Tải bản đầy đủ (.docx) (183 trang)

GIÁO TRÌNH ĐÁNH GIÁ tác ĐỘNG môi TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 183 trang )

GIÁO TRÌNH
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA MÔI TRƯỜNG

Hoàng Ngọc Khắc
Nguyễn Khắc Thành
Vũ Văn Doanh
Lê Đắc Trường
Hà Nội, 2013


2
2


BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA MÔI TRƯỜNG

Hoàng Ngọc Khắc, Nguyễn Khắc Thành
Vũ Văn Doanh, Lê Đắc Trường

GIÁO TRÌNH

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG

HÀ NỘI, 2013
3
3




4
4


MỤC LỤC

5


6


CHỮ VIẾT TẮT
ADB:
BVMT:
BTNMT
CHXHCNVN:
CKBVMT:
ĐMC
ĐTM:
UBND:
UNDP:
UNEP:
WHO:
BKHCNMT

Ngân hàng phát triển Châu Á
Bảo vệ môi trường

Bộ Tài nguyên và Môi trường
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Cam kết bảo vệ môi trường
Đánh giá môi trường chiến lược
Đánh giá tác động môi trường
Uỷ Ban nhân dân
Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
Chương trình môi trường Liên Hợp Quốc
Tổ chức y tế thế giới
Bộ khoa học, công nghệ và Môi trường

7


LỜI NÓI ĐẦU
Phát triển kinh tế - xã hội là xu thế tất yếu của hầu hết các quốc gia trên Thế
giới. Các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc xây dựng và triển khai
các dự án đầu tư. Các hoạt động phát triển kinh tế xã hội làm môi trường ngày càng trở
nên ô nhiễm, suy thoái. Để hạn chế và giảm thiểu ô nhiễm cần sử dụng các công cụ
quản lý môi trường tổng hợp đa dạng trong đó Đánh giá tác động môi trường (ĐTM)
là công cụ quản lý môi trường chiến lược trong việc lựa chọn các dự án tối ưu, ngăn
ngừa giảm thiểu ô nhiễm trước khi các dự án đi vào hoạt động. Hiện nay ở Việt Nam
Đánh giá tác động môi trường là một chế định lớn trong Luật bảo vệ môi trường
(BVMT), nó được đặt ra để các chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý trong lĩnh vực
BVMT, xem xét hành vi của các chủ thể nhằm ngăn chặn, kiểm soát những tác động
xấu tới môi trường.
Giáo trình “Đánh giá tác động môi trường” được biên soạn phục vụ chương
trình đào tạo cử nhân ngành môi trường của Trường Đại học Tài nguyên và Môi
trường Hà Nội. Giáo trình này trình bày về tầm quan trọng của đánh giá tác động môi
trường trong công tác quản lý và bảo vệ môi trường, trang bị cho sinh viên quy trình

thực hiện đánh giá tác động môi trường và các phương pháp sử dụng trong đánh giá
tác động môi trường đồng thời sinh viên được phân tích, thực hiện trên các báo cáo
đánh giá tác động môi trường đã thực hiện.
Đánh giá tác động môi trường ở nước ta là một những nội dung mới được tiếp
cận trong những năm gần đây. Tài liệu tham khảo và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế.
Hơn nữa, đây là một trong những giáo trình được biên soạn lần đầu của nhóm tác giả
cho nên giáo trình không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi chân thành cảm ơn và
tiếp thu các ý kiến đóng góp của các bạn đọc để sửa chữa, bổ sung cho giáo trình hoàn
thiện hơn.
Các tác giả

8


9


CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1.1. Lịch sử phát triển ĐTM
Để duy trì sự sống của bản thân và tiếp tục sự phát triển của nòi giống, ngay từ thời kỳ
nguyên thủy, con người đã có những hoạt động khai thác thiên nhiên làm thành những vật
phẩm thiết yếu cho mình. Trong lúc tiến hành những hành động đó, con người ít nhiều đã
biết rằng sự can thiệp vào tài nguyên thiên nhiên, môi trường đều có hai mặt lợi, hại khác
nhau đối với cuộc sống trước mắt và lâu dài.
Trong xã hội công nghiệp, với sự phát hiện những nguồn năng lượng mới, vật liệu mới và
kỹ thuật tiên tiến, con người đã có tác động mạnh mẽ vào tài nguyên thiên nhiên và môi
trường, can thiệp một cách trực tiếp và nhiều khi thô bạo vào các hệ thiên nhiên. Để “chế
ngự” thiên nhiên, con người nhiều khi đã tạo ra những mâu thuẫn sâu sắc giữa mục tiêu phát

triển của loài người với các quá trình diễn biến của tự nhiên. Để đạt tới những năng suất cao
trong sản xuất công nghiệp, con người đã chuyển đổi những dòng năng lượng tự nhiên, cắt
nối các xích thức ăn vốn có của thiên nhiên, đơn điệu hóa các hệ sinh thái, sử dụng năng
lượng bổ sung to lớn để duy trì những cân bằng nhân tạo mong manh.
Đặc biệt trong nửa cuối thế kỷ 20, sau những năm hồi phục hậu quả của thế chiến thứ hai,
hàng loạt các nước tư bản chủ nghĩa cũng như xã hội chủ nghĩa tiếp tục đi sâu vào công
nghiệp hóa, nhiều nước mới được giải phóng khỏi chế độ thực dân cũng có điều kiện phát
triển mạnh mẽ nền kinh tế của mình. Một số nhân tố mới như cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật, bùng nổ dân số, sự phân hóa các quốc gia về thu nhập đã tạo nên nhiều nhu cầu và khả
năng mới về khai thác tài nguyên thiên nhiên và can thiệp vào môi trường. Trật tự bất hợp lý
về kinh tế thế giới đã tạo nên hai loại ô nhiễm: “ô nhiễm do dư thừa” tại các nước tư bản chủ
nghĩa phát triển và “ô nhiễm do đói nghèo” tại các nước chậm phát triển về kinh tế.
Tại các nước Tư bản chủ nghĩa phương Tây, trong các năm 60 và đầu 70, sự quan tâm và
lo lắng của công chúng đối với tài nguyên thiên nhiên và chất lượng môi trường sống của con
người đã trở thành một vấn đề chính trị quan trọng trong xã hội, đòi hỏi nhà nước có đường
lối để giải quyết. Một ví dụ tiêu biểu là tại Mỹ, năm 1969, Quốc Hội đã ban hành luật về
chính sách quốc gia về môi trường, thường được gọi tắt là NEPA (National Environment
Protection Act). Luật này quy định rằng tất cả những kiến nghị quan trọng ở cấp Liên bang
về luật pháp, các dự án và các quy định hoạt động kinh tế, kỹ thuật lúc đưa ra xét duyệt để
được nhà nước chấp thuận phải kèm theo một báo cáo tường tận về tác động đến môi trường.
Bản hướng dẫn kèm theo luật trình bày một cách chi tiết mục đích, yêu cầu, nội dung và cách
thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường. Tiếp theo Mỹ, nhiều nước khác như Canada,
Australia, Anh, Nhật Bản, CHLB Đức đã lần lượt ban hành những luật pháp hoặc quy định ở
mức độ chặt chẽ khác nhau về đánh giá tác động đến môi trường.
Trong những năm 1970 - 1980, một số nước đang phát triển đã ban hành những quy định
về đánh giá tác động môi trường (ĐTM). Riêng trong khu vực Châu Á và Thái Bình Dương,
các nước Thái Lan, Hàn Quốc, Phillipines, Indonesia, Malaysia đều đã có những quy định
chính thức hoặc tạm thời về ĐTM, và đã thực sự tiến hành nhiều báo cáo về ĐTM cho các
hoạt động phát triển của mình. Tư liệu của Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc (UNDP)
cho thấy rằng tính đến năm 1985, ¾ những nước phát triển đã có quy định về ĐTM ở những

mức độ khác nhau, hoặc ít nhất cũng đã hoàn thành một báo cáo về ĐTM.
Quá trình phát triển hệ thống ĐTM của Việt Nam có thể chia thành 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1 (trước ngày 27 tháng 12 năm 1993): Từ năm 1983, Chương trình
nghiên cứu về tài nguyên thiên nhiên và môi trường bắt đầu đi vào nghiên cứu phương pháp
luận ĐTM. Năm 1985, trong Nghị quyết về công tác điều tra cơ bản, sử dụng hợp lý tài

