Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

tieu luan khoa hoc cong nghe huy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.13 KB, 51 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

Phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN) là một xu thế tất yếu
của loài người, là khâu then chốt đẩy nhanh quá trình chuyển hệ thống kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia từ trạng thái, năng suất, chất lượng hiệu quả thấp sang trạng
thái năng suất cao, hiệu quả cao, chất lượng cao. KH&CN còn đóng vai trò lớn
trong việc góp phần tăng năng suất lao động của mỗi quốc gia, vì vậy khoa học và
công nghệ ngày càng trở thành một lực lượng sản xuất quan trọng hàng đầu của
nhân loại…Do đó, nhiều nước trên thế giới do có trình độ phát triển khoa học và
công nghệ cao, ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ vào cuộc
sống nên đã đạt được những thành quả rất quan trọng trọng việc khẳng định vị trí
của mình trên thế giới như là Mỹ, Nhật Bản, Đức, Hàn Quốc, Trung Quốc…
Đảng Cộng sản Việt Nam do nhiều lý do: như chiến tranh kéo dài, nền nông
nghiệp lạc hậu, trình độ dân trí thấp…nên việc bắt nhịp, hội nhập với thế giới về
khoa học và công nghệ còn chậm. Mặc dù còn nhiều khó khăn khách quan, song
dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã phát triển và ứng dụng các thành tựu của
KH&CN đáp ứng yêu cầu phục vụ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và phát triển
đất nước, do đó cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể như là cơ sở hạ tầng
thông tin khoa học và công nghệ đã có bước phát triển mới theo hướng hiện đại
hoá, hội nhập dần với khu vực; các chương trình phát triển mạng và nối mạng
trong các cơ quan Đảng và Nhà nước, hoà mạng quốc gia và Internet đã đưa việc
phổ cập tri thức KH&CN lên một trình độ mới… Song sự phát triển của KH&CN
nước ta vẫn còn nhiều hạn chế như tiềm lực KH&CN vẫn còn ở mức thấp , tỷ lệ
cán bộ làm KH&CN trên tổng số dân chưa cao so với các nước trên thế giới và
trong khu vực…
Đặc biệt trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới (chúng ta đã là thành viên của
WTO); thời đại kinh tế tri thức, văn minh tin học đã đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân
tộc ta những thời cơ và thách thức lớn trong việc tiến hành công cuộc đổi mới đất
nước, hoàn thành mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Điều đó đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải tăng cường sự lãnh đạo của
mình đối với toàn xã hội, trong đó có KH&CN. Sự đúng đắn trong đường lối, chính


sách, chủ trương của Đảng đối với sự phát triển của KH&CN là rất quan trọng, là xu
thế tất yếu để đưa nước ta hoàn thành thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH),
tiến lên chủ nghĩa cộng sản
1


PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG1: KHÁI QUÁT SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm khoa học
Khoa học là một hệ thống tri thức của nhân loại về tự nhiên, xã hội và con
ngườ, tồn tại khách quan và được tích luỹ trong quá trình lịch sử.
Những hiểu biết ban đầu về thế giới khách quan của con người thương mới
chỉ là các kiến thức dưới dạng kinh nghiệm về từng mặt, từng thuộc tính riêng lẻ
của sự vật, từng hiện tượng. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, do nhu cầu của hoạt
động thực tiễn sản xuất và sự phân công lao động xã hội, những kiến thức đó ngày
càng được tích luỹ, bổ sung, được nâng lên và được tập hợp thành các tri thức.
Cùng với sự phát triển của lịch sử, tập hợp đó cũng không ngừng được bổ sung,
hoàn chỉnh dần dần trở thành một hệ thống các tri thức ngày càng chân thực về thế
giới khách quan dưới dạng trừu tượng- lôgic. Tập hợp tri thức đó dần dần có quan
hệ mật thiết với nhau và khoa học với tư cách là một hệ thống chỉnh thể các tri
thức của nhân loại đã ra đời. Với ý nghĩa đó, Khoa học trở thành sản phẩm của
nhân loại mà mục đích, phương hướng phát triển của nó là do đời sống xã hội quy
định.
Luật Khoa học và công nghệ của nước ta cũng nêu rõ: “Khoa học là một hệ
thống các tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư
duy”.
1.1.2. Công nghệ

“Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết công
cụ, phương tiện dùng để làm biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm”.
Ban đầu người ta gọi công nghệ là kỹ thuật và khi đó kỹ thuật được hiểu là
một tập hợp các máy móc, thiết bị, phương tiện và công cụ… được con người tạo ra
và sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, tạo ra sản phẩm phục vụ con người.
Tuy nhiên, sau này từ những năm 60 trở lại đây người ta dùng khái niệm công nghệ
thay cho từ kỹ thuật với nghĩa là một tập hợp tri thức (tương ứng, phù hợp với một
tập hợp kỹ thuật nào đó) về phương pháp, kỹ năng, kinh nghiệm, bí quyết…được sử
2


dụng theo một quy trình hợp lý tác động vào đối tượng lao động, tạo ra sản phẩm để
phục vụ con người. Từ đây ta thấy công nghệ và kỹ thuật có quan hệ mật thiết với
nhau, trong nhiều trường hợp, về phương diện thuật ngữ chúng có thể coi là thống
nhất. Tuy nhiên, khái niệm công nghệ rộng hơn, hàm chứa trong nó những nội hàm
nói về kỹ thuật (phần cứng) và tập hợp những tri thức (phần mềm).
Ngoài ra cũng có thể tiếp cận khái niệm công nghệ dựa theo sự phân biệt các
yếu tố vật chất, khả năng sáng tạo, chứa đựng và sử dụng tập hợp các tri thức như là
những nguồn lực to lớn cần khai thác. Theo đó công nghệ bao hàm nguồn lực kỹ
thuật, nguồn lực con người, nguồn lực thông tin và nguồn lực tổ chức.
1.1.3. Những khái niệm liên quan
1.1.3.1. Nghiên cứu cơ bản
“Nghiên cứu cơ bản (fundemental research hoặc basic research) là những
nghiên cứu nhằm phát hiện thuộc tính, cấu trúc, động thái của các sự vật, tương tác
trong nội bộ sự vật và mối liên hệ giữa các sự vật với các sự vật khác sản phẩm
nghiên cứu cơ bản có thể là các khám phá, phát hiện, phát minh, dẫn đến việc hình
thành một hệ thống lý thuyết có giá trị tổng quát”, ảnh hưởng đến một hoặc nhiều
lĩnh vực khoa học. Chẳng hạn, Newton phát minh ra định luật hấp dẫn vũ trụ;
Marx phát minh ra quy luật giá trị thặng dư. Nghiên cứu cơ bản được phân làm hai
loại: nghiên cứu cơ bản thuần tuý và nghiên cứu cơ bản định hướng.

1.1.3.2. Nghiên cứu ứng dụng
Nghiên cứu ứng dụng (applied research) là sự vận dụng quy luật được phát
hiện từ nghiên cứu cơ bản để giải thích một sự vật; tạo ra những nguyên lý mới về
các giải pháp và ứng dụng chúng vào sản xuất đời sống. Giải pháp được hiểu theo
một nghĩa rộng nhất của thuật ngữ này: có thể là một giảii pháp về công nghệ, về
vật liệu, về tổ chức và quản lý. Một số giải pháp công nghệ có thể trở thành sáng
chế. Cần lưu ý rằng, kết quả của Nghiên cứu ứng dụng thì chưa ứng dụng được. Để
có kết quả nghiên cứu ứng dụng vào sử dụng thì cần phải tiến hành một loại hình
nghiên cứu khác, có tên gọi là triển khai.
1.1.3.3. Triển khai
Triển khai (technological experimental development, gọi tắt là
development), là sự vận dụng các quy luật (thu được từ Nghiên cứu ứng dụng) để
đưa ra các hình mẫu và quy trình sản xuất với những tham số khả thi về kỹ thuật.
Điều cần lưu ý là, kết quả triển khai thì chưa triển khai được. Sản phẩm của triển
3


khai mới chỉ là những hình mẫu khả thi kỹ thuật, nghĩa là không còn rủi ro về mặt
kỹ thuật. Để áp dụng được, còn phải tiến hành nghiên cứu những tính khả thi khác,
như khả thi tài chính, khả thi kinh tế, khả thi môi trường, khả thi xã hội. Hoạt động
triển khai gồm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Tạo vật mẫu (protolype), loại hình triển khi nhằm khẳng định
những kết quả sao cho ra được một sản phẩm mẫu, chưa quan tâm đến quy trình sản
xuất và quy mô áp dụng. Trong những nghiên cứu về công nghệ, loại hình này được
thực hiện trong các phòng thí nghiệm, các labô công nghệ.
Giai đoạn 2: Tạo quy trình sản xuất (pilot), là loại hình triển khai nhằm xây
dựng quy trình sản xuất sản phẩm mẫu, hoạt động này được tiến hành trong các
xưởng thực nghiệm (pilot workshop) thuộc viện, hoặc xí nghiệp sản xuất, nhà kính
( trong nghiên cứu nông nghiệp ).
Giai đoạn 3: Sản xuất thử (còn gọi là sản xuất Loạt). Đây là giai đoạn thử

