Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

sự vận động quan niệm nghệ thuật của Nam Cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.85 KB, 7 trang )

Câu 6: Qua những tác phẩm tiêu biểu, phân tích sự vận động quan niệm nghệ
thuật của Nam Cao trước và sau Cách mạng
Nam Cao bước vào làng văn từ năm 1936, lúc ông mới 19 tuổi, với những
truyện ngắn đầu tay nhuốm đậm màu sắc lãng mạn. Phải đến khi tuyệt tác Chí
Phèo ra đời vào năm 1941, ý thức nghệ thuật hiện thực của Nam Cao mới được
khơi dòng mạnh mẽ. Trong suốt cuộc đời mình, Nam Cao không hề viết một bài
nào trực tiếp thể hiện quan điểm nghệ thuật mà được thể hiện qua quá trình sáng
tác của nhà văn, trong đó nhân vật là người phát ngôn cho tác giả.
Ngòi bút của Nam Cao dường như đã bắt được mạch sống cuộc đời và cái
"tạng" của riêng mình, liên tục cho ra mắt một loạt truyện ngắn và cả tiểu thuyết
đặc sắc trong vòng 3 năm, từ 1942 đến 1945. Như vậy là, phải mất gần 5 năm Nam
Cao mới "cập bến" chủ nghĩa hiện thực; so với các nhà văn hiện thực tiền bối xuất
sắc như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố... thì quá trình "tìm
đường" và "nhận đường" ở Nam Cao diễn ra liên tục và vất vả hơn nhiều. Tuy
nhiên, nhờ thế mà giai đoạn sáng tác sung mãn nhất của đời văn Nam Cao luôn có
sự đồng hành của hệ thống các quan điểm nghệ thuật hiện thực, không ở bên ngoài
hay phía trước để "dẫn đường" mà hóa thân trong chính những hình tượng nhân vật
sống động của tác phẩm, như Điền (Trăng sáng), Hộ (Đời thừa), Lộc (Truyện
người hàng xóm), Ngạn (Nhìn người ta sung sướng), Độ (Đôi mắt) v.v...
Ở Nam Cao thể hiện rất rõ sự vận động quan niệm nghệ thuật ở thời điểm
trước và sau Cách mạng.
Trước Cách mạng
Văn chương phải gắn liền với cuộc sống.

1.

Suốt cuộc đời cầm bút của mình, Nam Cao luôn luôn suy nghĩ về “sống” và
“viết”. Ban đầu, ông chịu ảnh hưởng sâu nặng của thứ nghệ thuật lãng mạn thoát li
1|Page



thi vị hóa hiện thực, ông đã sáng tác những bài thơ, truyện tình tâm lí, dễ dãi.
Nhưng vốn là một nghệ sĩ chân chính, giàu tính thương yêu quần chúng lao khổ,
Nam Cao đã sớm nhận ra thứ văn chương thơm tho đó xa lạ với đời sống lầm than
của đông đảo quần chúng nghèo khổ xung quanh. Và ông đã đoạn tuyệt với nó để
tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực chân chính: “Chao ôi! Nghệ thuật không
cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có
thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ kiếp lầm than”. Theo Nam Cao, người cầm bút
chân chính không được “trốn tránh” sự thực mà “cứ đứng trong lao khổ, mở hồn
ra đón lấy tất cả những vang động của cuộc đời…”.
Viết lời Tựa cho tập truyện Đôi lứa xứng đôi cuối năm 1941, nhà văn Lê
Văn Trương thẳng thắn nói rằng: "Giữa lúc người ta đắm mình trong những truyện
tình thơ mộng và hùa nhau "phụng sự" cái thị hiếu tầm thường của độc giả, ông
Nam Cao đã mạnh bạo đi theo một lối riêng", cho dù "những cạnh của tài ông đã
đem đến cho văn chương một lối văn mới, sâu xa, chua chát và tàn nhẫn". Nam
Cao không đối lập mình với văn chương lãng mạn đang nở rộ lúc bấy giờ, song
nếu lãng mạn và kiểu cách tới mức gieo vào đầu người ta "đầm đìa thuốc phiện"
giữa lúc cuộc sống của những số phận "thấp cổ bé miệng" chứa chất bao điều khốn
khổ, thì ông nhất quyết không đồng tình. Nam Cao thành thực lớn tiếng bênh vực,
đề cao kiểu văn chương "thoát thai từ những kiếp lầm than". Chối bỏ điều này, với
ông chỉ là thứ văn chương nhạt nhẽo, vô duyên, thậm chí là dối trá, lừa mị. Trong
tác phẩm Trăng sáng, Nam Cao đối sánh biểu tượng lãng mạn của ánh trăng với
thực tế khách quan của nhân sinh để khẳng định chân lý, lý tưởng của cái đẹp nằm
ngay ở chính sự thật cuộc đời: "Chao ôi! Trăng đẹp lắm! Trăng dịu dàng và trong
trẻo và bình tĩnh.Nhưng trong những căn lều nát mà trăng làm cho cái bề ngoài
cũng đẹp, biết bao người quằn quại, nức nở, nhăn nhó với những đau thương của
kiếp mình!". Đó là sự đối sánh cái bên ngoài và cái bên trong, cái hiện tượng và cái
2|Page


