Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

triết học cổ điển đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.67 KB, 43 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG

TIỂU LUẬN MÔN: TRIẾT HỌC

TRIẾT HỌC CỔ
ĐIỂN ĐỨC

Tp. Hồ Chí Minh, 25/11/ 2016
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG


2

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Một trong những cống hiến vĩ đại của Mác, Ăng-ghen là để lại cho nhân loại một di
sản lý luận đồ sộ. Mục tiêu của Đảng ta hiện nay là: nghiên cứu học tập chủ nghĩa
Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho học thuyết này chiếm vị trí chủ yếu
trong đời sống văn hóa, tinh thần của xã hội ta, làm cho chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh thật sự là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng. Cho nên sự thắng lợi của Cách Mạng Việt Nam, con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của nước ta tùy thuộc vào việc triển khai và thực hiện lý luận Khoa Học của
chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong qua trình phát triển, phép biện chứng trải qua ba thời kì quan trọng là : phép
biện chứng chất phác của các nhà triết học cổ đại, phép biện chứng duy tâm của
triết học cổ điển Đức, và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lê nin.


Trong đó phép biện chứng duy tâm của triết học cổ điển Đức là một trong những
thành tựu vĩ đại. Các nhà triết học cổ điển Đức tiếp thu những tư tưởng biện chứng
trong các di sản triết học truyền thống từ thời cổ đại, xây dựng phép biện chứng trở
thành một phương pháp luận triết học trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên


3

và xã hội. và triết học cổ điển Đức mà đỉnh cao là phép biện chứng duy tâm đã trở
thành một trong ba nguồn gốc hình thành chủ nghĩa Mác – Lê nin.
Các tham luận tập trung nghiên cứu làm rõ bản chất nhận thức luận và đạo đức của
các nhà triết học cổ điển Đức, khẳng định những giá trị cơ bản của đạo đức trong
triết học cổ điển Đức, nhất là triết học của I.Cantơ, làm rõ ảnh hưởng của triết học
cổ điển Đức đối với sự hình thành của triết học Mác và các trào lưu, khuynh hướng
triết học phương Tây khác sau này, khẳng định sự cần thiết của việc nghiên cứu triết
học cổ điển Đức nói riêng và lịch sử triết học nói chung, trên cơ sở đó ứng dụng và
tìm cách phát triển việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập triết học ở nước ta.
Thông qua đề tài này , không những cho phép chúng ta nắm vững được bức tranh
toàn cảnh mà còn hiểu được nguồn gốc ra đời, sự hình thành và phát triển của phép
biện chứng duy tâm của triết học cổ điển Đức. Qua đó chúng ta hiểu được những
đóng góp to lớn của chúng với tư cách là một trong ba nguồn gốc hình thành của
chủ nghĩa Mác – Lê nin, một hệ tư tưởng mà nước Việt Nam chúng ta làm cơ sở lý
luận cho sự phát triển đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Phân tích đặc điểm triết học Đức được thể hiện qua các nhà triết học tiêu biểu thời
đó bước đầu chỉ ra phân tích, hạn chế và thành tựu của nó.
Nhiệm vụ:
- Chỉ ra và phân tích những điều kiện và tiền đề hình thành triết học cổ điển Đức.

- Phân tích phương pháp luận
- Nhận xét và trình bày những ưu điểm và hạn chế từ đó chỉ ra vai trò của triết học
cổ điển Đức đối với triết học hiện đại .
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong tiểu luận này chủ yếu tập trung khai thác chủ những tư tưởng biện chứng của
triết học cổ điển Đức. Một giai đoạn tiêu biểu của lịch sử triết học nhân loại. dòng
triết học có ảnh hưởng lớn tới triết học hiện đại.


4

4.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận được thực hiện dựa trên quan điểm của triết học Mác – Lênin về triết học
như một hình thái ý thức xã hội. Đồng thời dựa trên những nghiên cứu của các nhà
kinh điển Mác – Lênin về lịch sử triết học ,các sách,báo, giáo trình lịch sử, mạng
internet, bài nghiên cứu của các tác giả nghiên cứu về triết học cổ điển Đức, cũng
như những chỉ dẫn quý báu về mặt phương pháp luận.
Tiểu luận sử dụng các phương pháp: phân tích và so sánh, phân tích tổng hợp, kết
hợp lôgíc và lịch sử, diễn dịch, quy nạp…
5.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:
Luận văn đáp ứng phần nào yêu cầu nghiên cứu ngày một tăng đối với triết học ở
nước ta; có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập lịch sử triết
học.
6.Kết cấu của đề tài
Trên cơ sở đó tôi xin chọn đề tài triết học cổ điển Đức tập trung nghiên cứu những
vấn đề sau đây:
-

Điều kiện kinh tế - xã hội của triết học Đức


-

Đặc điểm của triết học cổ điển Đức

-

Những thành tựu và hạn chế.

-

Phép biện chứng cổ điển Đức và một số nhà triết học tiêu biểu
Nhận định về nền triết học Đức


5

NỘI DUNG
Chương 1
ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI, KHOA HỌC VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT
HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
1.1 Điều kiện kinh tế – xã hội, khoa học:
Đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập ở một số
nước Tây Âu như Italia, Anh, Pháp, v.v., đem lại một nền sản xuất phát triển chưa
từng có trong lịch sử, tỏ ra ưu việt hơn hẳn so với tất cả các chế độ xã hội trước đó.
Những thành tựu kinh tế và văn hoá thời nay mà đỉnh cao là Cách mạng công
nghiệp ở Anh càng khẳng định sức mạnh của con người trong nhận thức và cải tạo
thế giới. Cùng với Cách mạng tư sản Pháp làm rung chuyển cả châu Âu, chúng
đánh dấu sự mở đầu của nền văn minh công nghiệp trong lịch sử nhân loại.
Trong khi ở nhiều nước Tây Âu đang có những thay đổi nhảy vọt như vậy, thì nước
Đức cho đến đầu thế kỷ XIX vẫn là một quốc gia phong kiến lạc hậu. Liên bang

Đức chỉ tồn tại về hình thức, thực tế đất nước còn phân thành nhiều tiểu vương quốc
tách biệt nhau. Tình trạng đó gây nhiều trở ngại đối với sự phát triển của đất nước.
Năm 1822, cả nước Đức mới chỉ có 2 máy hơi nước. Nông nghiệp bị đình đốn.
Triều đình vua Phổ Phriđrích Vinhem (1770 – 1840) vẫn ngoan cố tăng cường
quyền lực và duy trì chế độ quân chủ phong kiến thối nát, cản trở đất nước phát
triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, cả đất nước bao trùm bầu không khí bất bình
của đông đảo quần chúng. Như Ph.Ăngghen nhận xét, có thể coi đây là một trong
những thời kỳ yếu hèn nhất trong lịch sử nước Đức.
Tuy lạc hậu về kinh tế và chính trị, nước Đức thời kỳ này đạt được sự phát triển
chưa từng có về triết học, văn hoá và nghệ thuật. Đây là quê hương của nhiều nhà tư
tưởng, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng thế giới như Hécđơ, Gớt, Sinlơ, Cantơ V.V.. Họ,
một mặt, tiếp thu những di sản tư tưởng và văn hoá Đức truyền thống, kế thừa các


6

quan niệm của Nicôlai Kuzan, Lépnít, v.v. mặt khác, được cổ vũ to lớn của tư tưởng
Khai sáng và văn hóa Pháp thế kỷ XVIII. Cách mạng tư sản Pháp (1789 – 1794) là
hậu thuẫn thực tiễn thức tỉnh giai cấp tư sản Đức đấu tranh vì một trật tự xã hội mới
ở Đức. Thể hiện nguyện vọng đó của giai cấp tư sản, các tác phẩm của Gớt, Sinlơ,
Cnatơ Phíchtơ V.V., đều toát lên một tinh thần phẫn nộ chống lại sự trì trệ và bất
công của xã hội Đức thời đó.
Thêm vào đó, những tiến bộ đáng kể của khoa học, nhất là các ngành khoa học tự
nhiên ngày càng chứng tỏ sự hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình thống trị
trong tư tưởng Tây Âu suốt thế kỷ XVII – XVIII. Việc phát minh ra điện và cách sử
dụng điện năng góp phần tạo ra bước nhảy vọt trong sự phát triển của sản xuất từ
công trường thủ công tới công nghiệp cơ khí, đồng thời chứng thực những phát triển
đầu tiên của khoa học về sự bảo toàn và biến hoá năng lượng và vật chất của vũ trụ.
Phát minh của Lavoarê ra ôxy và bản chất của sự cháy đã đánh đổ thuyết nhiên tố,
mở ra giai đoạn phát triển mới của hoá học. Những công trình nghiên cứu của