nghiệm cuối cùng, nhằm khẳng định khả năng thực thi quy trình chế tạo và áp
dụng trong sản xuất.
Khái niệm triển khai được áp dụng trong cả nghiên cứu khoa học kỹ thuật và
xã hội: Trong các nghiên cứu về khoa học kỹ thuật, hoạt động triển khai được áp
dụng khi chế tạo một mẫu công nghệ mới hoặc sản phẩm mới: thử nghiệm một
phương pháp giảng dạy ở các lớp thí điểm, chỉ đạo thí điểm một mô hình quản lý
mới tại một cơ sở được lựa chọn.
Sự phân chia loại hình nghiên cứu như trên đây được áp dụng phổ biến trên thế
giới. Phân chia là để đễ nhận thức rõ bản chất của nghiên cứu khoa học, để có cơ sở
lập kế hoặch nghiên cứu, cụ thể hoá trong các hợp đồng nghiên cứu giữa các đối tác.
Tuy nhiên, trong thực tế, trong một đề tài có thể tồn tại ba loại hình nghiê cứu, hoặc
tồn tại hai trong ba loại hình nghiên cứu.
1.1.3.4. Công nghệ cao
Theo Dự thảo Luật Công nghệ cao ngày 28/3/2008 đã giải thích:
Công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ; tạo ra các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng và giá trị gia tăng cao, có
khả năng hình thành các ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành sản
xuất dịch vụ hiện có.
Một sản phẩm, dịch vụ mang tính công nghệ cao phải có các đặc trưng sau:
4


- Sản phẩm đó xuất phát trực tiếp hoặc là dẫn xuất từ những tri thức là thành
tựu của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại.
- Có tính năng hoàn toàn mới so với các sản phẩm, dịch vụ đã được sản xuất
theo kỹ thuật trước đó.
- Có mức độ phức tạp, chính xác và tinh xảo vượt trội hơn “vài cấp” so với các
sản phẩm cũ.
- Thời gian nghiên cứu và triển khai sản xuất các sản phẩm công nghệ cao luôn
được rút ngắn với tốc độ ngày càng nhanh.

II. Khái quát sự phát triển của Khoa học Công nghệ.
1. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra vào cuối thế kỷ XVII, đầu
thế kỷ XVIII đã thay thế hệ thống kỹ thuật cũ có tính truyền thống của thời đại
nông nghiệp kéo dài mười bảy thế kỷ, chủ yếu dựa vào gỗ, sức mạnh cơ bắp, súc
nước, sức gió, và sức kéo động vật bằng một hệ thống kỹ thuật mới với nguồn
động lực là máy hơi nước và nguồn nguyên liệu, nhiên liệu và năng lượng mới là
sắt và than đá, khiến lực lượng sản xuất được thúc đẩy, phảttiển mạnh mẽ, tạo nên
tình thế phát triển vượt bậc của nền công nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói
chung. Đây là giai đoạn quá độ từ nền sản xuất nông nghiệp sang nền sản xuất
công nghiệp dựa trên cơ sở khoa học. Tiền đề kinh tế chính của bước quá độ này là
sự chiến thắng của quan hệ sản xuất tư bản cỉu nghĩa, còn tiền đề khoa học là việc
tạo ra nền khoa học mới có tính thực nghiệm và ứng dụng cao.
2. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra vào cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX với hệ thống kỹ thuật mới dưạ trên nguồn động lực là động cơ đốt
trong, nguồn năng lượng là điện năng, dầu mỏ, khí đốt và nguồn nguyên vật liêu là
thép, các kim loại màu, các hoá phẩm tổng hợp… đã tạo nên những tiền đề mới và
cơ sở vũng chắc để phát triển nền công nghiệp ở mức cao hơn nữa. Cuộc cách
mạng này được chuẩn bị bằng quá trình phát triển 100 năm của chủ nghĩa tư bản
trên cơ sở của nền sản xuất đại cơ khí và bằng sự phát triển của khoa học trên cơ sở
kỹ thuật. Yếu tố quyết định của cuộc cách mạng này là chuyển sang sản xuất trên
cơ sở điện – cơ khí và sang giai đoạn tự động hoá cục bộ trong sản xuất, tạo ra các
nghành mới trên cở khoa học thuần tuý, biến khoa học thành một ngành lao động

5


đặc biệt. Về tư tưởng kinh tế - xã hội, cuộc cách mạng này tạo ra những tiền đề
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên quy mô toàn thế giới.

3. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba.
Những thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa học tự nhiên đã tạo ra những
tiền đề khởi phát căn bản cho cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba. Cuộc cách
mạng này bao gồm hai đoạn kế tiếp nhau:
3.1. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật.
Những phát minh khoa học vỹ đại nhất trong thế kỷ XX và sự phát triển
mạnh mẽ của một loạt nghành khoa học như: toán lý thuyết và ứng dụng; vật lý hạt
nhân; vật lý hạt; vật lý chất rắn; hoá học; sinh học; tin học; điện tử; vi điện tử… đã
đưa khoa học lên vị trí trọng yếu trong đời sống xã hội loài người. Trên thực tế,
việc nhận thức và vận dụng vào thực tiễn những tính chất mới được phát hiện đã
trở thành cơ sở, xuất phát điểm và tiên định trước những giới hạn biến đổi khả dĩ
về chất của các yếu tố vật chất và kỹ thuật của nền sản xuất xã hội.
Nếu như trong nhiều thế kỷ trước đây, khoa học chỉ phát triển một cách độc
lập, mãi cho tới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX mới có quan hệ mật thiết với kỹ
thuật và công nghệ, với tốc độ phát triển chậm hơn so với chúng, thì vào nửa sau
của thế kỷ XX, khoa học đã vượt lên và giữ vị trí chủ đạo trong dây truyền “khoa
học - kỹ thuật - sản xuất”. Kể từ đây đã diễn ra quá trình khoa học biến thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, không chỉ thể hiện ở vai trò của khoa học ngày càng tăng
mà còn là điều kiện cần thiết để đưa lực lượng sản xuất lên một bước phát triển
mới.
Nhờ có những tiền đề được tạo bởi các cuộc cách mạng mới trong khoa học
tự nhiên, vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, mà cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật đã bắt đầu và thực sự bùng nổ kể từ thập niên 40 tới giữa thập niên 70 của thế
kỷ XX. Đây cũng chính là giai đoạn đầu tiên (pha thứ nhất) của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ ba được đặc trưng bởi việc áp dụng nhanh chóng những thành
tựu khoa học kỹ thuật.
Từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX trở đi, với những đặc điểm và xu thế
phát triển mới, cuộc cách mạng này đã bắt đầu quá độ sang giai đoạn mới (Pha thứ
hai), đó là cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
Như vậy, trong ba thế kỷ qua, các dịch chuyển về chất và các thời điểm có

tính bước ngoặt trong lịch sử phát triển của khoa học công nghệ đã đưa nền văn
6


minh nhân loại quá độ sang giai đoạn phát triển mới về chất. Các dịch chuyển này
là kết quả của quá trình tích luỹ lâu dài các kiến thức khoa học, của việc tăng quy
mô sử dụng kỹ thuật mới và đổi mới công nghệ sản xuất, trong đó, sự phát triển có
tính tiến hoá và các dịch chuyển về chất có tính cách mạng đã cùng tạo điều kiện
cho nhau phát triển. Trong lĩnh vực cũng như trong các ngành khoa học đều có thể
quan sát thấy những sự luân phiên đặc sắc của các cuộc nhảy vọt và sự phát triển
tuần tự trong nhiều lĩnh vực như: Năng lượng; sản xuất; giao thông vạn tải; sản
xuất vật liệu; công nghệ sản xuất chế tạo…
Kết quả là chỉ trong vòng 300 năm ngắn ngủi, kể từ cuối thế kỷ XVII tới
cuối thế kỷ XX, sự phát triển như vũ bão của khoa học, kỹ thuật và công nghệ đã
đưa loài người từ thời đại nông nghiệp (khoảng 8000- 10000 năm trước công
nguyên) tiến qua thời đại công nghiệp một cách nhanh chóng và vững chắc.
3.2. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại.
ọi là nền kinh tế tri thức. Từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX trở đi, xét trên
phương diện triònh độ của lực lượng sản xuất, sự khởi đầu của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại, tiếp ngay theo cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã đưa nhân
loại tiến vào ngưỡng cửa của một thời đại mới- thời đại tri thức. Đây là bước quá độ
sang sự phát triển kỹ thuật và công nghệ hoàn toàn chỉ dựa trên cơ sở khoa học trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và các ngành sản xuất vật chất, biến bản thân khoa
học thành nền công nghiệp tri thức. Trong thời đại tri thức, tri thức con người đóng vai
troà quyết định của sự phát triển. Trong giai đoạn này, con người sử dụng tri thức của
mình để chế tạo ra các loại máy móc, thiết bị có thể thay thế một phần chức năng điều
khiển, tư duy của mình trong một số lĩnh vực với kết quả cao hơn nhiều so với bộ não
của con người. Đứng ở vị trí trung tâm, con người có trình độ độc lập về trí tuệ và tâm
lý cao hơn nhiều so với hai thời đại trước đó và hành động chủ yếu theo những yêu cầu
tự biểu hiện và sáng tạo chứ không phải theo những động cơ truyền thống. Trong thời

