Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng kiến thức bản địa trong quản lý tài nguyên rừng của huyên nam đông, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (21.07 MB, 78 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
KHOA LÂM NGHIỆP

SỔ

SỐ LIỆU THÔ
TÊN ĐỀ TÀI:

Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng kiến thức bản địa trong
quản lý tài nguyên rừng của huyên Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế

Sinh viên thực hiện: Hồ Văn Lộc
Lớp: Quản lý tài nguyên rừng và môi trường
Thời gian thực tập: 05/01-08/05/2015
Địa điểm thực tập:Huyện Nam Đông,
tỉnh Thừa Thiên Huế
Giáo viên hướng dẫn:ThS. Hoàng Dương Xô Việt
Bộ môn: Lâm nghiệp xã hội

NĂM 2015


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Lâm nghiệp Trường Đại Học Nông Lâm
Huế và sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn ThS Hoàng Dương Xô Việt tôi đã
thực hiện đề tài: “Đánh giá hiệu qủa của việc sử dụng kiến thức bản địa trong
quản lý tài nguyên rừng tại huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế”
Để hoàn thành khóa luận này .Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo
đã tận tình hường dẫn ,giảng giải trong suốt quá trình học tập,nghiên cứu và rèn
luyện ở Trường Đại Học Nông Lâm Huế.
Xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn ThS Hoàng Dương Xô Việt


đã tận tình ,chu đáo hướng dẫn tôi thực hiện khóa luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện đề tài một cách hoàn chỉnh
nhất.Song do buổi đầu mới làm quen với công tác nghiên cứu khoa học ,tiếp cận
với thực tiễn sản xuất cũng như hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không
thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà bản than chưa thấy được.Tôi rất
mong nhận được sự góp ý của thầy,cô giáo để khóa luận của tôi được hoàn
chỉnh hơn.
Cuối cùng một lần nữa xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo các đơn
vị và cá nhân đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện khóa luận này.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Huế,ngày 15 tháng 5 năm 2015
Sinh viên thực hiện
Hồ Văn Lộc


DANH MỤC TƯ VIẾT TẮT

UBND

: Ủy ban nhân dân

PNNPTNT

: Phòng nông nghiệp phát triển nông thôn

SNNPTNT

: Sở nông nghiệp phát triển nông thôn


BQLRPH

: Ban quản lý rừng phòng hộ

BQLRĐD

: Ban quản lý rừng đặc dụng

QLR

: Quản lý rừng

QLBVR

: Quản lý bảo vệ rừng

QLTNR

: Quản lý tài nguyên rừng


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1 Sự khác nhau giữa kiến thức bản địa và kiến thức khoa học ..................6
Bảng 4.2 Các loại đất trong xa Thượng Quảng....................................................24
Bảng 4.3 Đặc điểm các khu rừng được giao tại 2 thôn.........................................26
Bảng 4.4 Tỷ lệ % các dân tộc sinh sống ở 2 thôn.................................................28
Bảng 4.5: Vị trí thôn so với khu rừng...................................................................28
Bảng 4.6 Điều kiện kinh tế của các thôn nhận rừng...........................................29
Bảng 4.7 Ý thức của cộng đồng về quản lý bảo vệ rừng.......................................30

Bảng 4.8 Sự khác biệt trong vai trò của các bên liên quan của 2 thôn nghiên
cứu...........................................................................................................................31
Bảng 4.9 Ma trận phân tích các bên liên quan....................................................34
Bảng 4.10 Phân tích SWOT đối với quản lý tài nguyên rừng.............................35
Bảng 4.11 Đặc điểm cây cấm khai thác của đồng bào dân tộc Cơtu...................39
Bảng 4.12 Các loại rau rừng thường được sử dụng..............................................43
Bảng 4.13 Một số cây thuốc thường sử dụng và công dụng của nó....................44
Bảng 4.14 Các loại gỗ thường được khai thác.......................................................48
Bảng 4.15 Các loại lâm sản ngoài gỗ mà người dân thường đi khai thác...........49


DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 4.1: Vị trí nghiên cứu..................................................................................17
Sơ đồ 4.2 Mô hình canh tác nương rẫy truyền thống của người dân thôn 2.......46


MỤC LỤC

TÓM TẮT KHÓA LUẬN
Nam Đông là huyện miền núi có nhiều đồng bào Cơtu sinh sống, với nguồn
tài nguyên rừng rộng lớn và phong phú. Trong huyện có rất nhiều phong tục, tập
quán của người đồng bào thiểu số về khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên
rừng. Đây là tiềm năng, thế mạnh của huyện để áp dụng các kiến thức bản địa
trong quản lý tài nguyên rừng hiệu quả hiện nay. Xuất phát từ những vấn đề đó
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng kiến thức
bản địa trong quản lý tài nguyên rừng tại huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên
Huế". Mục đích của đề tài nhằm tìm hiểu được thực trạng và hiệu quả của việc
sử dụng kiến thức bản địa trong quản lý tài nguyên rừng tại khu vực nghiên cứu.
Từ đó đề xuất được các giải pháp lưu giữ, bảo tồn và góp phần nâng cao hiệu
quả của việc sử dụng kiến thức bản địa trong công tác quản lý tài nguyên bền

vững. Để thực hiện để tài tôi sử dụng phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
gồm: thu thập số liệu từ các báo cáo tổng kết, các báo cáo nghiên cứu khoa học,
Sử dụng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia (PRA,RRA) và
phương pháp thu thập số liệu sơ cấp gồm tiến hành phỏng vấn bản cấu trúc 60
gia đình của 2 thôn, phỏng vấn sâu các cán bộ thôn, xã, già làng... Sau quá trình
nghiên cứu và khảo sát thực địa tôi rút ra một số kết luận như sau . Nam Đông là
một huyện có nguồn lao động lớn, dồi dào, cơ cấu hạ tầng giao thông tương đối
ổn định, y tế- giáo dục đảm bảo. Bên cạnh đó khu vực này còn nhiều tiềm năng
trong sử dụng kiến thức bản địa để bảo vệ tài nguyên rừng hiện nay cụ thế là:
đời sống đồng bào dân tộc thiếu số có khá nhiều các luật tục trong quản lý tài
nguyên rừng như: rừng thiêng, rừng ma, cây gỗ cấm khai thác, động vật hạn chế
sử dụng, sử dụng gỗ và lâm sản ngoài gỗ, sử dụng củi. Trong quá trình nghiên
cứu tôi đã tiến hành điều tra ở 2 thôn có thành phần dân tộc khác nhau là thôn 2
(xã Thượng Nhật) có 100% dân tộc Cơtu sinh sống và thôn 5 (xã Thượng
Quảng) có 90% dân tộc Kinh sinh sống thì nhận thấy do có các luật tục này nên
các khu rừng của thôn 2 đã được bảo vệ khá tốt so với thôn thôn 5. Tại khu vực
thôn 5 vì họ không có các luật tục trong quản lý bảo vệ rừng nên tình trạng khai
thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ xảy ra thương xuyên cản kiệt nhiều loại động vật đã
bị tuyệt chủng, nhiều loại gỗ to và quý hiện không còn nữa.


