyết tật như mục tiêu mà Đảng và
Nhà nước ta đặt ra phải quan tâm đến việc xây dựng một hệ thống chích sách
đồng bộ, phù hợp cho trẻ em khuyết tật, đặc biệt trong điều kiện kinh tế - xã hội
nước ta hiện nay.
Với mong muốn của NKT nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng có một
cuộc sống tốt đẹp hơn, được sống bình đẳng như những người bình thường khác,
không bị kỳ thị, phân biệt đối xử, có cơ hội được phát huy khả năng của mình
đáp ứng với nhu cầu bản thân và có ích cho xã hội. Vậy vai trò và thực trạng của
chính sách đối với trẻ em khuyết tật trong bối cảnh chung của đất nước ta hiện
nay đang rất cần một cái nhìn, một hướng nghiên cứu mới về thực hiện chính
sách đối với TEKT. Để hoàn thiện việc thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật ở Việt Nam đáp ứng với yêu cầu hiện nay, tôi chọn đề tài “Thực hiện

chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam” để làm luận văn thạc sỹ,
chuyên ngành hành chính công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này dưới nhiều góc độ khác
nhau được thể hiện dưới các hình thức như: Đề tài khoa học; giáo trình; bài báo;
bài đăng tạp chí….Có thể khái quát một số công trình tiêu biểu liên quan đến
vấn đề dưới góc độ tiếp cận như sau:

3


- Hồ Văn Thông (Chủ biên, 1999), tìm hiểu về khoa học chính sách công,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu tương đối có hệ
thống các vần đề về chính sách công dưới góc độ lý thuyết như: khái niệm về
chính sách công và khoa học chính sách công; phân tích chính sách công trong
thực tế; những khuynh hướng phát triển cơ bản của chính sách công; công trình
là tài liệu tham khảo quan trọng của luận văn.
- Nguyễn Đăng Thành (Chủ nhiệm đề tài, 2004), Chính sách công - Cơ sở
lý luận, Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Đề tài đã nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề về chính sách công
như: Lý thuyết chính sách công; các công trình nghiên cứu chính sách công; các
cách tiếp cận khi nghiên cứu chính sách công.
- Vụ Pháp chế, Bộ Lao động – Thương binh xã hội và Unicef (2009), “Xây
dựng môi trường bảo vệ trẻ em Việt Nam: Đánh giá pháp luật và chính sách bảo
vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam”. Các tác giả đã
rà soát, đánh giá các văn bản pháp luật, chính sách liên quan đến trẻ em Việt
Nam, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, so sách các chuẩn mực quốc tế,
tìm ra những thiếu hụt và hạn chế của pháp luật Việt Nam, trên cơ sở đó kiến
nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, đảm bảo từng bước
hòa nhập với pháp luật và các chuẩn mực quốc tế.

- Đề tài ”Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên ở cộng đồng Việt Nam”,
của Nguyễn Hữu Toàn (2010). Tác giả cho rằng trợ giúp xã hội không chỉ là cứu
đói, hỗ trợ lương thực, cho cá nhân, hộ gia đình chịu hậu quả thiên tai, chiến
tranh, tai nạn, mà còn mở rộng thành các hợp phần chính sách là trợ giúp đột
xuất và trợ giúp thường xuyên. Mỗi hợp phần chính sách lại bao gồm các chính
sách bộ phận đặc biệt như chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên tại cộng
đồng gồm các chính sách bộ phận là: trợ cấp xã hội hàng tháng, trợ giúp về y tế,
trợ giúp về giáo dục, trợ giúp về việc làm, trợ giúp về học nghề. Đồng thời trong
bài viết cũng chỉ ra được số lượng người khuyết tật (2008) trên cả nước và phạm
vi phân bổ người khuyết tật, dạng khuyết tật và số lượng người khuyết tật cũng
4


