Tư tưởng hồ chí minh về tự phê bình và phê bình trong
tác phẩm “sửa đổi lối làm việc” ý nghĩa đối với công tác
xây dựng, chỉnh đốn đảng hiện nay
Đảng cộng sản Việt Nam là đảng cách mạng chân chính. Do vậy Đảng
phải luôn luôn thống nhất về mặt tư tưởng, tổ chức và hành động, thực sự là
một Đảng trí tuệ, trong sạch, vững mạnh, là ngọn cờ tập hợp, hướng dẫn, giáo
dục, tổ chức, lãnh đạo nhân dân cả nước trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập,
tự do và Chủ nghĩa xã hội. Khi bàn về tư cách của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng
định: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm
tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào
sung sướng”1. Chính vì vậy Đảng phải không ngừng phát triển. Theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh thì sự phát triển của Đảng bao hàm trong đó sự tự chỉnh
đốn và sự tự đổi mới để ngày càng tiến bộ về mọi mặt. Chính vì thế mà tự
phê bình và phê bình được Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm và xác định là
“luật phát triển” của Đảng; người khẳng định “Nói về Đảng, một Đảng mà
giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa
nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm
đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa
chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn,
chân chính”2.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền lãnh đạo cách mạng kháng chiến,
kiến quốc; một số cán bộ, đảng viên của Đảng có chức, có quyền trong
các cơ quan của Đảng và bộ máy Nhà nước đã xuất hiện bệnh quan liêu,
bàn giấy, óc bè phái, hẹp hòi ích kỷ, quân phiệt, xa rời quần chúng…;
trước những khuyết điểm này, nếu không kịp đấu tranh phát hiện khắc
phục kịp thời thì sẽ dẫn đến suy thoái biến chất trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên, làm giảm uy tín của Đảng và hiệu lực quản lý, điều hành của
1
2
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, NxbCTQG. H. 1995, tr.249
Sđd, tr. 261
2
bộ máy chính quyền Nhà nước. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đưa ra những vấn đề rất cơ bản về Đảng và xây dựng Đảng trong
điều kiện Đảng có chính quyền và yêu cầu cán bộ, đảng viên sửa đổi lối
làm việc, gồm sáu nội dung chủ yếu: về tư cách của một Đảng chân chính
cách mạng; về lãnh đạo và kiểm soát của Đảng; tư cách và bổn phận đảng
viên; về rèn luyện đạo đức cách mạng chống chủ nghĩa cá nhân; về tự phê
bình và phê bình và xây dựng đội ngũ cán bộ. Trong đó, vấn đề tự phê
bình và phê bình là một nội dung được Người quan tâm, đề cập rất sâu
sắc trong tác phẩm "sửa đổi lối làm việc".
1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Xuất phát từ điều kiện hoàn cảnh lúc bấy giờ là tình hình thế giới, khu
vực Đông Dương và Việt Nam đã và đang có nhiều chuyển biến rất mau lẹ và
phức tạp, tác động trực tiếp đến sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng ta.
Đứng trước tình hình đó, yêu cầu Đảng ta phải có bước phát triển mới về
nhận thức trong hoạch định đường lối lãnh đạo của mình. Nhiệm vụ lãnh đạo
của Đảng lúc bấy giờ vừa phải lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, vừa phải lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế và xây
dựng chính quyền vững mạnh.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bước vào giai đoạn
gay go, quyết liệt. Chính quyền cách mạng của ta còn hết sức non trẻ, thiếu
tri thức, kinh nghiệm, nhất là trong quản lý, điều hành và xây dựng đất nước.
Ở nhiều nơi, bộ máy hành chính kháng chiến và đoàn thể nhân dân hoạt động
thiếu đồng bộ, chồng chéo, kém hiệu quả. Đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bộ
máy của Đảng và Nhà nước, đã xuất hiện mầm mống của những căn bệnh
quan liêu, bàn giấy, óc bè phái, quân phiệt, hẹp hòi, ích kỷ, kiêu ngạo…làm
ảnh hưởng đến bản chất và uy tín của Đảng và không đáp ứng được những
yêu cầu, những đòi hỏi mới của nhiệm vụ cách mạng nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến tình hình đó. Vì vậy,
quý I năm 1947, Người đã viết hai bức thư: Gửi các đồng chí Bắc Bộ và
3
các đồng chí Trung Bộ, nghiêm khắc phê phán một số cơ quan Đảng, nhà
nước mắc bệnh làm trái phép nước, cậy thế hủ hóa, tư tưởng chia rẽ, kiêu
ngạo. Đến tháng 6 năm 1947, Bác lại có thư gửi các nhân viên cơ quan
chính phủ, Bác yêu cầu phải làm thế nào cho dân tin, dân hiểu, dân yêu.