Qua quá trình nghiên cứu tôi có một số đề xuất như: cần tăng cường tuyên
truyền về rừng thiêng, rừng ma và các luật tục khác cho thể hệ trẻ qua các buổi
họp hay những lớp học, tập huận để giúp thể hệ trẻ hiểu được giá trị của các loại
rừng, khuyển khích và phát huy cơ chế quản lý rừng dựa vào kiến thức bản địa
của thôn, tiếp tục nghiên cứu kiến thức bản địa của thôn và xây dựng hợp lý
hơn, kiểm soát người từ địa phương khác vào rừng thiêng, rừng ma của thôn…


PHẦN 1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng là tài nguyên phong phú và vô cùng quý giá đối với sự sống của
nhân loại. Tác dụng của rừng đối với đời sống con người rất đa dạng, trước hết
rừng cung cấp gỗ, cung cấp nguồn gen, chất dinh dưỡng, lâm sản ngoài gỗ, bảo
vệ nguồn nước, bảo vệ đất, điều hòa khí hậu, chống xói mòn, phục vụ nghiên
cứu khoa học, du lịch sinh thái... Tuy nhiên, trong những năm gần đây, rừng bị
chặt phá quá nhiều gây ra nhiều vấn đề cho môi trường sống của con người và
sinh vật bị thay đổi như: biến đổi khí hậu sẽ gây ra nhiều tác động tiêu cực cho
con người, tác động tới môi trường toàn cầu nhưng rõ rệt nhất là việc sụt giảm
nguồn nước ngầm, bão tố, lũ lụt, sóng thần, động đất, nắng hạn…thường xuyên
xảy ra, đã ảnh hưởng đến đời sống dân cư, hủy hoại sản xuất nông nghiệp, làm
suy thoái đa dạng sinh học và tài nguyên nước. Trong bối cảnh đó việc nghiên
cứu kiến thức bản địa trong quản lý và phát triển rừng là rất cần thiết. Điều đó
xuất phát từ tính cộng đồng cao của các dân tộc thiểu số miền núi, từ những tục
lễ, hương ước và các kinh nghiệm truyền thống được đúc kết lâu đời rút ra từ
thực tiễn của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Trong việc quản lý bảo vệ rừng thì con người có vai trò rất quan trọng,
nhất là người dân sống gần rừng. Nước ta có 25 triệu người hâu hết các tộc ít
người sinh sống ở vùng núi. Sự phân chia nơi cư trú ở những vùng địa lý khác
nhau tạo nên những nét đặc thù rất riêng về văn hóa cho đồng bào các dân tộc.
Nhưng nhìn chung cuộc sống của người dân ở vùng núi vẫn còn lệ thuộc vào tài
nguyên rừng, để tồn tại và phát triển thì người dân tộc thiếu số vẫn luôn có
truyền thống gắn bó mất thiết với rừng, họ tận dụng tối đa các lâm sản ngoài gỗ
để mưu sinh, và cũng chính sự gắn bó lâu đời với tài nguyên rừng mà hâu hết
các tộc người thiếu số đều có kiến thức bản địa rất phong phú và nhiều kinh
nghiệm truyền thống trong khai thác và sử dụng tài nguyên quý giá này. Rừng
không chí là môi trường sống, là nguồn nước mà còn là môi trường sản sinh ra
nên văn hóa, các phong tục tập quán riêng của các dân tộc.
Nam Đông là huyện miền núi gồm có thị trấn Khe Tre và 10 xã: Hương
Phú, Hương Sơn, Thượng Quảng, Thượng Long, Thượng Nhật, Thượng Lộ,

Hương Lộc, Hương Hoà, Hương Giang, Hương Hữu. Tổng diện tích tự nhiên
65.051,8 ha trong đó diện tích đất nông nghiệp có 4.019,38 ha, đất lâm nghiệp
chiếm 41.799,31 ha, còn lại là đất khác và chưa sử dụng. Dân số 2,3 vạn gồm 2

1


dân tộc Kinh và Cơ-tu, trong đó người dân tộc thiểu số (9.320 người) chiếm
41%. Toàn huyện có 10 xã trong đó có 7 xã đặc biệt khó khăn mà 6 xã là người
dân tộc thiểu số chiếm trên 70%. Địa bàn huyện chỉ có 1 tuyến đường thông
thương ra ngoài. Là huyện còn gặp nhiều khó khăn trong nhiều lĩnh vực kinh tế,
giáo dục, y tế..đặc biệt là trong quản lý rừng hiện nay. Mặc dù nhà nước đã có
nhiều chính sách xây dựng và quản lý rừng dựa vào cộng đồng ở các xã trong đó
có xã Thượng Nhật và xã Thượng Quảng đây là mô hình quản lý tài nguyên
rừng dựa vào người dân nhà nước đưa ra nhiều chính sách quản lý và bảo vệ
rừng bước đầu đã mang lại hiệu quả nhưng vẫn còn tồn tại một số vấn đề khi
thực hiện vẫn chưa mang lại nhiều hiệu quả thực tế. Xuất phát từ vấn đề đó nên
chúng tôi xin đề xuất đề tài “Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng kiến thức bản
địa trong quản lý tài nguyên rừng tại huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế”