như nhu cầu của người khuyết tật và việc đáp ứng nhu cầu của người khuyết tật
cũng như các chính sách cho người khuyết tật Việt Nam.
- Tác giả Trịnh Thắng và các cộng sự (2011), “Báo cáo về trẻ khuyết tật tại
An Giang và Đồng Nai năm 2011”. Baó cáo phân tích tình hình chung về kiến
thức, thái độ và hành vi của cộng đồng đối với trẻ khuyết tật ở hai tỉnh Đồng Nai
và An Giang; phân tích các yếu tố ảnh hưởng thái độ và hành vi của mọi người
đối với trẻ khuyết tật; đưa ra các đề xuất để phát triển chiến lược truyền thông và
các khuyến nghị chính đối với các nhà hoạch định chính sách.
- Tác giả Trần Nam, trong Mục chính sách và pháp luật, Hội nạn nhân Chất
độc Da cam/Dioxin – Việt Nam, năm 2012, “Chính sách đối với người bị nhiễm
chất độc hóa học còn nhiều bất cập”. Bài báo đề cập đến việc điều tra, khảo sát
các nạn nhân bị nhiễm chất độc da cam/đi ô xin trên địa bàn tỉnh Bình Thuận;
việc thực hiện chính sách đối với nạn nhân chất độc da cam còn nhiều bất cập,
gây thiệt thòi cho các đối tượng; một số kiến nghị với Chính phủ và các bộ,
ngành có liên quan như Bộ Lao động TBXH, Bộ Y tế sớm ban hành Quy trình
xác định nạn nhân chất độc da cam/Điôxin.
- Ban Điều phối các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam, Bộ Lao

động Thương binh và Xã hội (2013), “Báo cáo năm 2013 về hoạt động giúp
người khuyết tật Việt Nam”. Báo cáo tổng kết những hoạt động và kết quả chủ
yếu về hỗ trợ người khuyết tật đã triển khai trong năm của các bộ, ngành, cơ
quan chức năng, tổ chức xã hội với sự điều phối của ban điều phối các hoạt động
hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam, đánh giá tồn tại, nguyên nhân, bài học kinh
nghiệm và định hướng cho các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật trong năm
2014 cũng như tiếp tục thúc đẩy thực hiện Luật người khuyết tật và đề án trợ
giúp người khuyết tật của các cơ quan, tổ chức thành viên của Ban điều phối các
hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam.
- Nguyễn Hữu Hải (Chủ biên, 2014), Chính sách công - Những vấn đề cơ
bản, Nxb chính trị quốc gia, cuốn sách đã đề cập đến chính sách công dưới góc
độ chung nhất, bao gồm các vấn đề như: nhận thức về chính sách công; hoạch
5


định chính sách công; tổ chức thực thi chính sách công; phân tích chính sách
công.
- Đề tài “Đánh giá việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật ở xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội”, của Nguyễn
Thị Quỳnh, năm 2014. Tác giả chỉ ra những thành tựu mà chính quyền xã Hợp
đồng đã làm được trong việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật sinh sống tại địa bàn trong thời gian qua, tuy nhiên tác giả cũng nêu ra
những mặt hạn chế, những bất cập như nhiều người còn chưa tiếp cận được với
chính sách trợ giúp của Nhà nước vì thiếu thông tin liên quan đến chính sách trợ
giúp, một số cán bộ của cơ quan hành chính Nhà nước gây khó khăn, phiền
nhiễu trong công tác tiếp cận các chính sách trên, đồng thời đưa ra những giải
pháp cũng như kiến nghị cho việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với
người khuyết tật trong thời gian tới.
- Tác giả Thụy Bình, trong Tạp chí người khuyết tật, năm 2015, bài báo“Về
vấn đề gia tăng và một số giải pháp gia tăng người khuyết tật”. Bài báo đề cập