Lamác, Linnơ, việc phát hiện ra tế bào của Lơvenhúc v.v. đòi hỏi phải có cách lý
giải mới về bản chất của sự sống.
Bối cảnh lịch sử đó ở Tây Âu và nước Đức đặt trước các nhà triết học nhiều vấn đề:
Siêu hình học thế kỷ XVII (với các đại biểu chính như Đềcáctơ, Xpinôza, Lépnít
v.v.) từng đóng vai trò to lớn trong việc phát triển tư duy lý luận và hệ thống hoá tri
thức con người đã không còn đáp ứng được nhu cầu phát triển của thực tiễn và tư
tưởng Tây Ẩu thế kỷ XVIII, khi mà hàng loạt các khoa học đã đủ sức phát triển tách
ra khỏi cái nôi triết học của mình, trở thành những lĩnh vực nghiên cứu độc lập.
Ngay từ cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, xuất hiện nhiều xu hướng xét lại siêu
hình học và các giá trị tư tưởng truyền thống. Tuy nhiên, triết học Tây Âu Phục
hưng và cận đại (ngay cả triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII) từng là ngọn cờ lý
luận của giai cấp tư sản trong thời kỳ bình minh đầy tính cách mạng của nó, về cơ
bản, vẫn chưa thoát khỏi quan niệm cơ học về thế giới, đồng thời bất lực trong việc
lý giải bản chất của thực tiễn xã hội đang diễn ra cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.
Tóm lại, giờ đây cần có cách nhìn mới về các hiện tượng tự nhiên và tiến trình lịch
sử nhân loại, cần có quan niệm mới về khả năng và hoạt động của con người. Và
triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng với những sứ mạng lịch sử đó của không


7

chỉ riêng nước Đức, mà cả phương Tây nói chung. Cho nên nó có những đặc điểm
chính như sau:
1.2 Đặc điểm của triết học cổ điển Đức:
Thứ nhất đây là thế giới quan và ý thưc hệ của giai cấp tư sản Đức cuối thế kỷ XVII
– nửa đầu thế kỷ XIX. Hầu hết các đại biểu của nó như Cantơ, Hêghen V.V., đều
xuất thần từ những tầng lớp thượng lưu trong xã hội. Nhận thấy sự trì trệ của xã hội
Đức phong kiến thời đó, được sự cổ vũ của giai cấp tư sản nhiều nước nhất là cách
mạng tư sản Pháp (1789 – 1794), họ thể hiện nguyện vọng tiến bộ của giai cấp tư
sản đấu tranh vì một trật tự xã hội mới ở Đức, nhằm đem lại sự thịnh vượng, phồn

vinh và thống nhất đất nước. Cho nên “cũng giống như ở Pháp hồi thế kỷ XVIII,
cách mạng triết học Đức hồi thế kỷ XIX cũng đi trước cuộc cách mạng chính trị”.
Nhưng khác với giai cấp tư sản Pháp vốn triệt để cách mạng, giai cấp tư sản Đức
ngay từ đầu đã muốn thoả hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ đang thống trị
thời đó, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết những vấn đề phát triển đất
nước. Phản ánh sự nhu nhược đó của giai cấp tư sản, chẳng hạn, Hêghen, bất chấp
phương pháp biện chứng của mình khẳng định sự phát triển tất yếu của hiện thực,
vẫn ca ngợi, tô vẽ cho nhà nước Phổ phong kiến đang thối nát, với những bất công
và tệ nạn xã hội của nó. Và nói chung, trong thế giới quan của các nhà triết học cổ
điển Đức thể hiện khá rõ mâu thuẫn giữa tính cách mạng và khoa học về tư tưởng
với sự bảo thủ, cải lương về lập trường chính trị – xã hội.
Nhưng, điều đó không làm lu mờ sứ mạng lịch sử mà triết học cổ điển Đức thực
hiện là đem lại một cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến trình lịch sử nhân loại.
Vì vậy, đặc điểm thứ hai của nó là đặc biệt đề cao vai trò tích cực của hoạt động con
người, thực hiện bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng triết học phương Tây từ chỗ chủ
yếu bàn về những vấn đề bản thể luận, nhận thức luận … đến chỗ coi con người như
một chủ thể hoạt động là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Dĩ
nhiên, để tài con người đã được bàn đến ngay từ triết học cổ đại. Xôcrát đã hiểu triết
học là tự ý thức của con người về chính bản thân mình. Kế tục tư tưởng đó và
khuynh hướng đề cao con người từ thồi Phục hưng, Cantơ, nhà sáng lập ra triết học
cổ điển Đức, lần đầu tiên hiểu con người là chủ thể, đồng thời là kết quả quá trình
hoạt động của mình, khẳng định hoạt động thực tiễn cao hơn lý luận. Bản thân lịch


8

sử là phương thức tồn tại của con người. Mỗi cá nhân hoàn toàn làm chủ vận mệnh
của mình. Tư tưởng đó được Hêghen phát triển thêm, khẳng định con người là sản
phẩm của một thời đại lịch sử nhất định, vì vậy, mang bản chất xã hội.
Trước những thành tựu khổng lổ về kinh tế – xã hội và văn hoá mà nhân loại đạt

được trong thời kỳ bình minh đầy tính cách mạng của chủ nghĩa tư bản, các nhà
triết học cổ điển Đức từ Cantơ đến Hêghen đều đề cao sức mạnh trí tuệ và hoạt
động con người tới mức cực đoan. Họ thần thánh hoá con người tới mức coi con
người là chúa tể của tự nhiên, bản thân giới tự nhiên cũng chỉ là kết quả hoạt động
của con người. Quan niệm duy tâm đó càng được củng cố bởi sự thống trị mạnh mẽ
của tôn giáo trong xã hội Đức thời đó cũng như sự thoả hiệp của giai cấp tư sản với
ý thức hệ phong kiến. Tuy vậy, cần phải nhận thấy một trong những thành tựu cơ
bản của triết học cổ điển Đức là, thứ nhất, khẳng định tư duy và ý thức chỉ có thể
phát triển trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới. Con người là
chủ thể, đồng thời là kết quả của toàn bộ nên văn minh do chính mình tạo ra; thứ
hai, nghiên cứu tiến trình lịch sử của nhân loại, cũng như toàn bộ mối quan hệ “con
người tự nhiên” như một quá trình phát triển biện chứng
Vì thế, đặc điểm thứ ba của triết học cổ điển Đức là nó dựa trên một cách nhìn biện
chứng về thế giới hiện thực. Trước những bước phát triển như vũ bão của khoa học
và thực tiễn xã hội ở châu Âu cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX cho thấy hạn
chế của bức tranh cơ học về thế giới, các nhà triết học cổ điển Đức tiếp thu những
tư tưởng biện chứng trong các di sản triết học truyền thống từ thời cổ đại, xây dựng
phép biện chứng trở thành một phương pháp luận triết học trong việc nghiên cứu
các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Với giả thuyết vân tinh nổi tiếng về sự hình thành
vũ trụ và cách nhìn mới về con người, Cantơ, theo nhận xét của Ph.Ăngghen, là
người chọc lỗ thủng đầu tiên vào quan niệm siêu hình về tự nhiên thống trị trong
khoa học và triết học suốtt thế kỷ XVI – XVII. Hêghen đã phát hiện ra những quy
luật và các phạm trù cơ bản của phép biện chứng, xây dựng nó trở thành một khoa
học về sự phát triển của tất thảy mọi sự vật và tư tưởng. Ý nghĩa thực sự và cách
mạng của triết học Hêghen “là ở chỗ nó đã vĩnh viễn kết liễu tính tối hậu của những
kết quả của tư tưởng và của hành động con người. Theo Hêghen, chân lý mà triết
học có nhiệm vụ phải nhận thức, không còn là một tập hợp những nguyên lý giáo


