Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Chuyên Đề Dạy Học Đối Tượng Học Sinh Bị Hổng Kiến Thức Môn Hoá Học THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (907.42 KB, 44 trang )

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

TÀI LIỆU
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN CHO GIÁO VIÊN
DẠY HÓA HỌC CẤP THCS
(Nội dung 2 –Dành cho địa phương)

Qu¶ng B×nh, n¨m 2014

GIỚI THIỆU
1


Bộ Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên phần tài liệu địa phương
được biển soạn theo định kỳ hàng năm. Bộ tài liệu này dùng để bồi
dưỡng giáo viên môn Hóa học năm học 2013-2014 gồm 3 chuyên đề:
Chuyên đề 1. Dạy học sinh đối tượng bị hổng kiến thức
Chuyên đề 2. Dạy học tiết Luyện tập
Chuyên đề 3. Dạy học tiết Ôn tập
Hình thức bồi dưỡng ở các Phòng GD-ĐT: có thể bồi dưỡng giáo
viên theo hình thức tập trung hoặc hình thức từ xa.
1. Bồi dưỡng tập trung:
Báo cáo viên có thể sử dụng câu hỏi gọi ý thảo luận (có ở đầu mỗi
nội dung) để gợi ý các học viên, nhóm học viên đề xuất phương án thảo
luận; đối chiếu với tài liệu, thống nhất cao ở điểm nào, điểm nào chưa
thống nhất cần điều chỉnh, bổ sung. Làm bài tập đánh giá kết quả bồi
dưỡng.
Chú ý: Mỗi học viên có quan điểm riêng của mình phù hợp với đối
tượng học sinh, điều kiện dạy học nơi đơn vị công tác, cho nên trong quá
trình thảo luận, cần phát huy tính độc lập sáng tạo, không nên gò bó,


ràng buộc theo ý chủ quan của báo cáo viên hoặc giáo điều theo tài liệu.
2. Bồi dưỡng từ xa:
- Học viên nghiên cứu tài liệu, soạn đề cương tự học theo câu hỏi
gợi ý thảo luận, góp ý nhận xét tài liệu.
- Tập trung 1 buổi để thảo luận theo nhóm, đề xuất góp ý. Làm bài
tập đánh giá kết quả bồi dưỡng.
Cuối đợt bồi dưỡng, dù bồi dưỡng hình thức tập trung hay từ xa
đều phải có tổ chức cho học viên làm bài tập đánh giá kết quả bồi
dưỡng, chấm bài, xếp loại, lưu hồ sơ Bồi dưỡng thường xuyên.
Ban biên tập rất mong sự góp ý của các đơn vị về chủ đề, nội dung
các chuyên đề để việc biên tập tài liệu những kỳ sau có chất lượng cao
hơn, góp phần thiết thực cho giáo viên trong những lần tổ chức bồi
dưỡng thường xuyên định kỳ hàng năm theo yêu cầu của Bộ GD&ĐT.
Ý kiến đóng góp xin gửi về Hội đồng bộ môn Hóa học (Phòng
GDTrH, Sở GD&ĐT Quảng Bình)
Xin chân thành cảm ơn!
BAN BIÊN TẬP
CHUYÊN ĐỀ 1
2


DẠY HỌC ĐỐI TƯỢNG HỌC SINH BỊ HỔNG KIẾN THỨC
MÔN HOÁ HỌC THCS
I. MỘT SỐ THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT
LƯỢNG DẠY HỌC MÔN HOÁ HỌC THCS
Câu hỏi gợi ý thảo luận:
- Theo đồng chí có những khó khăn và thuận gì có ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng dạy học môn Hóa học cấp THCS (Các nhóm liệt kê theo phụ lục 1, bổ sung
cho nhau, tìm ra những khó khăn và thuận lợi chính.)
- Đối chiếu với những phần trong tài liệu, nên điều chỉnh, bổ sung gì, thảo luận

thống nhất.
1. Thuận lợi:
a. Chương trình:
Đảm bảo thực hiện mục tiêu của bộ môn Hóa học ở trường phổ thông cơ sở.
Đảm bảo tính phổ thông cơ bản, ban đầu và thực tiễn trên cơ sở hệ thống tri thức
của khoa học hoá học tương đối hiện đại.
Đảm bảo một cách cơ bản tính đặc thù của bộ môn Hoá học. Đảm bảo một cách
cơ bản định hướng đổi mới phương pháp dạy học Hoá học theo hướng dạy và học
tích cực.
Đảm bảo một cách cơ bản định hướng về đổi mới đánh giá kết quả học tập hoá
học của HS.
Đảm bảo kế thừa những thành tựu của giáo dục hoá học trong nước và thế giới.
Đảm bảo tính phân hoá trong chương trình hoá học phổ thông
b. Phương pháp:
Phương pháp dạy học hoá học truờng THCS được định hướng theo quan điểm
về dạy và học tích cực. GV hoá học là người thiết kế, tổ chức để HS tích cực hoạt
động, độc lập suy nghĩ, hợp tác cùng nhau tìm tòi kiến thức hoá học mới và vận
dụng trong quá trình học tập hoá học, trong đời sống thực tiễn... GV hoá học chú ý
3


tạo điều kiện để HS phát hiện và giải quyết một số vấn đề đơn giản trong học tập
hoá học và trong thực tiễn đời sống, biết nghiên cứu thí nghiệm hoá học để giải
quyết vấn đề và tìm ra kiến thức mới.
c. Thiết bị dạy học:
Thiết bị dạy học được cung cấp, mua sắm đầy đủ, hàng năm thiết bị luôn được
bổ sung, thay mới để đảm bảo đáp ứng được yêu cầu phục vụ dạy và học.
d. Giáo viên, học sinh:
- Giáo viên: Đạt trình độ đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn; giáo viên có năng lực
đáp ứng được yêu cầu dạy học, đổi mới phương pháp dạy học hiện nay; Giáo viên

có tâm huyết với nghề dạy học.
- Học sinh: Có ý thức ham tìm tòi do tiếp xúc môn học mới; có khả năng tiếp cận
nhanh với kiến thức do có nhiều kênh thông tin hỗ trợ trong quá trình tiếp thu bài
học.
2. Khó khăn:
a. Chương trình:
Hiện chương trình học của học sinh THCS có nhiều môn học, thời lượng dành
cho các tiết học lý thuyết còn nhiều, thời gian cho dành cho các tiết luyện tập, ôn
tập ít.
b. Phương pháp:
- Mặc dù nhiều lớp tập huấn đã được mở về thay đổi, cải tiến phương pháp dạy
học; có nhiều phương pháp đã được áp dụng mang lại hiệu quả nhưng còn có sự
bất cập giữa chương trình với thiết bị dạy học không đồng bộ, giữa bố trí thời
lượng thực hành với kiến thức lý thuyết, giữa cán bộ làm thiết bị với năng lực làm
việc, giữa CSVC của nhà trường với yêu cầu đổi mới dạy học nên làm cho việc
tiếp thu của học sinh còn gặp quá nhiều khó khăn, không phát huy ý thức hứng thú
của học sinh khi mới tiếp xúc ban đầu.
c. Thiết bị dạy học:

4


- Nhiều đơn vị trường học chưa phát huy hết chức năng hoạt động của Phòng
chức năng thực hành hoá, chỉ dùng khi dạy những tiết dạy có thực hành còn lại gần
như bỏ trống.
- Các thiết bị qua thời gian sử dụng hiện không còn đáp ứng được độ chính xác
tin cậy trong thao tác thực hành; các hoá chất thường không còn giữ được chất
lượng, độ tinh khiết như ban đầu nên giáo viên ngại sử dụng hoặc càng ít cho học
sinh sử dụng trong các tiết thực hành.
d. Giáo viên, học sinh:

- Giáo viên:
+ Việc soạn bài, kiểm tra, đánh giá, phân loại HS trong từng tiết học cụ thể
chưa thực sự chú trọng nên trong một tiết học thường chỉ các em có khả năng tiếp
thu bài được giáo viên chú trọng để không làm mất thời gian của giờ học.
+ Trong quá trình dạy học, liên hệ, mở rộng, nâng cao một kiến thức giáo
viên thực hiện chưa thuần thục, kém hiệu quả.
+ Hoá học là môn học khoa học thực nghiệm; trong quá trình dạy học, giáo
viên thường phải sử dụng nhiều thí nghiệm biểu diễn, thí nghiệm thực hành … ,
phải chuẩn bị, tiếp xúc với nhiều dụng cụ hoá chất độc hại khác nhau làm mất rất
nhiều thời gian nên giáo viên thường ngại thực hiện thí nghiệm, không tuân theo
kế hoạch sử dụng đồ dùng dạy học, thậm chí nhiều đơn vị giáo viên không xây
dựng kế hoạch sử dụng đồ dùng dạy học.
- Học sinh:
+ Do tiếp xúc với kiến thức khá mới khác với các kiến thức các môn đã học
nên bước đầu có nhiều hứng thú, hứng thú sẽ giảm theo lượng kiến thức ngày càng
được nhiều lên nếu không được nuôi dưỡng.
+ Trong quá trình tiếp thu kiến thức môn học, nếu một kiến thức học sinh
để bị hỏng mà không được giáo viên nắm để bồi dưỡng, phụ đạo thì sau một thời
gian học sinh sẽ lơ là và hết hứng thú dẫn đến chán học và kiến thức sẽ bị hỏng.

5


PHỤ LỤC 1
HỌC VIÊN THẢO LUẬN, CHO Ý KIẾN THỐNG NHẤT VỀ CÁC THUẬN LỢI VÀ
KHÓ KHĂN ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC HỌC TẬP MÔN HOÁ HỌC

Thuận lợi

Khó khăn


II. PHÂN TÍCH KIẾN THỨC HỌC SINH CÒN YẾU Ở
MÔN HOÁ HỌC THCS
Câu hỏi thảo luận:
- Theo đồng chí học sinh THCS thường bị hổng kiến thức ở những phần nào
trong chương trình (lưu ý cả phần lý thuyết và bài tập). Các nhóm điền vào phụ
luc 2 sau đó trình bày trước lớp để thảo luận, bổ sung điều chỉnh đi đến thống
nhất.
Để thuận lợi cho việc phân tích, đánh giá kết quả việc học tập môn Hoá học
THCS của học sinh, cần thử phân chia các nội dung kiến thức của môn học hoá
học theo từng nhóm. Dựa vào việc phân loại theo nhóm, học viên thống kê những
kiến thức mà học sinh thường bị hổng trong quá trình học môn Hoá học.
6


MÔN HOÁ HỌC LỚP 8
(Phụ lục 2)
NỘI DUNG LỚP 8
1. Chất - Nguyên tử- Phân tử
1.1. Chất.
1.2. Nguyên tử. Nguyên tố hoá học.
Kí hiệu hoá học.
1.3. Đơn chất, hợp chất. Phân tử.
1.4. Công thức hoá học.
1.5. Hoá trị.
2. Phản ứng hoá học
2.1. Sự biến đổi chất.
2.2. Phản ứng hoá học.
Kiến thức
2.3. Định luật bảo toàn khối lượng.

cơ sở hoá
2.4. Phương trình hoá học.
học
3. Mol và tính toán hóa học
chung
3.1. Mol. Chuyển đổi giữa khối lượng,
thể tích và lượng chất.
3.2.Tỉ khối chất khí.
3.3. Tính theo công thức hoá học.
3.4. Tính theo phương trình hoá học.
4. Dung dịch
4.1. Dung dịch.
4.2. Độ tan của một chất trong nước.
4.3. Nồng độ dung dịch.
4.4. Pha chế dung dịch.
5. Oxi . Không khí
5.1. Tính chất của oxi.
5.2. Sự oxi hoá. Phản ứng hoá hợp.
ứng dụng của khí oxi.
5.3. Oxit.
5.4. Điều chế khí oxi. Phản ứng phân hủy.
Hoá học 5.5. Không khí. Sự cháy.
vô cơ
6. Hiđro. Nước
6.1. Tính chất, ứng dụng của hiđro.
6.2. Phản ứng oxi hoá - khử .
6.3. Điều chế hiđro. Phản ứng thế.
6.4. Nước.
6.5. Axit - Bazơ - Muối.


KIẾN THỨC BỊ HỎNG

7


MÔN HOÁ HỌC LỚP 9
LỚP 9
1. Sơ lược về bảng tuần hoàn các
nguyên tố hoá học
2. Các loại hợp chất vô cơ
2.1.Oxit: Tính chất hoá học của oxit.
Phân loại. Một số oxit quan trọng :
CaO, SO2.
2.2.Axit: Tính chất hoá học của axit.
Phản ứng trung hòa.
Một số axit quan trọng : H2SO4, HCl.
2.3. Bazơ: Tính chất hoá học của bazơ.
Một số bazơ quan trọng: NaOH;
Ca(OH)2, thang pH.
2.4. Muối: Tính chất hoá học của muối.
Phản ứng trao đổi.
Kiến thức Một số muối quan trọng: NaCl, KNO3..
2.5. Phân bón hóa học.
cơ sở
Hoá học 2.6. Mối quan hệ giữa các loại hợp chất
vô cơ
vô cơ
3. Kim loại
3.1. Tính chất của kim loại.
Dãy hoạt động hoá học của kim loại.

3.2. Nhôm
3.3. Sắt và hợp kim của sắt: gang, thép.
3.4. Sự ăn mòn kim loại và bảo vệ
kim loại không bị ăn mòn.
4. Phi kim
4.1. Tính chất của phi kim
4.2. Clo
4.3. Cacbon và hợp chất của cacbon
(các oxit của cacbon, axit cacbonic và
muối cacbonat).
4.4. Silic và sơ lược về công nghiệp
silicat.
Hoá học 5. Hiđrocacbon . Nhiên liệu
hữu cơ 5.1. Mở đầu về hoá học hữu cơ.
5.2. Metan.
Hoá học 5.3. Etilen.
hữu cơ 5.4. Axetilen.
5.5. Benzen.
5.6. Dầu mỏ và khí thiên nhiên.
5.7. Nhiên liệu.

KIẾN THỨC CÒN YẾU

8


6. Dẫn xuất của hiđrocacbon. Polime
6.1. Ancol etylic.
6.2. Axit axetic.
6.3. Mối liên hệ giữa etilen, ancol etylic và

axit axetic.
6.4. Chất béo.
6.5. Glucozơ và saccarozơ.
6.6. Tinh bột và xenlulozơ.
6.7. Protein.
6.8. Polime.

III. PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN BỊ HỔNG KIẾN THỨC
Ở MÔN HOÁ HỌC THCS
Câu hỏi gợi ý thảo luận:
- Theo đồng chí có những nguyên nhân nào làm cho học sinh bị hổng kiến thức
môn Hóa học cấp THCS (Các nhóm trình bày trước lớp, bổ sung cho nhau ).
- Thảo luận phân tích các nguyên nhân, tìm ra những nguyên nhân chính (nguyên
nhân chính giữa các đơn vị thường khác nhau).
- Đối chiếu với những phần trong tài liệu, nên điều chỉnh, bổ sung gì, thảo luận
thống nhất.
Khi phân tích các nguyên nhân dẫn đến học sinh bị hổng kiến thức ở môn
Hoá học THCS, chúng ta thử chia các nguyên nhân thành 7 nhóm chính:
1. Nhóm nguyên nhân về nội dung, kiến thức trong chương trình;
2. Nhóm nguyên nhân từ cơ sở vật chất dạy học;
3. Nhóm nguyên nhân từ việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện các phương pháp
dạy học;
4. Nhóm nguyên nhân từ giáo viên;
5. Nhóm nguyên nhân từ học sinh;
6. Nhóm nguyên nhân từ sự phối hợp giữa gia đinh-nhà trường- xã hội;
7. Nhóm nguyên nhân khác.

9



Việc chia nguyên nhân thành các nhóm nhằm phân tích, tìm hiểu sâu những
nguyên nhân có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến kiến thức học sinh bị hỏng
trong quá trình học tập, tiếp thu ở học sinh để qua đó tìm được, thông nhất được
các giải pháp để khắc phục.

Phân tích cụ thể các nguyên nhân trong từng nhóm:
1. Nhóm nguyên nhân về nội dung, kiến thức trong chương trình;
Chương trình Hoá học THCS được xây dựng nhằm dựa trên các quan điểm:
a. Đảm bảo thực hiện mục tiêu của bộ môn Hóa học
b. Đảm bảo tính phổ thông cơ bản, ban đầu và thực tiễn
c. Đảm bảo một cách cơ bản tính đặc thù của bộ môn Hoá học
d. Đảm bảo một cách cơ bản định hướng đổi mới phương pháp dạy học Hoá
học theo hướng dạy và học tích cực
e. Đảm bảo một cách cơ bản định hướng về đổi mới đánh giá kết quả học
tập hoá học của HS
g. Đảm bảo kế thừa những thành tựu của giáo dục hoá học trong nước và
thế giới
h. Đảm bảo tính phân hoá trong chương trình hoá học phổ thông
Vậy trong chương trình Hoá học THCS có những nội dung nào để dẫn đến
học sinh trong quá trình học còn để bị hỏng?
Chúng tôi thử đưa ra một số điểm để cùng thảo luận:
- Chương trình đối với thời lượng 2 tiết/tuần với những kiến thức, kỷ năng
trong 01 tiết là nhiều, dẫn đến thực hiện không được đầy đủ, không sâu.
- Hoá học là khoa học thực nghiệm nhưng các thí nghiệm được sử dụng đa
phần là những thí nghiệm do giáo viên biểu diễn, thí nghiệm biểu diễn thường
không đủ độ lớn, độ đầy, độ gần để cho tất cả học sinh trong lớp đều có thể tập
trung quan sát được.
10



- Các thí nghiệm do các nhóm thực hiện trong quá trình thực hành của 01
tiết là khá đơn giản cho học sinh nhưng lại không có đủ thời gian để tất cả học sinh
đều được làm để tạo hứng thú và khắc sâu kiến thức đã học. Các nhóm số lượng
học sinh thường 6-8 em /nhóm, mỗi lớp thường có 6 nhóm, chỉ 01 giáo viên
hướng dẫn nên chất lượng và độ tin cậy, an toàn không cao.
- Phần câu hỏi và bài tập sau mỗi bài học nhiều, học sinh không đủ thời
gian để tiến hành thực hiện các bài tập ở nhà.
2. Nhóm nguyên nhân từ cơ sở vật chất dạy học
Cơ sở vật chất dạy học nên được thống nhất gồm 2 phần: Phòng học và thiết
bị phục vụ dạy học.
a. Phòng học:
- Các phòng học được xây dựng hiện nay chưa đúng theo tinh thần của
Quyết định số 1221/QĐ-BYT ngày 18/4/2000 của Bộ Y tế: “Trung bình từ 1,10m2
đến 1,25m2 cho một học sinh. Kích thước phòng học: chiều dài không quá 8,5m,
chiều rộng không quá 6,5m, chiều cao 3,6m”. Lớp học có đông học sinh nên ngồi
chật và khả năng di chuyển đi lại khó nên những em ngồi phía trong giáo viên
thường không gọi lên bảng, thường những em bị hổng kiến thức là những em ngồi
trong hoặc cuối lớp.
- Phòng chức năng: Phòng thực hành hoá học thường giáo viên chỉ sử dụng
cho những giờ thực hành, rất ít khi phòng được sử dụng để học sinh dùng tự học,
tự nghiên cứu. Nhiều trường THCS do phòng ít được sử dụng nên để thuận lợi cho
học chính khoá 1 ca nên đã lấy phòng thực hành làm phòng học.
b. Thiết bị phục vụ dạy học:
- Thiết bị dạy học được trang cấp 01 lần khi tiến hành thay sách. Các thiết bị
dạy học môn hoá học đã đáp ứng được yêu cầu thay sách và tổ chức dạy học trong
nhà trường. Qua thời gian sử dụng, hiện các trường học nhiều dụng cụ, hóa chất
kém chất lượng, không còn sử dụng được hoặc sử dụng không đảm bảo độ chính
xác.

11



3. Nhóm nguyên nhân từ việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện các phương
pháp dạy học
- Các trường học trong công tác tổ chức biên chế không có nhân viên thiết bị
hoặc nhân viên thiết bị là giáo viên kiêm giảng dạy; không có chuyên môn về thiết
bị hoặc có chuyên môn nhưng năng lực bị hạn chế.
- Việc chỉ đạo của các trường học về công tác sử dụng phòng thực hành
chưa có, thường giao cho giáo viên khi đến giờ thực hành mới tự sử chuẩn bị; Lãnh
đạo chưa coi trọng công tác kiểm tra các giờ học thực hành và các tiết dạy có thí
nghiệm chứng minh. Không có Kế hoạch sử dụng đồ dùng dạy hoc nên việc đánh
giá tổ chuyên môn và giáo viên chưa về công tác này chưa sát.
- Việc thực hiện mạnh dạn đổi mới PPDH đối với các giáo viên chưa được
chú trọng thường xuyên, việc thực hiện dạy học theo các PP tích cực chưa thể hiện
rõ rệt, nhiều giáo viên dạy theo PPDH tổ chức thảo luận, phân nhóm nhưng chưa
biết cách tổ chức dẫn đến hiệu quả chưa cao, chưa lôi kéo được học sinh vào quá
trình xây dựng bài để phát hiện, tìm ra kiến thức mới …
4. Nhóm nguyên nhân từ giáo viên
- Phải khẳng định tất cả các giáo viên dạy môn hoá học để là những giáo
viên được đào tạo đạt chuẩn, số giáo viên trên chuẩn chiếm từ 75-85 %. Các giáo
viên đều có tâm huyết với nghề nghiệp đã chọn, có ý thức chấp hành các văn bản
chỉ đạo của các cấp, có ý thức trong việc nâng cao kỷ năng sư phạm, năng lực
giangr dạy để đáp ứng được với yêu cầu dạy học hiện nay.
- Tuy nhiên, do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan đã làm cho một bộ
phận giáo viên hoặc trong một thời gian, thời điểm nào đó việc thực hiện chưa hết
các nhiệm vụ quy định trong quá trình dạy học, điều đó đã làm cho học sinh nhàm
chán, mất hứng thú trong học tập; mất tập trung trong học tập nên đã bị hỏng dần
kiến thức. Ở giáo viên có thể nêu lên những nguyên nhân làm hỏng kiến thức ở học
sinh như sau:
+ Do bận rộn nhiều công việc, chưa đầu tư vào tìm tòi phương pháp cách