bản chất, cái nội dung và cái hình thức. Bản chức của văn chương, theo Nam Cao,

phải nói cho được, cho rõ sự thật đang tàn phá nhân thể, nhân tính con người, như
Điền nghĩ: "Điền muốn tránh sự thực nhưng trốn tránh làm sao được" (Trăng
sáng), và như Lộc nói: "– Anh viết những cái gì? – Những cái tôi vừa nói với anh,
nghĩa là sự thật" (Truyện người hàng xóm). Ở đây ta nhận thấy sự gặp gỡ giữa
Nam Cao và một bậc thầy khác của dòng văn học hiện thực Việt Nam 1930-1945 –
nhà văn Vũ Trọng Phụng. Không giấu giếm lòng căm hờn trước trật tự xã hội đầy
ngang trái đương thời, Vũ Trọng Phụng kêu gọi sự can đảm và thành thực của nhà
văn "tả chân": "Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự
thật ở đời".
2.

Quan niệm về một tác phẩm có giá trị.

Tác phẩm văn học có giá trị không chỉ phản ánh sự thực đời sống mà còn
phải có giá trị nhân đạo sâu sắc: “ Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao mạnh mẽ,
vừa đau đớn, vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình…
Nó làm cho người gần người hơn…” (Đời thừa).
3.

Đề cao tính sáng tạo của văn chương

Ông chủ chương nghệ thuật là một lĩnh vực hoạt động đòi hỏi khám phá, đào
sâu, tìm tòi và sáng tạo không ngừng. Qua nhân vật Hộ trong Đời thừa, Nam Cao
đã khẳng định “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo
một kiểu mẫu đưa cho: Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết
tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những cái gì chưa có…”.
Với Nam Cao, nghề văn cần nhất là tiềm năng sáng tạo. Nhà văn chân chính
nhất thiết không phải là một "người thợ", dù có là người thợ khéo tay đi chăng nữa,
do đó đi theo lối mòn, rập khuôn, xơ cứng, theo Nam Cao, là điều tối kị đối với
người nghệ sĩ. Cạn nguồn sáng tạo, văn chương chỉ còn là thứ sản phẩm "rất nhẹ",

3|Page


"rất nông", "vô vị", "nhạt phèo" – như suy nghĩ của nhân vật nhà văn Hộ trong
truyện ngắn “Đời thừa”. Do vậy, để có thể "đem một chút mới lạ gì đến văn
chương" thì không thể thỏa hiệp được "thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi".
Phải sáng tạo cái mới, và đạt tới mức sâu sắc. Song cái mới tuyệt nhiên
không phải là cái lạ lẫm, cái lập dị, tồn tại thuần túy tự thân; mà phải vì con người,
vì sự thật, vì thiên chức cao quý của nghệ thuật.
4.

Nhấn mạnh lương tâm , trách nhiệm người cầm bút.

Nam Cao coi lao động nghệ thuật là một hoạt đông nghiêm túc, công phu.
Đòi hỏi người cầm bút phải có lương tâm, Nam Cao lên án gay gắt sự cẩu thả trong
nghề văn “ Sự cẩu thả bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu
thả trong văn chương thì thật là đê tiện” (Đời thừa).
Ông chủ trương văn học phải miêu tả được hiện thực, phải diễn tả được
tiếng lòng đau khổ của quần chúng, Nam Cao cũng không tán thành loại sáng tác
“tả chân”, hời hợt “chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội”.
Thế giới nghệ thuật trong sáng tác Nam Cao trước Cách mạng tháng
Tám luôn đứng vững trên mảnh đất điển hình hóa, coi trọng độ trung thực,
chính xác của những chi tiết cụ thể, mang sắc thái cá tính độc đáo trong mô tả
con người và cuộc sống... vốn là những nguyên tắc mỹ học bao trùm của chủ
nghĩa hiện thực.