đại tri thức, nền kinh tế công nghiệp sẽ chuyển thành nền kinh tế thông tin hay còn g ọi
là kinh tế tri thức.
Với cốt lõi là cuộc cách mạng vi điện tử diễn ra từ đầu thập niên 60 và các
thành tựu khoa học kỹ thuật lớn nhất của thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại còn là bước quá độ dưới sự chỉ đạo và với vai trò dẫn đường
của khoa học sang quá trình tổ chức lại về căn bản công nghệ sản xuất, điều tiết
các quy trình công nghệ với quy mô ngày càng tăng, tổ chức lại tất cả các lĩnh vực
đời sống xã hội trên cơ sở những ngành công nghệ cao mà các cuộc cách mạng
7


trước đó chưa đủ điều kiện tạo ra một cách hoàn chỉnh như công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới, công nghệ
tự động hoá trên cơ sở kỹ thuật vi điện tử…với cuộc cách mạng khoa học công
nghệ hiện đại, khái niệm kỹ thuật đã được bao hàm trong khái niệm công nghệ. Kể
từ đây, cụm danh từ “khoa học công nghệ” đã thay thế dần cụm danh từ “khoa học
kỹ thuật”.
Kết quả là, kể từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX trở đi, một loại hình xã
hội mới dưới tên gọi xã hội thông tin đang từng bước hình thành trong lòng xã hội
công nghiệp với sự gia tăng ngày càng lớn của các ngành dịc vụ trong cơ cấu sản
xuất xã hội.
III. Vai trò của khoa học công nghệ đối với sự phát triển kinh tế.
1. Mở rộng khả năng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Mác đã dự đoán rằng: Đến giai đoạn công nghiệp, việc sản sinh ra sự giàu có
thật sự không phụ thuộc nhiều vào thời gian lao động, mà phần lớn phụ thuộc vào
tình trạng chung của khoa học và sự tiến bộ của kỹ thuật hay sự vận động khoa học
vào sản xuất. Như vậy, khoa học và công nghệ không chỉ tạo ra công cụ lao động
mới, mà cả phương pháp sản xuất mới, do đó mở ra khả năng mới về kết quả sản
xuất và tăng năng xuất lao động.
Dưới tác động của khoa học công nghệ, các nguồn lực sản xuất được mở

rộng: mở rộng khả năng phát hiện, khai thác và đưa vào sử dụng nguồn tài nguyên
thiên nhiên kể cả tài nguyên tái sinh và tài nguyên không tái sinh; làm biến đổi chất
lượng nguồn lao động. Cơ cấu lao động xã hội chuyển từ lao động giản đơn là chủ
yếu sang lao động bằng máy móc, có kỹ thuật, có trí tuệ, nhờ đó nâng cao năng
suất lao động; mở rộng khả năng huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn vốn đầu
tư một cách có hiệu quả. Khả năng đó được thể hiện thông qua quá trình hiện đại
hoá các tổ chức trung gian tài chính, các hệ thống thông tin liên lạc, giao thông vận
tải…
Khoa học và công nghệ tạo điều kiện chuyển từ phát triển kinh tế theo chiều
rộng sang phát triển kinh tế theo chiều sâu. Với vai trò này, khoa học công nghệ là
phương tiện để chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và
nền kinh tế tri thức, trong đó phát triển nhanh các ngành công nghệ cao, sử dụng
nhiều lao động trí tuệ.
Trước đây, trong suốt một thời gian dài, quan điểm tăng trưởng kinh tế phụ
thuộc nhiều vào các yếu tố tài nguyên, vốn sản xuất, lao động. Nhưng các cuộc
8


cách mạng khoa học kỹ thuật đã chứng minh, ngoài các yếu tố trên còn có các yếu
tố khác ngày càng giữ vị trí quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, đó là đổi mới
công nghệ, đổi mới tổ chức quản lý… Đặc biệt khi đứng trước những vấn đề về
môi trường, sự cạn kiệt nguồn tài nguyên thì yếu tố khoa học và công nghệ càng
trở nên quan trọng. Đặc điểm của yếu tố này là khó xác định được sự đóng góp
trực tiếp, nhưng nó được thể hiện qua việc sử dụng có hiệu quả các yếu tố khác
như tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao công suất sử
dụng máy móc, thiết bị. Không còn nghi ngờ gì khi xác định vai trò của công nghệ
là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất và thúc đẩy sự phát triển kinh tế theo
chiều sâu.
2. Thúc đẩy quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ không chỉ đẩy

nhanh tốc độ phát triển của các ngành, mà còn làm cho phân công lao động xã hội
ngày càng trở nên sâu sắc hơn và đưa đến phân chia các ngành thành nhiều phân
ngành nhỏ, xuất hiện nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế mới, từ đó làm thay đổi
cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Điều này được thể hiện ở chỗ: tỷ trọng GDP
của ngành công nghiệp và dịch vụ có xu hướng tăng dần, còn ngành nông nghiệp
thì giảm dần; cơ cấu kinh tế trong nội bộ mỗi ngành cũng biến đổi theo hướng
ngày càng mở rộng, quy mô sản xuất ở những ngành có hàm lượng kỹ thuật, công
nghệ cao. Lao động tri thức ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, mức độ đô thị hoá cũng
ngày càng tăng nhanh. Tất cả trở thành đặc trưng của sự phát triển khoa học công
nghệ.
3. Tăng sức cạnh tranh của hàng hoá, thúc đẩy phát triển kinh tế thị
trường.
Mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. Muốn vậy,
các doanh nghiệp phải sản xuất những mặt hàng có nhu cầu lớn, tối thiểu hoá chi
phí các yếu tố đầu vào, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, hìnhthức
hàng hoá đa dạng, phong phú…những yêu cầu đó chỉ đượcn thực hiện khi áp dụng
tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh.
Việc áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh không chỉ
tạo ra lợi thế kinh doanh mà còn tạo ra nhiều loại sản phẩm mới, tăeng cường quy
mô sản xuất, nâng can vị thế doanh nghiẹp trên thị trường. Vai trò của khoa học
công nghệ tác động sâu sắc và toàn diện đến sản xuất và kinh doanh thể hiện:
9


- Các yếu tố sản xuất như tư liệu sản xuất, lao động ngày càng hiện đại và
đồng bộ.
- Quy mô sản xuất mở rộng, thúc đẩy ra đời và phát triển các loại hình doanh
nghiệp mới.
- Tạo ra nhịp độ cao hơn trong moi hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Chiến lược kinh doanh từ chỗ huớng nội, thay thế hàng nhập khẩu chuyển

sang hướng ngoại, hướng vào xuất khẩu.