dạy phù hợp với đối tượng mình đang phục vụ.
12


+ Do khả năng nắm kiến thức, kỷ năng chuẩn chưa đầy đủ nên thường chưa
xác định được nội dung cần dạy trong một tiết học; chưa xác định vị trí bài học
trong hệ thống kiến thức chương trình.
+ Kế hoạch soạn bài của giáo viên mới chú trọng thiên về kiến thức mà thiếu
chú ý đến đối tượng học sinh; các hoạt động của thầy và trò chưa nổ bật, chưa chú
ý phát huy tính tích cực cho 3 đối tượng đặc biệt là đối tượng học sinh yếu kém.
+ Một bộ phận giáo viên không sử dụng được các phương tiện dạy học hiện
đại như thí nghiệm, tranh, máy chiếu hỗ trợ hoặc sử dụng hiệu quả thấp; chưa biết
cách đặt vấn đề cho học sinh thảo luận, chưa biết cách tổ chức thảo luận để tất cả
các đối tượng được tham gia tích cực …..
+ Nhiều giáo viên tổ chức đánh giá học sinh không kịp thời, thường xuyên,
chưa có sự quan tâm phát hiện đối tượng học sinh bị hổng kiến thức trong quá trình
học tập làm cho học sinh yếu kém không thể theo kịp các bạn cùng lớp gây nên
tình trạng “sợ ”, xa lánh bộ môn Hóa học.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp còn thiếu sự gần gũi, nắm bắt thông tin, thiếu sự
tổ chức cho Cán bộ lớp, cho học sinh để phát hiện, kèm cặp giúp đỡ, động viên.
Thiếu sự phối hợp với giáo viên bộ môn nhằm trao đổi thông tin cho nhau về quá
trình tổ giảng dạy tại lớp.
5. Nhóm nguyên nhân từ học sinh
Học sinh học đến lớp 8 mới được tiếp xúc với môn Hoá học, là môn hoc
nghiên cứu về chất và sự biến đổi của chất nên bước đầu hứng thú học tập bộ môn
chắc chắn sẽ rất lớn. Những em từ lớp 7 nếu đã có kết quả đánh giá đạt loại khá,
giỏi thì đối với các em không khó để tiếp tục phát huy với môn học mới đang gây
nhiều hứng thú, tò mò.
Học sinh để bị hỏng kiến thức thường xuất phát từ các nguyên nhân:
- Học sinh không nuôi dưỡng được hứng thú học tập của mình qua thời gian

học bộ môn, chưa tìm được điểm mới trong kiến thức bộ môn vừa được tiếp xúc.
- Không quen với loại kiến thức có tính trừu tượng ngay từ những tiết ban
đầu như khái niệm về nguyên tử, nguyên tố hoá học, mô tả tính chất của chất, sự
13


biến đổi về tính chất …. làm cho học sinh sợ và “xa lánh” dần với môn học nhưng
thiếu được sự phát hiện, giúp đỡ của của giáo viên và các bạn.
- Lên lớp 8 nhiều học sinh do sự thay đổi tâm sinh lý lứa tuổi đã có nhiều sự
quan tâm khác ngoài học tập như tình bạn, tình yêu tuổi học trò, những đam mê
mới do nhiều hoàn cảnh và yếu tố khách quan tác động nên các em lơ là dần việc
học tập trong đó có môn hoá học.
6. Nhóm nguyên nhân từ sự phối hợp giữa gia đinh-nhà trường-xã hội
Đây là nguyên nhân mang tính chất khái quát cho tất cả các môn học. Thực
tế giữa gia đình-nhà trường-xã hội có sự phối hợp chặt chẽ, biết con em mình, học
sinh mình và lớp trẻ mình đang cần cái gì khi đang học trên ghế nhà trường; Trách
nhiệm của mình phải làm gì để cung cấp những điều đó và cung cấp như thế nào?
Cung cấp vào thời điểm nào? Ai là người cung cấp, ai là người hỗ trợ, ai là người
tạo điều kiện …. Đây là những vấn đề đang còn nhiều bất cập hiện nay vì do chưa
xác định rõ mục tiêu chung của sự phối hợp, chưa hiểu hết cần phối hợp như thế
nào, chưa có cách tổ chức phối hợp hợp lý nên hiệu quả phối hợp chưa cao, tạo ảnh
hưởng không đủ lớn để kích thích quá trình, ý thức học tập của học sinh làm cho
học sinh bị hỏng kiến thức.
7. Nhóm nguyên nhân khác

IV. BIỆN PHÁP ĐỀ XUẤT TRONG GIẢNG DẠY BỘ MÔN HOÁ
HỌC THCS ĐỂ GIẢM THIỂU HỌC SINH HỔNG KIẾN THỨC
Câu hỏi gợi ý thảo luận:
- Đồng chí tìm những giải pháp khắc phục tình trạng học sinh bị hổng kiến thức
môn Hóa học cấp THCS tương ứng với những nguyên nhân chính (Các nhóm trình

bày trước lớp, bổ sung cho nhau ).
- Thảo luận phân tích cácgiải pháp tương ứng với mỗi nguyên nhân (phù hợp tình
hình của từng đơn vị).
- Đối chiếu với những phần trong tài liệu, nên điều chỉnh, bổ sung gì, thảo luận
thống nhất.
14


Trong công tác giảng dạy, để giảm thiểu học sinh yếu, học sinh bị hỏng kiến
thức ở môn học hoá học THCS, cần chú ý phân tích nắm được nguyên nhân dẫn
đến học sinh bị hỏng kiến thức mới có thể sử dụng các giải pháp phù hợp với từng
đối tượng, lúc đó các giải pháp mới mong được thực hiện thành công. Từ những
nguyên nhân nêu ở trên, các giải pháp thực hiện được đề xuất như sau:
1. Giải pháp về nhóm nguyên nhân về nội dung, kiến thức trong chương
trình;
- Chương trình với những kiến thức, kỷ năng trong 01 tiết là nhiều, dẫn đến
thực hiện không được đầy đủ, không sâu. Vì vậy giáo viên cần phân biệt được kiến
thức trọng tâm, kiến thức hỗ trợ, khi dạy chú trọng nhiều đến các kiến thức trọng
tâm để khắc sâu cho học sinh, nhất là chú trọng các đối tượng học sinh thiếu tập
trung trong giờ học.
- Với các thí nghiệm biểu diễn, cần chú trọng đến vị trí đặt thí nghiệm phải
đủ gần và an toàn cho học sinh; trước khi làm thí nghiệm nên hướng dẫn trước học
sinh nên quan sát cái gì? Quan sát như thế nào? Cách ghi chép nhanh các hiện
tượng xảy ra và cần rút ra được kết luận gì sau khi quan sát. Khi cho học sinh trả
lời, với những thao tác, hiện tượng dễ nên cho các em học non hơn, những em ngồi
xa hơn nêu để tập trung chú ý lần sau, những kết luận được rút ra có tính khẳng
định nên giao cho những đối tượng giỏi hơn để không mất thời gian.
- Các thí nghiệm thực hành trong tiết thực hành hoặc thí nghiệm thực hành
của học sinh để phát hiện kiến thức mới cần: chuẩn bị tổ, đầy đủ các dụng cụ, hoá
chất được bố trí cho từng thí nghiệm; chuẩn bị tốt yêu cầu trong quá trình thao tác

thí nghiệm; chú ý biện pháp an toàn cho học sinh bằng cách nêu những sai sót có
thể xảy ra, cách thao tác để đảm bảo an toàn và có thể làm mẫu để học sinh có đủ
độ tự tin khi thao tác; chú ý hướng dẫn quan sát, ghi chép hiện tượng, các phương
trình phản ứng để không làm mất thời gian giờ học; khi các nhóm thảo luận, với
những thí nghiệm đơn giản hơn nên cử em có năng lực thấp hơn thảo luận để gieo
tự tin cho các em.