2


PHẦN 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Tổng quan về kiến thức bản địa
2.1.1 Khái niệm về kiến thức bản địa
Kiến thức bản địa có thể hiểu một cách chung nhất đó là kết quả của sự
chọn lọc, nghiệm suy khi con người tiếp xúc với môi trường xung quanh từ đó
hình thành những phương thức ứng xử thích hợp. kiến thức bản địa nẩy sinh

ngay trong hoạt động sản xuất, thường xuyên được kiểm nghiệm qua quá trình
sử dụng, luôn có sự chọn lọc trong quá trình vận động của cuộc sống để ngày
càng thích nghi với môi trường của các cộng đồng người. Nghiên cứu kiến thức
bản địa là nghiên cứu hệ thống các tri thức đặc trưng của các cộng đồng người
địa phương liên quan đến cái cách cộng đồng này quan hệ với môi trường tự
nhiên xung quanh
Kiến thức bản địa (Indigenuos Knowledge)[16] được coi trọng và đặc
biệt nghiên cứu vào thập kỷ 80 trở đi. Cho tới nay, khái niệm kiến thức bản
địa hay kiến thức truyền thống vẫn được định nghĩa theo nhiều cách khác
nhau, tùy thuộc vào các lĩnh vực chuyên môn hay theo các mục đích sử dụng.
Mặc dù sử dụng các tên gọi khác nhau nhưng đối tượng kiến thức bản địa
được nghiên cứu luôn là một hệ thống các kiến thức đặc hữu của cộng đồng
người địa phương liên quan đến cái cách cộng đồng này quan hệ với môi
trường tự nhiên xung quanh.
Theo định nghĩa chung của tổ chức UNESCO, thuật ngữ kiến thức bản địa
(indigenous knowledge) hay kiến thức địa phương (local knowledge) dùng để
chỉ những thành phần kiến thức hoàn thiện được duy trì, phát triển trong một
thời gian dài với sự tương tác qua lại rất gần gũi giữa con người với môi trường
tự nhiên. Đó là một phần của tổng hoà văn hoá, tập hợp những hiểu biết kiến
thức bao gồm hệ thống ngôn ngữ, cách định danh và phân loại, phương thức sử
dụng tài nguyên, các hoạt động sản xuất, các lễ nghi, giá trị tinh thần và thế giới
quan ... Những kiến thức này là cơ sở để đưa ra những quyết định về nhiều
phương diện cơ bản của cuộc sống hàng ngày tại địa phương như săn bắn, hái
lượm, đánh cá, canh tác và chăn nuôi, sản xuất lương thực, nước, sức khoẻ và sự
thích nghi với những thay đổi của môi trường và xã hội. Hơn nữa, trái với kiến
thức chính thống, những kiến thức không chính thống được truyền miệng từ đời
này sang đời khác và rất hiếm khi được ghi chép lại.
3



Song song với thuật ngữ kiến thức bản địa (IK) có thuật ngữ “tri thức
chính thống” (formal knowledge) [15] dùng để chỉ những hệ thống kiến thức
phát triển phần lớn dựa trên nền tảng hệ thống giáo dục phương Tây, đó là
những kiến thức chuẩn vì nó được xác nhận trong những văn kiện, những
nguyên tắc, luật lệ, những quy định và cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Trong khi đó kiến
thức bản địa được truyền miệng từ thế hệ này qua thế hệ khác rất hiếm khi được
chép lại cẩn thận.
Như vậy đặc trưng cơ bản nhất của kiến thức bản địa là tính đặc hữu, nó
là hệ thống kiến thức của các dân tộc bản địa hay của cộng đồng tại một khu vực
cụ thể, được tồn tại và phát triển trong những hoàn cảnh nhất định ở vùng địa lý
nhất định (R. Chambers, M.Warren,1992). [17]
Xác định về thời gian và không gian thì kiến thức bản địa là hệ thống kiến
thức tồn tại và phát triển trong những hoàn cảnh nhất định ở vùng địa lý xác
định với sự đóng góp của các thành viên trong cộng đồng (G.Louise, 1993). Như
vậy ở đây có ba yếu tố góp phần hình thành nên kiến thức bản địa đó là môi
trường địa lý xác định, trong thời điểm không gian nhất định và là của một cộng
đồng tại một khu vực cụ thể đóng góp nên. Hay nói một cách khác, kiến thức
bản địa hình thành trong điều kiện không gian thời gian nhất định với sự đóng
góp của một cộng đồng tại khu vực cụ thể. Kiến thức bản địa luôn được kế thừa
và phát triển, bản chất của nó là một phức hệ những kinh nghiệm được truyền từ
đời này qua đời khác, nó được hình thành trong thế ứng xử giữa hoạt động của
con người với môi trường tự nhiên để kiếm sống và nó chỉ tồn tại trong môi
trường cụ thể (Nguyễn Duy Thiệu, 1996). [6]
Định nghĩa kiến thức bản địa theo quan điểm kiến thức kỹ thuật bản địa là
Hệ thống kiến thức bản địa là bao gồm tổ hợp kiến thức, kỹ năng, công nghệ
hiện tồn tại và phát triển trong một phạm vi nhất định mang tính đặc hữu của
một dân tộc, cộng đồng địa phương trong vùng địa lý nhất định. Hệ thống kiến
thức bản địa của một dân tộc được trao truyền trong cộng đồng trải qua thử
thách thời gian và vẫn duy trì phát triển (CEFIKS). Như vậy trong cách tiếp cận
này, kiến thức bản địa được xem xét trên cơ sở hệ thống tri thức kỹ thuật bản địa

bao gồm tổ hợp kiến thức, kỹ năng, công nghệ hiện tồn tại. Các tổ hợp này được
xem là bản địa khi nó tồn tại, phát triển trong một phạm vi nhất định và nó mang
tính đặc hữu của một dân tộc, cộng đồng địa phương trong vùng địa lý nhất
định. Cách định nghĩa của CEFIKS sát thực đúng với bản chất của kiến thức bản
4


địa và phù hợp với hướng tiếp cận nghiên cứu của đề tài. Quá trình nghiên cứu
đề tài sử dụng cách phân loại của E.Mathias về hệ thống tri thức bản địa
(E.Mathias, 1995) [16] được xem xét nghiên cứu theo các nội dung sau:
1- Các kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất đã được sàng lọc
2- Niềm tin tín ngưỡng thần linh.
3- Cách thức tổ chức sản xuất.
4- Các thao tác kỹ thuật trong hoạt động sản xuất.
5- Các loại công cụ sản xuất tương ứng.
6- Quá trình vận động tiếp thu và thử nghiệm.
Cách phân loại trên được đề tài áp dụng nghiên cứu trong phạm vi một số
giá trị kiến thức bản địa ở lĩnh vực sản xuất (nông nghiệp trồng trọt, nghề thủ
công) và hoạt động quản lý khai thác tài nguyên. Tuy nhiên trên quan điểm hệ
thống, kiến thức bản địa luôn nhấn mạnh đến tính tổng thể, tất cả các thành phần
trong hệ thống đều có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Do đó các vấn đề nghiên
cứu của đề tài được đặt trong một chỉnh thể thống nhất có mối quan hệ lẫn nhau
phản ánh được các đặc trưng và giá trị của nó.
2.1.2 Đặc điểm của kiến thức bản địa
Kiến thức bản địa có đặc tính phân cấp độ thuộc lứa tuổi, giới tính và đặc
điểm của nhóm xã hội. Có những kiến thức chung, được tất cả mọi người trong
cộng đồng hiểu biết; có những kiến thức bản địa tồn tại theo gia đình, dòng họ
chỉ phạm vi một số người hiểu biết; lại có những kiến thức chuyên nghiệp –
chuyên biệt, chỉ có ở một số ít người mang tính đặc thù, ví dụ: bà mụ đỡ đẻ, thợ
phác ghè làm gốm, thợ rà che nấu đường muỗng…