9


điều có sẵn…, từ nay, chân lý nằm trong chính ngay quá trình nhận thức, trong sự
phát triển lịch sử lâu dài của khoa học”. Dù dưới hình thức duy tâm, triết học cổ
điển Đức đã đưa lại cho chúng ta phương pháp tư duy biện chứng, một phương
pháp tư duy mà sau này, khi đã được C.Mác và Ph.Ăngghen cải tạo, thì nó trở thành
“linh hồn của chủ nghĩa Mác”.
Với cách nhìn biện chứng bao quát toàn bộ hiện thực, nhiều nhà triết học cổ điển
Đức có ý đồ hệ thống hoá toàn bộ những tri thức và thành tựu mà nhân loại đạt
được từ trước tới giờ. Và đây là đặc điểm thứ tư của triết học cổ điển Đức. Tiếp thu
những tinh hoa của siêu hình học thế kỷ XVII trong việc phát triển tư duy lý luận và
hệ thống hoá toàn bộ tri thức con người, các nhà triết học, từ Cantơ tới Hêghen đều
có ý đồ xây dựng một hệ thống triết học vạn năng của mình làm nền tảng cho toàn
bộ thế giới quan con người, khôi phục lại quan niệm coi triết học là khoa học của
các khoa học. Họ thể hiện sự uyên bác không chỉ về triết học mà còn về các lĩnh
vực khoa học tự nhiên, pháp quyển, lịch sử V.V.. Dĩ nhiên, quan niệm đó hiện nay
không phù hợp, nhưng về phương diện lịch sử, nó đáp ứng nhu cầu của khoa học
cần hệ thống hoá toàn bộ tri thức con người mà các nhà Khai sáng Pháp thế kỷ
XVIII là những người khởi xướng trong bộ Bách khoa toàn thư của mình.
Trên đây là những đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức. Luận điểm của
C.Mác coi đây là “lý luận của người Đức về cách mạng tư sản Pháp”, một mặt, cho
thấy đặc trưng riêng của triết học Đức so với triết học Pháp thế kỷ XVIII, dù giữa
chúng có sự kế thừa to lớn; mặt khác, khẳng định giá trị tư tưởng vĩ đại của triết học
cổ điển Đức. Phân tích từng đại biểu cụ thể của nó giúp ta hiểu thêm điều đó.
1.3 Thành tựu và hạn chế:
1.3.1 Thành tựu:
Tuy có những hạn chế trong lĩnh vực chính trị - xã hội nhưng thành tựu của triết học
Đức thật là vĩ đại.
Triết học cổ điển Đức mang lại cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến trình lịch
sử nhân loại, nó đề cao vai trò hoạt động tích cực của con người. Khắc phục truyền
thống phương Tây, nó coi con người là chủ thể hoạt động như là vấn đề nền tảng,

xuất phát điểm của một vấn đề triết học.


10

Kế tục tư tưởng triết học cổ đại ( Xôcrát cho triết học là sự tự ý thức của con người
về chính bản thân mình) và phục hưng ( coi con người là trung tâm). Canto lần đầu
tiên hiểu con người là chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của
mình, khẳng định hoạt động thực tiễn cao hơn lý luận. Heeghen phá triển them tư
tưởng này và coi bản thân lịch sử phương thức tồn tại của con người, mỗi cá nhân
hoàn toàn làm chủ vận mệnh của mình. Ông khẳng định: con người là sản phẩm của
một thời đại lịch sử nhất định là vậy vì nó mang bản chất xã hội.
Trước những thành tựu khổng lồ của kinh tế - xã hội , khoa học – văn hóa. Các nhà
triết học cổ điển Đức từ Canto đến Heeghen đều đề cao sức mạnh trí tuệ và khả
năng hoạt động của con người. tuy nhiên , khi nhấn mạnh sức mạnh của con người
họ đã rơi vào cực đoan, họ đã thần thánh hóa người, coi con người là chúa tể tự
nhiên, bản thân giới tự nhiên nhiều chỗ cũng được họ luận giải như kết quả hoạt
động của con người.
Tuy vậy phải thấy một trong những thành tựu to lớn của triết học cổ điển đức là nó
khẳng định tư duy và ý thức chỉ có thể phát triển trong chừng mực con người nhận
thức và cải tạo thế giới. con người là chủ thể, đồng thời là kết quả của toàn bộ nền
văn minh do chính mình tạo ra, nghiên cứu tiến trình lịch sử nhân loại cũng như
toàn bộ mối quan hệ con người – tự nhiên như một quá trình phát triển biện chứng.
Tuy từ lập trường duy tâm, các nhà triết học cổ điển đức đã xây dựng nên các hệ
thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng loogich biện chứng, học
thuyết về các quá trình phát triển, mà tìm tòi lớn nhất trong tất cả các tìm tòi của họ
đó là phép biện chứng.
Với cách nhìn tổng quát và phương pháp biện chứng, các nhà triết học cổ điển Đức
có ý đồ hệ thống hóa toàn bộ tri thức và thành tựu mà nhân loại đã đạt được. tiếp
thu tinh hoa của siêu hình học thế kỷ XVII trong việc phát triển tư duy lý luận và hệ

thống hóa toàn bộ tri thức loài người, Kant và Heeghen có ý đồ xây dựng hệ thống
triết học vạn năng làm nền tảng cho thế giới quan của con người, khôi phục lại các
quan niệm coi triết học là khoa học của các khoa học.
Phải nói rằng triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử
tư tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh cao của


11

thời kỳ triết học cổ điển ở phương Tây, đồng thời nó ảnh hưởng to lớn đến triết học
hiện đại.
1.3.2 Hạn chế:
Hạn chế chung nhất trong thế giới quan của các nhà triết học Đức thể hiện rõ mâu
thuẫn giữa tính cách mạng – khoa học về tư tưởng với tinha bảo thủ về lập trường
chính trị - xã hội hầu hết các nhà triết học thời kỳ này đều xây dựng được hệ thống
triết học chứa đựng những tư tưởng khoa học có tính thời đại, đặc biệt là triết học
Kant và Heghen. Nhưng họ lại không dám tiến hành, thực hiện những cuộc cải
cách, bảo vệ chính thế Nhà nước Phổ phong kiến
Chủ nghĩa duy tâm thần bí, phía trước và bên cạnh các nhà triết học cổ điển đức là
một dòng triết học duy vật, đặc biệt là tư tưởng duy vật của các nhà triết học khai
sáng. Song các nhà triết học cổ điển Đức thấy rằng từ quan điểm duy vật, người ta
không thể giải thích được thế giới. bản chất của thế giới theo họ là tinh thần, do vậy
chỉ có thể giải quyết được những vấn đề của thế giới bằng tinh thần. họ đã từ thế
giới tinh thần xây dựng nên những hệ thống triết học duy tâm, thần bí.
Triết học trừu tượng tách rời hiện thực, triết học cổ điển đức đưa ra được những tư
tưởng tiến bộ chống chế độ xã hội cũ nhưng đó chỉ là những tư tưởng nó không đi
vào chính trị xã hội và hoạt động cách mạng mà chỉ là những hệ thống triết lý trừu
tượng ở bên trên.
Nếu các nhà tư tưởng tiến hành cách mạng trong thực tiễn, công khai chống lại Nhà
nước và giáo hội thì các nhà triết học cổ điển Đức chỉ suy nghĩ về nó trong tư tưởng

không dám công khai chống lại thực tại đó. Họ là các giáo sư chính thức trong các
trường Đại Học của vương quốc Phổ, do sợ hãi hiện thực cách mạng, thỏa hiệp với
giai cấp tư sản, tư tưởng cách mạng của họ đã phủ bên ngoài của mình một lớp vỏ
thần bí duy tâm tự biện, nặng nề, xa rời hiện thực.
Chương 2
PHÉP BIỆN CHỨNG CỔ ĐIỂN ĐỨC VÀ MỘT SỐ NHÀ TRIẾT HỌC TIÊU
BIỂU.
2.1 Phép biện chứng cổ điển Đức:
Phép biện chứng là thành tựu lớn nhất trong nền triết học cổ điển Đức, được thể
hiện qua tư tưởng triết học của hai nhà triết học lớn là Kant và Hêghen


12
 Tư tưởng biện chứng của Kant gồm:

Giả thuyết về sự hình thành vũ trụ
Biện chứng trong quá trình nhận thức
Học thuyết về mâu thuẫn (Antimoni)
 Tư tưởng biện chứng của Heghen gồm:

- Logich học: trình bày về sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối”, biểu hiện trong các
học thuyết: tồn tịa , bản chất, khái niệm.
- Triết học tự nhiên: có sự đóng góp trong tư tưởng về sự thống nhất giữa vật chất
và vận động, không gian , thời gian về sự thống nhất giữa tính liên tục và đứt đoạn
trong vận động.
- Triết học tinh thần: coi lịch sử là quá trình phát triển hợp quy luật, trong đó có sự
kế thừa.
2.2 Một số nhà học thuyết triết học tiêu biểu.
2.2.1 Imanuen Cantơ (1724-1804)
Imanuen Cantơ (Imanuel Kant) là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của lịch

sử tư tưởng phương Tây trước C.Mác. Triết học Cantơ “là nền tảng và điểm xuất
phát của triết học Đức hiện đại, những hạn chế trong triết học của ông không làm lu
mờ công lao đó của triết học Cantơ”’.
Cantơ sinh năm 1724, trong một gia đình quý tộc Phổ ở Kenixbéc. Đến năm 1755,
ông bắt đầu giảng dạy siêu hình học, và các môn học tự nhiên ở đây. Từ năm 1770,
ông chủ yếu quan tâm đên những vấn đề triết học với những tác phẩm chủ yếu như
Phê phán lý tính thuần tuý (1781), Phê phán lý tính thực tiễn (1788), Phê phán khả
năng suy diễn (1790) V.V.. Hầu như phần lớn các công trình nghiên cứu của ông
đều gắn liền với việc giảng dạy của ông ở trường đại học Tổng hợp Kenixbéc từ
năm 1755 đến cuối đời.
Thế giới quan của Cantơ phát triển qua hai thời kỳ chính, mặc dù giữa chúng có sự
thống nhất nhất định. Ở “thời kỳ tiền phê phán” (1746 – 1770), Cantơ chủ yếu
nghiên cứu các vấn đề toán học và khoa học tự nhiên với nhiều phát minh nổi tiếng
về các lĩnh vực này. Từ năm 1770 trở đi, bắt đầu “thời kỳ phê phán”, là thời kỳ ông
có nhiều đóng góp to lớn cho kho tàng triết học cổ điển Đức và triết học thế giới nói


13

chung. Như Hêghen đã nhận xét, triết học của Cantơ rất phức tạp và khó hiểu. Vì
vậy, để tiện cho việc nghiên cứu, chúng ta đi sâu phân tích từng thời kỳ.
2.2.1.1 Thời kỳ tiền phê phán
Lúc đầu, chịu ảnh hưởng lớn của các quan niệm duy tâm và thần học của Lépnít và
Vônphơ, về sau, dần dần ông đứng về phía các quan niệm duy vật máy móc của
Niutơn và Đềcáctơ rồi
đi đến xây dựng thế giới quan độc lập của mình. Vì vậy bên cạnh nhiều quan niệm
duy tâm thần bí, về cơ bản, Cantơ thể hiện như một nhà duy vật khoa học tự nhiên
với luận điểm chủ yếu: “hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ xây đựng thế giới từ nó, nghĩa
là, hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ chỉ cho các anh thấy, thế giới phải ra đời từ vật chất
như thế nào”. Thế giới chúng ta, theo Cantơ được cấu từ vật chất luôn vận động và

biến đổi không ngừng, mọi sự vật đều liên hệ tương tác lẫn nhau thông qua lực hút
và lực đẩy.
Khái quát định luật vạn vật hấp dẫn của Niuton, Cantơ khẳng định cần phải “hiểu
toàn bộ giới tự nhiên trong toàn bộ tính vô cùng tận của nó như một hệ thống duy
nhất”. Thế giới hiện nay là kết quả của quá trình lịch sử phát triển lâu dài theo
hướng ngày càng hoàn thiện của tự nhiên. Vì thế, cần “định liệu có phải trái đất
đang ngày càng già đi không, và phải chăng nó đang dần dần đi đến diệt vong vì nó
đang ngày càng già đi … hay cho đến nay nó vẫn chưa qua khỏi lứa tuổi trẻ thơ”.
Từ những công trình nghiên cứu về trái đất và đại dương, Cantơ là người đầu tiên
đã khám phá ra ảnh hưởng của lực hấp dẫn giữa trái đất và mặt trăng với các hiện
tượng thuỷ triều.
Ông cho rằng, không chỉ mọi sự vật trong thế giới chúng ta, mà cả toàn bộ vũ trụ
nói chung đều nằm trong quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong như một quy
luật sắt đá của tự nhiên. Từ đây, dù không bác bỏ những mặt hợp lý của vũ trụ học
Đềcáctơ, nhưng ông xây dựng giả thuyết vân tinh học. Trong tác phấm Lịch sử tự
nhiên đại cương và thuyết bầu trời (1755), ông lý giải và nguồn gốc sự hình thành
vũ trụ.


14

Tất cả các hành tinh, và các vũ trụ chúng ta không phải ngay từ đầu đã có được
trạng thái tồn tại như hiện nay. Từ thời xa xưa nhất, cả thế giới chúng ta đều nằm ở
trạng thái hỗn hợp. Nhờ lực vạn vật hấp dẫn, các hạt vật chất khuếch tán khắp
không gian đã dần tụ lại thành những đám mây lớn. Thông qua lực hút và lực đẩy
trong lòng các đám mây đó xuất hiện các luồng gió xoáy làm cho các hạt vật kết
đông lại theo hình cầu. Do ma sát khi va chạm nên chúng bị nóng. Vì lực hút chiếm
ưu thế hơn nên các hạt vật chất kết hợp lại với nhau tạo thành mặt trời và các hành
tinh có độ nóng khác nhau tuỳ thuộc mức độ ma sát. Nhưng, vì khoảng không vũ trụ
quá lớn và do ảnh hưởng của lực đẩy, nên lực hấp dẫn không đủ sức hút tất cả lượng

vật chất của vũ trụ thành một khối, mà tồn tại nhiều hành tinh độc lập với nhau. Do
lực hấp dẫn tỷ lệ thuận với khối lượng, cho nên những hành tinh ở gần mặt trời thì
nặng hơn so với các hành tinh ở xa, và nhân của các hành tinh thì nặng hơn so với
các lớp vỏ của chúng. Vũ trụ là một chính thể thống nhất, cho nên “nó sẽ tạo ra
những thế giới mới để bù đắp những tổn thất mà nó gánh chịu ở một nơi nào đó”.
Mặc dù tiến bộ hơn hẳn các giả thuyết vũ trụ trước đây, nhưng thuyết của Cantơ vần
chưa lý giải được nhiều hiện tượng thiên văn học do còn thiếu nhiều cứ liệu khoa
học cụ thể. Vì vậy, nửa thế kỷ sau, nhà bác học Láplát đã đưa ra giả thuyết mới độc
lập về sự hình thành vũ trụ nhưng vô hình chung vẫn tiếp thu nhiều điểm hợp lý của
giả thuyết Cantơ, bơi vậy người ta thường gọi là thuyết Cantơ – Láplát.
Ý nghiã cách mạng của thuyết trên không chỉ ở chỗ nó chứa đựng nhiều tư tưởng
duy vật và hoàn chỉnh so với các giả thuyết vũ trụ trước đó, mà còn ở chỗ nó đem
lại một cách nhìn mới – cách nhìn phát triển lịch sử về thế giới. Nó khẳng định
không chỉ trái đất, mà cả vụ trụ chúng ta là kết quả của toàn bộ quá trình phát triển
và tiến hoá lâu dài của vũ trụ, đánh tan quan niệm siêu hình thống trị thời đó cho
rằng, một khi thế giới chúng ta đã tồn tại thì nó vẫn cứ mãi mãi như thế từ xưa đến
nay. Nhờ vậy, “vấn đề cái hích đầu tiên đã bị loại bỏ; trái đất và tất cả hệ thống mặt
trời hiện ra như là một cái gì đã hình thành trong thời gian”. Với giả thuyết này,
Cantơ bước đầu đã xây dựng nền tảng cho quan niệm phát triển biện chứng về tự
nhiên.
Bên cạnh những quan niệm sâu sắc trên đây, ở “thời kỳ tiền phê phán”, chúng ta
cũng nhận thấy sự bế tắc của Cantơ trong việc tìm kiếm một quan niệm mới về các