10


nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, Hội đồng Bộ trưởng đã quy định: trong xét duyệt
luận chứng kinh tế – kỹ thuật của các công trình xây dựng lớn, hoặc các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội quan trọng cần tiến hành ĐTM. Đến đầu năm 1993, trong Chỉ thị số 73TTg về một số công tác cần làm ngay về BVMT, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ thị: “Các
ngành, các địa phương khi xây dựng các dự án phát triển, kể cả dự án hợp tác với nước ngoài,
đều phải thực hiện nội dung ĐTM trong các luận chứng kinh tế - kỹ thuật”. Ngày 10 tháng 9
năm 1993, Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã ban hành bản “Hướng dẫn
tạm thời về ĐTM”.
- Giai đoạn 2 (từ ngày 27 tháng 12 năm 1993 đến ngày 01 tháng 7 năm 2006): Ngày
27/12/1993, Luật BVMT được Quốc hội thông qua và công bố ngày 10 tháng 01 năm 1994.
Tại Điều 18 của Luật đã quy định “tất cả các dự án phát triển ở mọi quy mô đều phải lập báo
cáo ĐTM để thẩm định. Kết quả thẩm định báo cáo ĐTM của dự án là một trong những căn
cứ có tính pháp lý để cấp có thẩm quyền xét duyệt dự án hoặc cho phép thực hiện.
Nghị định số 175/CP ngày 18/10/1994 về hướng dẫn thi hành Luật BVMT (Nghị định
có 1 chương riêng về công tác ĐTM, trong đó đáng lưu ý là những quy định cụ thể về các dự
án phải lập báo cáo ĐTM, nội dung của một Báo cáo ĐTM sơ bộ, Báo cáo ĐTM chi tiết, thẩm
quyền thẩm định và phân cấp thẩm định Báo cáo ĐTM); Ngoài ra, trong giai đoạn này còn
một số văn bản khác liên quan đến thủ tục, trình tự, nguyên tắc thẩm định như Thông tư số
490/1998/TT-BKHCNMT ngày 29 tháng 4 năm 1998 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi
trường về hướng dẫn lập và thẩm định báo cáo ĐTM đối với các dự án đầu tư; Quy chế tổ
chức và hoạt động của Hội đồng thẩm định Báo cáo ĐTM ban hành kèm theo Quyết định số
04/2003/QĐ-BTNMT ngày 21 tháng 8 năm 2003 của Bộ trưởng Bộ TN & MT...

- Giai đoạn 3 (từ ngày 01 tháng 7 năm 2006 đến nay): với sự ra đời của Luật Bảo vệ
Môi trường năm 2005 (ban hành ngày 29/11/2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2006),
công tác bảo vệ môi trường được tăng cường hơn, các vai trò, ý nghĩa có ĐTM được nâng
cao. Việc thực hiện ĐTM được đặt ra với yêu cầu chặt chẽ, rõ ràng hơn cho các dự án đầu tư có
nguy cơ tác động môi trường ở mức độ cao, những dự án đầu tư còn lại thì yêu cầu phải đăng ký
bản cam kết bảo vệ môi trường (thực chất vẫn là hình thức đơn giản của ĐTM). Bên canh hệ
thống văn bản pháp luật được xây dựng và ban hành, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã và
đang xây dựng và ấn phẩm nhiều hướng dẫn kỹ thuật ĐTM cho các loại hình dự án khác
nhau. Lực lượng tư vấn lập báo cáo ĐTM, CKBVMT phát triển mạnh về số lượng cũng như
chất lượng; năng lực thẩm định báo cáo ĐTM của các cơ quan quản lý nhà nước và của đội
ngũ cán bộ được nâng lên đáng kể...

1.1.2. Định nghĩa đánh giá tác động môi trường
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 của Việt Nam do Quốc hội thông qua trong kỳ họp thứ
8 từ ngày 10 – 29/11/2005, định nghĩa: “Đánh giá tác động môi trường là việc phân tích, dự
báo các tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra các biện pháp bảo vệ môi
trường khi triển khai dự án đó”
Ngoài ra, có nhiều định nghĩa được đưa ra bởi các nhà khoa học trong nước và trên thế giới.
Theo GS. Lê Thạc Cán, 1994 “ĐTM của hoạt động phát triển kinh tế - xã hội là xác
định, phân tích, dự báo những tác động lợi và hại, trước mắt và lâu dài mà việc thực hiện
hoạt động có thể gây ra cho tài nguyên thiên nhiên và chất lượng môi trường sống của con
người tại nơi có liên quan tới hoạt động, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp phòng, tránh,
khắc phục các tác động tiêu cực”.
Định nghĩa được xem là đầy đủ và phù hợp nhất do Harvey đưa ra năm 1995 như sau:
“Đánh giá tác động môi trường là quá trình xác định, đánh giá và dự báo các tác động môi
trường tiềm tàng (bao gồm các tác động địa – sinh – hoá, kinh tế – xã hội và văn hoá) của
các dự án, chính sách và chương trình và thông tin đến các nhà hoạch định chính sách trước
khi ban hành quyết định về dự án, chính sách hoặc chương trình đó” (Harvey 1995).

11



1.1.3. Mục đích của ĐTM
- ĐTM nhằm cung cấp một quy trình xem xét tất cả các tác động có hại đến môi trường
của các chính sách, chương trình, hoạt động và của các dự án;
- ĐTM tạo ra cơ hội để có thể trình bày với người ra quyết định về tính phù hợp của các
chính sách, chương trình, hoạt động và của các dự án về mặt môi trường, nhằm ra quyết định
có tiếp tục thực hiện hay không;
- ĐTM tạo ra phương thức để cộng đồng có thể đóng góp cho quá trình ra quyết định,
thông qua các đề nghị bằng văn bản hoặc ý kiến gửi tới người ra quyết định;
- Với ĐTM, toàn bộ quá trình phát triển được công khai để xem xét đồng thời lợi ích của
tất cả các bên: chủ dự án, Chính phủ và cộng đồng. Điều đó góp phần lựa chọn được dự án tốt
hơn để thực hiện;
- Thông qua ĐTM, nhiều dự án được chấp nhận nhưng phải thực hiện những điều kiện
nhất định, chẳng hạn chủ dự án phải đảm bảo quá trình đo đạc, giám sát, lập báo cáo hàng
năm, phải có phân tích sau dự án và kiểm toán độc lập;
- Trong ĐTM, phải xem xét cả đến khả năng thay thế, chẳng hạn như công nghệ, địa
điểm đặt dự án phải được xem xét hết sức cẩn thận.

1.1.4. Ý nghĩa của ĐTM
- ĐTM là công cụ quản lý môi trường quan trọng, nó không thủ tiêu, loại trừ, gây khó dễ
cho phát triển kinh tế - xã hội. Ngược lại, nó hỗ trợ phát triển theo hướng đảm bảo hiệu quả
kinh tế, bảo vệ môi trường. Vì vậy, nó góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững;
- ĐTM huy động được sự đóng góp của đông đảo tầng lớp trong xã hội, góp phần nâng
cao trách nhiệm của các cấp quản lý, của chủ dự án đến việc bảo vệ môi trường. Đồng thời,
ĐTM liên kết được các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực khác nhau, nhằm giải quyết công việc
chung là đánh giá mức độ tác động đến môi trường của các dự án, giúp cho người ra quyết
định lựa chọn được dự án phù hợp với mục tiêu bảo vệ môi trường;
- ĐTM khuyến khích công tác quy hoạch tốt hơn và có thể tiết kiệm được chi phí, thời
gian trong thời hạn phát triển lâu dài của dự án. Qua các nhân tố môi trường được xem xét

trong quá trình ra quyết định ở giai đoạn quy hoạch mà các cơ quan quan lý và Chính phủ
tránh được những chi phí không cần thiết, đôi khi tránh được những hoạt động sai lầm, phải
khắc phục trong tương lai;
- ĐTM giúp cho nhà nước, các cơ sở và cộng đồng có mối liên hệ chặt chẽ hơn. Các đóng
góp của cộng đồng trước khi dự án được đầu tư, hoạt động có thể nâng cao mối liên hệ cộng
đồng và đảm bảo hiệu quả đầu tư;
- Thông qua các kiến nghị của ĐTM, việc sử dụng tài nguyên sẽ thận trọng hơn và giảm
được sự đe dọa của suy thoái môi trường đến sức khỏe con người và hệ sinh thái.