đến các dạng khuyết tật, tỷ lệ người khuyết tật và trẻ em khuyết tật đang có xu
hướng gia tăng do điều kiện vị trí địa lý của nước ta, thời tiết khắc nhiệt, ô
nhiễm môi trường và do nguyên nhân nhiều gia đình có người khuyết tật và
người khuyết tật dấu tình trạng khuyết tật của mình. Bài báo đề cập giải pháp
giảm thiểu sự gia tăng người khuyết tật và trẻ em khuyết tật.
- Tác giả Nguyễn Đức Minh, năm 2015, bài báo “Chính sách giáo dục hòa
nhập trẻ khuyết tật Việt Nam”. Đảng và Nhà nước đã tạo sự bình đẳng cho trẻ
em khuyết tật Việt Nam cơ hội tiếp cận với giáo dục hòa nhập, nhưng trên thực
tế tỷ lệ trẻ tiếp cận với lĩnh vực này còn rất hạn chế, đó là do những quy định
trong luật người khuyết tật chưa sát với thực tiễn, chính sách chưa cụ thể, việc
xác nhận là người khuyết tật thường được kiểm tra bằng y tế, chưa sử dụng các
hình thức kiểm tra tâm lý do đó nhiều trẻ em là trẻ khuyết tật chưa được xác
định đúng về mức độ khuyết tật của mình.

6


Mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu về trẻ em, trẻ em khuyết tật, nhưng
chưa có một nghiên cứu nào đề cập một cách hệ thống việc thực hiện chính sách
đối với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam, do đó việc lựa chọn của em không trùng
với các công trình nghiên cứu khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài để hoàn thiện quy trình thực hiện chính sách đối với
TEKT ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu việc thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật từ góc độ
lý luận.
- Phân tích thực trạng việc thực hiện chính sách đối với TEKT ở Việt Nam
từ đó chỉ ra những nguyên nhân trong quá trình thực hiện chính sách.

- Đề xuất giải pháp và hoàn thiện quy trình thực hiện chính sách đối với trẻ
em khuyết tật ở Việt Nam trong giai đoạn 2016 – 2026.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quy trình thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Quy trình thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật như
thế nào?
- Không gian: Trẻ em khuyết tật ở Việt Nam
- Thời gian: Từ năm 2016 trở về trước và định hướng giải pháp cho giai
đoạn 2016 đến 2026.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
- Tiếp cận dựa trên cơ sở những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về
vấn đề người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng.
7


5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp khảo sát, thống kê
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
Áp dụng phân tích các tình huống chính sách, từ đó tổng hợp và phát hiện
tính đặc thù, khác biệt và đưa ra những nhận định có giá trị khoa học.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Tổng hợp, kế thừa các kết quả nghiên cứu lý thuyết về chính sách đối với
trẻ em khuyết tật; các văn bản nghị quyết, chính sách, pháp luật của Đảng, báo
cáo kết quả trợ giúp trẻ em khuyết tật của một số tổ chức hỗ trợ trẻ em khuyết
tật.

- Phương pháp chuyên gia
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Về lý luận
- Luận văn đã hệ thống cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đối với trẻ em
khuyết tật ở Việt Nam
6.2. Về thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy, học tập và cho các nhà hoạch định chính sách đối với trẻ
em khuyết tật, các cấp chính quyền địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Cơ sở khoa học về thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện quy trình thực hiện chính
sách đối với trẻ em khuyết tật ở Việt Nam

8


Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐỐI VỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT
1.1. Khái niệm về trẻ em khuyết tật và thực hiện chính sách đối với trẻ
em khuyết tật
1.1.1. Trẻ em khuyết tật
1.1.1.1. Trẻ em
Trong Công ước về quyền trẻ em 1989, văn kiện quốc tế cơ bản, toàn diện
nhất về trẻ em tính đến thời điểm này đã định nghĩa “Trẻ em có nghĩa là bất kỳ
người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ
em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” (Điều I). Và để làm rõ khái niệm trẻ
em, ngay trong lời nói đầu của công ước đã nêu rõ “trẻ em, do còn non nớt về