15

vấn đề triết học. Một mặt, ông nhận thấy hạn chế của các phương pháp cớ học đơn
thuần trong việc nghiên cứu các quá trình sinh học. Mặt khác, do sự phát triển thấp
của sinh học thời đó, ông đã đi đến tư tưởng bất khả tri phủ nhận khả năng nhận
thức của con người về bản chất của sự sống. Quan niệm này càng được củng cố khi

Cantơ quá nhấn mạnh sự khác nhau giữa tư tưởng và hiện thực tới mức nhiều khi
hoài nghi khả năng nhận thức thế giới của con người. Những mâu thuẫn trên trong
thế giới quan của Cantơ thể hiện ở sự trăn trở của một nhà tư tưởng đầy nhiệt huyết
muốn xây dựng một cách nhìn mới về thế giới đáp ứng đòi hỏi của thời đại bấy giờ,
nhưng lại vấp phải những hạn chế của chính thời đại đó, đặc biệt là xã hội Phổ lạc
hậu thế kỷ XVIII. Điều này ảnh hưởng tới triết học Cantơ “thời kỳ phê phán”.
2.2.1.2 Thời kỳ phê phán
Từ sau năm 1770 do ảnh hưởng bởi các biến động xã hội ở Pháp trước cách mạng
tư sản (1789 – 1794), cũng như bởi các quan niệm của Lépnít, Vônphơ và đặc biệt
là của Hium, thế giới quan của Cantơ chuyển sang “thời kỳ phê phán”, hay còn gọi
là “triết học phê phán”. Sở dĩ gọi như vậy vì trước những biến động của xã hội và tư
tưởng ở Tây Âu cuối thế kỷ XVIII, Cantơ đã đề ra nhiệm vụ nghiên cứu lại toàn bộ
các vấn đề triết học trước đây trên tinh thần phê phán. Ông xác định lại một cách có
phê phán các quan niệm từ trước tới giờ về lý tính, và nói chung về các khả năng
nhận thức của con người. Bởi lẽ, nhiều tác phẩm triết học lớn của ông thời kỳ này
đều thể hiện tinh thần đó, như Phê phán lý tính thuần tuý (1781), Phê phán, lý tính
thực tiễn (1788), Phê phán khả năng suy diễn (1790) .v.v.
2.2.1.3 Quan niệm của Can tơ về bản chất đối tượng và nhiệm vụ của triết học
Cũng như Hium, Cantơ coi nhiệm vụ hàng đầu của mình là phải xác định bản chất
của con người, cho rằng sở dĩ hiện nay các khoa học vẫn chưa có được một nền
tảng phát triển vững chắc, bởi vì “khoa học về con người” vẫn chưa được chú trọng
và phát triển đúng mức. Do đó, toàn bộ các vấn đề triết học, phải được hướng vào
việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống và hoạt động thực tiễn của con người.
Triết học cần đem lại cho con người một cơ sở và nền tảng thế giới quan mới, vạch
ra những nguyên tắc cơ bản của cuộc sống của con người vì những lý tưởng nhân
đạo.


16


Nếu như Hium xuất phát từ việc quá nhấn mạnh mối quan hệ hữu cơ giữa quá trình
nhận thức với thể trạng tâm sinh lý của con người, hầu như quy toàn bộ các vấn đề
triết học (thậm trí cả các khoa học khác) thành những vấn đề tâm sinh lý, thì Cantơ
hiểu rằng, không thể khám phá ra bản chất đích thực của con người nếu như chỉ
dừng lại ở những quan niệm trên, mặc dù chúng mang nhiều tính hợp lý. Quá trình
nhận thức cũng như mọi hoạt động khác của chủ thể, dù chịu ảnh hưởng nhiều bởi
tình trạng tâm sinh lý, nhưng chúng không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Mặt khác,
sự phát triển của thực tiễn xã hội và khoa học ở Tây Âu cuối thế kỷ XVIII đã cho
phép Cantơ nhận thấy vai trò to lớn của các yếu tố xã hội đối với nhân cách con
người.
Cantơ là một trong số ít các nhà tư tưởng từ trước tới giờ hiểu rằng thiếu tri thức thì
không ai có thể trở thành một nhà khoa học được, nhưng ngược lại, không thể đạt
được điều đó nếu chỉ đơn thuần dựa vào tri thức. Nói cách khác, cần phải bàn đến
con người như một chủ thể nói chung, chứ không chỉ riêng hoạt động nhận thức.
Triết học rốt cục phải hướng nhiệm vụ chính của mình là giải đáp những vấn đề mà
ai cũng băn khoăn trong cuộc đời mình. Ý nghĩa của triết học không dừng lại ở
những vấn đề nhận thức luận đơn thuần. Nhấn mạnh tính chất thực tiễn của thế giới
quan con người; Ông viết: “sự thông thái nói chung chủ yếu thể hiện trong hành
động, hơn là trong tri thức”. Triết học chứa đựng ý niệm về sự thông thái một cách
hoàn hảo. Nó phải vạch ra những mục đích tối cao của con người về phương diện
các giá trị đạo đức. Cho nên “nếu như tồn tại một khoa học thực sự cần cho con
người thì đó là khoa học mà tôi đang dạy, cụ thể là, xác định cho con người một vị
trí xứng đáng trong thế giới từ đó có thể học được cái điều mà ai cũng phải học để
làm người”. Khoa học đó chính là triết học với mục đích tối cao là xác định bản
chất con người. Để làm được điểu đó, nó phải lý giải các vấn đề sau:
“ Tôi có thể biết được cái gì ?
Tôi cần phải làm gì ?
Tôi có thể hy vọng cái gì ?”.



17

Ba vấn đề trên là sự khái quát những điều mà ai cũng trăn trở trong cuộc sống
thưòng ngày. Đồng thời chúng cũng phản ánh ba khía cạnh cơ bản nhất trong mối
quan hệ “con người – thế giới”, đó là: nhận thức, thực tiễn và giá trị. Vấn đề thứ
nhất đơn thuần mang tính nhận thức luận được nghiên cứu trong triết học lý luận
của Cantơ. Vấn đề thứ hai mang tính thực tiễn được nghiên cứu trong triết học thực
tiễn, vấn đề thứ ba bao hàm cả khía cạnh lý luận và thực tiễn được nghiên cứu trong
thẩm mỹ học của ông. Toàn bộ triết học Cantơ, vì vậy, chứa đựng đầy tinh thần
nhân đạo, với mục đích đem lại cho con người một cách nhìn mới về thế giới và
chính bản thân mình, đưa con người tới tự do và hạnh phúc. Bản chất của triết học
như cách hiểu của Xôcrát, là tự ý thức của con người về chính bản thân mình. Và
đối với con người thì cái cao quý nhất là sự tồn tại của bản thân mình, là hạnh phúc
của mình. Không thoả mãn với các hệ thống triết học. Trước đây, Cantơ tìm cách
xây dựng một hệ thống triết học thực sự mới của mình xuất phát từ những quan
niệm trên.
2.2.1.4 Triết học lý luận của Cantơ
Triết học lý luận của Cantơ chủ yếu đề cập đến những vấn đề nhận thức luận và
lôgíc học với mục đích xây dựng một nền tảng thế giới quan mới cho con người,
xác định đối tượng và giới hạn của tri thức con người hay theo ngôn ngữ của Cantơ,
nhằm giải đáp vấn đề “Tôi có thể biết được cái gì ?”. Xem xét lại các quan niệm
triết học truyền thống trên tinh thần phê phán, Cantơ “coi nhiệm vụ phê phán này
của lý tính tư biện thuần tuý là thay đổi phương pháp nghiên cứu trước đây trong
siêu hình học, cụ thể là tiến hành một cuộc cách mạng triệt để trong nó”.