1.2. CÁC HÌNH THỨC ĐÁNH GIÁ MÔI TRƯỜNG
1.2.1. Phân loại đánh giá tác động môi trường
Mỗi quốc gia, căn cứ vào những điều kiện cụ thể, loại dự án, quy mô dự án, khả năng gây
tác động… mà có quy định mức độ đánh giá đối với mỗi dự án cụ thể.
a. Theo ngân hàng phát triển Châu Á (ADB - Asian Development Bank), có 3 nhóm sau:
- Nhóm A: là những dự án nhất thiết phải tiến hành ĐTM đầy đủ, nghĩa là phải lập, duyệt
báo cáo đánh giá tác động môi trường và kiểm soát sau khi dự án đi vào hoạt động. Thuộc về
nhóm này là những dự án có thể gây tác động lớn làm thay đổi các thành phần môi trường, cả
môi trường xã hội, vật lý và sinh học.

12


- Nhóm B: không cần tiết phải tiến hành ĐTM đầy đủ nhưng phải kiểm tra các tác động
môi trường. Thường thì những dự án thuộc nhóm này là những dự án có quy mô nhỏ hơn các
dự án thuộc nhóm A. Chẳng hạn, nhà máy nhiệt điện quy mô lớn thì thuộc nhóm A, còn quy
mô vừa và nhỏ thì thuộc nhóm B.
- Nhóm C: Là nhóm các dự án không phải tiến hành ĐTM. Thường thì những dự án này
không gây tác hại đáng kể hoặc những tác động đó có thể khắc phục được.
b. Theo Luật Bảo vệ môi trường 2005 của Việt Nam quy định 3 loại đối tượng:
- Đối tượng phải lập báo cáo Đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) bao gồm:

+ Chiến lược (C), quy hoạch (Q), kế hoạch (K) phát triển kinh tế- xã hội cấp quốc gia.
+ Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực trên quy mô cả nước.
+ Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, vùng.
+ Quy hoạch sử dụng đất; bảo vệ và phát triển rừng; khai thác và sử dụng các nguồn
tài nguyên thiên nhiên khác trên phạm vi liên tỉnh, liên vùng.
+ Quy hoạch phát triển vùng kinh tế trọng điểm.
+ Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông quy mô liên tỉnh.
- Đối tượng phải lập báo cáo Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) bao gồm:
+ Dự án công trình trọng điểm quốc gia;
+ Dự án có sử dụng một phần diện tích đất hoặc có ảnh hưởng xấu đến khu bảo tồn
thiên nhiên, vườn quốc gia, các khu di tích lịch sử- văn hoá, di sản tự nhiên, danh lam thắng
cảnh đã được xếp hạng;
+ Dự án có nguy cơ ảnh hưởng xấu đến nguồn nước lưu vực sông, vùng ven biển,
vùng có hệ sinh thái được bảo vệ;
+ Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao,
khu chế xuất, cụm làng nghề;
+ Dự án xây dựng mới đô thị, khu dân cư tập trung;
+ Dự án khai thác, sử dụng nước dưới đất, tài nguyên thiên nhiên quy mô lớn;
+ Dự án có tiềm ẩn nguy cơ lớn gây tác động xấu đối với môi trường;
- Đối tượng phải có bản Cam kết bảo vệ môi trường (CKBVMT) bao gồm: các cơ sở sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ quy mô gia đình có tạo ra chất thải và các đối tượng không thuộc
nhóm phải tiến hành ĐMC và ĐTM.

1.2.2. Đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC)
a. Khái niệm về ĐMC ở Việt Nam
Đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) là việc phân tích và dự báo các tác động tiềm
tàng của các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển trước khi phê duyệt nhằm đảm bảo
phát triển bền vững (Luật BVMT 2005, Chương I, Điều 3, Khoản 19).
ĐMC là công cụ (quá trình) hỗ trợ và tạo thuận lợi cho việc ra quyết định, bao gồm

những hành động ở cấp độ chiến lược của quá trình ra quyết định, và hướng trọng tâm vào
một số vấn đề liên quan phục vụ cho việc ra quyết định
b. Sự khác nhau giữa ĐMC và ĐTM
ĐMC về cơ bản có thể được tiến hành theo phần lớn các bước phân tích cơ bản của ĐTM
nhưng với phạm vi lớn hơn về thời gian, không gian và đối tượng
ĐMC phải đưa ra được sự tổng quan về xu hướng biến đổi môi trường trong các trường
hợp không có Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch và có Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch

13


ĐMC có thể đưa ra các khuyến nghị về: (i) những thay đổi trong Chiến lược, Quy hoạch,
Kế hoạch được đề xuất, (ii) việc hoàn thiện trong cách thức điều phối giữa các cơ quan liên
quan, hoặc (iii) những can thiệp mang tính liên ngành cần thiết
ĐMC cũng có thể đưa ra những gợi ý đối với công tác ĐTM cho các dự án trong tương
lai và cải thiện chất lượng của công tác này.

MÔ HÌNH THÁP VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐMC VÀ ĐMT
ĐMC
Đánh giá tác động cộng hưởng
của một chiến lược, quy hoạch
hoặc kế hoạch

CL
Chiến
lược

Quy hoạch

Hài hòa giữa phát triển kinh

tế, môi trường và xã hội, bảo
đảm cho sự phát triển bền vững

Kế hoạch
ĐMT
Đánh giá tác động môi trường
của một dự án đầu tư cụ thể
- Bảo đảm cho quá trình thực hiện
dự án đáp ứng được các tiêu chuẩn
về môi trường

Dự án đầu tư

Bảng 1.1. Phân biệt ĐTM và ĐMC

Vấn đề
Các phương án
xem xét
Các tác động

Việc đánh giá
Công chúng
quan tâm
Rà soát về chất
lượng

ĐTM

ĐMC


Vị trí và công nghệ

Các phương hướng phát triển (mục tiêu và
kịch bản) và hoạt động đa chiều để đạt
được chúng
Các tác động cụ thể đến tình
Các xu hướng dài hạn (thường liên quan
trạng môi trường địa phương– đến các mục tiêu về môi trường/phát triển
so sánh với chất lượng môi
bền vững) – so sánh với các mục tiêu về
trường địa phương
môi trường/phát triển bền vững
Các tác động cụ thể thường chỉ được đánh
giá nếu trong Chiến lược, Quy hoạch, Kế
hoạch có các đề xuất dự án cụ thể.
Định lượng hơn
Định tính hơn (các phán xét của chuyên
gia)
Công chúng và các nhóm có tổ Chủ yếu là các “công chúng” có tổ chức –
chức bị tác động
các nhóm có sự quan tâm, nhóm chuyên
gia cố vấn
Chất lượng của bảo cáo ĐTM Chất lượng của các đánh giá, quá trình tiến
và quá trình quản lý
hành đúng đắn và các chi phí tương ứng
cho ĐMC trong cả quá trình xây dựng
Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch

14



c. Vai trò của ĐMC
*Tại sao ĐMC quan trọng?
Các nhà ra quyết định phải xem xét nhiều hơn đến các tác động tích lũy và lâu dài của các
dự án khác nhau
ĐTM của các dự án là công cụ quan trọng nhưng chưa đủ để giải quyết một cách có hệ
thống các tác động tích lũy của các dự án
ĐMC đối với Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch có thể lột tả một cách có hiệu quả các tác
động mang tính chiến lược và nó sẽ làm cho ĐTM ở cấp độ dự án được tăng cường và hợp lý
hóa hơn.
*ĐMC có thể làm được gì?
- Đưa ra được một viễn cảnh xem xét liên ngành
- Đẩy mạnh được cách tiếp cận mang tính chiến lược và tổng hợp
- Thảo luận về các các phương án thay thế khác nhau trong khi sự lựa chọn vẫn còn để
mở
- Hỗ trợ cho quá trình ra quyết định chiến lược
- Gắn kết được các vấn đề môi trường và các nguyên tắc của tính bền vững vào quá
trình xây dựng chính sách và Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch.
- ĐMC trợ giúp cho quá trình xây dựng Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch và cho các cơ
quan có trách nhiệm ra quyết định trong việc xem xét:
o Các xu hướng chủ yếu về môi trường hoặc tính bền vững, các tiềm năng và cơ hội
o Các vấn đề về môi trường hoặc tính bền vững và các mục tiêu liên quan đến Chiến
lược, Quy hoạch, Kế hoạch
o Các tác động quan trọng về môi trường (có thể cả về kinh tế và xã hội) của các lựa
chọn được đề xuất và việc thực hiện các Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch
o Ủng hộ và phản đối sự lựa chọn các phương án thay thế khác nhau
o Các biện pháp nhằm tránh hoặc giảm thiểu các tác động tiêu cực và tăng cường
các tác động tích cực
o Các ý kiến về các vấn đề trên từ các cơ quan chức năng liên quan và từ công chúng
*Lợi ích của ĐMC:

- Tiết kiệm được thời gian và tiền của cho quá trình ra quyết định chiến lược
- Làm gia tăng sự ủng hộ của công chúng đối với các nhà hoạch định Chiến lược, Quy
hoạch, Kế hoạch và những người ra quyết định
- Nâng cao được chất lượng của việc ra quyết định chiến lược
- ĐMC làm cho tiết kiệm được tiền của
o Do nó là một công cụ để sớm loại bỏ được các dự án phát triển không khả thi mà
sau đó có thể sẽ bị bác bỏ do các nguyên nhân về môi trường (mà trong quá trình
lập Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch đòi hỏi nhiều nguồn lực, nhất là thời gian và
tiền của, để xây dựng chúng)
o Do nó trợ giúp cho chính phủ tiết kiệm được các chi phí liên quan đến việc giải
quyết các vấn đề về môi trường và sức khỏe ở quy mô rộng lớn có thể được tạo ra
bởi các quyết định chiến lược mơ hồ về mặt môi trường
- ĐMC làm cho tiết kiệm được thời gian
o Do nó là một công cụ để sớm giải quyết được các xung đột. Nó làm giảm được các
rủi ro xảy ra xung đột giữa các bên liên quan về môi trường và giảm được sự chậm
trễ trong việc thực hiện các quyết định chiến lược
o Do nó hướng được trọng tâm (và có thể làm đơn giản hóa) cho công tác ĐTM đối
với các dự án trong giai đọan thực hiện quyết định chiến lược – điều này giúp tiết
kiện được thời gian cũng như tiền của

15


- ĐMC nâng cao được sự tin cậy của công chúng đối với quá trình xây dựng Chiến
lược, Quy hoạch, Kế hoạch và quá trình ra quyết định
o Do nó tạo ra được những cơ hội để công chúng (có thể cả những người có trình độ
chuyên môn cao) đóng góp ý kiến cho quá trình xây dựng Chiến lược, Quy hoạch,
Kế hoạch
o Nếu được thực hiện tốt, ĐMC có thể giúp huy động được sự hỗ trợ của các bên
liên quan chủ chốt trong việc thực hiện các quyết định chiến lược

- ĐMC nâng cao được chất lượng của việc ra quyết định chiến lược
o Do nó làm tăng cường được sự gắn kết giữa phát triển kinh tế và quá trình xây
dựng Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch có tính đếm đến vấn đề môi trường
o Do nó tạo ra khả năng để chính phủ đạt được những mục tiêu về môi trường đã
được chính thức phê duyệt
o Do nó trợ giúp để chuyển đổi từng bước trong phát triển kinh tế theo hướng phát
triển bền vững
*Chi phí của ĐMC:
- Ở châu Âu, ĐMC có thể bằng 5-10% tổng chi phí xây dựng Chiến lược, Quy hoạch,
Kế hoạch
- Chi phí này được coi là chi phí rất nhỏ so với lợi ích về tài chính mà ĐMC mang lại
d. Tổng quan về luật pháp, quy định và hướng dẫn thực hiện ĐMC ở Việt Nam
Cơ sở pháp lý vững mạnh cho ĐMC đối với các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch
(Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch) (không áp dụng cho các chính sách)
Giao trách nhiệm ĐMC cho các “chủ” xây dựng Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch
Ngoài các tác động về môi trường, ĐMC ở Việt Nam có thể bao gồm cả các tác động về
xã hội và kinh tế, tùy thuộc vào sự lựa chọn cách tiếp cận ĐMC cụ thể
Có chương trình rộng lớn về thử nghiệm ĐMC (hơn 20 ĐMC thử nghiệm đã và đang tiến
hành)
*Cơ sở pháp lý cho ĐMC
- Luật Bảo vệ môi trường (Luật BVMT) được Quốc hội thông qua 29/11/2005)
- Nghị định Số 80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ hướng dẫn thực hiện
Luật BVMT
- Nghị định Số: 29/2011/NĐ-CP ngày 18/ 04/ 2011 của Chính phủ quy định về đánh giá
môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường
- Thông tư số 08/2006/TT-BTNMT ngày 08/9/2006 của Bộ TNMT về ĐMC, ĐTM và
cam kết bảo vệ môi trường
- Thông tư số 26/2011/TT-BTNMT ngày 18/7/2011 của Bộ TNMT quy định chi tiết
một số điều của Nghị định số 29/2011/NĐ-CP
- Hướng dẫn kỹ thuật chung về ĐMC của Bộ TNMT

*Luật Bảo vệ Môi trường (Luật BVMT)
- Xác định những đối tượng Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch phải tiến hành ĐMC
- Giao nhiệm vụ thực hiện ĐMC cho các cơ quan có trách nhiệm về xây dựng Chiến
lược, Quy hoạch, Kế hoạch
- Xác định các vấn đề chính cần giải quyết trong ĐMC – những vấn đề lớn này chủ yếu
là các vấn đề về môi trường, ngoài ra còn có cả những vấn đề về xã hội và kinh tế
- Nhấn mạnh đến sự tham gia của nhiều cơ quan hữu quan cụ thể trong quá trình thẩm
định ĐMC
Điều 15, Luật BVMT: Các quy định về thực hiện ĐMC

16


-

Các cơ quan được giao nhiệm vụ lập dự án Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch có trách
nhiệm lập báo cáo ĐMC
- Báo cáo ĐMC là một nội dung của dự án và phải được lập đồng thời với quá trình lập
dự án Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch
Điều 16, Luật BVMT: Nội dung báo cáo ĐMC
- Khát quát về mục tiêu, quy mô, đặc điểm của dự án có liên quan đến môi trường
- Mô tả tổng quát các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và môi trường có liên quan đến
dự án
- Dự báo các tác động tiêu cực đến môi trường có thể xảy ra trong khi thực hiện dự án
- Chỉ dẫn nguồn cung cấp số liệu, dữ liệu và phương pháp đánh giá
- Đề ra phương hướng và giải pháp tổng thể giải quyết các vấn đề môi trường trong quá
trình thực hiện dự án
Điều 17, Luật BVMT: Thẩm định báo cáo ĐMC
- Báo cáo ĐMC được thẩm định thông qua một hội đồng thẩm định
- Kết quả thẩm định báo cáo ĐMC là căn cứ cho việc phê duyệt Chiến lược, Quy hoạch,