Kiến thức bản địa được hình thành trực tiếp từ lao động của mọi người dân
trong cộng đồng được hoàn thiện củng cố dần và truyền lại cho thế hệ sau bằng
truyền khẩu, bằng các bài hát, ngôn ngữ, luật tục, (G.Broding và
M.Schonberger, 2000) [16] ...Để phân tích các đặc trưng của kiến thức bản địa,
G.Broding và M. Schonberger đã lập bảng so sánh kiến thức bản địa với kiến
thức hàn lâm (Academic knowledge) vốn dĩ của giới khoa học tồn tại ở các viện
nghiên cứu, trường đại học.

5


Bảng 2.1 Sự khác nhau giữa kiến thức bản địa và kiến thức khoa học
Các lĩnh vực
Kiến thức bản địa
Kiến thức khoa học
tri thức
- Linh thiêng và thế tục cũng
đồng hành: bao gồm cả siêu
nhiên
1. Phạm vi
- Hội nhập toàn thể, dựa vào hệ
thống
- Được lưu giữ thông qua
truyền miệng và trong các thực
hành văn hóa
- Được coi là chân lý
- Chủ quan
2. Mực độ
- Chân lý được thấy trong tự
nhiên và niêm tin

- Giải thích dựa vào ví dụ, kinh
nghiệm và tục ngữ
- Trị tế lầu dài
- Thực tế cuộc sống và tồn tại
- Có khả năng dự báo tốt ở địa
phương
3. mục đích - Yếu hơn trong các điều kiện
ở vùng xa khác
- Môi trường như một bộ phận
của những mối quan hệ xã hội
– thần linh
- Chủ yếu định tính
- Lĩnh hội mất nhiều thời gian (
kiến thức chậm )
- Học thông qua quan sát, thực
hành, sống, trãi nghiệm và làm
4. Cách dạy và - Được kiêm nghiệm thông qua
học
trãi nghiệm thực tế
- Dữ liệu dùng ngôn từ bản địa
(địa phương)

- Chí tình tới thế tục, loại trừ
siêu nhiên
- Phân tích hay quy giản, dựa
vào các tập hợp nhỏ của các
đoàn thể
- Được lưu giữ thông qua
sách vở và máy tính
- Được coi là tiếp cận gần

nhất đến chân lý
- Chân lý được tìm thấy từ sự
lý giải của con người
- Giải thích dựa vào lý
thuyết, quy luật
- Suy đoạn ngắn hạn
- Trừu tượng, trãi nghiệm
kiểm tra
- Có khả năng dự báo tốt
trong điều kiện tự nhiên
- Yếu trong việc sử dụng kiến
thức địa phương
- Quản lý môi trường có tổ
chức, có thứ bậc, ngăn nắp
- Chủ yếu định lượng
- Lĩnh hội nhanh ( kiến thức
nhanh )
- Truyền bằng văn bản
- Dùng ngôn ngữ đương đại
- Học thông qua giáo dục
chính thức
- Dạy thông qua sách giáo
khoa
- Được kiểm nghiêm giả tạo
trong các kiểm tra
(Nguồn: Bài báo 2000)

6



Kiến thức bản địa có thể hiểu một cách chung nhất đó là kết quả của sự
chọn lọc, nghiệm suy khi con người tiếp xúc với môi trường xung quanh từ đó
hình thành những phương thức ứng xử thích hợp. Kiến thức bản địa nẩy sinh
ngay trong hoạt động sản xuất, thường xuyên được kiểm nghiệm qua quá trình
sử dụng, luôn có sự chọn lọc trong quá trình vận động của cuộc sống để ngày
càng thích nghi với môi trường của các cộng đồng người. Nghiên cứu kiến thức
bản địa là nghiên cứu hệ thống các kiến thức đặc trưng của các cộng đồng người
địa phương liên quan đến cái cách cộng đồng này quan hệ với môi trường tự
nhiên xung quanh
2.1.3. Vai trò của kiến thức bản địa
Theo GS Lê Trọng Cúc “kiến thức địa phương là nguồn tài nguyên quí giá, là
cơ sở của sự hiểu biết về các lĩnh vực : Nông nghiệp, lâm nghiệp, y tế, giáo dục,
quản lý tài nguyên ... và là chủ thể của các hoạt động khác trong phát triển bền
vững các hệ sinh thái, đặc biệt các hệ sinh thái vùng cao. Những kiến thức này
có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà khoa học, các nhà lập kế hoạch. Nó cần
được xem xét và so sánh với kiến thức hiện đại để từ đó xác định những khía
cạnh bổ ích hoặc có thể cải tiến thông qua công nghệ mới” (Lê Trọng Cúc,
1999) [4]. Ngày nay kiến thức bản địa luôn có vai trò quan trọng giúp cho các
cộng đồng địa phương có cơ hội thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu trên cơ
sở phát triển bền vững thân thiện với môi trường.
Kiến thức bản địa là kiến thức mang tính địa phương, mọi thành viên trong
cộng đồng đều đã quen với các kỹ thuật bản địa nên sử dụng rất tốt phù hợp với
môi trường cư dân đang sống. Mặt khác kiến thức bản địa luôn sử dụng nguồn
tài nguyên của địa phương không phụ thuộc vào nguồn cung cấp từ bên ngoài
nên chi phí giá thành thấp. Điểm quan trọng là sự du nhập của kiến thức chính
thống vào môi trường địa phương dung hòa với tri thức bản địa của cộng đồng
từ đó đem lại hiệu quả, năng suất cao hơn.
Hiện nay kiến thức bản địa không chỉ đơn thuần được coi là căn cứ để xây
dựng chính sách mà cao hơn nữa, nó còn được coi là lợi thế cạnh tranh trong bối
cảnh kinh tế thị trường và mục tiêu phát triển bền vững. Càng ngày, các giá trị

của kiến thức bản địa càng được quan tâm nhiều hơn, toàn diện hơn và với mục
đích phát triển sát thực hơn. kiến thức bản địa có vai trò quan trọng đối với các
quyết định của cộng đồng địa phương trong quá trình lao động sản xuất. Kiến
thức bản địa là chìa khóa dẫn đến sự thành công của cá nhân, cộng đồng trong