Nhiệm vụ cơ bản của triết học lý luận và vấn đề vật tự nó

Chịu ảnh hưỏng mạnh mẽ của sự phát triển khoa học tự nhiên lý thuyết thế kỷ XVII
– XVIII, cũng như nhiều nhà triết học cận đại, Cantơ đòi hỏi ở các tri thức khoa học

và triết học một sự hoàn hảo tuyệt đối, coi đó là lý tưởng của tri thức con người. Cả
ông lẫn Hium và Lépnít đều cho rằng, khoa học thực sự phải dựa trên những tri thức
tiên nghiệm (apriori) với hai đặc tính cơ bản là phổ quát và tất yếu. Do chưa thoát ra
khỏi quan niệm siêu hình tách rời các mặt đối lập một cách tuyệt đối, Cantơ cho


18

rằng mọi sự vật trong thế giới bên ngoài chúng ta chỉ tồn tại dưới dạng đơn nhất và
cá biệt. Điều đó buộc Cantơ phải lựa chọn một trong hai quan niệm.
Thứ nhất, nếu khẳng định mọi tri thức chúng ta đều là sự phản ánh các sự vật của
thế giới khách quan bên ngoài, thì phải thừa nhận mọi khoa học và triết học đều chỉ
dựa trên những tri thức đơn lẻ, ngẫu nhiên.
Thứ hai, nếu đòi hỏi tính phổ quát và tất yếu của tri thức triết học và khoa học thì
phải thừa nhận nguồn gốc của chúng không phải là sự phản ánh hiện thực khách
quan, mà là kết quả sáng tạo của riêng trí tuệ con người.
Đứng trước sự lựa chọn trên, Cantơ lập luận, “từ trước tới giờ người ta cho rằng,
mọi tri thức của chúng ta đều phải phù hợp với các sự vật. Tuy nhiên, ở đây mọi ý
đồ thông qua khái niệm xác lập một cái gì đó tiên nghiệm (apriori) về các sự vật, cái
mà có thể mở rộng tri thức của chúng ta về chúng; kết cục đều thất bại. Vì thế…
liệu chúng ta sẽ giải quyết những nhiệm vụ của siêu hình học một cách có hiệu quả
hơn nếu ta xuất phát từ luận điếm cho rằng, các sự vật phải phù hợp với nhận thức
của chúng ta, – và điều này đã đáp ứng hơn với đòi hỏi có được tri thức tiên nghiệm
về chúng” . Như vậy, với ý đồ xây dựng nền tảng tri thức tiên nghiệm của khoa học
và tri thức, Cantơ buộc phải thừa nhận “vật tự nó” (Ding an sich) không nhận thức
được, mọi tri thức con người không phải là sự phản ánh hiện thực khách quan tức
“vật tự nó”. “Vật tự nó” được Cantơ hiểu theo mấy nghĩa sau: thứ nhất, đó là sự thể
hiện những gì thuộc về lĩnh vực các hiện tượng (Phenomen) (được ông đồng nhất
với các kinh nghiệm) mà chúng ta chưa nhận thức được; thứ hai, đó là bản chất của
mọi vật khách quan tồn tại bên ngoài chúng ta, mà theo ông thì chúng


thuộc về lĩnh vực siêu nghiệm (transendent) và về nguyên tắc – chúng ta không thể
nhận thức được; thứ ba, “vật tự nó” ám chỉ những lý tương là chuẩn mực của mọi
sự hoàn hảo tuyệt đối mà con người không đạt tới được, nhưng đây là những điều
mà nhân loại hàng mơ ước – Chúa, tự do, sự bất diệt của linh hồn. Đây là đối tượng
của tín ngưỡng, niềm tin của loài người.


19

Lẽ dĩ nhiên việc Cantơ thừa nhận “vật tự nó” không nhận thức được không chỉ bởi
do tình huống buộc ông phải lựa chọn trên đây, mà còn do nhiều yếu tố khác. Thứ
nhất, nhiều nhà tư tưởng trước đó thừa nhận sự tồn tại của Chúa, nhưng giữa họ còn
nhiều bất đồng trong việc xác định bản chất và vai trò của Chúa trong thế giới hiện
thực. Đây là điểm yếu để nhiều nhà vô thần công kích, phủ nhận sự tồn tại của
Chúa. Để cứu vãn tình hình theo tinh thần duy tâm, Cantơ coi Chúa – tự do – linh
hồn bất diệt là những cái không thể biết, tức là “vật tự nó”; Thứ hai, bản thân vấn đề
quan hệ tư tưởng – hiện thực vẫn luôn là vấn đề phức tạp mà giữa các nhà triết học
vẩn chưa có ý kiến thống nhất. “Vào thời Cantơ, sự hiểu biết của chúng ta về những
sự vật tự nhiên hãy còn khá vụn vặt, đến nỗi ở đằng sau mỗi sự vật ấy người ta còn
có thể cho rằng còn có một “vật tự nó” bí ẩn đặc biệt nữa”. Bên cạnh nhiều mặt hạn
chế như Cantơ đặt giới hạn nhận thức con người trước “vật tự nó”, duy trì lập
trường nhị nguyên trong quan niệm về thế giới mà Hêghen cũng như các nhà kinh
điển Mác – Lê-nin nhiều lần phê phán, thì quan niệm “vật tự nó” của Cantơ vẫn
chứa đựng nhiều ý nghĩa tích cực nhất định. Một mặt, nó khẳng định tồn tại các sự
vật khách quan bên ngoài chúng ta. Trên góc độ này, theo nhận xét của Lênin,
Cantơ thể hiện như một nhà duy vật. Mặt khác, nó khẳng định tính phức tạp, đầy
nghịch lý của quá trình con người nhận thức thế giới cũng như mối quan hệ “con
người – thê giơi” nói chung.
Quan niệm của Cantơ về “vật tự nó”, theo nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu, là

cánh cửa đi vào triết học phê phán của ông. Từ đây, ông coi đối tượng của triết học
lý luận của mình không phải là nghiên cứu giới tự nhiên như bản thân nó như nhiều
nhà triết học trước đây quan niệm, mà là nghiên cứu hoạt động nhận thức của con
người xác định những quy luật và giới hạn của trí tuệ con người, biến triết học
thành lý luận vể chủ thể. Theo nghĩa đó, ông gọi là triết học tiên nhiệm với nhiệm
vụ trước tiên là nghiên cứu con người như một chủ thế hoạt động. Trên cơ sở thừa
nhận “vật tự nó”, Cantơ khẳng định triết học và khoa học phải dựa trên các tri thức
tiên nghiệm mang tính phổ quát và tất yếu, về cơ bản khác những tri thức kinh
nghiệm cảm tính. Ông phân biệt sự khác nhau giữa hai dạng tri thức, suy lý; chẳng
hạn “tất cả các loài thiên nga đều màu trắng” với “mọi sự vật đều quảng tính”.
Mệnh đề thứ nhất mặc dù cũng mang tính chung nhất và tất yếu nhưng là kết quả
quan sát của chúng ta từ xưa đến nay chỉ thấy một loại thiên nga màu trắng. Vì thế


20

nó có thể bị bác bỏ nếu như lúc nào đó ta quan sát thấy có loại thiên nga màu khác,
tức là nó vẫn thuộc về kinh nghiệm cảm tính. Mệnh đề thứ hai tiên nghiệm. Nó là
kết quả khái quát của tư duy lý luận, cho nên đúng ở mọi thời điểm. Hơn nữa, Cantơ
không coi trọng tri thức phân tích, mà lại đề cao trí thức tổng hợp. Sự khác nhau
giữa chúng, theo ông, ở chỗ “có thể gọi những mệnh đề dạng thứ nhất là những
mệnh đề mang tính giải thích, còn những mệnh đề ở dạng thứ hai – là mở rộng. Vì
các mệnh đề dạng thứ nhất, thông qua vị ngữ của mình không bổ sung gì thêm vào
chủ ngữ cả, mà chỉ bằng cách phân tích, chia chủ ngữ thành những phần nhỏ hơn,
trong khi đó các mệnh đề tổng hợp gia tăng cho chủ ngữ cả một vị ngữ mà trước đó
bản thân chủ ngữ không thể có được”. Chẳng hạn, “chó là một động vật có 4 chân”,
theo Cantơ, là một mệnh đề phân tích, vì bản thân khái niệm “chó” đã bao hàm đặc
tính của một động vật 4 chần rồi. Ở đây, vị ngữ chỉ có tác đụng làm rõ nghĩa thêm
cho chủ ngữ. Trong khi “7 + 5 = 12” là một suy lý tổng hợp, vì bản thân (7 + 5) mới
ám chỉ tổng của hai số 7 và 5, chứ chưa chỉ ra số nào bằng tổng của chúng.