Kế hoạch
- Bộ TNMT – tổ chức hội đồng thẩm định báo cáo ĐMC của các Chiến lược, Quy
hoạch, Kế hoạch do Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng CP phê duyệt
- Các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ - hội đồng thẩm định báo cáo
ĐMC của các Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch do mình phê duyệt
- UBND- hội đồng thẩm định báo cáo ĐMC của các Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch
thuộc quyền phê duyệt của mình hoặc của hội đồng nhân dân cùng cấp
*Nghị định số 80/2006/NĐ-CP (Nghị định của Chính phủ ban hành ngày 09/8/2006 về
việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BVMT)
- Cụ thể hóa vai trò, trách nhiệm và thời hạn đối với việc thẩm định báo cáo ĐMC
- Thời gian cho việc thẩm định báo cáo ĐMC:
o 45 ngày đối với các Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch do Quốc hội, Chính phủ
và Thủ tướng CP phê duyệt
o 30 ngày đối với các Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch khác
*Nghị định Số: 29/2011/NĐ-CP ngày 18/ 04/ 2011 của Chính phủ quy định về đánh giá
môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường:
Xác định đối tượng thực hiện ĐMC và các hình thức thực hiện ĐMC
1. Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch năm (05) năm trở lên quy định tại phần A Phụ lục I
Nghị định này thực hiện đánh giá môi trường chiến lược chi tiết dưới hình thức lồng ghép
trong báo cáo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch.
2. Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch năm (05) năm trở lên quy định tại phần B Phụ lục I
Nghị định này thực hiện đánh giá môi trường chiến lược chi tiết dưới hình thức báo cáo riêng.
3. Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch năm (05) năm trở lên của các ngành, lĩnh vực cấp
quốc gia không thuộc danh mục Phụ lục I Nghị định này thực hiện đánh giá môi trường chiến
lược rút gọn dưới hình thức lồng ghép trong báo cáo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch.
4. Kế hoạch năm (05) năm được xây dựng phù hợp với quy hoạch của ngành, lĩnh vực đã
được thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược không bắt buộc thực hiện đánh giá
môi trường chiến lược.
5. Khuyến khích thực hiện đánh giá môi trường chiến lược đối với chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch không quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.

Thời điểm thực hiện và yêu cầu về việc sử dụng kết quả ĐMC

17


1. Đánh giá môi trường chiến lược phải được thực hiện đồng thời với quá trình lập chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch.
2. Kết quả đánh giá môi trường chiến lược phải được tích hợp vào văn bản chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch.
Nội dung báo cáo đánh giá môi trường chiến lược
Nội dung chính của báo cáo ĐMC chi tiết dưới hình thức báo cáo riêng bao gồm:
- Mô tả tóm tắt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch;
- Quá trình tổ chức thực hiện đánh giá môi trường chiến lược; mô tả phạm vi nghiên
cứu của đánh giá môi trường chiến lược và các vấn đề môi trường chính liên quan đến
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch;
- Mô tả diễn biến trong quá khứ và dự báo xu hướng của các vấn đề môi trường chính
trong trường hợp không thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch;
- Đánh giá sự phù hợp của các quan điểm, mục tiêu của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
với các quan điểm, mục tiêu về bảo vệ môi trường; đánh giá, so sánh các phương án
phát triển của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch;
- Đánh giá tác động đến các vấn đề môi trường chính trong trường hợp thực hiện chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch;
- Tham vấn các bên liên quan trong quá trình thực hiện đánh giá môi trường chiến lược;
- Đề xuất điều chỉnh chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các biện pháp phòng ngừa,
giảm thiểu tác động xấu đến môi trường.
- Chỉ dẫn nguồn cung cấp số liệu, dữ liệu và phương pháp đánh giá;
- Kết luận và kiến nghị.
Nội dung chính báo cáo đánh giá môi trường chiến lược chi tiết lồng ghép trong báo cáo
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch bao gồm:
- Quá trình tổ chức thực hiện đánh giá môi trường chiến lược; mô tả phạm vi nghiên

cứu của đánh giá môi trường chiến lược và các vấn đề môi trường chính liên quan đến
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch;
- Đánh giá sự phù hợp của các quan điểm, mục tiêu của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
với các quan điểm, mục tiêu về bảo vệ môi trường; đánh giá; so sánh các phương án
phát triển của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch;
- Đánh giá tác động đến các vấn đề môi trường chính trong trường hợp thực hiện chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch;
- Tham vấn các bên liên quan trong quá trình thực hiện đánh giá môi trường chiến lược;
- Đề xuất điều chỉnh chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các biện pháp phòng ngừa,
giảm thiểu tác động xấu đến môi trường;
- Kết luận và kiến nghị.
Nội dung chính của báo cáo đánh giá môi trường chiến lược rút gọn bao gồm:
- Quá trình tổ chức thực hiện đánh giá môi trường chiến lược, phạm vi nghiên cứu của
đánh giá môi trường chiến lược và các vấn đề môi trường chính liên quan đến chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch;
- Đánh giá tác động đến các vấn đề môi trường chính trong trường hợp thực hiện chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch;
- Đề xuất điều chỉnh chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các biện pháp phòng ngừa,
giảm thiểu tác động xấu đến môi trường;
- Kết luận và kiến nghị.

18


Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định cụ thể yêu cầu về nội dung báo cáo đánh giá môi
trường chiến lược chi tiết và báo cáo đánh giá môi trường chiến lược rút gọn; xây dựng, ban
hành các hướng dẫn kỹ thuật đánh giá môi trường chiến lược chuyên ngành.
Nghị định Số: 29/2011/NĐ-CP còn hướng dẫn chi tiết về yêu cầu thủ tục Hồ sơ đề nghị
thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, quy trình Thẩm định báo cáo đánh giá
môi trường chiến lược, Thời hạn thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, Trách

nhiệm của chủ dự án sau khi báo cáo đánh giá môi trường chiến lược được thẩm định, Báo
cáo kết quả thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, và Trách nhiệm của cơ quan
thẩm định, phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch.
* Thông tư số 08/2006/TT-BTNMT (Thông tư của Bộ TNMT ngày 08/9/2006 về hướng dẫn
thực hiện ĐMC, ĐTM và cam kết bảo vệ môi trường)
- Chi tiết hóa các thủ tục ĐMC
- Chi tiết hóa nội dung của báo cáo ĐMC (yêu cầu chủ yếu về đánh giá các tác động
môi trường, nhưng ở mức độ nhất định có cả các tác động về xã hội và kinh tế nữa)
- Hướng dẫn kỹ thuật chung về ĐMC của Bộ TNMT
o Do Bộ TNMT xây dựng – tổng hợp các bài học từ các ĐMC thử nghiệm ở Việt
Nam và các kinh nghiệm của Châu Âu
o Xác định các bước đánh giá chính và mối liên kết giữa chúng với quá trình xây
dựng Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch
o Đưa ra các đề xuất về việc huy động sự tham gia của công chúng và gợi ý thực
hành
o Trình bày một cách tổng quát về những phương pháp cơ bản để thực hiện
ĐMC ở Việt Nam
e. Những người tham gia chính trong qúa trình ĐMC
*Các bên tham gia trực tiếp trong quá trình ĐMC
- Các cơ quan được giao nhiệm vụ xây dựng Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch
- Các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành ĐMC
- Các cấp chính quyền có trách nhiệm phê duyệt Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch
- Các thành viên của hội đồng thẩm định báo cáo ĐMC
- Các tổ chức có mối quan tâm đến việc góp ý cho ĐMC (các cơ quan nghiên cứu, các
tổ chức phi chính phủ)
- Các bên liên quan khác (công chúng, giới kinh doanh)
*Các bên tham gia trực tiếp trong quá trình ĐMC – Yêu cầu pháp lý
- Thông tư 08/2006/TT-BTNMT, Phần 1- Mục II
Cơ quan được giao nhiệm vụ lập Dự án Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch phải thành
lập một nhóm công tác bao gồm các chuyên gia môi trường, các nhà khoa học liên quan để

thực hiện ĐMC và lập báo cáo ĐMC
- Luật Bảo vệ Môi trường, Điều17
Khoản 2: Thành phần của hội đồng thẩm định báo cáo ĐMC bao gồm đại diện của
UBND, các cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường và các chuyên môn liên quan khác,
các chuyên gia có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn phù hợp với nội dung và tính chất của
dự án; và các đại diện của các tổ chức và cá nhân khác do cơ quan có thẩm quyền thành lập
hội đồng thẩm định quyết định
- Nghị định 140/2006/NĐ-CP ngày 22/11/206 của Chính Phủ
Điều 8. Giai đoạn tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình và
dự án phát triển.