7


mối tương quan ứng xử với môi trường sống hay sự thay đổi của hoàn cảnh xã
hội bên ngoài.
Kiến thức bản địa là nguồn lực có giá trị cho sự phát triển cộng đồng, đôi
khi trong những trường hợp cụ thể, kiến thức bản địa còn vượt trội hơn kiến
thức chính thống du nhập vào từ bên ngoài. Trong rất nhiều trường hợp thực tế
thực thi các dự án nếu xem trọng quá mức kiến thức chính thống hàn lâm du
nhập từ bên ngoài vào xem nhẹ kiến thức bản địa của cộng đồng địa phương thì
hầu như các dự án đó đạt hiệu quả không cao đôi khi thất bại. Điều đó cho thấy
kiến thức bản địa có vai trò rất quan trọng, là tinh hoa đã được đúc kết và trải
nghiệm thực tế trong hoạt động sống của cộng đồng.
Kiến thức bản địa bao gồm lĩnh vực rộng lớn của sự tích lũy các kiến
thức thực hành và những khả năng sáng tạo của cộng đồng đây là điều kiện
cần thiết đạt đến mục tiêu phát triển bền vững. Kiến thức bản địa là nguồn tài
nguyên quốc gia quan trọng có thể giúp ích rất nhiều cho quá trình phát triển
theo phương sách ít tốn kém có sự tham gia của người dân đạt được sự phát
triển bền vững.
Để phát triển bền vững cần có sự hợp nhất dung hòa giữa kiến thức chính
thống hàn lâm và kiến thức bản địa trên cơ sở nghiên cứu áp dụng các điểm tối
ưu thích hợp với hoàn cảnh môi trường địa phương. Ví dụ như các hệ thống đập
chắn ngăn nước trên sông của người Hrê là hệ thống thủy lợi rất tối ưu phù hợp
với hệ thống canh tác nông nghiệp lúa nước vùng thung lũng với sự điều hòa
lượng nước vừa phải liên tục vào các vùng ruộng có diện tích không lớn phân bố

theo địa hình bậc thang của các nhóm gia đình. Mặt khác với hệ thống đập chắn
thủ công này có tác dụng điều hòa lượng nước cho hệ thống đập trên dưới đảm
bảo cho sự tưới tiêu của vùng ruộng thung lũng, thích hợp với dòng chảy sông
miền Trung thường thiếu nước vào mùa hè. Như vậy trên các sông này nếu
chúng ta xây đập kiên cố bỏ qua kiến thức bản địa làm thủy lợi lâu đời của địa
phương không áp dụng những ưu điểm cuả kiến thức bản địa đó thì sẽ hủy hoại
hàng loạt các đập ngăn nước khác trên sông (vì thiếu nước dâng) dẫn đến các
vùng ruộng khô hạn mang tính cục bộ. Như vậy nếu đưa hệ thống đập dâng kiên
cố của tri thức chính thống vào áp dụng tại môi trường thực tiễn của địa phương
thì cần nghiên cứu hệ thống hoạt động của đập bổi thủ công ứng dụng các giá trị
thực tiễn của nó, từ đó mới đem lại một kết quả tốt cho sự phát triển bền vững.
Một trong những nguyên nhân thất bại của các chính sách áp dụng vào thực
tiễn ở một cộng đồng địa phương là người ta không nhận ra rằng các tộc người
8


bản địa cùng với các sinh hoạt văn hoá, xã hội, kinh tế của mình đã và đang
sống cuộc sống hài hoà và thân thiện với môi trường xung quanh. Sự du nhập tri
thức chính thống của Phương Tây với các dự án hiện đại hoá mang tính khoa
học công nghệ cao vào cộng đồng địa phương mà không nghiên cứu kỹ lưỡng,
xa rời thực tiễn của các địa phương và không có khả năng giải quyết nhiều vấn
đề về mặt kỹ thuật đặt ra trong cuộc sống hàng ngày như những người dân bản
địa có thể làm. Đương nhiên kiến thức du nhập đó sẽ thất bại, hiệu quả không
cao hoặc gây tác động ngược hủy hoại môi trường.
Kiến thức bản địa luôn có sự thích ứng với môi trường địa phương, vận
động thay đổi theo điều kiện. Đây là một trong những đặc điểm cơ bản của kiến
thức bản địa. Sự thích ứng thay đổi này của kiến thức bản địa đã mở ra hướng
giao lưu rộng rãi với bên ngoài của cộng đồng du nhập các yếu tố kỹ thuật phù
hợp với môi trường sống của cộng đồng, dần dần bản địa hóa các yếu tố du nhập
này. Mặt khác kiến thức bản địa luôn vận động thích nghi với sự thay đổi của

hoàn cảnh môi trường nhằm đảm bảo sự tồn tại của cộng đồng.
Do đó quan điểm nhận kiến thức thức bản địa luôn ở trạng thái tĩnh không
vận động phát triển để thích nghi với môi trường là quan điểm siêu hình. Hoặc
nhận thức phủ nhận sự tồn tại của kiến thức bản địa, hạ thấp giá trị kiến thức bản
địa trong cộng đồng là quan điểm cực đoan sai lầm. Nhận thức đúng về sự thích
nghi để phát triển của kiến thức bản địa giúp cho ta có định hướng đúng đắn
trong vấn đề bảo tồn giá trị kiến thức bản địa.
Kiến thức bản địa chính là nền tảng cơ sở để duy trì cuộc sống của các xã
hội truyền thống. Hơn thế nữa, trong bối cảnh các xã hội khép kín với nền
kinh tế tự cung tự cấp của đa số tộc người ở Việt Nam, đó còn là cơ sở duy
nhất. Một thời gian dài, kiến thức bản địa đã không được đánh giá đúng với
những giá trị mà nó chứa đựng. Ở nhiều nơi, người ta đã coi đó là biểu hiện
của sự trì trệ, lạc hậu và phản khoa học. Ngày nay, giá trị và vai trò của kiến
thức bản địa đã được đánh giá khách quan hơn. Các học giả, những nhà hoạch
định chính sách và những người đang hoạt động trên lĩnh vực phát triển đã
thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức bản địa và khoa học; thừa nhận tính hợp
lý của kiến thức bản địa đối với hệ thống giáo dục cũng như các vấn đề phát
triển. Hệ thống kiến thức bản địa đã và đang đóng góp một phần quan trọng
vào việc giải quyết các vấn đề của địa phương.
Kiến thức bản địa đóng góp cho khoa học trong nhiều lĩnh vực liên quan đến
việc quản lý tài nguyên thiên nhiên qua các nghiên cứu về thực vật dân tộc học
9