15


- Phần câu hỏi và bài tập sau mỗi bài giáo viên nên dành thời gian hướng
dẫn tại lớp để khi làm ở nhà học sinh dễ thực hiện hơn, cần chú ý hướng dẫn chuẩn
bị kỷ bài học sau.
2. Giải pháp về nhóm nguyên nhân từ cơ sở vật chất dạy học
a. Phòng học:
Với những lớp học có đông học sinh nên bố trí thay đổi chổ ngồi hàng
tháng, cách bố trí chổ ngồi những em cao, lớn ngồi phía trong, em nhỏ hơn ngồi
phía ngoài, em học yếu hơn nên ngồi phỉa trên để giáo viên quan tâm được nhiều
hơn.
- Sử dụng phòng thực hành hoá học thường xuyên, chỉ đạo giáo viên lên kế
hoạch sử dụng phòng thực hành, kế hoạch mượn đồ dùng để có cơ sở trong quản
lý, chỉ đạo kiểm tra thực hiện của giáo viên.
b. Thiết bị phục vụ dạy học:
- Giao tổ chuyên môn đầu năm kiểm tra, thống kê lại dụng cụ thí nghiệm,
các hoá chất phục vụ thực hành; lập kế hoạch mua sắm và kế hoạch làm đồ dùng
dạy học để bổ sung cho các bài dạy; những đồ dùng tự làm phục vụ cho nhiều bài,
cần mua nguyên liệu cần lêm mẫu thiết kế, dự toán kinh phí để Lãnh đạo duyệt
mới tiến hành làm, chưa làm khi chưa có bản thiết kế và dự trù được duyệt.
3. Giải pháp về nhóm nguyên nhân từ việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện
các phương pháp dạy học

- Tổ chức quản lý về chuyên môn đối với nhân viên trong biên chế, bố trí
giáo viên có năng lực để làm công tác kiêm nhiệm khi chưa có biên chế; nhân viên
thiết bị phải lập được kế hoạch thiết bị hàng năm, biết báo cáo đánh giá thực chất
việc thực hiện của các giáo viên trong nhà trường về sử dụng các thiết bị cho lãnh
đạo trường theo định kỳ quy định.
- Lãnh đạo trường cần coi trọng công tác kiểm tra việc tiến hành các giờ học
thực hành trong các giờ lên lớp hoặc các giờ dạy thực hành đột xuất hoặc định kỳ
để nắm chắc tình hình và có ý nhắc nhở giáo viên trong quá trình thực hiện của
giáo viên.
16


- Có kế hoạch chỉ đạo các tổ chuyên môn thực hiện mạnh dạn đổi mới
PPDH; chú trọng việc tổ chức việc thảo luận, phân nhóm, cách nêu vấn đề cần thảo
luận, cách tổ chức thảo luận và chú ý đến đối tượng tham gia trong quá trình thảo
luận. Đối với học sinh hỏng kiến thức hoặc học yếu hơn nên cho các em được
mạnh dạn nêu bằng hình thức khuyến khích để lôi kéo được học sinh vào trong giờ
học để phát hiện, tìm ra kiến thức bài học …
4. Giải pháp về nhóm nguyên nhân từ giáo viên
- Trong quá trình dạy học, để làm cho học sinh tránh nhàm chán, mất ứng
thú; mất tập trung giáo viên cần:
+ Đầu tư nhiều hơn vào tìm tòi phương pháp, cách dạy phù hợp với đối
tượng mình đang phục vụ, nhất là những đối tượng học sinh đang còn yếu, bị hổng
kiến thức, chú ý liên hệ với thực tế đời sống, lao động sản xuất giúp học sinh gần
gũi hơn với bộ môn.
+ Dạy học nắm kiến thức, kỷ năng chuẩn, xác định nội dung cần dạy trong
một tiết học, tìm tòi áp dụng các phương pháp dạy học tích cực để phát huy, huy
động hết các năng lực vốn có, tiềm ẩn trong học sinh; sử dụng các biện pháp
khuyến khích, động viên các em còn yếu để các em mạnh dạn nêu ý kiến của mình.
Không dạy học bằng cách đọ cho học sinh chép mà phải tiến hành hướng dẫn cho

học sinh cách ghi chép những điều trong kiến thức tìm dược. Cần cho các em tiếp
cận dần kiến thức từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
+ Trong Kế hoạch soạn bài của giáo viên cần chú trọng nhiều đền các hình
thức tổ chức, các phương pháp, hệ thống vấn đề đưa ra cần giải quyết phải chú ý
đến từng đối tượng nào thì nên gọi học sinh nào để giải quyết vấn đề; tránh một
vấn đề khó mà giao cho học sinh yếu thảo luận và ngược lại, có như vậy mới huy
động được toàn lớp tham gia và thảo luận. Luôn chú trọng về kiến thức, phương
pháp sử dụng, rèn kỷ năng riêng biệt dành cho đối tượng học sinh yếu.
+ Việc sử dụng các phương tiện dạy học như: thí nghiệm, tranh, máy chiếu
hỗ trợ thường đưa lại hiệu quả tập trung được sự chú ý của toàn lớp, để các em
phát hiện được kiến thức cần nắm trong bài, trong quá trình sử dụng cần lưu ý:
Các vần đề đưa ra cần khuyến khích học sinh phát hiện, không đưa kênh chữ gợi ý
17


khi học sinh chưa hoặc đang thảo luận, tìm tòi; giáo viên nên tạo điều kiện để học
sinh được nói, được cho ý kiến, muốn vậy giáo viên phải biết suy nghĩ cách tổ
chức thảo luận để không làm mất thời gian học, huy động tất cả các đối tượng
được tham gia tích cực …..
+ Tổ chức đánh giá học sinh phải kịp thời, thường xuyên, trong đánh giá
không đặt yêu cầu quá với kiến thức chuẩn; trong đánh giá nhận xét với những học
sinh yếu cần biết cách khai thác những điểm học sinh đã làm được để động viên
các em, để thể hiện sự quan tâm đối tượng học sinh bị hỏng kiến thức trong quá
trình học tập làm cho các em mất dần cảm giác ngập và “sợ học môn hoá học”.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp cần tổ chức các em thành từng nhóm để giúp đỡ
nhau trong học tập; nhóm phải có đủ các thành phần đối tượng học sinh để các em
kèm cặp giúp đỡ nhau mới đưa lại hiệu quả thiết thực. Luôn nắm bắt tình hình học
tập của học sinh hàng tuần thông qua các giáo viên bộ môn, sự phối hợp, trao đổi
thông tin cho nhau sẽ giúp đỡ nhau trong quá trình tổ chức hoạt động của lớp và
giúp giáo viên giảng dạy tại lớp.