Tương tự, Cantơ kết luận bản thân toán học và các khoa học tự nhiên đã bao hàm
các tri thức, các mệnh đề tiên nghiệm tổng hợp rồi. Có như thế khoa học mới phát
triển được. Cho rằng tổng hợp cũng có nghĩa là làm giàu, tạo ra những tri thức mới,
Cantơ coi nhiệm vụ cơ bản của triết học lý luận là luận chứng “các mệnh đề tiên
nghiệm tổng hợp có được như thế nào ?, tức là làm rõ các tri thức lý luận của khoa
học có được như thế nào. ông nhận xét: “Siêu hình học từ trước tới giờ nằm trong
tình trạng bấp bênh không đáng tin cậy và mâu thuẫn chỉ bởi một nguyên do là
nhiệm vụ trên, và có thể thậm trí cả sự khác biệt giữa các suy lý phân tích và tổng
hợp cũng vẫn chưa được ai bàn đến. Sự bền vững hay bấp bênh của siêu hình học là
tuỳ thuộc vào sự giải quyết nhiệm vụ này thoả mãn ở việc chứng minh rằng trên
thực tế nói chung không thế nào làm rõ được nhiệm vụ trên”.
Việc xác định nhiệm vụ của triết học nhằm luận chứng cơ sở của tri thức lý luận
một cách có hệ thống là trong những thành tựu vĩ đại của triết học Cantơ. Dựa trên
khuynh hướng duy lý của Đềcáctơ, Lépnít và khoa học tự nhiên thế kỷ XVII –
XVIII, hơn ai hết, ông nhận thấy vai trò đặc biệt của tri thức lý luận đối với khoa
học, coi đây là nên tảng của quá trình nhận thức chân lý con người. Vì thế, giải


21

quyết nhiệm vụ trên cũng có nghĩa là luận chứng sự tồn tại của các khoa học lý luận
thời đó.


Quan niệm và cảm tính, không gian và thời gian.

Thừa nhận các hiện tượng cảm tính có được là do các sự vật khách quan bên ngoài
tác động vào các giác quan của con người nhưng Cantơ cũng như Hium cho rằng,
những gì mà con người biết được về sự vật đều chỉ là hình ảnh, quan niệm của con
người về chúng, chít chưa phải bản thân các sự vật tồn tại trên thực tế, cái mà ông

gọi “vật tự nó”. Theo ông, vì chúng ta chỉ biết được về sự vật thông qua các giác
quan của mình những gì mà sự vật biểu hiện bên ngoài, tức là hiện tượng, cho nên
không bao giờ con người có thể nhận biết được bản chất đích thực của sự vật cả. Kể
cả những gì mà con người hiện chưa biết nhưng sẽ biết về sự vật cũng bị ông quy về
lĩnh vực kinh nghiệm cảm tính, tức hiện tượng luận (và ông gọi dây là những kinh
nghiệm khả năng). Tách rời những gì mà con người khám phá ra về sự vật với bản
chất đích thực của vật đó là một trong những đặc điểm cơ bản của triết học phê
phán. Vì vậy, nhận thức luận (tức triết học lý luận) không phải là nghiên cứu quá
trình con người nhận thức, khám phá ra bản chất đích thực của tự nhiên, mà là hoạt
động nhận thức của con người như một chủ thể trong khuôn khổ hiện tượng luận.
Hiện tượng luận (phenomenologie) là giới hạn mọi tri thức con người.
Nếu như ở thời kỳ “tiên phê phán”, Cantơ còn chịu ảnh hưởng của các quan niệm
của Niutơn, coi không gian và thời gian là những cái thuộc về lĩnh vực “vật tự nó”,
thì giờ đây trong triết học phê phán của mình, ông coi không gian là hình thức bên
ngoài còn thời gian là bên trong của kinh nghiệm cảm tính. Như vậy, chúng đều
thuộc lĩnh vực hiện tượng luận. Hạn chế các quan niệm này ở chỗ nó tách rời không
gian và thời gian với những hình thức tồn tại của vật chất và quá trình vận động của
sự vật, coi chúng là những cái thuộc về lĩnh vực chủ quan của ý thức con người.
Tuy nhiên, nó gắn không gian và thời gian với đời sống và quá trình hoạt động của
con người, đặt vấn đề về bản chất xã hội của chúng.
Quan niệm về không gian và thời gian của Cantơ là nền tảng cho các tư tưởng toán
học của ông thời kỳ “phê phán”. Theo ông, các biểu tượng không gian là cơ sở của
các tri thức hình học. Mọi lĩnh vực toán học chỉ có thể tồn tại trong khuôn khổ hiện


22

tượng luận. Toán học được coi là một khoa học đặc biệt quan trọng của nhận thức
con người dựa trên các tri thức tiên nghiệm tổng hợp.
– Lôgíc học của Cantơ: học thuyết về giác tính và phạm trù

Nhưng nhận thức luận của Cantơ không dừng lại ở việc phân tích khả năng cảm
tính, mà tiếp tục nghiên cứu tư duy, trí tuệ của con người. Điều đó dễ hiểu vì quá
trình nhận thức được ông lý giải dưới hình thức chung như sau: khi sự vật bên ngoài
(“vật tự nó”), tác động vào các giác quan, tạo ra cho chúng ta những cảm giác đa
dạng. Chúng được xếp đặt một cách có trình tự trong không gian và thời gian (ông
coi như những hình thức tồn tại của cảm tính) trở thành các tri giác. Những tri giác
dĩ nhiên còn mang tính chủ quan và cá thể. Để nó có thể trở thành kinh nghiệm, tức
là một cái gì đó khách quan hơn được đông đảo mọi người thừa nhận (Cantơ đồng
nhất cái khách quan với cái có giá trị chung mang tính phổ biến) thì cần phải có tư
duy dựa trên các khái niệm.
Tư duy là đối tượng nghiên cứu của lôgíc học. Tiếp tục phát triển xu hướng xây
dựng một lôgíc mới khác với lôgíc hình thức cổ điển mà Bêcơn, Đềcáctơ đã khởi
xướng, Cantơ phân biệt hai dạng lôgíc: lôgíc đai cương (tức lôgíc hình thức) và
lôgíc tiên nghiệm. Sự khác nhau giữa chúng ở chỗ “lôgíc đại cương … xao nhãng
với mọi nội dụng của nhận thức, tức mọi quan hệ của nó với khách thể, mà chỉ nhận
xem xét hình thức lôgíc…, của tư duy nói chung. Trong trường hợp đó cần phải tồn
tại một lôgíc học không lảng tránh với mội nội dung của nhận thức… nó cần phải
nghiên cứu cả nguồn gốc của các tri thức của chúng ta về sự vật”. Cantơ chủ yếu đế
cập đến lôgíc tiên nghiệm (transendental) vì đây là công cụ nhận thức, là phương
tiện làm giàu tri thức tiên nghiệm tổng hợp.
Tư duy sử dụng các khái niệm được Cantơ gọi là giác tính. Đây là hoạt động tư duy
khoa học phù hợp với lẽ phải thông thường có nhệm vụ nghiên cứu nguồn gốc và
chức năng của quá trình nhận thức, quy tụ sự đa dạng của các tri giác cảm tính dưới
sự thống nhất của các khái niệm, và bằng cách đó, biến những tri giác cá nhân thành
những tri thức khách quan được mọi người chấp nhận.