hiện đại. Cụ thể là kiến thức bản địa đã giúp các nhà khoa học nắm được những
vấn đề về đa dạng sinh học và quản lý rừng tự nhiên. Kiến thức bản địa cũng
đóng góp vào khoa học những hiểu biết sâu sắc về thuần hoá cây trồng, gây
giống, quản lý và giúp các nhà khoa học nhận thức đúng đắn về nguyên tắc, thói
quen đốt nương làm rẫy, nông nghiệp sinh thái - nông lâm kết hợp, luân canh
cây trồng, quản lý sâu hại, đất đai và nhiều kiến thức khác về khoa học nông

nghiệp. Một số kiến thức bản địa đã được ứng dụng vào trong các dự án về hợp
tác phát triển (Lê Trọng Cúc, 1999) [4]
Nhìn chung việc phát triển các hệ thống kiến thức bản địa có ý nghĩa sống
còn đối với cộng đồng địa phương đã sáng tạo ra nó. Các hệ thống kiến thức
bản địa cũng không ngừng biến đổi, kiến thức mới liên tục được bổ sung,
không ngừng được đổi mới từ bên trong và các kinh nghiệm, kiến thức học
hỏi được từ bên ngoài, không ngừng được nội tại hoá, được sử dụng, thích
ứng với điều kiện địa phương.
2.2 Tình hình nghiên cứu về kiến thức bản địa
2.2.1. Trên Thế giới
Trên thế giới, kiến thức bản địa được các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý tài
nguyên rừng chủ ý để khai thác các kiến thức của địa phương trong nhiều lĩnh
vực của cuộc sống để cai trị các nước thuộc địa nhất là vào thế kỷ XIX khi mà
chủ nghĩa thực dân được thành lập nhiều khu vực và quốc gia trên thế
giới.Trong đó có nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ, vì vậy các nhà luật học các
nhà quản lý của nhiều nước như Anh, Tây Ban Nha, Pháp…rất quan tâm nghiên
cứu lĩnh vực này
Vấn đề đặt ra với các nước đế quốc thực dân là áp dụng chế độ cai trị nào đối
với thuộc địa của mình. Những năm đầu của thế kỷ XX với sự ra đời của trường
phái chức năng (functionnalism) đứng đầu là Bronyslaw Malinowski. Ông cho
rằng tất cả hiện tượng văn hóa đều cần thiết và mang chức năng nhất định của
một xã hội nhất định từ đó rút ra kết luận không thể cho thể chế xã hội này áp
đặt xã hội khác, mà cần áp dụng bản thân thể chế vốn có để quản lý xã hội đó.
Luận điểm này đã được các nhà cai trị thực dân vận dụng trong việc cai trị thuộc
địa của mình lúc bấy giờ
Các nhà luật học người Anh đã cố gắng chuyển đổi luật tục thành luật pháp ở
một số cuộc gia châu Phi, nhưng nhìn chung vẫn là nhìn nhận luật tục từ góc độ

10



luật pháp từ một số quốc gia châu Âu bao giờ cũng là hệ qui chiếu chủ yếu. Điều
này khác với cách tiếp cận luật tục từ góc độ nhân học xã hội hay nhân học văn hóa
Bên cạnh việc tiếp cận từ góc độ luật học, thì đã xuất hiện ngày một phổ biến
cách nhìn luật học từ góc độ nhân loại học (Anthopogy) bắt đầu là việc tiếp cận
các bộ lạc. Vào thập kỷ nửa cuối thế kỷ XX này, các nhà nhân loại học luật pháp
đã mở rộng phạm vi nghiên cứu của mình trên nhiều bình diện khác nhau, như
các vấn đề lý luận và phương pháp nghiên cứu luật học, nghiên cứu luật tục ở
nhiều vùng nhiều quốc gia trên thế giới
Có thể khẳng định châu Phi là nơi có nhiều công trình nghiên cứu về luật học
nói chung và kiến thức bản địa nói riêng. Trong một công trình “luật và lý luận
luật pháp châu Phi”, do G.R.Woodman và A.O.Obilde [16] đã đưa ra các danh
mục hơn 100 nghiên cứu về luật tục và tác phẩm này cũng tập hợp các bài viết
khác nhau của nhiều tác giả, trong đó phần lớn tác phẩm chỉ đề cập tới bản chất
của luật tục của châu Phi với 3 phần chính: Những vấn đề chung, nhân loại học
pháp luật, luật tục trong hệ thống pháp luật của nhà nước (G.R.Woodman và
A.O.Obilde). Ngoài ra phải kể đến công trình của Y.C.Bekker (luật tục Nam
Phi), đề cập tới nhiều khía cạnh quan hệ giới tính quan hệ hôn nhân, quan hệ gia
đình và quyền thừa kế
Về góc độ nhân học pháp luật, các nhà nghiên cứu đã đề cập tới các vấn đề lý
thuyết và phương pháp sưu tầm và nghiên cứu kiến thức của các dân tộc. Đó là
các công trình của AlanDundes bàn tới khái niệm thế nào là luật tục (folk law),
của Alan Waston về tiếp cận luật tục, của Van Den Dergh khái niệm luật tục
trong khung lịch sử, của Obei Hag Ali về chuyển đổi luật tục thành luật pháp ,…
Các vấn đề phương Đông cũng được đặt ra, như vấn đề văn bản của các luật tục
(T.O.Elias)…nội dung vận dụng luật tục trong phát triển xã hội cũng được quan
tâm, nhất là các luật tục trong bảo vệ tài nguyên thiên nhiên [17]
Như vậy, công việc nghiên cứu luật tục trên thế giới từ thế kỷ XX đã được
những tiến bộ đáng kể cả lý luận, phương pháp nghiên cứu, do đó tạo điều kiện
thuận lợi trong nghiên cứu kiến thức bản địa ở Việt Nam trong thời gian qua