10


CHƯƠNG 2
NHỮNG THÀNH TỰU CỦA KHOA HỌC CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM –
CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ NHẰM
ĐẨY NHANH SỰ NGHIỆP CNH, HĐH ĐẤT NƯỚC
2.1. Những thành tựu của Việt Nam về sự phát triển và ứng dụng khoa
học - công nghệ
2.1.1. Những thành tựu
Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X của Đảng đánh giá về những tiến bộ của
khoa học - công nghệ trong những năm qua như sau: “ khoa học - công nghệ góp
phần tích cực vào việc hoạch định đường lối, chính sách, điều tra, nghiên cứu,
đánh giá tiềm năng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học, nghiên cứu
ứng dụng công nghệ mới phục vụ phát triển kinh tế xã hội và quốc phòng an ninh”
[11, 57-58]. Những tiến bộ này được thể hiện cụ thể ở những mặt sau đây.
Tiềm lực KH&CN đã được tăng cường và phát triển. Trong những năm qua,
nhờ có sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, chúng ta đã đào tạo được trên
1.8 triệu án bộ có trình độ đại học và cao đẳng trở lên với trên 30 nghìn người có
trình độ trên đại học (trên 14 nghìn tiến sỹ và 16 nghìn thạc sỹ) và khoảng hơn 2
triệu công nhân kỹ thuật, trong đó có khoảng 34 nghìn người đang làm việc trực
tiếp trong lĩnh vực KH&CN thuộc khu vực Nhà nước. Hàng năm có khoảng 500 600 người được cử đi đào tạo sau đại học ở nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước
và các nguồn học bổng khác do các chính phủ và tổ chức nước ngoài tài trợ. Riêng
đề án “đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách
Nhà nước” từ năm 2000 đến 2004 đã đào tạo được 2.119 người, trong đó có 886
tiến sỹ, 715 thạc sỹ, 263 thực tập sinh và 255 cử nhân. Đây là nguồn nhân lực quan
trọng cho hoạt động khoa học - công nghệ của đất nước. Thực tế cho thấy đội ngũ
này có khả năng tiếp thu tương đối nhanh và làm chủ được tri thức, công nghệ hiện

đại trong một số ngành, lĩnh vực. (Nguồn: văn phòng bộ khoa học - công nghệ).
Tính đến đầu năm 2005, trong cả nước có 1.220 tổ chức KH&CN, trong đó
có 539 tổ chức thuộc khu vực Nhà nước Trung ương, 145 Nhà nước địa phương,
484 tổ chức thuộc khu vực tập thể và 52 tổ chức tư nhân (nguồn: VP Bộ khoa học công nghệ). Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các trung tâm nghiên cứu, các phòng thí
nghiệm, các trung tâm thông tin khoa học - công nghệ, thư viện cũng được tăng
cường và nâng cấp.
11


Hệ thống tổ chức công tác khoa giáo từ Trung ương địa phương đã được kịp
thời tổng kết thực tiễn, phân tích, đánh giá thực trạng, tổ chức thực hiện các quan
điểm, phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội IX về phát triển
KH&CN, đồng thời đề xuất, tham mưu cho ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị,
Ban Bí thư các chủ trương, chính sách về phát triển khoa học - công nghệ như: Ban
chấp hành Trung ương khóa IX đã kiểm điểm việc thực hiện nghị quyết Trung ương
2 (khóa VIII) ban hành.
Kết luận hội nghị Trung ương 6 (khóa IX) về tiếp tục thực hiện nghị quyết
Trung ương 2 (khóa VIII) và phương hướng phát triển khoa học - công nghệ từ nay
đến năm 2010, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) ban hành chỉ thị số 50CT/TW về đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Hoạt động KH&CN đã được gắn kết chặt chẽ hơn với hoạt động kinh tế,
bước đầu lấy hiệu quả kinh tế làm mục tiêu và thước đo để đánh giá hoạt động đầu
tư cho khoa học - công nghệ. Đây là một trong những nét mới nổi bật trong việc
triển khai thực hiện kết luận của Đảng về KH&CN, tạo ra sự phối hợp giữa nhà
khoa học và nhà doanh nghiệp, giữa hoạt động khoa học - công nghệ và hoạt động
của doanh nghiệp để giải quyết những vấn đề bức xúc của bản thân doanh nghiệp
và nền kinh tế.
Công tác đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động KH&CN được triển khai
khẩn trương. Sự ra đời của thông tư 15/2003/TTLT-BKHCN-BNV đã giúp giải
quyết kịp thời những khúc mắc trong quản lý khoa học - công nghệ ở địa phương,

giúp các cơ sở KH&CN điều chỉnh phương án tổ chức của các đơn vị trực thuộc,
đồng thời nhanh chóng ổn định các hoạt động quản lý Nhà nước về KH&CN trên
địa bàn, chủ yếu là ở cấp tỉnh cho phù hợp với tình hình mới.
Nghị định quy định về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức
KH&CN công lập (Nghị định 115/2005/NĐ-CP) và đề án phát triển thị trường công
nghệ (Quyết định số 214/2005/QĐ-TTg) đang được triển khai thực hiện đã được các
nhà khoa học đánh giá cao. Đặc biệt việc thực hiện đề án trên sẽ góp phần tác động
mạnh mẽ tới bốn yếu tố cấu thành của thị trường công nghệ: thúc đẩy bên cung - khu
vực nghiên cứu và triển khai, khuyến khích bên cầu - khu vực sản xuất kinh doanh,
phát triển bên trung gian - môi giới, tư vấn, đánh giá công nghệ, và hoàn thiện môi
trường pháp lý…

12


Công tác xây dựng và phát triển tiềm lực KH&CN được tiến hành nghiêm
túc. Khu công nghệ cao Hòa Lạc đã chính thức tiếp nhận dự án đầu tư đầu tiên của
công ty Tei koku Tshu shin Kogyo để triển khai dự án xây dựng nhà máy sản xuất
thiết bị điện tử và robot công nghiệp, ký được biên bản ghi nhớ với công ty cổ
phần viễn thông Hà Nội về việc xây dựng tổ hợp công nghệ thông tin và truyền
thông và với công ty FPT về việc xây dựng công viên phần mềm FPT. Tại khu
công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm nghiên cứu triển khai vật liệu
nano hoạt động tốt trên cơ sở nguyên liệu trong nước, đã hoàn thành dự án vườn
ươm doanh nghiệp công nghệ cao, cấp giấy phép cho 6 dự án đầu tư nước ngoài, 3
dự án đầu tư trong nước với tổng kinh phí đầu tư là 41 triệu đôla và 105 tỷ đồng.
Khoa học - công nghệ đã tiếp cận và ứng dụng được nhiều thành tựu của thế
giới để tạo ra sản phẩm có giá trị phục vụ phát triển kinh tế, xã hội. Cụ thể như:
- Trong lĩnh vực nông nghiệp: Khoa học - công nghệ đã tập trung vào phục
vụ chuyển đổi cơ cấu, nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng nông sản, gia tăng
kim ngạch xuất khẩu. Nhiều giống cây mới có năng suất cao, chất lượng tốt, biện

pháp kỹ thuật tiên tiến…đã được áp dụng trong sản xuất như là: trong việc tạo ra
nhiều giống cây mới, mà tiêu biểu cho các giống lúa cho năng suất cao ở phía Bắc
là tổ hợp lúa lai mới HYT 83, HYT 100, TH3-3, ở đồng bằng Sông Cửu Long có
các giống OM 2717, OM 2718 cho năng suất, chất lượng cao, thích nghi với những
vùng đất có điều kiện canh tác ba vụ… Đặc biệt trong thời gian qua các nhà khoa
học thuộc trường đại học Nông nghiệp I Hà Nội đã đưa ra phương pháp sản xuất
rau an toàn bằng công nghệ cao không dùng đất gọi là “vườn treo”. Theo công
nghệ này, gieo hạt và trồng cây hoàn toàn không cần đất. Để cây phát triển, phân
bón (ở thể dung dịch do trường đại học Nông nghiệp I sản xuất) sử dụng trên 10
nguyên tố đa, vi lượng là những nguyên tố tối cần thiết, cùng với nguồn nước sạch
như nước giếng…đủ đảm bảo cho cây phát triển như trong điều kiện bình thường.
- Trong lĩnh vực thủy sản: Các nhà khoa học Việt Nam đã tổ chức nghiên
cứu thành công và tạo ra nhiều công nghệ sản xuất giống nhân tạo các đối tượng
nuôi xuất khẩu chủ lực như: tôm sú, cá tra, cá basa, cá rôphi và các đối tượng thủy
hải sản mới có giá trị kinh tế cao, hình thành các nghề nuôi hải sản xuất khẩu mới
cua biển, ốc hương, cá song, hào, bào ngư…Một số công nghệ sản xuất tạo giống
đã tiếp cận hoặc vượt trình độ quốc tế như công nghệ sản xuất giống cua biển, ốc
hương. Kết quả áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới cùng sự kiểm soát chặt chẽ
của các cơ quan quản lý, EU, Nhật…đã dỡ bỏ sự kiểm soát gắt gao thủy sản xuất
khẩu của Việt Nam. Hiện nay hàng thủy sản Việt Nam đã có mặt trên 80 quốc gia
13


trên thế giới, 150 cơ sở chế biến thủy sản Việt Nam đã được công nhận đủ điều
kiện xuất khẩu vào EU.
- Trong lĩnh vực công nghiệp, giao thông vận tải và xây dựng.
Đã làm chủ nhiều công nghệ tiến tiến trong sản xuất cơ khí chế tạo kết cấu
thép cơ khí chuyên dụng, công nghiệp đóng tàu (Nhờ ứng dụng công nghệ hiện
đại, hiện nay ngành đóng tàu Việt Nam đang thực hiện các hợp đồng đóng mới tàu
hàng xuất khẩu trọng tải lớn đến 53.000DWT, 70.DWT và đã làm chủ công nghệ