Sau Cách mạng

Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Nam Cao lên Việt Bắc, tự chiêm

nghiệm và trải nghiệm "đôi mắt nghệ thuật" của mình từ khói lửa của cuộc chiến
tranh, lòng không nguôi nghĩ suy về tư cách "con dân nước Việt", về trách nhiệm
của nhà văn và văn chương trước vận mệnh của dân tộc. Tự nhìn nhận cho đúng về
4|Page


mình cũng là để nhìn người cho chân thực, để tự soi mình và để tiếp cận cuộc sống,
sự thật. Trong nhật ký” Ở rừng”, Nam Cao chân thành tâm sự: "Nhiều khi phải biết
quên mình đi. Quên cái tên tuổi của mình, nếu muốn thành người có ích. Có cần gì
phải cầy cục ghi tên mình lại cho lịch sử? Tạo ra lịch sử là một việc làm lớn lao
hơn. Nhưng tạo ra lịch sử lại là sự nghiệp của số đông. Ta nên nghĩ đến cái số
đông nhiều hơn ta". Trước gian khổ và hy sinh lớn lao của cuộc chiến tranh vệ
quốc, mỗi người cần "biết hy sinh, biết chiến đấu, chiến đấu lặng lẽ, chiến đấu
không nghĩ gì đến tên mình, không nghĩ đến cả thân mình nữa".
Nhà văn “muốn vứt tất cả đi để cầm lấy súng”, tự nhủ “sống đã rồi hãy viết”
và hăng hái lao mình vào phục vụ kháng chiến. Trước sau Nam Cao vẫn trung
thành với một ý nghĩ “góp sức vào việc không nghệ thuật lúc này chính là để sửa
soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn”. Đó là một thái độ đúng đắn, đẹp đẽ nhất của
người nghệ sĩ chân chính lúc đó.
Nam Cao luôn đặt công việc làm văn của mình bên cạnh công việc của những
người đi kháng chiến nhằm tìm ra cái ý vị văn chương mà cuộc sống đang cần.
Ông không giấu giếm sự thật là trong ông tồn tại cả hai ý nghĩ về công việc làm
văn. Một mặt, "vẫn còn những lúc thằng nghệ sĩ cũ trong người tôi vùng dậy"; mặt
khác, ông tự chất vấn mình: "Sao tôi lại không thể dằn cái ý muốn kiêu căng của
tôi xuống, để góp sức vào công việc "không nghệ thuật" lúc này chính là để sửa
soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn", tức là tham gia vào công tác tuyên truyền,
động viên toàn dân kháng chiến cứu nước. Ý thức ấy được Nam Cao nâng lên
thành quan điểm lý luận có tính chất định hướng hoạt động sáng tạo của mình
trong bài viết”Vài ý nghĩ về văn nghệ” đăng trên báo Cứu quốc, tháng 7-1948:
"Điểm lại những tác phẩm cũ của chúng ta, chúng ta thấy tác phẩm nào cũng có

khuynh hướng cả. Riêng về địa hạt văn chương, từ Trần Tuấn Khải, Tản Đà đến
Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Tố Hữu, Vũ Hoàng
5|Page