2.2.2. Tại Việt Nam
Cùng với nhiều nước ở Đông Nam Á người Việt Nam có truyền thống sản
xuất nông nghiệp và quản lý sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên từ hàng ngàn
năm nay. Cộng đồng 54 dân tộc anh em sinh sống trên nhiều vùng sinh thái đa
dạng, trên phạm vi toàn quốc đã sáng tạo ra một kho tàng đồ sộ về các kiến thức
11


bản địa trong quản lý và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, cũng như các kiến thức
về sản xuất nông lâm nghiệp
Khi mà cũng với sự phát triển của xã hội, tác động của các hoạt động kinh tế
đã làm cho môi trường sinh thái đang trên đà suy thoái nghiêm trọng, cuộc sống
con người đang phải đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn, khoa học
phương tây không đủ để tạo ra sự bền vững. Chúng ta không thể phụ nhận được
vai trò của kiến thức bản địa trong việc sản xuất theo phương thức ít tốn kém, có
sự tham gia của người dân và đạt được sự bền vững cao
Càng ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu và ứng dụng các kiến thức
bản địa được thực hiện ở Việt Nam, đặc biệt là ở vùng núi, vùng có dân tộc thiểu
số sinh sống nhiều. Các công trình nghiên cứu và ứng dụng này đã khẳng định
được vai trò của kiến thức bản địa trong đời sống kinh tế và quản lý tài nguyên
của người dân. Các kiến thức này có khả năng thích nghi cao với điều kiện môi
trường tự nhiên của địa phương cũng như tập quán xã hội. Việc gắn kết kiến
thức bản địa với kiến thức hiện đại là phương pháp tốt nhất để ứng dụng khoa
học mới vào nông thôn miền núi Việt Nam
Thông qua phương pháp tiếp cận có sự tham gia, các dự án phát triển dựa trên
cơ sở kiến thức bản địa của địa phương đã và đang lôi kéo được người dân tham
gia, vì nó hợp với lòng dân, dân biết phải làm gì và làm như thế nào. Đó chính là
cơ sở của sự thành công, rõ ràng kiến thức địa phương là cơ sở của sự hiểu biết
về các lĩnh vực nông lâm thủy sản, y tế, giáo dục, quản lý tài nguyên và là chủ
thể của các hoạt động khác trong phát triển bền vững của hệ sinh thái nói chung

và hệ sinh thái vùng cao nói riêng ( Lê Trọng Cúc, 1998 )[4]
Các công trình nghiên cứu kiến thức bản địa vùng núi phải kể đến tác phẩm:
“Kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong nông nghiệp và quản lý tài
nguyên thiên nhiên” của Hoàng Xuân Tý, Lê Trọng Cúc đề cập đến các giống
lúa chịu hạn ít bệnh, năng suất ổn định của người Thái (Hoàng Xuân Tý, Lê
Trọng Cúc, 1998).[4]
Trong thời kì chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, nhiều cuốn sổ “ sổ tay
rau rừng ” đã được xuất bản cho các chiến sỹ ở chiến trường. Những năm gần
đây, có nhiều công trình nghiên cứu về rau rừng cũng như kinh nghiệm sử dụng
rau rừng của đồng bào các dân tộc thiểu số càng khẳng định rau rừng với cuộc
sống con người

12


Khi nghiên cứu các kiến thức bản địa trong bảo vệ và phát triển rừng ở huyện
Chiêm Hóa, Tuyên Quang, Lê Thị Diên ( VNRP ) đã chỉ rằng kiến thức bản địa
phù hợp với phong tục tập quán, phù hợp với điều kiện địa phương, đã được trải
nghiệm qua thời gian và được truyền lại từ cha ông, có tình đa dạng cao lại dễ sử
dụng, nguyên liệu dễ kiếm, rẻ tiền lại giảm rủi ro. [8]
Ngày 20 tháng 2 năm 2008, trung tâm tư vấn quản lý bền vững tài nguyên và
phát triển văn hóa cộng đồng Đông Nam Á ( CIRUM ) đã chủ trì cuộc họp với các
đối tác gồm viện nghiên cứu sinh thái chính sách xã hội ( SPERI ) và tư vấn phát
triển ( CODE ) để thảo luận về kể hoạch phối hợp triển khai chương trình nghiên
cứu hành động “ quản lý, sử dụng rừng ở huyện Hữu lũng, tỉnh Lạng Sơn ” [16]
Phạm Quang Hoan và Hoàng Hữu Bình trong bài viết “Các dân tộc thiểu số
và việc quản lý tài nguyên thiên nhiên ở vùng cao Việt Nam” đề cập đến nguyên
tắc quản lý khai thác rừng hài hoà với phương pháp canh tác rẫy luân canh bảo
vệ rừng của đồng bào thiểu số Tây Nguyên (Phạm Quang Hoan và Hoàng Hữu
Bình, 1996). [5]

Trong bài viết “Luật tục với việc phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam”
GS. Ngô Đức Thịnh cho rằng: Một trong những giá trị nổi bật của các dân tộc
thiểu số là những kiến thức bản địa của nhân dân về quản lý và khai thác tài
nguyên thiên nhiên, ở đó con người và tự nhiên gắn bó hữu cơ, con người là một
bộ phận không thể tách rời tự nhiên. Luật tục với những kiến thức bản địa về
môi trường và cách thức quản lý, khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên vẫn
giữ nguyên giá trị tích cực của nó (Ngô Đức Thịnh, 1999). [15]
Cho đến nay nhiều công trình nghiên cứu về kiến thức bản địa được công bố
trên thế giới cũng như ở Việt Nam . Tuy vậy, việc nghiên cứu kiến thức bản địa
chủ yếu tập trung vào nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi,... mà ít chủ ý đến
lĩnh vực lâm nghiệp. Đặc biệt là lâm nghiệp vùng cao, vùng dân tộc thiểu số hầu
như ít quan tâm
Để bổ sung một phần nhỏ vào kho tàng nghiên cứu kiến thức bản địa trong
quản lý rừng và sử dụng tài nguyên. Nét đặc thù của đề tài là tập trung nghiên
cứu hệ thống kiến thức bản địa trong quản lý rừng và sử dụng hợp lý tài nguyên
của người dân tộc Cơtu và người dân tộc kinh trên địa bàn huyện Nam Đông,
tỉnh Thừa Thiên Huế

13


PHẦN 3
MỤC TIÊU, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1.1. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về thời gian: Đề tài được thực hiện từ ngày 06/01/2015 đến
ngày 08/05/2015
- Phạm vi về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu tại thôn 2, xã
Thượng Nhật là khu vực có tỷ lệ dân tộc Cơtu sinh sống chiếm đến 100%
tổng số dân và tại thôn 5 xã Thượng Quảng là khu vực có tỷ lệ dân tộc Kinh
chiếm đến 90% tổng số dân. Từ đó phân tích được sự khác nhau trong quá

trình quản lý tài nguyên rừng dựa vào kiến thức bản địa của đồng bào dân
tộc thiểu số.
3.2 Mục tiêu nghiên cứu
3.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá được hiệu quả của việc sử dụng kiến thức bản địa trong quản lý
tài nguyên rừng của đồng bào dân tộc thiểu số tại khu vực nghiên cứu. Đề xuất
các giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị kiến thức bản địa
3.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Thu thập và tài liệu hóa những kiến thức bản địa đã từng được sử dụng
cũng như đến nay vẫn còn lưu giữ
- Xác định được nguyên nhân những kiến thức trước đây bị mất đi
- Đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong việc lưu giữ cũng như sử
dụng kiến thức bản địa để quản lý tài nguyên rừng
- Đánh giá được hiệu quả của việc sử dụng kiến thức bản địa trong quan
lý tài nguyên rừng
- Đề xuất được các biện pháp sử dụng kiến thức bản địa hợp lý tại khu
vực nghiên cứu
3.3 Nội dung nghiên cứu
- Điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu
- Các mô hình, cơ cấu quản lý tài nguyên rừng tại khu vực nghiên cứu