thể chất và trí tuệ, cần phải được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ
thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”. Theo đó, trẻ em là
những người đảm bảo đầy đủ các điều kiện sau: Một là, phải là người còn non
nớt về thể chất và trí tuệ; Hai là, cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt; Ba là,
người từ 0 đến dưới 18 tuổi [Điều I, Công ước về quyền trẻ em].
Theo quy tắc Bắc Kinh (Những quy tắc tối thiểu, phổ biến của Liên hợp
quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên ngày 20/11/1985)
nêu rõ “người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”. Họ là người chưa phát
triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm sinh lý, trình độ nhận thức và kinh
nghiệm sống của họ bị hạn chế, thiếu những điều kiện và bản lĩnh tự lập, khả
năng kiềm chế kém, dễ bị kích động, lôi kéo vào các hoạt động phiêu lưu mạo
hiểm. Như vậy, việc sử dụng những khái niệm có ý nghĩa quan trọng về mặt
pháp lý. Liên hiệp quốc đặt các em trong đối tượng điều chỉnh của pháp luật
quốc tế và pháp luật quốc gia với mục đích bảo vệ quyền trẻ em và người chưa
thành niên khi phạm pháp. Kêu gọi các nước thành viên tham gia Công ước
Quốc tế về quyền trẻ em phải quan tâm đầy đủ đến các biện pháp; tích cực, huy
9


động các nguồn lực có thể để giúp đỡ trẻ em và người chưa thành niên nhằm
giảm sự can thiệp của pháp luật và xử lý người chưa thành niên phạm pháp một
cách công bằng, nhân đạo và hiệu quả.
Ở Việt Nam, theo Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm,
2004 thì trẻ em là “công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Như vậy, độ tuổi được coi
là trẻ em trong pháp luật nước ta thấp hơn so với quy định trong Điều 1 Công
ước quốc tế về quyền trẻ em. Tuy nhiên, đây không bị coi là trái với Công ước
về quyền trẻ em vì Điều 1 Công ước về quyền trẻ em cho phép các quốc gia
thành viên quy định độ tuổi được coi là trẻ em thấp hơn 18 tuổi.
1.1.1.2. Trẻ em khuyết tật
Công ước về quyền của người khuyết tật đã được Đại hội đồng Liên hợp

quốc thông qua vào tháng 03/2007. Đây là điều ước quốc tế đầu tiên về quyền
con người của Liên hợp quốc trong thế kỷ XXI, đánh dấu một bước ngoặt trong
cuộc đấu tranh cho quyền của những người khuyết tật trên thế giới. Theo đó, tại
Điều 1 Công ước, người khuyết tật bao gồm “Những người có khiếm khuyết lâu
dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác với những rào
cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ
vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”. Mặc dù vẫn còn những
quan điểm khác nhau về những thuộc tính cấu thành khái niệm “người khuyết
tật”, tuy nhiên, đây là lần đầu tiên có một định nghĩa về “người khuyết tật” được
ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người, nó là cơ sở trong việc bảo
vệ và thúc đẩy quyền của nhóm đối tượng này.
Tại Trung Hoa, Điều 2 Luật của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa về
bảo vệ người khuyết tật năm 1990 quy định.
Người khuyết tật là một trong những người bị bất thường, mất mát của một
cơ quan nhất định hoặc chức năng tâm lý hay sinh lý, hoặc trong cấu trúc giải
phẫu và những người đã mất toàn bộ hoặc một phần khả năng tham gia vào các
hoạt động một cách bình thường.

10


Người khuyết tật là những người có thính giác, thị giác, lời nói hoặc khuyết
tật về thể chất, chậm phát triển tâm thần, rối loạn tâm thần, khuyết tật nhiều và/
hoặc khuyết tật khác.
Tại Ấn Độ, Luật người khuyết tật ban hành năm 1995 của Ấn Độ định
nghĩa khuyết tật bao gồm những tình trạng bị mù, nghe kém, bệnh phong; thị lực
kém; suy giảm khả năng vận động; chậm phát triển trí óc và mắc bệnh về tâm
thần.
Tại Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về người
khuyết tật. Đại đa số đều dùng từ khuyết tật và tàn tật để chỉ cùng một khái