19


Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ
quản lý ngành, UBND …giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định bảo vệ môi
trường đối với các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển.
f. Các nguyên tắc hướng dẫn áp dụng ĐMC
- Phải được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền về Chiến lược, Quy hoạch, Kế
hoạch
- Phải được áp dụng càng sớm càng tốt trong quá trình ra quyết định
- Cần hướng trọng tâm vào những vấn đề cốt lõi
- Tập trung sự đánh giá vào các phương án hợp lý
- Tạo ra được những cơ hội thích hợp cho sự tham gia của các bên hữu quan và của
công chúng
- Được tiến hành với những phương pháp và kỹ thuật phân tích có hiệu quả về mặt chi
phí
*Về cơ bản ĐMC phải làm được những gì?
- Huy động được sự tham gia của các bên liên quan chủ yếu
- Cung cấp được các thông tin đầu vào thật sớm và “thân thiện vớI người sử dụng”

phục vụ cho việc soạn thảo Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch (ví dụ như các phương
án lựa chọn, các biện pháp giảm thiểu tác động ...)
- Đưa ra được một cách nhìn tổng quan mang tính sâu rộng nhưng có thể chưa đủ chi
tiết về các vấn đề về môi trường, kinh tế và xã hội (các rủi ro, các cơ hội) của các đề
xuất phát triển
- Phân tích kỹ lưỡng được các tác động tích cực và tiêu cực về môi trường (ví dụ như
các xu hướng biến đổi lâu dài, các tác động tích lũy…)
*Bốn lý do mà ĐMC có thể làm tăng thêm giá trị cho việc ra quyết định chiến lược
- Nó lồng ghép được các vấn đề về môi trường và tính bền vững và được xem như là
nhân tố chủ chốt để ra quyết định
- Nó tạo ra cơ hội để thảo luận về các phương án lựa chọn khi chúng còn đang được để
ngỏ
- Nó thúc đẩy được sự hợp tác về thể chế và giải quyết được các mâu thuẫn về chính
sách giữa các ngành
- Nó biến các vấn đề khó khăn thành những cơ hội và thúc đẩy được giải pháp các bên
cùng có lợi
*ĐMC có thể có các hình thức khác nhau
- Chỉ hướng trọng tâm vào các tác động về môi trường hoặc (ii) Hướng vào việc tổng
hợp vấn đề về môi trường, xã hội và kinh tế của tính bền vững;
- Huy động nhiều bên tham gia hoặc (ii) chỉ giới hạn ở việc đánh giá của các chuyên
gia; hoặc
- Chỉ được tiến hành trong khuôn khổ thời gian ngắn hoặc (ii) trong dài hạn
g. Các kết quả của ĐMC
- ĐMC đưa ra các gợi ý thực tiễn cho việc lồng ghép các khía cạnh về môi trường hoặc
tính bền vững vào quá trình xây dựng Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch thông qua:
o Việc xác định những hạn chế và cơ hội về môi trường
o Những gợi ý để tối ưu hóa các định hướng phát triển của Chiến lược, Quy
hoạch, Kế hoạch (ví dụ định hướng từ việc quản lý dựa theo việc đáp ứng nhu
cầu sang quản lý dựa theo nhu cầu);
o Những gợi ý để tốI ưu hóa các hành động được đề xuất (bản chất, trình tự, quy

mô/địa điểm, v.v…);
o Những gợi ý để tối ưu hóa việc tổ chức thực hiện.

20


-

-

-

Kết quả thứ cấp của quá trình ĐMC là một báo cáo ĐMC, trong đó:
o Đảm bảo rằng các nhà ra quyết định và các bên hữu quan có thể thẩm định
được chất lượng của một báo cáo ĐMC đích thực
o Phải chứa đựng các thông tin yêu cầu về mặt pháp lý
o Được sử dụng để thẩm định Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch
Vai trò của ĐMC trong qúa trình đánh giá tính bền vững
o Coi ĐMC như là một trong những công cụ phân tích và qúa trình chủ yếu để
đạt được kết quả của sự phát triển bền vững bằng cách:
o Đánh giá các tác động tiềm tàng
o Tăng cường lồng ghép các mối quan tâm về môi trường vào quá trình xây
dựng Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch
o Tạo điều kiện tuận lợi cho việc thiết kế các công trình thực tế bền vững về môi
trường
Những yêu cầu ưu tiên để thực hiện tốt công tác ĐMC
o Bối cảnh chính sách (chính sách về tính bền vững, các mục tiêu và chiến lược)
o Hệ thống ra quyết định có trách nhiệm
o Các quá trình ra quyết định thích ứng
o Lồng ghép và điều phối tốt với các quá trình xây dựng Chiến lược, Quy hoạch,

Kế hoạch và ra quyết định
o Cách tiếp cận đơn giản, có tính tương tác và linh hoạt
o Cách tiếp cận tổng hợp về quy mô và mốI tương tác chéo giữa các nhân tố liên
quan
o Khả năng tiếp cận với thông tin (ví dụ với báo cáo hiện trạng môi trường)
o Hướng dẫn để thực hành tốt
o Sự trình diễn về các lợi ích – ví dụ về các thực hành tốt và xấu
o Quá trình có sự tham gia, bao gồm các cơ quan khác nhau, các nhóm công
chúng có những ưu tiên và sở thích riêng
o Các thông tin đầu vào cho quyết định: là các kết quả ĐMC kịp thời, thích hợp
và có sức thuyết phục
o Chuyển biến về thái độ, thủ tục mới trong việc ra quyết định

1.2.3. Đánh giá tác đôông môi trường (ĐTM)
a. Đối tượng cần đánh giá tác động môi trường
Đối tượng của ĐTM đã ít nhiều được đề cập đến ở những phần trên. Đối tượng chính
thường gặp và có số lượng nhiều nhất là các dự án phát triển cụ thể. Mỗi quốc gia, căn cứ vào
điều kiện cụ thể, loại dự án, quy mô dự án và khả năng gây tác động mà có quy định mức độ
đánh giá đối với mỗi dự án cụ thể. Theo Luật BVMT Việt Nam, ban hành 2005, trong điều
18, mục 2 của chương III quy định các đối tượng phải lập báo cáo đánh giá tác động môi
trường. Đó là các dự án công trình quan trọng quốc gia; dự án có nguy cơ ảnh hưởng xấu đến
nguồn nước lưu vực sông, vùng ven biển, vùng có hệ sinh thái được bảo vệ; dự án xây dựng
kết cấu hạ tầng khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu chế xuất, cụm làng
nghề….
Đối tượng phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường quy định chi tiết tại Phụ lục II
Nghị định Số: 29/2011/NĐ-CP của chính phủ; bao gồm 146 loại hình dự án phải lập báo cáo
ĐTM:
b. Đối tượng bị tác động
Theo đối tượng tác động có thể xét một số loại chính sau:


21


- Môi trường và sinh thái: tác động lên môi trường không khí, nước, hệ sinh thái, đa
dạng sinh học, danh thắng, cảnh quan tự nhiên và nhân tạo, di tích lịch sử văn hoá, phát triển
và quản lý giao thông, xói mòn và suy thoái đất, thoát nước, không gian, phát sinh và quản lý
chất thải, khí hậu
- Tài nguyên thiên nhiên: tác động lên đất nông nghiệp, hệ động thực vật, tài nguyên
rừng, cung cấp nước (kể cả nước ngầm), tài nguyên khoáng sản và thài nguyên biển, tài
nguyên năng lượng, vật liệu xây dựng, đất ngập nước, rừng ngập mặn, san hô, rừng mưa, rừng
cây bụi,..
- Môi trường xã hội: tác động lên các mô hình tái định cư, sử dụng đất, nhà ở, đời sống
xã hội, phúc lợi, phương tiện giải trí, trang bị và dịch vụ công cộng, vấn đề an toàn, cộng
đồng bản địa, nhóm thiểu số, thế hệ trẻ, nạn thất nghiệp, người cao tuổi, tàn tật, phụ nữ và các
khía cạnh khác của cộng đồng chịu tác động, sức khỏe,…
- Kinh tế: tác động đến cơ hội có việc làm, khả năng tiếp cận các phương tiện, dịch vụ
và việc làm, hạ tầng cơ sở đô thị, khả năng lựa chọn và giá thành hàng hoá, dịch vụ hợp lý,
mặt bằng giá địa phương, chi phí hạ tầng cơ sở và khoản đóng góp, thu nhập thực tế, giá đất
và hiệu ứng luỹ tiến có thể.
c. Tổ chức và quản lý công tác ĐTM
Vai trò, trách nhiệm của các cơ quan và cá nhân tham gia vào quá trình ĐTM
ĐTM là công cụ trong quản lý môi trường, nó có liên hệ hai chiều với các công cụ khác,
cũng có nghĩa là việc tổ chức và quản lý công tác này phải có sự kết hợp, thống nhất với các
cơ quan liên quan. Có thể tách các cơ quan này thành 4 nhóm có chức năng và sự tham gia
khác nhau vào quá trình ĐTM.
Cơ quan ban hành luật về bảo vệ môi trường và ĐTM
Quốc hội ban hành các luật cơ bản như Luật BVMT, Luật khoáng sản, Luật đất đai, ...
Các cơ quan này không những ban hành Luật, chủ trương, chính sách mà còn theo dõi việc
thực hiện trong thực tế để có thể điều chỉnh cho phù hợp.
Cơ quan quản lý tài nguyên thiên nhiên và môi trường

Chính phủ, các Bộ, các ngành, chính quyền địa phương có trách nhiệm quản lý toàn bộ
tài nguyên thiên nhiên. Đối với ĐTM có chức năng như sau:
- Cụ thể hóa và đưa ra các văn bản hướng dẫn việc tiến hành các điều luật liên quan đến
ĐTM.
- Duyệt, thẩm định các báo cáo ĐTM.
- Kiểm tra và giám sát những cam kết trong ĐTM của dự án đưa ra.
Cơ quan thực thi ĐTM
Luật Bảo vệ môi trường của Việt Nam đã quy định trách nhiệm thực thi ĐTM:
- Chủ dự án đã quy định trong điều về đối tượng phải lập báo cáo ĐTM có trách nhiệm
thực thi ĐTM và trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
- Chủ dự án tự mình hoặc thuê tổ chức dịch vụ tư vấn lập báo cáo ĐTM và chịu trách
nhiệm về các số liệu, kết quả nêu trong báo cáo ĐTM.
- Tổ chức dịch vụ tư vấn lập báo cáo ĐTM phải có đủ điều kiện về cán bộ, chuyên môn,
cơ sở vật chất – kỹ thuật cần thiết.
Tại sao lại chọn chủ dự án là cơ quan phải thực thi ĐTM?
- Chủ dự án là người am hiểu về các hoạt động dự án nhất (công nghệ, nguyên nhiên liệu,
sản phẩm đầu ra), và khả năng tác động của dự án tới môi trường.
- Chủ dự án sẽ là người thực thi các biện pháp giảm thiểu, xử lý các ảnh hưởng gây ra đối
với môi trường nên các giải pháp mà họ đề xuất sẽ có tính khả thi cao.

22


- Chủ dự án có thể tối thiểu hóa được chi phí cho ĐTM khi ghép các hoạt động đánh giá
cùng với các hoạt động sản xuất của họ.
- Tính khách quan của công tác ĐTM vẫn đảm bảo nếu có cơ chế nhận xét, thẩm định
thích hợp.
- Kinh phí cho công tác ĐTM được lấy từ chủ dự án, không phải từ nguồn ngân sách nên
chủ dự án tiến hành ĐTM sẽ tiết kiệm hơn.
Cơ quan thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường

- Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức hội đồng thẩm định hoặc tuyển chọn tổ chức dịch
vụ thẩm định báo cáo ĐTM đối với các dự án do Quốc hội, chính phủ, thủ tướng chính phủ
quyết định, phê duyệt, dự án liên ngành, liên tỉnh… bao gồm 11 loại hình dự án được xác
định chi tiết trong Phụ lục III, Nghị định số 29/2011/NĐ-CP.
- Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ tổ chức hội đồng thẩm định hoặc tuyển
chọn tổ chức dịch vụ thẩm định báo cáo ĐTM đối với dự án thuộc quyền quyết định, phê
duyệt của mình trừ dự án liên ngành, liên tỉnh.
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức hội đồng thẩm định hoặc tuyển chọn tổ chức dịch vụ
thẩm định báo cáo ĐTM đối với dự án trên địa bàn quản lý thuộc thẩm quyền quyết định, phê
duyệt của mình và của hội đồng nhân dân cùng cấp.
- Thành phần hội đồng thẩm định đối với dự án lớn (dự án liên ngành, liên tỉnh, dự án do
Quốc hội, chính phủ, thủ tướng chính phủ, bộ phê duyệt), bao gồm: đại diện cơ quan phê
duyệt dự án; cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường của cơ quan phê duyệt dự án; cơ quan
chuyên môn về bảo vệ môi trường cấp tỉnh nơi thực hiện dự án; các chuyên gia có kinh
nghiệm và chuyên môn phù hợp với nội dung của dự án; đại diện của tổ chức, cá nhân khác
do cơ quan có thẩm quyền thành lập hội đồng thẩm định quyết định.
- Thành phần hội đồng thẩm định đối với dự án trên địa bàn của tỉnh và do tỉnh phê
duyệt, bao gồm: đại diện ủy ban nhân dân cấp tỉnh; cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi
trường và các sở; các chuyên gia có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn phù hợp với nội
dung dự án; đại diện tổ chức và cá nhân khác do cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập
hội đồng thẩm định quyết định.
- Cơ quan thành lập hội đồng thẩm định báo cáo ĐTM có trách nhiệm xem xét và phê
duyệt báo cáo ĐTM sau khi đã được thẩm định.
Cơ quan tham gia hỗ trợ và nhận xét
Trách nhiệm thực hiện ĐTM thuộc về chủ dự án. Song vẫn cần sự hỗ trợ, tư vấn, nhận
xét, đánh giá của cộng đồng và các cơ quan khác. Kiến thức sử dụng trong ĐTM rất rộng, vì
vậy cần có sự tham gia của các Viện nghiên cứu, các trường đại học và của các chuyên gia.
Các chuyên gia môi trường có vai trò, trách nhiệm sau:
Có thể giúp chủ dự án thực hiện ĐTM
- Nghiên cứu môi trường

- Đề xuất, thiết kế các biện pháp giảm thiểu, lập kế hoạch quản lý và giám sát môi
trường
- Ngoài ra các chuyên gia môi trường còn có thể là thành viên hội đồng thẩm định ĐTM
Các tổ chức quốc tế có vai trò sau:
- Trợ giúp về mặt kỹ thuật ĐTM cho các nước
- Cung cấp chuyên gia ĐTM
- Cung cấp tài liệu kỹ thuật, các phương pháp, chuẩn cứ để đánh giá
- Trao đổi và chuyền đạt kinh nghiệm về ĐTM
Các trường đại học, các Viện, trung tâm nghiên cứu có vai trò sau:
- Đào tạo nhân lực cho công tác ĐTM.