14


- Phân tích các bên liên quan trọng quản lý tài nguyên rừng tại khu vực
nghiên cứu
- Phân tích thành phần dân tộc và tập quán sinh sống của người dân tại
khu vực nghiên cứu
- Hệ thống tư liệu liên quan đến kiến thức bản địa của người dân tộc thiểu
số tại địa điểm nghiên cứu

- Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng kiến thức bản địa trong quản lý tài
nguyên rừng hiện nay
- Đề xuất các biện pháp sử dụng hiệu quả kiến thức bản địa trong quản lý
tài nguyên rừng
3.4 Phương pháp nghiên cứu
3.4.1 Phương pháp thu thập thông tin
* Thu thập số liệu thứ cấp:
- Từ sách, báo chí, các trang mạng, văn bản báo cáo tại khu vực nghiên cứu
- Thu thập tài liệu thứ cấp về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tại UBND các
xã và huyện có liên quan, các văn kiện dự án, báo cáo đánh giá của các tổ chức/nhà
khoa học về kiến thức bản địa, thu thập các bản đồ tại khu vực nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia
(PRA,RRA)
* Thu thập số liệu sơ cấp:
- Phỏng vấn bán cấu trúc 60 hộ gia đình 2 thôn trong 2 xã
Bao gồm: 30 hộ gia đình thôn 2 (99,9 % dân tộc Cơtu thuộc xã
Thượng Nhật )
30 hộ gia đình thôn 5 (95% dân tộc Kinh thuộc xã Thượng Quảng )
- Phỏng vấn bán cấu trúc 3 cán bộ xã ,2 trưởng thôn và một số đại diện
người cao tuổi, để lấy thông tin chung.
- Phỏng vấn sâu cán bộ và người dân: Thông qua việc thu thập những
người nắm tin chính như các Sở, Ban, Ngành liên quan, cán bộ huyện, xã, người
có vai trò trong thôn, bản nhằm mục đích thu thập các thông tin chuyên sâu về
hiện trạng tài nguyên, thực trạng sử dụng các nguồn vốn sinh kế trong những
năm qua, khả năng tiếp cận các nguồn vốn sinh kế của người dân.
15


3.4.2 Phương pháp xử lý số liệu :
* Sử dụng phần mềm Exel để tính toán một số chỉ tiêu liên quan đến vấn

đề nghiên cứu;
* Phương pháp thống kê mô tả: Phương pháp này được vận dụng để mô tả
bức tranh tổng quát về tình hình cơ bản các địa bàn nghiên cứu, hiện trạng tài
nguyên, thực trạng tình hình kinh tế, xã hội địa phương.
* Phương pháp phân tích định tính: Dựa vào nguồn số liệu PRA, phỏng
vấn sâu, để phân tích định tính các vấn đề liên quan đến các vấn đề nghiên cứu

16


PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tại khu vực nghiên cứu

Sơ đồ 4.1: Vị trí nghiên cứu
4.1.1 Xã Thượng Nhật
4.1.1.1 Điều kiện tự nhiên
a. Vị trí địa lý
Thượng Nhật là một xã miền núi đặc biệt khó khăn ở thượng nguồn sông
Tả Trạch, nằm về phía Nam của huyện Nam Đông cách trung tâm thị trấn Khe
17


Tre 7km, tọa độ địa lý của xã được xác định như sau:
- Điểm cực Bắc 16009’38” vĩ Bắc, 1070 40’32” kinh Đông.
- Điểm cực Nam 16006’59” vĩ Bắc, 1070 40’25” kinh Đông.
- Điểm cực Đông 16008’42” vĩ Bắc, 1070 41’21” kinh Đông.
- Điểm cực Tây 16009’18” vĩ Bắc, 1070 39’13” kinh Đông.
Thượng Nhật có tổng diện tích đất tự nhiên 11.410 ha, toàn xã có 7 thôn
gồm: Ta Rinh, Lập, A Tin, Ta Lu, A Xách, La Vân, Hợp Hòa. Ranh giới hành

chính được xác định như sau:
- Phía Bắc giáp xã Hương Hòa.
- Phía Tây giáp xã Hương Giang, Hương Hữu và Thượng Long.
- Phía Nam giáp huyện Đông Giang tỉnh Quảng Nam.
- Phía Đông giáp xã Thượng Lộ.
b. Điều kiện khí hậu
Nằm trong khu vực miền Trung phía Bắc Hải Vân nên khí hậu của xã
thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có thời tiết tương đối khắc nghiệt, khí hậu
trong năm được phân thành 2 mùa rõ rệt đó là: Mùa khô bắt đầu từ tháng 3 đến
tháng 8; mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau. Nhiệt độ: về mùa khô chịu
ảnh hưởng của gió Tây Nam nên khô nóng; về mùa lạnh do ảnh hưởng của gió
Đông Bắc nên mưa nhiều, trời lạnh.
- Nhiệt độ trung bình trong năm 24,60C.
- Nhiệt độ cao nhất trong năm 400C.
- Nhiệt độ thấp nhất trong năm 160C.
Nhìn chung khí hậu ở xã Thượng Nhật có nền nhiệt độ tương đối cao và
khá ổn định, nhiệt độ trung bình 24,60C do đó rất phù hợp cho sản xuất nông lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
Hàng năm, Thượng Nhật vẫn chịu tác động của bão, mùa bão bắt đầu từ
đầu tháng 9 và kết thúc vào tháng 12 nhưng xảy ra tập trung vào tháng 9
( 38% ), tháng 10 ( 20% ). Tốc độ gió trong các cơn bão thường đạt từ cấp 9, cấp
10 và mạnh nhất cấp 11. Tuy nhiên, do Thượng Nhật là vùng đồi núi nên khi
bão đổ bộ vào đây do ma sát với mặt đệm làm tốc độ gió giảm đi nhanh chóng
nhưng trong cơn bão thường kèm theo mưa lớn và gió giật. Trung bình mỗi cơn
18


×