đóng tàu chở dầu thô 100.000 tấn…), viễn thông (ứng dụng cáp quang để nâng cao
năng lực đường truyền), điện lực (Tiết kiệm điện và giảm tổn thất trong truyền tải
điện từ 19,3% năm 1996 xuống 14,5% năm 2000 và 12,1% năm 2004), dầu khí
(Hệ thống xử lý tự động các thông số vỉa dầu trong điều kiện khắc nghiệt, ứng
dụng kỹ thuật nguyên tử đánh dấu để xác định trữ lượng vỉa dầu), khai thác tài
nguyên khoáng sản (Tận thu than trong bãi sàng, máy liên hợp và giá thủy lực di
động trong khai thác hầm lò). Các công nghệ đào đường hầm xuyên núi, làm cầu
dây văng khẩu độ lớn đã được ứng dụng rộng rãi…
- Trong lĩnh vực công nghệ sinh học: Đã làm chủ được công nghệ nền, tạo ra
các quy trình công nghệ phù hợp với đặc thù Việt Nam và đã bắt đầu sản xuất ra các
sản phẩm phục vụ nhu cầu kinh tế-xã hội như: giải mã trên 100 gen và được ngân
hàng gen quốc tế công nhận, tách chiết mẫu AND từ các mẫu hài cốt lâu năm (Góp
phần quan trọng trong việc xác định danh tính các liệt sỹ), thành công trong công
nghệ sản xuất phôi bò sữa cao sản.
- Khoa học xã hội và nhân văn: Thời gian qua các nhà khoa học đã tập
trung nghiên cứu nhiều nội dung quan trọng, giải đáp kịp thời những vấn đề lý luận
và thực tiễn do cuộc sống đặt ra, cung cấp luận cứ khoa học cho các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, phục vụ việc xây dựng và hình thành môi
trường pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
- Khoa học tự nhiên: Tiếp tục phát huy được tiềm năng thế mạnh, đi sâu
nghiên cứu nhiều vấn đề lý thuyết định hướng ứng dụng, tiếp cận được trình độ thế
giới trong một số lĩnh vực như: toán học, vật lý, công nghệ sinh học góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo, nâng cao năng lực và rút ngắn khoảng cách về trình độ
khoa học giữa Việt Nam và các nước. Thời gian qua, đã có 5.072 bài báo và báo
cáo khoa học (trong đó có 557 bài đăng trên các tạp chí quốc tế và 454 báo cáo
khoa học tại các hội nghị, hội thảo quốc tế).
14



2.1.2. Những tồn tại và nguyên nhân
2.1.2.1. Những yếu kém
Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đánh giá những yếu kém về
KH&CN như sau: “khoa học - công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu của công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước” [11, 63]. “Khoa học - công nghệ chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển của kinh tế, xã hội” [11, 171]. Những yếu kém thể
hiện ở các mặt sau đây:
- Đóng góp của KH&CN cho phát triển kinh tế còn thấp, năm 2003, đầu tư
toàn xã hội cho khoa học - công nghệ đạt 0,9%. Năm 1971 thu nhập bình quân đầu
người (GDP/người) của Đài Loan là 437USD và tổng đầu tư của toàn xã hội cho
R-D là 0,7% GDP, năm 1973 GDP/người của Hàn Quốc là 400USD và tổng đầu tư
của toàn xã hội cho R-D là 0,3 GDP. Tuy nhiên các nước đó biết phát huy tốt sự
đóng góp của KH&CN cho phát triển, do đó sự đóng góp của KH&CN đối với
tăng trưởng kinh tế là cao và qua đó nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Cùng với mức
độ phát triển của nền kinh tế tương tự như Việt Nam hiện nay thì các nước trong
khu vực và trên thế giới đã có tỷ lệ đóng góp của khoa học - công nghệ vào tăng
trưởng chung là rất cao từ 31-60%. Trong khi đó sự đóng góp KH&CN của Việt
Nam đối với nền kinh tế tương đối hạn chế, ở mức 19-23%. Như vậy KH&CN có
mức đóng góp rất thấp cho phát triển kinh tế, KH&CN chưa tham gia tích cực quá
trình đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế.
- Cơ chế quản lý KH&CN chậm đổi mới, chưa có chính sách và biện pháp
tốt để huy động các nguồn lực và sử dụng hiệu quả các nguồn lực Nhà nước đầu tư
cho KH&CN, thiếu cơ chế gắn kết nghiên cứu KH&CN với đào tạo nhân lực, nhất
là ở bậc đại học và với hoạt động sản xuất, kinh doanh chúng ta chưa đổi mới được
về căn bản cơ chế và phương thức quản lý các nhiệm vụ về khoa học - công nghệ
(chương trình, đề tài, dự án…). Cơ chế và phương thức quản lý hiện nay vẫn mang
đậm dấu ấn của cơ chế hành chính, bao cấp…
Các cơ quan quản lý Nhà nước vẫn còn “ôm đồm” chức năng quản lý Nhà
nước về KH&CN với chức năng hoạt động sự nghiệp và dịch vụ khoa học - công
nghệ. Nhiều đề tài KH&CN ở địa phương vẫn là do cán bộ, công chức ở các cơ

quan công quyền địa phương thực hiện.
Việc thực hiện luật KH&CN cũng còn rất hạn chế, như việc thành lập quỹ
phát triển KH&CN ở các cấp, cơ chế trích lập quỹ KH&CN ở cấp tổng công ty và
công ty, ngay cả quỹ phát triển KH&CN quốc gia vẫn chậm đi vào hoạt động, các
15


rào cản liên quan đến chính sách kinh tế và tài chính chậm được xem xét, sửa đổi,
nhất là cách thức quản lý tài chính trong hoạt động KH&CN. Đây là nhóm bức xúc
lớn nhất mà từ lâu các nhà khoa học, các nhà quản lý không ngừng nêu ra, yêu cầu
được sửa đổi.
Mặt khác kinh phí cân đối cho hoạt động KH&CN của các tỉnh, thành phố
chỉ đạt dưới 1% chi ngân sách. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đánh giá, đãi
ngộ đội ngũ cán bộ KH&CN chậm được đổi mới và thiếu những chính sách phù
hợp khuyến khích, thu hút và phát huy đội ngũ hoạt động trong lĩnh vực KH&CN.
- Thị trường KH&CN chậm được hình thành, hiệu quả ứng dụng các công
trình nghiên cứu khoa học thấp. Nhiều đề tài nghiên cứu chưa xuất phát từ nhu cầu
thiết yếu của đời sống sản xuất, chưa đi tới quy trình công nghệ mới…Đối với
nhiều doanh nghiệp, ứng dụng tiến bộ KH&CN chưa trở thành nhu cầu bức thiết
để nâng cao năng lực cạnh tranh. Hội thảo phát triển thị trường khoa học - công
nghệ kinh nghiệm của Trung Quốc và Việt Nam (8/2004) đánh giá: Việt Nam vẫn
chưa có thị trường KH&CN thực sự. Hai yếu tố cung và cầu trong thị trường
KH&CN còn rất yếu. Cầu thị trường KH&CN Việt Nam thời gian dài bị chi phối
bởi các doanh nghiệp Nhà nước, có sức ỳ rất nặng nề, phần lớn các doanh nghiệp
không cần quan tâm và không chịu sức ép đổi mới KH&CN. Các tổ chức “cung”
về KH&CN của Việt Nam cho đến nay thì vẫn dựa vào sự bao cấp của Nhà nước,
không hoặc rất ít gắn với thị trường.
- Trình độ công nghệ nhiều ngành còn lạc hậu, việc chuyển giao công nghệ
còn rất chậm. Đầu tư cho đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam chỉ
vào khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu, trong khi ấn Độ là 5%, Hàn Quốc là 10%. Hội

thảo quốc gia xây dựng đội ngũ doanh nhân trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nước (10/2004) đánh giá: thiết bị máy móc của các doanh nghiệp Việt
Nam lạc hậu từ 10-20 năm, phế phẩm trong ngành cơ khí Việt Nam chiếm từ 20 30% trong khi bình quân trên thế giới chỉ khoảng vào 5%.
Đặc biệt cơ sở vật chất kỹ thuật của các tổ chức KH&CN còn thiếu, lạc hậu,
chưa đồng bộ và sử dụng kém hiệu quả. Trang thiết bị của các viện nghiên cứu,
trường đại học nhìn chung còn cũ kỹ không theo kịp sự phát triển của KH&CN
hiện đại. Hiệu quả sử dụng trang thiết bị mới còn thấp, chưa có cơ chế thích hợp
thu hút đầu tư từ các nguồn trong và ngoài nước.
- Đội ngũ cán bộ nghiên cứu về khoa học còn hạn chế về trình độ, cơ cấu
nhân lực theo ngành nghề và theo lãnh thổ còn nhiều bất hợp lý, còn thiếu các cán
16