Vào tháng 10 năm 1947, tại Điền Mặc, Thanh Định, Định hóa, Thái
Nguyên; ở chiến khu Việt Bắc, với bút danh XYZ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã viết tác phẩm: Sửa đổi lối làm việc với mục đích nhằm phê phán chủ
nghĩa cá nhân, chỉ ra nguyên nhân và vạch ra phương hướng, biện pháp
khắc phục. Kịp thời nâng cao trình độ tư tưởng lý luận, tình cảm cách
mạng; nâng cao phẩm chất đạo đức, tác phong làm việc và phong cách
lãnh đạo của Đảng, của cán bộ đảng viên, làm cho Đảng trong sạch, vững
mạnh, thật sự là một Đảng cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến,
kiến quốc.
2. Kết cấu của tác phẩm
Tác phẩm gồm có 6 chương
Chương 1: Phê bình và sửa chữa
Chương: 2 Mấy điều kinh nghiệm
Chương 3: Tư cách và đạo đức cách mạng
Chương 4: Vấn đề cán bộ
Chương 5: Cách lãnh đạo
Chương 6: Chống thói ba hoa.
Trong tác phẩm Hồ Chí Minh đề cập đến nhiều nội dung, các nội dung có
quan hệ chặt chẽ và có tính lôgíc bảo đảm mối liên hệ lý luận và thực tiễn, Song
trong nội dung bài thu hoạch này, do điều kiện, khả năng nhận thức có hạn,
chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu, khai thác những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí
Minh về tự phê bình và phê bình trong tác phẩm. Bởi vì, đây là một trong những
nội dung lớn, chiếm vị trí quan trọng trong tác phẩm.
3. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê
bình trong tác phẩm
4
Phê bình và tự phê bình là vũ khí sắc bén để chiến đấu và chiến thắng
với những sai lầm khuyết điểm, là một trong những động lực mạnh mẽ cho
sự tiến bộ, trưởng thành của từng cá nhân và từng tổ chức. “Sửa đổi lối làm
việc” là tác phẩm quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tác phẩm chuyên
khảo bàn về xây dựng Đảng; một tác phẩm có tính lý luận, tính chiến đấu và
tính thực tiễn sâu sắc, bao quát những vấn đề rộng lớn trong toàn bộ các mối
quan hệ và các nguyên tắc, phương pháp, lề lối, cách thức làm việc của Đảng,
Nhà nước và của cán bộ, đảng viên. Đặt vấn đề “sửa đổi lối làm việc”, Hồ
Chí Minh vừa chỉ ra những biểu hiện thực tế, vừa cảnh báo một cách khoa
học khả năng phát sinh, phát triển lối làm việc không đúng, không phù hợp
với bản chất của một chính Đảng cách mạng. Trong đó, Hồ Chí Minh đặt lên
hàng đầu vấn đề tự phê bình và phê bình; một vấn đề được đề cập sâu sắc và
toàn diện ở hầu hết và xuyên suốt trong các nội dung, các phần, các mục
trong tác phẩm; được coi như biện pháp hiệu quả nhất để sửa chữa khuyết
điểm, xây dựng tư cách và đạo đức cách mạng, xây dựng đội ngũ cán bộ,
trong lãnh đạo và kiểm tra. Tập trung nhất là ở mục "I - Phê bình và sửa
chữa", mục "III - Tư cách và đạo đức cách mạng".
Phê bình là gì và tự phê bình là gì? Đôi khi, Hồ Chí Minh dùng cách
gọi "tự kiểm điểm và kiểm điểm" hoặc "tự sửa chữa" và "giúp đồng chí mình
sửa chữa"3, "tự xét và xét đồng chí mình" để nhấn mạnh ý nghĩa của tự phê
bình và phê bình trong việc khắc phục khuyết điểm. Nhưng quan niệm về tự
phê bình và phê bình có ý nghĩa bao quát rộng hơn, đầy đủ hơn. Theo Hồ Chí
Minh, "Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình. Tự
phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của bản thân mình. Tự phê
bình và phê bình phải đi đôi với nhau" 4. Điều đó có nghĩa là tự phê bình và
phê bình không phải chỉ vạch ra khuyết điểm mà phải nêu cả ưu điểm; nêu ưu
điểm trước, vạch khuyết điểm sau; nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm phải đi
đôi với nhau, không coi nhẹ ý nghĩa của một mặt nào. Điều đó biểu hiện rõ
3
4
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG , H, 1995, tr. 233
Sđd, tr. 267.
5
tính nhân văn và tính khoa học - nét đặc sắc trong quan niệm về tự phê bình
và phê bình của Hồ Chí Minh.