23

Để làm đưọc điều đó, trước tiên giác tính phải xây dựng được một hệ thống các

phạm trù. Cũng như Hium, Cantơ coi các phạm trù không phải là sự phản ánh hiện
thực khách quan, tức “vật tự nó”, mà là kết quả sáng tạo của riêng giác tính trên
quan điểm cơ bản khẳng định rằng con người chỉ nhận thức được những gì do chính
mình tạo ra, Cantơ đã đặt hoạt động của chủ thể tiên nghiệm thay thế thực thể của
các nhà duy vật lý trước đây.
Nhà triết học Đức đưa ra một bảng gồm 12 phạm trù được chia thành 4 nhóm, cụ
thể là:
Các phạm trù trên đây là những khái niệm tiên nghiệm của giác tính mang đặc tính
phổ quát và tất yếu, nói cách khác, chúng là những khái niệm định trước của con
người về sự vật. Giữa các phạm trù của Cantơ chưa có mối liên hệ lẫn nhau sâu sắc,
mặc dù về hình thức trong mỗi nhóm chúng được xếp theo trình tự:
Chính đề – phản đề – hợp đề. Để khắc phục thiếu sót do hạn chế số lượng phạm trù
ở trên, Cantơ khẳng định đây là những phạm trù cơ bản, từ đó triển khai thành
những phạm trù mới đáp ứng với đòi hỏi của khoa học và hoạt động của con người.
“Bởi vì đối với tôi, ông nói – ở đây điều quan trọng không phải là đầy đủ của hệ
thống, mà chỉ là sự đẩy đủ các nguyên lý của hệ thống…”. Các phạm trù trên vượt
ra khỏi phạm vi ý thức cá nhân bởi đặc tính phổ quát và tất yếu, cũng như tính khái
quát cao của chúng.
Sở dĩ các phạm trù của giác tính có được các đặc tính trên vì chúíng dựa trên nền
tảng của tự ý thức tiên nghiệm (transendental appersepsia) được hiểu như sự đồng
nhất (hay mối liên hệ tổng hợp) của các ý thức cá nhân. Tự ý thức tiên nghiệm, theo
quan niệm của Cantơ, đó là “tự ý thức tạo ra cái Tôi suy nghĩ, cái mà có khả năng
tạo ra mọi quan niệm còn lại và như nhau trong mọi ý thức”. Đây không phải chỉ là
ý thức cá nhân, mà là cấu trúc lôgíc khách quan chung trong các ý thức cá nhân.
Nếu không có tự ý thức tiên nghiệm, thì không thể có hệ thống các phạm trù khoa
học phổ quát và tất yếu. Vì thế, nó là cơ sở hoạt động cuối cùng của tri thức. Cho
nên, mọi “suy lý không là cái gì khác ngoài phương thức đưa tri thức tới sự thống
nhất khách quan của tự ý thức”. Các phạm trù chỉ là những hình thức thể hiện cụ thể
sự thống nhất tôi cao đó.



24

Nhưng các cặp phạm trù, theo cách hiểu của Cantơ mới chỉ là đơn thuần là những
hình thức, của tư tưởng, mà chưa bao chứa một nội dung nào cả (đây cũng là điểm
khác nhau giữa Cantơ và C.Mác trong quan niệm về phạm trù). Vì thế, đế có nội
dung và trở thành tri thức, các phạm trù phải được vận dụng vào kinh nghiệm cảm
tính. Với luận điểm “tư tưởng thiếu nội dung thì trống rỗng, mà trực quan thiếu khái
niệm thì mù quáng”, Cantơ coi nhiệm vụ cơ bản là dùng phép suy diễn tiên nghiệm
các phạm trù, tức vận dụng chúng vào kinh nghiệm, quy tụ các tư liệu cảm tính đa
dạng dưới sự thống nhất của khái niệm, và bằng cách đó khắc phục những hạn chế
của chủ nghĩa duy cảm và duy lý trước đây, ở đây con người, ai cũng có thể dùng
phép suy diễn tiên nghiệm trên nhờ hoạt động trí tuệ giác tính của mình, cụ thể là,
nhờ một năng lực hoạt động trí tuệ mà Cantơ gọi là khả năng tương tượng có hiệu
quả (productive Enbildungskraft). Đây là năng lực bẩm sinh mà tạo hoá phú cho
con người, “và thiếu nó thì không thể bù đắp nổi bằng bất cứ trường hợp nào… và
người ta gọi điều đó là ngu đần”. Ở đây, Cantơ khẳng định vai trò quyết định của cơ
sở sinh lý học đối với tư duy và ý thức con người.
Nhưng để thực hiện được phép suy diễn tiên nghiệm trên, cần tìm ra khâu trung
gian gắn liền các phạm trù với kinh nghiệm. Theo ông, đó là thời gian, tức là hình
thức bên trong của cảm tính, vì nó là phạm trù nhưng không phải của giác tính mà
là của cảm tính. Sự thống nhất giữa tư duy giác tính và kinh nghiệm cảm tính trong
thời gian được Cantơ gọi là lược đồ (schema), tính quy tắc hình thành các hình ảnh
cảm tính trên cơ sở tiếp cận các phạm trù về chúng. Việc xây dựng các lý luận khoa
học phải được tiến hành trên cơ sở sử dụng các lược đồ, chứ không phải các hình
ảnh cảm tính trực tiếp. Các biểu đồ tựa như những chữ cái cấu thành ngôn ngữ tư
tưởng của toàn bộ hoạt động con người nói chung. Từ đây, con người xây dựng các
luận điểm cơ bản của khoa học tự nhiên đưa ra quan niệm của mình về thế giới với
phương châm: Giới tự nhiên phải tuân theo các quan niệm của con người về nó, chứ
không phải ngược lại. Điều này dễ hiểu, vì ở đây nói đến giới tự nhiên, Cantơ ám

chỉ hiện tượng luận, chứ không phải “vật tự nó”. Con người không chỉ là chủ thể
nhận thức, mà còn sáng tạo ra các quy luật của tự nhiên bằng chính phép suy diễn
tiên nghiệm trên đây của giác tính. Vì vậy ông nhấn mạnh “pháp luật tối cao của tự
nhiên cần phải được tìm trong chính chúng ta, nghĩa là trong giác tính của chúng
ta”. Con người như một chủ thế chỉ nhận thức được những gì mà nó sáng tạo ra.


25

Giác tính, bằng hoạt động của mình, xây dựng lên sự vật theo những khuôn mẫu do
nó tạo nên – tức các phạm trù. Khẳng định “vật tự nó” không nhận thức được,
Cantơ lý giải nguồn gốc của mọi tri thức con người từ giác tính, chúng là kết quả
của phép suy diễn tiên nghiệm các phạm trù của giác tính vào kinh nghiệm cảm
tính. Bằng cách đó, các tri giác chủ quan cảm tính của mỗi người trở thành những
tri thức khách quan phổ biến, được đông đảo mọi người thừa nhận.


Lôgíc học của Cantơ: học thuyết về lý tính và các Antinomia

Nếu như giác tính thoả mãn ở việc nhận thức trong khuôn khổ hiện tượng luận, thừa
nhận “vật tự nó” bất khả thi, thì lý tính (tức khả năng trí tuệ cao nhất của con người)
lại có khát vọng nhận thức mọi cái một cách chọn vẹn tuyệt đối, bao hàm cả “vật tự
nó”. Việc Cantơ lần đầu tiên phân biệt hai cấp độ tư duy trên đây được Hêghen sau
này đánh giá cao.
Lý tính (Vernuft) theo nghĩa rộng, được Cantơ hiểu là trí tuệ con người nói chung.
Đôi khi ông vẫn coi triết học lý luận là học thuyết về lý tính lý luận, triết học thực
tiễn – lý tính thực tiễn, ở đây chúng ta đang bàn đến lý tính mà ông hiểu theo nghĩa
hẹp, đó là khả năng trí tuệ mà cao nhất của con người. Đây là đối tượng nghiên cứu
của phép biện chứng tiên nghệm, phần thứ hai của lôgíc học tiên nghiệm. Cantơ
hiểu phép biện chứng với quan niệm truyền thống từ thời cổ đại như một nghệ thuật

tranh luận, coi đó là triết lý hão, bất chấp các quy luật của tư duy. Để phân biệt sự
khác nhau đó, Cantơ gọi học thuyết về lý tính là phép biện chứng tiên nghệm.
Lý tính khác với giác tính. Nó muốn xâm nhập cả vào lĩnh vực “vật tự do”, thể hiện
khát vọng của con người tới những lý tưởng tuyệt đối. “Bản thân lý tính không tạo
ra một khái niệm gì mới mẻ, mà điều lớn nhất là nó giải phóng khái niệm giác tính
khỏi những hạn chế không tránh khỏi bởi phạm vi kinh nghiệm khả năng, và đồng
thời tìm cách mở rộng nó ngoài giới hạn kinh nghiệm… Điều đó được thực hiện bởi
việc lý tính đòi hỏi chỉnh thể tuyệt đối các điều kiện”. Trong khi tầm nhận thức của
giác tính con người trong khuôn khổ hiện tượng luận bị chế ước bởi hàng loạt các
điều kiện do hạn chế của giác tính, thì con người vẫn luôn khát vọng tới những tri
thức tuyệt đối, tới tự do vô điều kiện. Điều này được Cantơ thể hiện dưới dạng các ý
niệm của lý tính. Khi nào cảm thấy cơ sở cuối cùng của mọi hiện tượng cảm tính


×