niệm, và được dùng song song trên cả phương diện truyền thông đại chúng và
văn bản pháp quy. Điều I Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998 định nghĩa người
tàn tật là: “Người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng
biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động
khiến cho lao động, học tập gặp nhiều khó khăn”.
Ngày 17/6/2010, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
thông qua Luật Người khuyết tật, có hiệu từ 01/01/2011 thay thế Pháp lệnh về
người tàn tật 1998, chính thức sử dụng khái niệm “Người khuyết tật” thay cho
khái niệm “Người tàn tật” hiện hành, phù hợp với khuynh hướng nhìn nhận
chung của thế giới. Theo Quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật người khuyết tật
năm 2010 thì người khuyết tật được hiểu là “người bị khiếm khuyết một hoặc
nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật
khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”. Khái niệm này được đưa
ra dựa vào mô hình xã hội và về cơ bản phù hợp với khái niệm người khuyết tật
trong Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2007.
Như vậy, dựa trên định nghĩa về người khuyết tật và định nghĩa về trẻ em,
theo tác giả, trẻ em khuyết tật được hiểu là những trẻ em từ 0 đến 18 tuổi có
khiếm khuyết về cấu trúc cơ thể hoặc suy giảm các chức năng của cơ thể làm
hạn chế khả năng hoạt động, gây khó khăn trong sinh hoạt, học tập, xã hội.

11


Việc đưa ra khái niệm chung, thống nhất về trẻ em khuyết tật rất quan trọng
nhưng không phải dễ dàng, bởi ngay trong hệ thống pháp luật quốc gia và pháp
luật quốc tế cũng không có quy định cụ thể về vấn đề này, trong khi các tiêu chí
xác định khuyết tật hay độ tuổi được coi là trẻ em vẫn chưa thực sự thống nhất.
Vì vậy, cần phải có cái nhìn tổng thể về trẻ em và người khuyết tật để hình thành
khái niệm hợp lý nhất về trẻ em khuyết tật. Từ đó, là cơ sở để phân loại, nghiên
cứu, chăm sóc và bảo vệ nhóm đối tượng dể bị tổn thương này.

1.1.1.3. Phân loại trẻ em khuyết tật theo loại dị tật
Theo luật người khuyết tật thì khuyết tật được chia làm các loại sau;
- Khuyết tật vận động:
Là dạng khuyết tật ảnh hưởng đến khả năng vận động, di chuyển: Khó khăn
trong việc ngồi, đi, đứng; Người bị yếu, liệt hoặc hạn chế vận động tay, chân,
lưng, cổ; Người bị dị tật, bị biến dạng ở đầu, cổ, lưng hoặc tay, chân.
- Khuyết tật nghe nói:
Những người khuyết tật thuộc nhóm này là những người yếu kém khả năng
nghe nên cần phải có những dụng cụ trợ thính để giúp họ nghe được tiếng nói
của người khác; vì không nghe được nên khả năng nói của họ cũng rất yếu kém.
Các biểu hiện như sau: Khó khăn khi nói hoặc không nói được, khó khăn
khi nghe hoặc không nghe được, bị biến dạng ở vùng tai, mũi và miệng.
- Khuyết tật nhìn: Là những người rất yếu kém khả năng nhìn, dù đã đeo
kính, khiến hạn chế hoạt động cần nhìn bằng mắt: khó khăn khi nhìn hoặc không
nhìn thấy đồ vật trong nhà, khó khăn khi phân biệt màu sắc hoặc không phân
biệt được các màu sắc, bị dị tật hoặc biến dạng ở vùng mắt.
- Khuyết tật thần kinh, tâm thần:
Là người suy yếu về cảm xúc, suy nhược tinh thần hoặc mắc bệnh tâm lý
khiến cho những nhu cầu của cá nhân và những nhu cầu mang tính xã hội của họ
bị hạn chế. Những biểu hiện thể hiện khuyết tật này:
Thường ngồi một mình, chơi một mình, không bao giờ nói chuyện hoặc
quan tâm đến bất kỳ ai. Có chứng hành vi bất thường như kích động, cáu giận
12


hoặc sợ hãi vô cớ hoặc có hành vi hủy hoại bản thân như đập đầu, cắn tay chân
của chính mình, bất ngờ dựng mọi hoạt động, mở mắt trừng trừng không chớp,
co giật tay, môi, mặt hoặc bất thình lình ngã xuống, co giật, sùi bọt mép, gọi hỏi
không biết.
- Khuyết tật trí tuệ:

Những người khuyết tật dạng này có sự suy yếu hay chậm phát triển trí não
như những người bại não, động kinh, tự kỷ, và những rối loạn tương tự khác,
Những người này thường khó khăn trong việc nhận biết người thân trong gia
đình hoặc khó khăn trong giao tiếp với những người xung quanh so với người
cùng tuổi. Chậm chạp ngờ nghệch hoặc không thể làm được một việc đơn giản
dù đã được hướng dẫn. Họ cũng khó khăn trong việc học tập (đọc, viết và làm
toán) so với người cùng tuổi do chậm phát triển trí tuệ.
- Khuyết tật khác: Là những người bị giảm khả năng thực hiện các hoạt
động trong học tập và lao động do tê bì hoặc mất cảm giác ở tay chân, mặc dù
đã được điều trị liên tục 3 tháng; giảm khả năng thực hiện các hoạt động trong
học tập và lao động do các nguyên nhân hô hấp hoặc do tim mạch hoặc do rối
loạn đại, tiểu tiện dù đã liên tục điều trị 3 tháng; giảm khả năng thực hiện các
hoạt động trong học tập và lao động do các nguyên nhân khác.
Người khuyết tật được chia theo mức độ khuyết tật sau đây:
Trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng là những người do khuyết tật dẫn đến mất
hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các hoạt
động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu
sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn
toàn.
Trẻ em khuyết tật nặng là những người do khuyết tật dẫn đến mất một phần
hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được một
số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc phục vụ nhu cầu
sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc.

13


Trẻ em khuyết tật nhẹ là những trẻ không thuộc trường hợp khuyết tật đặc
biệt nặng và khuyết tật nặng.
Như vậy, khuyết tật ở trẻ khá đa dạng. Tuy thiên có thể nhận thấy điểm

chung ở những trẻ khuyết tật vận động, khuyết tật nghe, nói, khuyết tật nhìn là
đều có bộ não phát triển bình thường. Nếu được quan tâm, tạo môi trường thuận
lợi, rèn luyện từ sớm và thường xuyên thì TEKT vẫn có thể tiếp thu được
chương trình học tập, làm việc, tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội của
cộng đồng. Do đó, việc phân loại rõ ràng, chính xác trẻ khuyết tật là cơ sở để
thực hiện các hoạt động phù hợp với từng dạng tật của trẻ, giúp trẻ phát triển
năng lực bản thân, tự tin trong cuộc sống.
Mang trong mình khiếm khuyết về cơ thể như người khuyết tật nói chung,
lại vừa là những công dân còn non nớt về mặt thể chất và tinh thần giống như
biết bao trẻ bình thường khác, trẻ em khuyết tật với tư cách là nhóm bị tổn
thương kép đã phải chịu rất nhiều thiệt thòi do tình trạng khuyết tật đem lại.
Những thiệt thòi đó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của bản thân trẻ và gia
đình có trẻ khuyết tật, ảnh hưởng đến việc tham gia các hoạt động xã hội của trẻ.
Do vậy, xác định được nguyên nhân dẫn đến tình trạng khuyết tật, tính chất,
mức độ khuyết tật và phân loại được trẻ em khuyết tật sẽ có tác dụng trong việc
ngăn ngừa, giảm bớt số lượng trẻ khuyết tật đang ngày càng gia tăng, từ đó hạn
chế tình trạng trẻ em bị thiệt thòi, đồng thời phân loại trẻ khuyết tật còn là cơ sở
để áp dụng các chính sách, biện pháp phù hợp nhằm bảo vệ, hỗ trợ, giúp đỡ trẻ
khuyết tật vượt qua khó khăn trong cuộc sống, vươn lên hòa nhập cộng đồng.
1.1.1.4. Đặc điểm của trẻ em khuyết tật
Do chấn thương hay do bệnh bại liệt gây ra làm què cụt, khoèo, liệt chân
tay, ngoài ra trẻ em khuyết tật vận động do tổn thương khu vận động lão bộ. Sự
phát triển nhận thức của trẻ phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tham gia các hoạt
động trong môi trường xung quanh trẻ khuyết tật vận động khó đạt được trình độ
nhận thức cũng như những trải nghiệm như mọi trẻ bình thường khác. Chẳng
hạn, trẻ không thể có cảm giác mỏi chân nếu như trẻ bại liệt đôi chân không thể
14