bộ đầu đàn giỏi, các “tổng công trình sư”, đặc biệt là thiếu cán bộ KH&CN trẻ kế
cận có trình độ cao. Quyền sở hữu trí tuệ chưa được coi trọng đúng mức và còn bị
xâm phạm. Nhận thức của xã hội về sở hữu trí tuệ còn rất thấp, việc thực thi pháp
chế về sở hữu trí tuệ chưa nghiêm minh, chưa có cơ để gắn kết lợi ích của người
sáng tạo, lợi ích của người áp dụng thành quả sáng tạo vào lợi ích toàn xã hội.
- Một số cán bộ, Đảng viên và quần chúng nhân dân nhất là ở cấp cơ sở,
vùng sâu, vùng xa, miền núi chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của sự phát triển
KH&CN đối với công cuộc CNH-HĐH đất nước ở Việt Nam, nhất là trong thời kỳ
hội nhập kinh tế thế giới, những thời cơ, thách thức đối với sự phát triển của
KH&CN chưa được nhận thức đầy đủ, chính vì vậy một số địa phương còn chậm,
không chịu mạnh dạn cải tiến kỹ thuật, ứng dụng những thành tựu của KH&CN
vào việc sản xuất của cải vật chất.
2.1.2.2. Nguyên nhân của những yếu kém.
- Một là: Quan điểm của KH&CN là nền tảng và động lực phát triển đất
nước đã được khẳng định trong các Nghị quyết của Đảng, nhưng chưa được quán
triệt đầy đủ để chuyển thành hành động thực tế của các cấp chính quyền, các bộ,
ngành, địa phương trong xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh

tế, xã hội. Nhiều chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ về phát triển
KH&CN chậm thể chế hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng nhu cầu
đổi mới trong thực tiễn.
Bên cạnh đó nhận thức của lãnh đạo các cấp ủy Đảng và chính quyền địa
phương về KH&CN chưa thực sự sâu sắc như yêu cầu đặt ra trong nghị quyết
Trung ương 2 (khóa VIII), của kết luận hội nghị Trung ương 6 (khóa IX), chưa
thực sự quan tâm đến KH&CN thể hiện từ suy nghĩ đến hành động. Cho nên còn
rất lúng túng trong việc đề ra các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể phù hợp với nhu cầu
và hoàn cảnh thực tế, chưa sát sao trong công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện, sẵn
sàng tập trung ưu tiên đầu tiên các nguồn lực của tỉnh, thành cho những nội dung
đầu tư khác chứ không phải là phát triển KH&CN.
- Hai là: Cơ chế quản lý KH&CN hiện nay vẫn chậm được đổi mới, còn
lúng túng trong việc vận dụng cơ chế thị trường để thúc đẩy KH&CN phát triển,
còn nặng về sử dụng biện pháp hành chính. Thiếu cơ chế, chính sách huy động
toàn xã hội ứng dụng, đổi mới công nghệ, tham gia sáng tạo khoa học.
Cơ quan tham mưu, quản lý KH&CN các cấp còn bất cập, chưa đủ sức xây
dựng hệ thống chính sách hoàn chỉnh về hoạt động KH&CN trong nền kinh tế thị
17


trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tư duy hành chính bao cấp còn rất nặng nề
trong hệ thống quản lý KH&CN ở các cấp, ngành từ Trung ương đến địa phương,
thể hiện ngay từ khâu hoạch định chính sách đến khâu tổ chức thực hiện.
- Ba là: Cơ chế, chính sách quản lý kinh tế hiện nay vẫn chưa có tác dụng
thúc đẩy, tạo ra môi trường thuận lợi cho việc đổi mới công nghệ, đẩy mạnh ứng
dụng các thành tựu của KH&CN, nghiên cứu, sáng tạo…chưa đảm bảo sự hài hòa
giữa lợi ích của các nhà khoa học, lợi ích của tập thể và lợi ích của toàn xã hội. Do
đó chưa tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, chưa khuyến
khích các doanh nghiệp tăng cường đầu tư cho đổi mới công nghệ để nâng cao sức
cạnh tranh, chưa phát huy tính tự chủ, sáng tạo của các nhà khoa học.

Ngoài ra không ít các cán bộ KH&CN hoạt động còn xa rời thực tiễn, nhiều thầy
giáo ở các trường đại học còn ít chú trọng đến nghiên cứu khoa học, một bộ phận trí
thức còn thờ ơ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nên kết quả của nhiều
đề tài nghiên cứu còn ít được ứng dụng vào thực tế cuộc sống. ý thức hợp tác trong
nghiên cứu giải quyết những vấn đề lớn của đất nước chưa trở thành nhu cầu bức thiết
trong đội ngũ các nhà KH&CN.
- Bốn là: Đầu tư cho KH&CN còn mang tính tùy tiện.
Thay vì phải thực hiện đầu tư cho KH&CN như là đầu tư cho phát triển, trên
thực tế lại thực hiện chính sách đầu tư mang tính tùy tiện một cách có hệ thống.
Điều đó thể hiện cụ thể ở hai mặt sau:
+ Tính tùy tiện được thể hiện về mặt số lượng kinh phí đầu tư: Tỷ lệ đầu tư
cho KH&CN được xác định theo kiểu “thầy lang bốc thuốc” không theo số liệu đề
xuất của các cơ quan nghiên cứu, quản lý cũng như không theo nghị quyết của Bộ
chính trị. Mỗi khi cần cắt giảm kinh phí đầu tư thì khoản ngân sách có thể cắt giảm
đó là khoản dành cho KH&CN, giáo dục và đào tạo.
Tính tùy tiện được thể hiện về mặt cơ cấu và quản lý kinh phí đầu tư. Trong
khi khả năng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển từ khu vực doanh nghiệp còn rất
hạn chế, đầu tư tài chính của Nhà nước cho hoạt động KH&CN trong thời gian qua
là dàn trải, chồng chéo, không theo cơ cấu trên cơ sở khoa học. Việc quản lý các
nguồn đầu tư còn mang nặng tính hình thức. Chính vì vậy các chương trình lớn
nhỏ, các đề tài, các dự án đạt hiệu quả không cao, phần lớn các kết quả nghiên cứu
chỉ được “lưu giữ trong ngăn kéo” mà không có địa chỉ ứng dụng, và do vậy chưa
tạo ra được những lĩnh vực mũi nhọn trong KH&CN.
18


- Năm là: Chưa coi trọng tổng kết thực tiễn các điển hình tiến tiến. Trong
những năm gần đây, với sự năng động, sáng tạo của các tổ chức KH&CN, đã xuất
hiện nhiều điển hình tốt về gắn kết giữa nghiên cứu khoa học với sản xuất nhưng
chưa được tổng kết kịp thời để nhân rộng.

- Sáu là: Việc thiếu vắng môi trường phát triển lành mạnh.
Do cơ chế quản lý kinh tế còn lạc hậu, chưa có chủ thuyết về phát triển xã
hội nên môi trường phát triển xã hội không năng động, mặt bằng giá trị kinh tế
thiếu những tiêu thức chuẩn mực để đánh giá đúng bản chất kinh tế của sự việc,
điều này dẫn tới nhiều yếu tố thị trường cần thiết chưa được thích hợp. Bên cạnh
đó, mặt bằng tâm lý xã hội hoàn toàn không thích ứng với thời kỳ phát triển mới
như hiện nay. Động lực cho sáng tạo nói chung là chưa có chỗ để phát huy.
- Bảy là: Chưa quan tâm đầu tư, đào tạo đối với đội ngũ công nhân kỹ thuật
có tay nghề cao. Tỷ lệ công nhân giỏi và cán bộ khoa học còn mất cân đối so với
thế giới.
Tất cả những điều trên là nguyên nhân dẫn tới sự thờ ơ, sự quan tâm mang
nặng tính hình thức của lãnh đạo các cấp, của các doanh nghiệp Nhà nước đối với
hoạt động lao động sáng tạo trong KH&CN.
2.2. Những giải pháp về phát triển KH – CN nhằm thúc đẩy sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước
2.2.1. Một số giải pháp mang tính định hướng chung
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời luôn chú ý đến mối quan hệ giữa công nghiệp
hóa với cách mạng khoa học - kỹ thuật. Khi nói chuyện tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ nhất của Hội phổ biến khoa học, kỹ thuật Việt Nam năm 1963, khi
bàn về nhiệm vụ của khoa học, Người nhấn mạnh: “Chúng ta đều biết rằng trình
độ khoa học, kỹ thuật của ta hiện nay còn thấp kém. Lề lối sản xuất chưa cải tiến
được nhiều. Cách thức làm việc còn nặng nhọc. Năng suất lao động còn thấp kém.
Phong tục tập quán lạc hậu còn nhiều. Nhiệm vụ của khoa học là ra sức cải biến
những cái đó. Khoa học là tổng kết những kinh ghiệm đấu tranh giữa con người và
thiên nhiên… Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất,
phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện
đời sống nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi. Nhiệm vụ của khoa
học, kỹ thuật là cực kỳ quan trọng. Cho nên mọi ngành, mọi người đều phải tham
gia công tác khoa học, kỹ thuật”.
19