Chương... Từ Tố Tâm qua những tiểu thuyết của Tự Lực Văn đoàn đến những tác
phẩm của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Lê
Văn Trương, Vũ Bằng, Nguyên Hồng, Tô Hoài v.v... đều đẩy cho người đọc có một
thái độ nào đó trước cuộc đời, đẩy họ phản ứng lại cuộc đời cách này hay cách
khác... Phân tích cho thật kỹ, bới tìm đến tận cái cốt ở bên trong, ta thấy tác phẩm
nào cũng tuyên truyền tranh đấu".
Tác phẩm được coi là tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao sau Cách mạng là
truyện ngắn “Đôi mắt”. Nhà văn Tô Hoài nhận xét: “Đôi mắt là tuyên ngôn nghệ
thuật chung của lớp văn nghệ sĩ lúc bấy giờ”.
Nam Cao đặt ra vấn đề cần phải thay đổi cách nhìn thế sự, thời cuộc, cuộc đời:
“Vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều,càng quan sát lắm,người ta chỉ
càng thêm chua chát và chán nản.”
Miêu tả quá trình chuyển hóa của Độ, ngòi bút Nam Cao tăng thêm sức mạnh
chân thực, giàu thuyết phục. Độ cũng thuộc lớp nhà văn cũ đi theo kháng chiến,
kịp rũ bỏ tư tưởng lạc hậu để có đôi mắt mới, tình cảm mới. Nhìn đời, nhìn người
đúng. Độ đã biết hòa nhập với kháng chiến, với nhân dân. Sự đối lập giữa Độ và
Hoàng là sự đối lập giữa cái mới và cái cũ. “Anh trông thấy anh thanh niên đọc
thuộc lòng bài “ba giai đoạn” nhưng anh không trông thấy bó tre anh thanh niên
vui vẻ vác đi để ngăn quân thù”. Nhận xét này vạch rõ sự khác biệt giữa hai kiểu
tư duy: Hoàng thiên về cái nhìn bề ngoài nên hời hợt, bi quan, tàn nhẫn; Độ hướng
cái nhìn vào bản chất, mục đích nên thông cảm, tin yêu nhân dân. Cái nhìn của Độ
thể hiện một quá trình phát triển, từ phiến diện đến toàn diện. Độ bộc lộ chân
thành: trước cùng nghi ngờ sức mạnh của quần chúng, nay đã thấy những anh
“răng đen mắt toét”, “gọi lựu đạn là nựu đạn” mà “lúc ra trận thì xung phong
can đảm lắm”.

6|Page


Hơn một lời tuyên ngôn về sự thay đổi, “Đôi mắt” còn là tuyên ngôn về niềm
tin của những người trí thức văn nghệ sĩ (cũ) đối với quần chúng, ở đây là quần
chúng nông dân. Họ phần đông là nghèo nàn, mù chữ, lạc hậu, nhưng có sức mạnh
quật khởi khi làm cách mạng, tham gia kháng chiến, kiến quốc. Đó là cái nhìn tin
yêu đối với nhân dân và thời đại, tuyên ngôn về chỗ đứng của người trí thức trong
kháng chiến: Hãy biết tin vào sức mạnh nhân dân, hãy biết đi sâu vào quần chúng,
hiểu quần chúng, tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, đứng vào hàng ngũ của họ,
đem tài năng dâng hiến cho sự nghiệp cách mạng.
Đó cũng là tuyên ngôn về một quan điểm mĩ học mới: cái, đẹp thuộc về nhân
dân, nhân dân là nhân vật trung tâm, là nguồn cảm hứng lớn của nền văn nghệ mới.
Đây là vấn đề sinh tử, là chấn lí muôn đời của nghệ thuật. Một nền nghệ thuật đánh
mất nhân dân là một nền nghệ thuật tự diệt. Một “nguồn cảm hứng mới cho văn
nghệ”, khác hẳn với cảm hứng trào lộng kiểu Vũ Trọng Phụng, cũng không phải là
sự ngợi ca, sùng bái anh hùng như kiểu Tào Tháo được đề ra. Đó là cảm hứng về
những người mà nếu nhìn bề ngoài chỉ thấy cái ngố, nhưng có nguyên cớ bên trong
thật đẹp đẽ. Họ mới chính là anh hùng, nhân vật chính của nền văn nghệ mới.
Những ý tưởng, quan điểm của Nam Cao về nghề văn và lao động sáng tạo
nghệ thuật, trước cũng như sau Cách mạng tháng Tám, cho thấy ông luôn "nhập
cuộc" văn chương bằng một cái tâm sáng trong, đầy nhiệt huyết. Khởi nguồn từ cội
rễ nhân văn ấy, tác phẩm của Nam Cao luôn cắm rễ sâu xa, gắn bó thắm thiết với
mảnh đất hiện thực, luôn sáng lên những suy tưởng lớn bởi sự khám phá chiều sâu
số phận con người và cuộc đời ngay trong những cái – hàng – ngày ấm nồng hơi
thở sự sống. Cội rễ ấy đã nuôi dưỡng và phát lộ tài năng văn chương xuất chúng
của ông, đưa ông trở thành một nhà nhân đạo lớn, một nhà văn hiện thực bậc thầy.

7|Page




×