đi được, không thể leo trèo được thì khó có cảm giác về độ cao và kỹ năng lấy

thăng bằng của cơ thể, không có cảm giác về sức đẩy của nước nếu không được
ngâm mình trong nước…
Đối với trẻ bị tổn thương về lão bộ gây rất nhiều cản trở cho hoạt động
nhận thức của trẻ, thậm trí là trình độ nhận thức ở mức độ nặng. Hoạt động nhận
thức của loại trẻ này cũng có những hạn chế tương tự như trẻ chậm phát triển trí
tuệ và còn bị ảnh hưởng thêm của khuyết tật vận động. Song cũng cần lưu ý
những trường hợp khuyết tật vận động do bại não gây nên thì hoạt động nhận
thức của trẻ hầu như không bị ảnh hưởng song trẻ khó có thể đạt được suy nghĩ,
hành động, lời nói một cách bình thường do sự cản trở của khuyết tật vận động.
Đối với trẻ chậm phát triển vận động, khó khăn khi nói, kém hiểu biết về
các quy luật xã hội căn bản, không ý thức về hậu quả về các hành vi của mình,
khó khăn khi tự phục vụ, phân tích màu sắc, dấu hiệu, chi tiết sự vật kém, thiếu
tích cực trong quan sát, tư duy của trẻ thường biểu hiện tính không liên tục,
chậm hiểu cái mới, quên nhanh cái vừa mới tiếp thu, thời gian chú ý của trẻ em
chậm phát triển trí tuệ kém hơn nhiều trẻ bình thường.
Bên cạnh những đặc điểm của trẻ em khuyết tật về vận động cũng như trẻ
em khuyết tật về trí tuệ, các em đều là những người sống nội tâm, giàu cảm xúc,
giàu nghị lực để thích nghi, để vượt qua những khó khăn. Đây là ưu điểm cần
quan tâm động viên để trẻ em khuyết tật tự vươn lên hòa nhập cuộc sống xã hội.
Trẻ em khuyết tật cũng như những trẻ bình thường có những đòi hỏi thỏa mãn
các nhu cầu ngày càng tăng về vật chất, tinh thần và nhu cầu hoàn thiện chính
bản thân mình như những trẻ em bình thường khác. Trẻ em khuyết tật luôn
muốn được hòa nhập xã hội, mong muốn được học tập, muốn được tôn trọng để
xóa đi những mặc cảm tự tị, mặc cảm với bản thân mình.
1.1.2. Chính sách đối với trẻ em khuyết tật
1.1.2.1 Khái niệm:
Thuật ngữ “chính sách” được dùng rộng rãi trong lý thuyết phát triển hiện
đại. Có nhiều cách tiếp cận để đưa ra những khái niệm về chính sách, dưới các
15