Cần cá thể hóa, lựa chọn những câu hỏi, bài tập phù hợp với từng em, tập
trung chú ý nâng dần kiến thức cho các em nhưng phải tế nhị, tránh đụng
chạm vào lòng tự ái của HS
5. Giải pháp về nhóm nguyên nhân từ học sinh
- Để nuôi dưỡng được hứng thú học tập của mình qua thời gian học bộ môn,
học sinh cần tìm được, hiểu được, nắm thêm được điểm mới trong kiến thức bộ
môn vừa được tiếp xúc. Điều này phụ thuộc nhiều vào sự cố gắng của các em dưới
sự động viên của gia đình, thầy cô và bạn bè trong lớp.
- Để học sinh quen với loại kiến thức có tình trừu tượng như khái niệm về
nguyên tử, nguyên tố, mô tả chất, sự biến đổi về tính chất …. giáo viên dạy cần
nhìn nhận vấn đề kiến thức dưới góc độ học sinh để giúp học sinh nắm, hiểu và
vận dụng kiến thức. Cần phải nắm thật chắc các phương pháp, kĩ năng sử dụng
phương tiện dạy học, biết liên hệ với các kiến thức thực tế, kiến thức liên quan
giữa các môn, biết tích hợp các nội dung có liên quan của các môn học khác với
môn hoá học để giúp học sinh hiểu được vấn đề được cụ thể hơn .
18


- Giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn cần có sự quan tâm đến tình bạn,
tình yêu tuổi học trò, hướng cho các em luôn có tình bạn trong sáng, cho các em
hiểu tình yêu tuổi học trò phải đưa lại mục đích nào cho quá trình học tập; phải làm
cho học sinh xem thầy cô như là người mẹ, người chị, người anh trong gia đình.
Đặt lòng tin vào thầy cô học sinh mới mạnh dạn thổ lộ tâm tư tình cảm của mình.
Thầy cô phải chia sẻ, động viên, thông cảm, tránh làm cho học sinh bị tổn thương,
hướng các em đi theo đúng đường nên đi, làm cho học sinh tin tưởng tương lai mới
tạo được động lực thúc đẩy trong quá trình học tập.
6. Giải pháp về nhóm nguyên nhân từ sự phối hợp giữa gia đinh-nhà
trường-xã hội
Thực tế giữa gia đình-nhà trường-xã hội đã có sự phối hợp trên nguyên tắc
thông nhất cũng như về thực tế. Trong quá trình phối hợp cần thống nhất được nhà

trường, giáo viên giúp đỡ được những vấn đề gì cho gia đình, xã hội, gia đình – xã
hội nhận được từ nhà trường cái gì và phối hợp với nhà trường những vấn đề gì?
Xác định rõ trách nhiệm trong phối hợp là nêu rõ mục tiêu phối hợp, tiến trình phối
hợp, người tổ chức và người thực hiện phối hợp, trao đổi thông tin trong phối hợp
… hiệu quả phối hợp sẽ tạo ảnh hưởng lớn để kích thích quá trình, ý thức học tập
của học sinh.
7. Giải pháp về nhóm nguyên nhân khác (nếu có)

19


CHUYÊN ĐỀ 2
DẠY HỌC TIẾT LUYỆN TẬP MÔN HÓA HỌC THCS
PHẦN I: MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Câu hỏi gợi ý thảo luận:
- Đồng chí nêu thực trạng dạy học tiết luyện tập ở trường mình dạy, những hạn
chế và những giải pháp khắc phục (Các nhóm trình bày trước lớp, bổ sung cho
nhau ).
- Đối chiếu với những phần trong tài liệu, nên điều chỉnh, bổ sung gì, thảo luận
thống nhất.
1.Ý nghĩa của của một tiết luyện tập:
- Là hình thức tốt nhất để củng cố, đào sâu, hệ thống hóa lại những kiến thức
và rèn luyện kỹ năng đã học trong từng chương;
- Là hình thức tốt nhất để HS vận dụng kiến thức (vì khi đó tư duy của HS
phát triển cao độ, buộc HS phải tìm tòi, phân tích, tổng hợp, so sánh) đã học vào
những bài tập cụ thể;
- Là hình thức tốt nhất rèn luyện được nhiều kỹ năng bộ môn như giải thích,
vận dụng kiến thức, tính toán, viết PTPƯ, đọc tên…;
- Là cách tốt nhất để GV kiểm tra được sự tiếp thu kiến thức của HS, kiểm
tra được sự hiểu chính xác, sâu sắc, đầy đủ khả năng vận dụng kiến thức của HS

vào làm bài tập, giải thích và vận dụng vào thực tế đời sống. Đồng thời cũng kiểm
tra được mình qua quá trình giảng dạycó những kiến thức nào sai sót để có kế
hoạch củng cố, đính chính cho kịp thời.
2. Tình hình thực tế
a.Về phía giáo viên:
- Dạy một tiết luyện tập là việc làm thường xuyên của GV nói chung và đối
với GV dạy môn hóa học nói riêng. Tiết luyện tập được bố trí sau mỗi phần lí
thuyết, GV chúng ta ai cũng có ít nhiều kinh nghiệm trong việc dùng bài tập hoá
học để củng cố kiến thức, rèn luyện kĩ năng cho HS. GV có thể dùng bài tập để tổ
chức, điều khiển quá trình nhận thức của HS và có phương pháp thích hợp để dạy
một tiết học loại này.
- Việc lựa chọn nội dung, phương pháp dạy học phải phù hợp với năng lực,
hứng thú và nhu cầu nhận thức của học sinh. Nội dung học tập quá dễ hoặc quá
khó đều không gây được hứng thú cho học sinh. Giáo viên cần tổ chức, thiết kế
chọn các dạng bài tập, các phương pháp có sự hướng dẫn học sinh tìm thấy cái
mới về kiến thức, về phương pháp nghiên cứu thì HS sẽ thấy hào hứng, tự tin tham
gia vào quá trình tìm tòi, tự lực giành lấy kiến thức.
- Với nội dung chương trình có nhiều kiến thức trọng tâm, nhiều dạng câu
hỏi, nhiều dạng bài tập vận dụng, làm thế nào để hệ thống lại, rèn kĩ năng cần thiết
cho học sinh là một vấn đề theo chúng tôi một giáo viên đứng lớp cần phải quan
tâm.
20


- Tuy nhiên, lựa chọn các bài tập và yêu cầu học sinh làm những bài tập của
kiến thức đã học và tái hiện các kiến thức đã biết liên quan đến bài học mới, tìm
mối quan hệ giữa chúng. Một số GV thường chưa chú ý đến vấn đề này, mà chỉ
chú trọng cho HS làm nhiều bài tập, có khi biến việc làm đó thành một gánh nặng,
nhàm chán và buồn tẻ đối với HS.
- Xuất phát từ đặc điểm tâm lý của HS, với yêu cầu đổi mới PPDH theo

hướng tích cực hoá hoạt động học tập của HS thì hoạt động của GV hoá học cũng
cần có sự đổi mới, nên phải chú ý nhiều hơn tới việc chọn các dạng bài tập, các
phương pháp phù hợp để hướng dẫn HS các kĩ năng vận dụng kiến thức, kĩ năng
tiến hành nghiên cứu khoa học hoá học như: quan sát, phân loại, thu thập thông tin,
dự đoán khoa học, đề ra giả thuyết, giải quyết vấn đề, tiến hành thí nghiệm từ đơn
giản đến phức tạp…
- Để dạy một tiết luyện tập đạt hiệu quả cao, còn phụ thuộc rất nhiều vào
việc chuẩn bị bài của học sinh.


b.Về phía học sinh:

Hóa học được xem là một trong những môn khoa học cơ bản quan trọng, do
đó nhiều HS có ý thức và chủ động học tập rất tốt; coi trọng và có sự tự giác chuẩn
bị cho tiết luyện tập như: ôn tập lý thuyết, làm đủ các bài tập do GV chỉ định, một
số HS khá giỏi (yêu thích bộ môn) thường có ý thức khai thác thêm các dạng bài
tập và cách giải mới.
Tuy nhiên, cũng còn một phần không nhỏ các em chưa có ý thức chuẩn
bị tốt cho tiết luyện tập, biểu hiện cụ thể như sau:
- Học bài qua loa, dẫn đến chưa nắm vững lý thuyết trước khi bước vào tiết
luyện tập;
- Nhiều em chuẩn bị đầy đủ các bài tập do GV chỉ định, các em lại có thói
quen là khi làm hết các bài tập thì đã thỏa mãn, nên ít kiểm tra lại lời giải xem có
sự sai sót gì không; ít đi sâu nghiên cứu cải tiến lời giải, trình bày lời giải và tìm
thêm cách giải thích mới các hiện tượng hóa học, cách viết PTHH hay cách giải
khác của bài toán;
- Ngay trong tiết luyện tập tại lớp, đối với các em đã làm đầy đủ bài tập thì ít
quan tâm đến lời giải của bạn và hướng dẫn của GV, chủ quan cho rằng mình đã
hiểu và đã làm bài tập rồi;
- Nhiều HS chỉ chăm chú ghi chép bài giải của bạn hoặc phần trình bày của

GV mà không hề chú ý đến phương pháp giải các dạng toán, cách chọn chất, cách
viết PTHH, cách giải thích,…do đó, có trình trạng vở của các em ghi rất đầy đủ
nhưng thực tế các em không hiểu bài.

21


PHẦN II: NHỮNG KINH NGHIỆM DẠY TIẾT LUYỆN TẬP MÔN
HÓA HỌC THCS
Câu hỏi gợi ý thảo luận:
- Mỗi nhóm soạn kế hoạch dạy 1 tiết luyện tập, trình bày trước lớp, thảo luận.
Xuất phát từ cơ sở lý luận cũng như thực trạng về việc dạy và học tiết luyện
tập hóa học hiện nay, chúng tôi đề xuất một số ý kiến:
Nội dung tiết luyên tập: Theo yêu cầu Mục tiêu bài dạy, thường có 2 phần là
kiến thức lí thuyết cần nhớ và phần bài tập áp dụng. Hai phần này bổ sung tương
tác lẫn nhau. Nắm lí thuyết để vận dụng vào bài tập; làm bài tập để cũng cố, khắc
sâu lí thuyết. Khác với tiết ôn tập, tiết luyện tập nặng về rèn luyện kỹ năng vận
dụng kiến thức, tiết ôn tập nặng về hệ thống hóa kiến thức.
Phương pháp dạy
+ Phương pháp 1: Ôn tập kiến thức cần nhớ, sau đó giải bài tập minh họa.
+ Phương pháp 2: Từ các bài tập minh họa hệ thống hóa và dẫn đến kiến thức
đã học.
Phương pháp 2 tiết kiệm được thời gian phần ôn tập lý thuyết để có nhiều thời
gian dành cho phần luyện tập. Tuy nhiên, quý thầy cô có thể tự chọn cho mình một
phương pháp thích hợp, sao cho sau khi kết thúc mỗi tiết dạy, học sinh nắm vững
được kiến thức cần cũng cố, những kĩ năng cần đạt và vận dụng kiến thức đó trong
thực tiễn đời sống hàng ngày.
Ngoài ra, để dạy tốt một tiết luyện tập hóa học cần có những yêu cầu sau đây:
1. Phân bổ thời gian hợp lý: Cho 2 phần tạo nên cấu trúc của 1 tiết luyện
tập:

- Kiến thức cần nhớ: Thời gian khoảng 10-15/45 phút.
- Bài tập: Chủ yếu tiết dạy dùng để luyện tập, rèn luyện kỹ năng tính toán, kĩ
năng hệ thống hóa kiến thức (sửa bài tập về nhà và bài tập mới tại lớp, đồng thời
lựa chọn hệ thống bài tập hợp lý) thời gian khoảng 25-30/45 phút.
Trên thực tế, nếu giáo viên biên tập được hệ thống bài tập thích hợp thì phần
kiến thức cần nhớ và phần luyện bài tập có thể hòa quyện vào nhau không tách rời,
miễn là mục tiêu đạt được như kế hoach bài dạy đã chuẩn bị.
- Hoạt động cũng cố, hướng dẫn về nhà: 5 phút.
2. Kĩ năng học sinh cần đạt được:
- Học sinh nắm vững lý thuyết vì lý thuyết là phần rất quan trọng gồm có: lý
thuyết cơ bản, viết PTHH, tính chất hóa học, các chất điều chế, tách chất, nhận biết
các chất,... đó là những cơ sở mà HS phải nắm vững mới làm được bài tập;
- Giúp HS biết cách giải một bài hóa học đơn giản để có thể đi từ dễ đến
khó, biết xác định dạng bài tập, từ đó tìm ra định hướng và tìm ra cách giải;

22


- Giúp HS có khả năng suy luận chính xác về nội dung đã tiếp thu và trình
bày bài làm với lời giải chuẩn mực, phải nắm được các bước giải và thiết kế được
quy trình từng bước giải;
- Giúp HS có khả năng xử lý kiến thức, tìm tòi nhiều lời giải, biết huy động
và vận dụng vốn kiến thức đã học cùng một lúc vào việc giải quyết các bài tập
trong tiết học (bài tập có nhiều cách giải, HS giải theo cách ngắn gọn, dễ
hiểu, khoa học), từ đó lựa chọn câu trả lời tối ưu nhất;
- Giúp HS xác định được dạng bài tập hóa học: Ngoài việc xác định đúng
giả thiết, dữ kiện của bài tập HS còn phải phân tích và phân loại được các dạng bài
tập, từ đó đưa bài tập cần giải về gần với dạng các bài tập đã biết, đã giải, luôn tìm
ra cái đã biết và cố gắng tìm ra “ cái cốt lõi” của bài tập là “cần tìm cái gì?”,...
3. Tích cực sử dụng các phương tiện và ĐDDH một cách phù hợp:

Để tiết luyện tập đạt hiệu quả cao nhất (trong điều kiện cho phép: bảng
nhóm, máy chiếu, phiếu học tập, sử dụng các phần mềm hỗ trợ dạy học như:
Microsoft Powint, phần mềm Volet …).
4. Tổ chức tốt các hoạt động học tập của HS:
Nhằm huy động được nhiều đối tượng HS tham gia trong tiết học (hướng
dẫn HS biết làm việc tập thể và biết hợp tác với nhau, tuy nhiên cần tránh hoạt
động nhóm một cách hình thức, kém hiệu quả).
* LƯU Ý:
- Đối với tiết luyện tập, để đạt hiệu quả cao là rất khó và phụ thuộc nhiều
vào việc chuẩn bị bài chu đáo của học sinh.
- Cần lặp lại cùng một nội dung kiến thức ở các thời điểm khác nhau với các
mục đích khác nhau, từ các quan điểm lí thuyết khác nhau nhằm rèn luyện tính linh
hoạt trong nhận thức để HS thu được những kiến thức đã học, những hiểu biết mới.
- Sử dụng SGK - căn cứ chuẩn kiến thức kĩ năng của chương trình và thực tế
học tập của HS để xây dựng tiết luyện tập.
- Khi đặt câu hỏi cần đảm bảo các yêu cầu sau: Câu hỏi phải liên quan đến
việc thực hiện mục tiêu của tiết học, ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, đúng lúc, phù hợp
với trình độ HS, kích thích suy nghĩ của HS và phù hợp với thời gian thực tế;
- Chọn hệ thống bài tập thích hợp để thỏa mãn yêu cầu: Củng cố, hoàn thiện,
đào sâu - mở rộng kiến thức (Thông qua tiết luyện tập có dịp mở rộng thêm một
cách thích hợp những kiến thức cần thiết ở mức độ cho phép của chương trình).
Nên biên tập bài tập (không nên lệ thuộc quá nhiều vào SGK) để tổ hợp
được các yêu cầu nâng cao, vận dụng, cũng cố lí thuyết theo cấp độ từ thấp đến
cao, phát huy được trí lực của mọi đối tượng HS. Biên tập, lựa chọn bài tập để
luyện tập có quyết định lớn đến sự thành công của tiết dạy luyện tập.
Tiết luyện tập đạt hiệu quả có tác dụng lớn gây hứng thú học tập cho HS, giúp
HS dễ học, dễ nhớ và nhớ lâu, hiểu sâu, hiểu toàn diện và vận dụng tốt các kiến
thức đã học.
23