23


- Cung cấp chuyên gia thực hiện ĐTM.
- Có thể là thành viên hội đồng thẩm định.
Vai trò của cộng đồng và cá nhân
Cộng đồng ở nơi đặt dự án là những người trực tiếp chịu tác động của dự án, vì vậy họ có
quyền được biết và được tham gia vào quá trình ĐTM. Vấn đề là phải tạo cơ chế như thế nào
để sự đóng góp của cộng đồng mang lại hiệu quả cao.
Cộng đồng có vai trò sau:
- Tham gia vào suốt quá trình ĐTM;
- Những ý kiến đóng góp của cộng đồng là cơ sở để chủ dự án hạn chế các tác động;
- Cộng đồng còn là nơi giám sát các tác động của dự án;
- Sự tham gia của cộng đồng càng sớm thì hiệu quả công tác ĐTM càng cao.
d. Kết quả đánh giá tác động môi trường
*Sử dụng kết quả ĐTM
Báo cáo ĐTM là tài liệu giúp cho nhà ra quyết định xem xét dự án có thực thi hay không.
Các cơ quan và tổ chức có thể sử dụng kết quả của ĐTM:
- Chủ dự án có thể biết được nơi đặt dự án tốt nhất và các giải pháp giảm bớt tác động

có hại.
- Những người đầu tư biết các tác động có ảnh hưởng đến khả năng đứng vững của dự
án cũng như trách nhiệm pháp lý mà dự án phải gánh chịu.
- Chính phủ cũng biết sự liên quan của các tác động có hại do dự án mang lại đối với dự
án khác đang được khuyến khích đề xuất.
- Cơ quan điều chỉnh cũng biết được phạm vi của các tác động môi trường và chúng có
được chấp nhận không.
- Cơ quan lập kế hoạch vùng có thể biết tác động sẽ ảnh hưởng như thế nào đến các dự
án sau đó cũng như đến sử dụng lãnh thổ.
- Cộng đồng địa phương hoặc cơ quan đại diện của họ biết được khả năng ảnh hưởng
của các tác động lên chất lượng sống của họ.
- Các chính trị gia có thông tin về ai phải chịu tác động, phương thức tác động và các
vấn đề có thể liên quan.
*Những vấn đề thường gặp trong việc thực hiện ĐTM
Theo khảo sát, một số vấn đề sau thường gặp trong thực hiện ĐTM:
- ĐTM thường bị né tránh:
Nhìn chung ĐTM là một công việc được pháp luật quy định, nhưng nhiều khi tiếng nói
của cơ quan môi trường kém giá trị dẫn đến việc nhiều dự án có tác động đáng kể vẫn không
thực hiện ĐTM.
- ĐTM còn thiếu hòa nhập với quy hoạch:
Điều này thường xảy ra đối với ĐTM ở cấp chương trình, chính sách bởi vì ở cấp này rất
khó so sánh với các dự án thay thế. Ngay cả ở cấp dự án, đôi khi ĐTM được tiến hành trước
khi có quy hoạch. Vì vậy việc quy hoạch, kế hoạch môi trường mất hết ý nghĩa đối với dự án.
- ĐTM còn hạn chế đối với cấp chương trình, chính sách:
Nhìn chung ĐTM mới được áp dụng rộng rãi trong các dự án cụ thể. Liệu các chương
trình, chính sách có gây tác động môi trường hay không và có cần ĐTM hay không. Cho đến
nay, cách thức thực hiện ĐTM cho các loại hình : chương trình, chính sách, quy hoạch vẫn
đang được hoàn chỉnh. Hy vọng trong tương lai gần sẽ có những tài liệu hướng dẫn ĐTM cho
các loại dự án này.
- Các tác động tích lũy thường chưa được xem xét kỹ trong ĐTM


24


Người ta thường phân biệt các tác động tích lũy thành:
+ Các tác động gây nên bởi nhiều hoạt động cộng lại, thường là của các hoạt động
tương lai;
+ Các tác động tích lũy theo thời gian.
Như vậy, nếu chỉ có ĐTM của các dự án cụ thể thì khó tính đến các kiểu tác động loại
này. ĐTM chiến lược phần nào xem xét, đánh giá được các tác động loại này nhưng lại chưa
được áp dụng rộng rãi.
Ngay trong ĐTM các dự án cụ thể cũng cần phải tính đến các tác động loại này, nghĩa là
phải tính đến cả dự án đồng thời hoạt động trong khu vực cũng như những dự án đã hoạt động
trước đó.
- Thiếu sự tham gia của cộng đồng
Lợi ích do sự tham gia của cộng đồng đã được chỉ ra ở các phần trên. Song nhiều khi sự
tham gia này lại không được phát huy tác dụng, không đạt được mục đích. Nguyên nhân dẫn
đến những điều kể trên có thể là do:
+ Chưa đánh giá đúng khả năng đóng góp của cộng đồng nên không tạo điều kiện để
cộng đồng tham gia;
+ Chưa có cơ chế để cộng đồng tham gia có hiệu quả;
+ Trình độ hiểu biết và ý thức tham gia của cộng đồng chưa cao.
Cả ba nguyên nhân trên cần được tháo gỡ, đặc biệt là ở những nước đang phát triển, cộng
đồng rất ít được tham gia vào các công tác xã hội.
- Các biện pháp giảm nhẹ các tác động có hại thường không được thực thi
Trong kết luận của ĐTM thường có phần kiến nghị các biện pháp giảm thiểu các tác
động có hại, nghĩa là biện pháp mà chủ dự án sẽ phải thực hiện cùng với hoạt động dự án của
mình. Thế nhưng nhiều dự án vẫn không thực hiện các biện pháp này, sở dĩ có hiện tượng trên
có thể là do:
+ Thiếu cơ chế kiểm tra của các cơ quan quản lý môi trường;

+ Thiếu kinh phí;
+ Chủ dự án thiếu ý thức, nhiều khi tìm cách che mắt cơ quan kiểm tra hoặc tìm kẻ hở
của pháp luật để né tránh.
Yêu cầu đối với ĐTM
Công tác ĐTM nói chung và báo cáo đánh giá tác động môi trường nói riêng phải đạt
được những yêu cầu sau đây:
- Phải thực sự là công cụ giúp cho việc lựa chọn quyết định. Thực chất của ĐTM là cung
cấp thêm tư liệu đã được cân nhắc, phân tích một cách khoa học về những lợi ích và tổn
thất có thể về tài nguyên môi trường để cơ quan có trách nhiệm ra quyết định; có điều
kiện lựa chọn phương án hành động phát triển một cách hợp lý, chính xác hơn;
- Phải đề xuất được phương án phòng tránh, giảm bớt các tác động tiêu cực, tăng cường
các mặt có lợi mà vẫn đảm bảo các mục tiêu và yêu cầu của phát triển. Có thể nói rằng,
không có hoạt động phát triển nào có thể đáp ứng những yêu cầu cấp bách trước mắt
của con người mà không làm tổn hại ít hoặc nhiều đến tài nguyên môi trường. ĐTM
phải làm rõ điều đó, tuy nhiên, không phải để ngăn cản sự phát triển của kinh tế – xã
hội, mà là để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các hoạt động đó. Vì vậy, ĐTM có trách
nhiệm nghiên cứu, góp phần đề xuất biện pháp bảo vệ, thậm chí cải thiện được tình hình
tài nguyên môi trường. Nếu phương án đã đề xuất không thể chấp nhận được vì gây tổn
hại quá lớn đến tài nguyên môi trường thì phải đề xuất phương hướng thay thế phương
án;

25


×