Tiếp tục kế thừa những tư tưởng của Người về vai trò cực kỳ quan trọng của KH –
CN, kể từ Đại hội VI đến nay Đảng ta luôn xác định KH – CN là quốc sách hàng
đầu của quốc gia.
Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng ngày 30 tháng 3 năm 1991 đã nêu
ra những nhiệm vụ của khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Tiếp đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương khóa
VIII cũng đã khẳng định vai trò động lực của KH – CN đối với sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước; CNH, HĐH nhất thiết phải dựa vào và bằng KH – CN. Nghị quyết
đã nêu lên năm quan điểm chỉ đạo: “Khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu; là động lực phát triển kinh tế - xã hội; là nội dung then chốt trong mọi hoạt
động của tất cả các ngành,các cấp; là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế và củng cố quốc phòng; là sự nghiệp cách mạng của toàn dân.”
Đại hội IX của Đảng đã khẳng định nước ta cần và có thể rút ngắn quá trình CNH,
HĐH, muốn vậy phải phát triển mạnh mẽ năng lực KH – CN, nắm bắt và vận dụng
sáng tạo những thành tựu KH – CN mới nhất của thế giới, từng bước phát triển
kinh tế tri thức. Nhằm cụ thể hóa nhận định trên, ngày 28 tháng 6 năm 2002, Hội
nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã ra Nghị quyết về
những định hướng và giải pháp phát triển KH – CN từ nay đến năm 2010 thực hiện
được mục tiêu: “Đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ trong toàn bộ nền kinh
tế quốc dân nhằm nhanh chóng thoát khỏi tình trạng lao động thủ công, lạc hậu
tăng năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh, nâng sức cạnh tranh của nền kinh
tế, nâng cao đời sống nhân dân và sức mạnh quốc phòng, an ninh… Xây dựng và
phát triển có trọng điểm các ngành công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ
thông tin và công nghệ sinh học. Phấn đấu đưa trình độ KH – CN nước ta đạt mức
trung bình tiên tiến trong khu vực”.
Trên tinh thần đó, Nghị quyết Đại Hội X tiếp tục khẳng định: “KH – CN là quốc
sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy CNH, HĐH đất nước. Theo đó,
phát triển mạnh, kết hợp chặt giữa hoạt động KH – CN với giáo dục và đào tạo để

thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh CNH, HĐH
và phát triển kinh tế tri thức… Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng thành tựu KH –
CN, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong từng ngành, từng
lĩnh vực của nền kinh tế…”.

20


Với những định hướng và mục tiêu cụ thể đó, Đảng và Nhà nước ta qua
các thời kỳ chủ yếu tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:
* Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với KH - CN trong thời kỳ
hội nhập kinh tế quốc tế
- Tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền từ
trung ương đến địa phương và trong toàn xã hội về vị trí, vai trò của KH&CN.
Các cơ quan chức năng của Đảng và Nhà nước các cấp cần xây dựng các
chương trình, nội dung và tổ chức bồi dưỡng tập huấn quán triệt về các nhiệm vụ,
quan điểm, mục tiêu, lộ trình, giải pháp phát triển và ứng dụng KH&CN.
Định kỳ có kiểm tra, sơ kết việc thực hiện nghị quyết về KH&CN, coi
KH&CN là một nội dung chủ yếu trong chỉ đạo, lãnh đạo thực tiễn của các cấp ủy.
- Phát huy vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và hiệu lực quản lý của
chính quyền, tăng cường sự phối hợp liên ngành đối với KH&CN. Các cấp uỷ chịu
trách nhiệm toàn diện về kết quả, hiệu quả hoạt động KH&CN trong lĩnh vực hoặc
địa bàn phụ trách, phải coi lãnh đạo, chỉ đạo trong hoạt động KH&CN là nội dung
lãnh đạo chủ yếu và thường xuyên. Thực hiện cơ chế ràng buộc và đề cao trách
nhiệm của thủ trưởng các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố về đổi
mới và nâng cao trình độ công nghệ trong sản xuất kinh doanh, về hiệu quả hoạt
động của KH&CN, làm cho KH&CN thực sự trở thành động lực phát triển của
ngành và địa phương, tạo được sự gắn kết của KH&CN với nhu cầu phát triển sản
xuất kinh doanh. Coi KH&CN nhất là đổi mới công nghệ là khâu quan trọng nhất
nhằm nâng cao năng suất lao động, nâng cao trình độ công nghệ và phát triển kinh

tế nhanh, chỉ đạo, điều chỉnh lại chiến lược, định các bước đi, đề ra các mục tiêu cụ
thể, triển khai rộng rãi phong trào hoạt động KH&CN trong sản xuất và đời sống,
thực hiện các nhiệm vụ trọng điểm về KH&CN.
- Lãnh đạo tốt việc phát hiện, tổng kết, xây dựng và nhân rộng các điển hình
tiên tiến, phát động phong trào sáng tạo, ứng dụng KH&CN trong xã hội.
- Tăng cường sự trọng dụng, tôn vinh đúng mức đối với các cán bộ KH&CN,
thực hiện nghiên cứu các chế độ, chính sách nhằm động viên đội ngũ cán bộ KH&CN
sáng tạo, cống hiến hết sức mình phục vụ sự phát triển đất nước.

21


* Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về KH - CN, ứng dụng phù hợp
với thực tế địa phương
Đây là nội dung quan trọng cần được đưa vào sinh hoạt thường kỳ của các tổ
chức Đảng. Qua đó phổ biến sâu rộng đến toàn dân nhằm tạo những chuyển biến
căn bản trong nhận thức về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của KH&CN trong thời
kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Mà cụ thể cần đưa tinh thần của Nghị
quyết số 02/NQ/HNTW ngày 24/12/1996 của ban chấp hành trung ương (khóa
VIII), kết luận hội nghị lần thứ 6 của ban chấp hành trưng ương (khóa IX) và nghị
quyết của đại hội Đảng lần thứ X về KH&CN cho cán bộ, Đảng viên và toàn thể
nhân dân hiểu.
Tiến hành các mô hình thí điểm những ứng dụng của KH&CN vào từng địa
phương cụ thể, nắm bắt đặc điểm địa lý, kinh tế, xã hội nguồn lực của từng địa
phương để từ đó mà có những ứng dụng KH&CN phù hợp với từng địa phương.
* Đổi mới hệ thống tổ chức quản lý về KH - CN
- Đổi mới cơ chế quản lý.
Cơ quan quản lý Nhà nước về KH&CN tập trung vào thực hiện các nội dung
quản lý Nhà nước về KH&CN theo luật KH&CN, nhất là việc xây dựng và chỉ
đạo thực hiện chiến lược, chính sách, quy hoạch, nhiệm vụ KH&CN, chính sách