CHUYÊN ĐỀ 3
DẠY HỌC GIỜ ÔN TẬP MÔN HOÁ HỌC THCS
Câu hỏi gợi ý thảo luận:
- Đồng chí nêu thực trạng dạy học tiết ôn tập ở trường mình dạy, những hạn chế
và những giải pháp khắc phục (Các nhóm trình bày trước lớp, bổ sung cho nhau ).
- Đối chiếu với những phần trong tài liệu, nên điều chỉnh, bổ sung gì, thảo luận
thống nhất.
I. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT

- Thông qua chuyên đề học viên thống nhất chung được mô hình, phương
pháp để áp dụng vào dạy học các bài luyện tập chương trong chương trình hóa học
lớp 8, lớp 9 để đem lại hiệu quả cao nhất phù hợp với tình hình thực tế ở tại các địa
phương, các nhà trường.
- Trong quá trình tổ chức dạy học các tiết ôn tập chương cần đạt được các
yêu cầu như sau:
+ Giúp học sinh củng cố, hệ thống hóa lại kiến thức cơ bản, trọng tâm trong
chương.
+ Rèn luyện cho học sinh kĩ năng vận dụng kiến thức để giải quyết một số
bài tập, từ đó giúp học sinh khắc sâu được kiến thức.
+ Rèn cho học sinh kĩ năng tư duy lôgic, hoạt động độc lập hoặc hợp tác
theo nhóm.
+ Giáo viên kiểm tra được mức độ tiếp thu và vận dụng kiến thức của học
sinh, từ đó phân loại được đối tượng và có phương pháp dạy học phù hợp, sát đối
tượng.
II. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN DẠY MỘT TIẾT ÔN TẬP

1.Nội dung: Nội dung của tiết luyện tập chương được xây dựng gồm hai phần:
Kiến thức cần nhớ và Bài tập.
Về cấu trúc nội dung, tiết ôn tập khá giống với tiết luyện tập nhưng tiết luyện

tập nặng về rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức, tiết ôn tập nặng về hệ thống
hóa kiến thức do đó việc phân chia thời gian các Hoạt động 2 nội dung này của
tiết luyện tập và tiết ôn tập sẽ khác nhau.
*Kiến thức cần nhớ
- Phần kiến thức trong các tiết ôn tập là những kiến thức cơ bản, trọng tâm
của chương đã được học.
- Kiến thức, kỷ năng cần đạt được trong bài học là mức độ chuẩn kiến thức
của từng nội dung trong từng bài mang tính cốt lõi, cơ bản.
- Kiến thức kỷ năng mang tính tổng hợp, khái quát, nêu rõ hơn mối quan hệ
của các kiến thức giữa các bài đã học giúp học sinh củng cố lại, hệ thống lại và từ
đó biết cách vận dụng vào các nội dung bài tập ở phần bài tập.
24


*Bài tập
- Phần bài tập nhằm khắc sâu hơn cho học sinh các kiến thức đã học.
- Trong bài luyện tập, phần bài tập có thể chia 2 phần:
+ Phần 1: Các dạng câu hỏi để củng cố kiến thức về lý thuyết
+ Phần 2: Các dạng bài tập để học sinh vận dụng lý thuyết đã học để giải các
bài tập. Trong quá trình thực hiện nội dung bài tập phần 2 này, giáo viên cần chú
trọng đến những bài tập được quy định giảm tải trong phần dạy học. Những bài tập
giảm tải không phải là những bài tập không chính xác, không tường minh mà do
nhiều yếu tố như : do quy định chuẩn kiến thức; do việc áp dụng cần có khả năng
vận dụng nhiều kiến thức khác nhâu mới có thể giải quyết được; do học sinh khi
thực hiện tại lớp mất nhiều thời gian …. Nên trong quá trình dạy học giáo viên
không nên sử dụng câu nói: “Đây là bài giảm tải, các em không cần làm” hoặc
những câu nói có nội dung tương tự mà nên hướng dẫn như sau: “Với các bài tập
chưa có thời gian giải quyết tại lớp, khuyến khích các em cố gắng thực hiện ở nhà”
Trong quá trình tiến hành dạy tiết ôn tập, giáo viên thường phân chia thời
gian và thực hiện phân bố thời gian không hợp lý. Như trên đã hướng dẫn, thông

thường việc phân bố thời gian như sau:
+ Kiến thức cần nhớ, mối liên hệ qua lại giữa các phần nội dung kiến thức.
+ Các bài tập nhằm khắc sâu lý thuyết, minh họa kiến thức cần nhớ và sự
liên hệ giữa các phần nội dung kiến thức để luyện tập, rèn luyện kỹ năng tính toán,
kĩ năng hệ thống hóa kiến thức (sửa bài tập về nhà và bài tập mới tại lớp, đồng thời
lựa chọn hệ thống bài tập hợp lý) .
Tùy nội dung của tiết ôn tập mà phân phối thời gian hợp lý, khác với tiết
luyện tập (thời lượng giành cho phần Bài tập chiếm nhiều hơn).
+ Hoạt động cũng cố, hướng dẫn về nhà khoảng 5 phút.
2. Phương án thực hiện:
Thông thường giáo viên có hai phương án để dạy tiết luyện tập đó là:
Phương án 1: Giáo viên định hướng học sinh bằng các câu hỏi để tái hiện
các kiến thức đã học sau đó hệ thống hóa bằng biểu bảng hay sơ đồ, bản đồ tư duy.
Tiếp theo là làm các bài tập bổ trợ để cũng cố, khắc sâu kiến thức. Chú ý, khác với
tiết luyện tập ở chỗ khi luyện tập các bài tập chủ yếu để rèn luyện kỹ năng.
Phương án 2: Lập trước biểu bảng rồi yêu cầu học sinh tái hiện kiến thức để
hoàn chỉnh biểu bảng hoặc hướng dẫn học sinh xây dựng sơ đồ hệ thống hóa kiến
thức theo bản đồ tư duy.Tiếp theo là làm các bài tập bổ trợ để cũng cố, khắc sâu
kiến thức.
Chú ý, khác với tiết luyện tập ở chỗ khi luyện tập các bài tập chủ yếu rèn
luyện kỹ năng, có nhiều cấp độ nâng cao dần độ khó. Các bài tập dùng trong ôn
tập cần lưu ý đến thể loại liên quan đến hệ thống kiến thức, độ khó ở mức độ
trung bình.
25


×