góc độ quản lý, chính trị hay hành chính. Tiếp cận dưới góc độ quản lý , “chính
sách” được xem ở hai mức độ phạm vi:
Ở phạm vi hẹp, chính sách đặt trong mối quan hệ giữa chủ thể và đối
tượng quản lý, là những quy định, điều kiện của chủ thể quản lý đặt ra và thực
thi nhằm đưa hoạt động của đối tượng quản lý theo ý chí, mục đích của mình.
Rộng hơn, chính sách đặt trong mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và khách
thể quản lý còn được hiểu như là những đối sách, ứng xử của tổ chức, quốc gia
đối với môi trường xã hội, tự nhiên và chính trị mà chính thể đó tồn tại. Nhất là
trong hệ thống mở về kinh tế, chính trị – xã hội hiện đại, ở đó xuất hiện nhiều
mối quan hệ với những vị trí, vai trò, sự tương tác khác nhau.
James Anderson đã khái quát: “chính sách là một đường lối hành động có
mục đích được ban hành bởi một hoặc một nhóm các nhà hoạt động để giải
quyết một vấn đề phát sinh hoặc vấn đề quan tâm”. Khái niệm này ở Việt Nam
được hiểu “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ
thể quyền lực, hoặc một chủ thể quản lý đưa ra, trong đó có sự ưu đãi một hoặc
một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt
động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu nào đó trong chiến lược phát triển
của một hệ thống xã hội”,
Theo Vũ Cao Đàm, thì chính sách là một thiết chế xã hội, bao gồm tập hợp
nhiều thiết chế: thiết chế bất thành văn, thiết chế công bố và thiết chế ngầm
định. Trong khuôn khổ luận án, chúng tôi chỉ đề cập đến thiết chế thành văn tức
là những chính sách được pháp luật quy định gần với nội dung quản lý nhà
nước.
- Chính sách đối với trẻ em
Chính sách đối với trẻ em là các quan điểm, cách thức, biện pháp của nhà
nước nhằm cụ thể hóa đường lối của Đảng cầm quyền tác động đến lĩnh vực
giáo dục, bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Đó là các chính sách và chương trình hỗ
trợ nuôi dưỡng, chăm sóc thay thế; trợ giúp giáo dục, y tế, chỉnh hình, phục hồi
chức năng; hỗ trợ học nghề, tạo việc làm; chính sách và chương trình tiếp cận

16


công trình công cộng, tham gia giao thông và công nghệ thông tin đối với trẻ tàn
tật; chính sách và chương trình hỗ trợ gia đình trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; các
chương trình mục tiêu quốc gia trong đó có hợp phần hoặc nội dung bảo vệ trẻ
em; các chương trình dành riêng cho trẻ em.
- Chính sách đối với trẻ em khuyết tật
Chính sách đối với trẻ em là các quan điểm, cách thức, biện pháp của nhà
nước nhằm cụ thể hóa đường lối của Đảng cầm quyền tác động đến lĩnh vực trẻ
em khuyết tật. Đó là các chính sách bảo trợ xã hội, trợ giúp về y tế, giáo dục,
hoạt động vui chơi giải trí, thể dục thể thao, tiếp cận với các dịch vụ công cộng
giúp trẻ khuyết tật phát triển với khả năng của chính mình, xoá đi những mặc
cảm, phát triển và hòa nhập với cộng đồng như những trẻ bình thường khác.
1.1.2.2. Đặc trưng của chính sách đối với trẻ em khuyết tật
Thực hiện chính sách đối với TEKT mang đầy đủ đặc điểm của quá trình
thực hiện chính sách nói chung. Với bản chất là hoạt động xã hội của con người,
thực hiện chính sách đối với TEKT hàm chứa những đặc điểm chung của các
hoạt động xã hội khác đồng thời với bản chất pháp lý của mình, thực hiện chính
sách đối với TEKT đã tạo nên những đặc điểm nổi trội và đặc thù sau đây:
Thứ nhất, thực hiện chính sách đối với TEKT bao giờ cũng thông qua
những hành vi cụ thể của con người. Đời sống xã hội của con người bao giờ
cũng được bộc lộ thông qua các hành vi, hoạt động cụ thể trong các mối quan hệ
xã hội. Hành vi cũng chính là các phương thức tồn tại của con người, chính vì lẽ
đó, việc thực hiện chính sách về người khuyết tật thường tồn tại là những dạng
hành động tích cực là chủ yếu và phổ biến của các cá nhân hoặc cơ quan trong
bộ máy nhà nước. Kết quả thực hiện các chính sách đó trên thực tế không phải
lúc nào cũng hợp pháp, cũng bảo vệ và đem lại những lợi ích đối với TEKT có
thể do nhiều nguyên nhân dẫn tới hoặc trái pháp luật hoặc mục đích bảo vệ và
bảo đảm quyền lợi cho người khuyết tật không thể đạt được.

Thứ hai, Thực hiện chính sách đối với TEKT là hành vi phù hợp với pháp
luật về TEKT. Đó là những hành vi cụ thể của con người song thực hiện chính
17


×