đào tạo, bồi dưỡng, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực KH&CN, đánh giá năng lực
và trình độ KH&CN quốc gia, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của
pháp luật về KH&CN. Tách các tổ chức nghiên cứu KH&CN không phục vụ cho
nội dung quản lý Nhà nước về KH&CN ra khỏi cơ quan bộ.
Thực hiện quản lý Nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can
thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Tách chức năng
quản lý hành chính của Nhà nước khỏi chức năng quản lý của doanh nghiệp, xóa
bỏ “chế độ chủ quản”, phân biệt rõ ràng hệ thống cơ quan hành chính công và hệ
thống cơ quan sự nghiệp dịch vụ công cộng (giáo dục, KH&CN, y tế, văn hóa, thể
dục thể thao), phát triển mạnh các dịch vụ công cộng.
Đổi mới cơ bản cơ chế quản lý KH&CN, đặc biệt là cơ chế tài chính theo
hướng mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, phù hợp với đặc thù sáng tạo và
khả năng rủi ro trong hoạt động KH&CN. Kết hợp hợp lý cơ chế tuyển chọn thông
qua đấu thầu thực hiện nhiệm vụ KH&CN với cơ chế giao nhiệm vụ trực tiếp trên
cơ sở bảo đảm nguyên tắc cạnh tranh, hiệu quả và chất lượng. Hoàn thiện cơ sở
22


pháp lý của hoạt động tuyển chọn, thẩm định, đánh giá, nghiệm thu các đề tài, dự
án, công trình.
- Đổi mới tổ chức.
Sắp xếp lại các tổ chức KH&CN đang hướng kinh phí hoạt động từ ngân
sách Nhà nước hiện nay theo hướng sau (tinh thần nghị định 115).
Chuyển đổi các tổ chức nghiên cứu phát triển của Nhà nước thành tổ chức tự
trang trải kinh phí hoạt động thường xuyên của Nhà nước. (Bắt đầu từ năm 2006,
bộ khoa học và công nghệ phối hợp với các bộ, ngành địa phương phân loại, thí
điểm chuyển đổi một số tổ chức KH&CN để nhanh chóng rút kinh nghiệm, mở
rộng quy mô. Các tổ chức không có khả năng sẽ chuyển đổi, sẽ được sáp nhập
hoặc giải thể).
Phát triển mạnh mẽ các doanh nghiệp, các tổ chức hoạt động khuyến nông,

khuyến lâm, khuyến ngư, dịch vụ tư vấn, môi giới, chuyển giao công nghệ, đặc
biệt là các doanh nghiệp sáng tạo công nghệ.
Phát triển mạnh mẽ dịch vụ KH&CN, hỗ trợ đắc lực cho đổi mới, nâng cao
trình độ công nghệ của các ngành kinh tế, hợp lý hóa sản xuất, thúc đẩy áp dụng
quản lý chất lượng, môi trường của doanh nghiệp theo điều kiện Việt Nam, bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ của mọi tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân.
Chuyển mạnh một số hoạt động sự nghiệp KH&CN sang cơ chế cung ứng
dịch vụ phù hợp với kinh tế thị trường như đánh giá, thẩm định, giám định thông
tin, tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ, thiết kế nghiên cứu và triển khai tư
vấn pháp lý về sở hữu trí tuệ. Mở rộng sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, các
công ty nước ngoài tham gia các hoạt động dịch vụ KH&CN. Hoàn thiện cơ sở
pháp lý và cơ chế, chính sách, thúc đẩy các hoạt động dịch vụ KH&CN.
Gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu với đào tạo nhằm tạo ra nhiều sản phẩm
công nghệ có giá trị và nguồn nhân lực KH&CN trẻ có năng lực và phẩm chất. Tập
trung và tăng cường nhiệm vụ nghiên cứu khoa học cơ bản trong các trường đại
học. Có cơ chế và chính sách gắn kết có hiệu quả các trường đại học với cơ sở
nghiên cứu khoa học và doanh nghiệp để chuyển giao kết quả nghiên cứu KH&CN
vào sản xuất kinh doanh. Xây dựng một số trường đại học trọng điểm đạt trình độ
khu vực và quốc tế.

23


* Xây dựng và phát triển tiềm lực về KH - CN
- Phải có chính sách và cơ chế để bổ sung kịp thời đội ngũ cán bộ khoa học
công nghệ kế cận trong các cơ quan nghiên cứu triển khai, cơ quan quản lý và các
doanh nghiệp trong hệ thống Nhà nước, cụ thể là phải có cơ chế ràng buộc và chế
độ đãi ngộ thích đáng nhằm thu hút các lực lượng cán bộ khoa học, công nghệ trẻ,
tốt nghiệp loại giỏi được đào tạo trong và ngoài nước vào làm việc cho các cơ quan
Nhà nước nói trên.

- Tổng kết, rút kinh nghiệm và tiếp tục sắp xếp các cơ quan nghiên cứu triển
khai theo hướng gắn kết với đào tạo, với sản phẩm, khắc phục tình trạng phân tán
nguồn lực như hiện nay.
- Ưu tiên những lĩnh vực công nghệ mà chúng ta có tiềm năng và lợi thế.
* Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho KH - CN
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát hiện, nuôi dưỡng, đào tạo và phát
huy tài năng, sử dụng nhân tài. Có chính sách cụ thể để mở rộng, phát huy quyền
tự do sáng tạo của đội ngũ trí thức KH&CN, tạo điều kiện để những người làm
công tác KH&CN sớm tiếp cận với những vấn đề mới của đời sống KH&CN thế
giới và có môi trường thuận lợi để phát huy tài năng. Để thực hiện vấn đề này cần
tập trung vào một số vấn đề sau:
- Một là: Đa dạng hóa hình thức đào tạo nhân lực KH&CN.
Nhà nước đào tạo trên cơ sở liên kết hệ thống các trường trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề, các trường đại học và cao đẳng, các cơ sở nghiên cứu và phát
triển và các doanh nghiệp để gắn kết giữa đào tạo - nghiên cứu - sản xuất. Gắn với
đó Đảng và Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các liên doanh hoặc doanh
nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tổ chức đào tạo tại chỗ hoặc gửi đi đào tạo tại
công ty mẹ, tạo nguồn nhân lực KH&CN ở nước ngoài, phối hợp với hợp tác quốc
tế để thực hiện việc đào tạo nhân lực KH&CN cả ngoài nước và ngay tại Việt
Nam.
Ngoài ra Đảng và Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ việc đi học tự
túc ở nước ngoài và để mọi tổ chức, cá nhân làm dịch vụ du học trên cơ sở quản lý
thống nhất của Nhà nước.
- Hai là: Cải tiến chính sách về thu nhập đối với cán bộ KH&CN.
Cải tiến tương quan giữa mức lương của lao động KH&CN có trình độ
chuyên môn cao với mức lương trung bình của xã hội, thực hiện tiêu chuẩn hóa
24


cán bộ theo hệ thống chức danh trong các cơ quan nghiên cứu KH&CN để làm cơ

sở cho việc đánh giá và trả lương cho cán bộ KH&CN.
Có chính sách khuyến khích lao động KH&CN tăng thu nhập từ các hoạt
động nghiên cứu và phát triển gắn với hoạt động sản xuất, tạo điều kiện rộng rãi
cho người lao động KH&CN có thu nhập từ việc tham gia các hợp đồng nghiên
cứu phát triển và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống.
Cần có những bậc lương hợp lý cho mỗi tiến sỹ, tiến sỹ khoa học, những cán
bộ có trình độ khoa học cao và mức lương cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trên lĩnh
vực này. Hiện nay, không có mức lương đối với tiến sỹ, tiến sỹ khoa học và những
cán bộ khoa học có trình độ cao.
Đối với nhà khoa học không chỉ đơn thuần là có chính sách vật chất thuần
túy, mà còn phải khơi dậy lòng yêu nước, sự trăn trở về nguy cơ tụt hậu của đất
nước, sự thách thức về vị thế quốc gia, sự phát triển bền vững của đơn vị, tổ chức
mà cá nhân nhà khoa học đang chung sống và làm việc.
- Ba là: Cần tạo lập thói quen quan tâm đến tài sản trí tuệ. Trong quá trình
phát triển, hội nhập kinh tế thế giới, việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và bản quyền
là vấn đề rất quan trọng, phải quan niệm, đã là công nghệ thì phải có các sáng chế,
nhà khoa học thì phải có công trình được ghi nhận. Điều đó cho thấy cần có chính
sách tôn vinh và đãi ngộ công bằng đối với cán bộ KH&CN.
* Tăng cường đầu tư ngân sách và cơ sở vật chất cho KH - CN
- Tăng cường đầu tư ngân sách.
Đổi mới cơ bản chính sách đầu tư và cơ chế tài chính phù hợp với đặc thù
của KH&CN. Thúc đẩy đầu tư của toàn xã hội cho KH&CN đạt mức 1.5% GDP
vào năm 2010.
Triển khai hoạt động của quỹ phát triển KH&CN quốc gia và khai thác có
hiệu quả các phòng thí nghiệm trọng điểm. Tổ chức thực hiện tốt chương trình
phối hợp với các bộ, ngành, địa phương để nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN.
Đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho KH&CN, khuyến khích các doanh
nghiệp đầu tư cho KH&CN, các tổ chức nghiên cứu KH&CN được vay vốn từ
ngân hàng, quỹ phát triển KH&CN và hướng các điều kiện ưu đãi để đầu tư cho
các dự án đối với công nghệ và ứng dụng công nghệ mới.

Khuyến khích thành lập các loại quỹ phát triển KH&CN. Nhanh chóng đưa
quỹ phát triển KH&CN quốc gia vào hoạt động; Đảng và Nhà nước phải triển khai
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×