Tính nhân văn trong tự phê bình và phê bình chính là việc nêu ưu điểm,
vạch khuyết điểm của mình trước và nêu ưu điểm, vạch khuyết điểm của đồng
chí mình sau; dù là "xét", "kiểm điểm" hay "phê bình" người khác thì người có
khuyết điểm đó cũng là đồng chí mình chứ không phải kẻ thù hay đối địch. Cho
nên, một mặt là để sửa chữa cho nhau, một mặt là để khuyến khích nhau, "bắt
chước" nhau, cùng tiến bộ mãi. Người có ưu điểm thì phải cố gắng phát huy,
vươn lên không ngừng; người có khuyết điểm, bị phê bình thì phải vui lòng nhận
rõ để sửa chữa. Tự phê bình và phê bình sẽ không gây nản chí hoặc oán ghét.
Những biểu hiện tiêu cực như: chỉ thiên về vạch khuyết điểm của
người khác theo kiểu "bới lông, tìm vết" để tìm cách hạ bệ nhau, làm giảm uy
tín của nhau; chỉ thiên về phê bình người khác mà không nghiêm khắc tự phê
bình, chỉ nhấn mạnh ưu điểm khi "phê bình cấp trên" theo kiểu tâng bốc, nịnh
hót… thực chất là biểu hiện cơ hội trong tự phê bình và phê bình, những điều
đó hoàn toàn trái với tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình.
Vì sao phải tự phê bình và phê bình? Theo Hồ Chí Minh, đó là vì xuất
phát từ yêu cầu nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang mà Đảng phải gánh vác; lãnh
đạo nhân dân giành độc lập, tự do; Người đòi hỏi "mỗi đảng viên phải làm
việc đúng hơn, khéo hơn" để thành tích của Đảng ngày càng to hơn. Mặt
khác, theo Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình còn vì trong Đảng, mỗi cán
bộ, đảng viên và tổ chức Đảng không tránh khỏi những sai lầm khuyết điểm
trong quá trình hoạt động. "Đảng ta hy sinh tranh đấu, đoàn kết, lãnh đạo
nhân dân giành lại thống nhất và độc lập. Công việc đã có kết quả vẻ vang.
Nhưng, nếu mỗi cán bộ, mỗi đảng viên làm việc đúng hơn, khéo hơn, thì
thành tích của Đảng còn to tát hơn nữa. Cán bộ và đảng viên làm việc không
đúng, không khéo, thì còn nhiều khuyết điểm. Khuyết điểm nhiều thì thành
tích ít. Khuyết điểm ít thì thành tích nhiều"5. "Vì vậy, ngay từ bây giờ, các cơ
5
Sđd, tr. 232.
6
quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm
điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự
sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa"6.
Trong Đảng có nhiều khuyết điểm, cũng như cơ thể con người mang
bệnh trong mình. Muốn trị bệnh phải uống thuốc. Phương thuốc hiệu quả là tự
phê bình và phê bình. Đảng viên và cán bộ cũng là người. Ai cũng có tính tốt và
tính xấu. Song đã hiểu biết, đã tình nguyện vào một Đảng vì dân, vì nước, đã là
một người cách mạng thì phải cố gắng phát triển những tính tốt và sửa bỏ những
tính xấu. Vì tính xấu của một người thường chỉ có hại cho người đó; còn tính
xấu của một đảng viên, một cán bộ, sẽ có hại đến Đảng, có hại đến nhân dân.
Hồ Chí Minh chỉ rõ nguồn gốc của những "tính xấu", của những
khuyết điểm, của những chứng bệnh trong Đảng, để trên cơ sở đó, có phương
pháp đúng sửa chữa khuyết điểm. Đảng ta bao gồm đủ các tầng lớp xã hội, có
nhiều tính cách, rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại; song trong Đảng ta
cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của
xã hội bên ngoài lây lan, thâm nhập vào Đảng. Người chỉ rõ: "Đảng ta không
phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì
đảng viên phần nhiều là những phần tử tốt, nhưng vẫn có một số chưa bỏ hết
những thói xấu tự tư tự lợi, kiêu ngạo, xa hoa,… Những thói xấu đó có đã
lâu, nhất là trong 80 năm nô lệ, họ mang từ xã hội vào Đảng"7.
Hồ Chí Minh còn phân tích rất sâu sắc "các hạng đảng viên": Đảng ta
có rất đông đảng viên. Phần đông cố nhiên đã hiểu biết vì dân, vì nước mà
vào Đảng. Nhưng cũng có phần vì lẽ khác mà theo Đảng. Có người tưởng
vào Đảng thì dễ tìm công ăn việc làm. Có người vào Đảng mong làm chức
này, tước nọ. Có người vì anh em bạn hữu kéo vào, v.v.. Đảng phải cảm hóa
họ, dạy dỗ họ, nâng cao sự hiểu biết và lòng phụ trách của họ lên dần dần, để
họ có thể trở thành những "người chiến sĩ khá". Biện pháp thiết thực là phải
thường xuyên tự phê bình và phê bình ráo riết.
6
7
Sđd, tr. 233.
Sđd, tr. 262-263.
7
Hồ Chí Minh cho rằng, tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát
triển của Đảng, là biện pháp cơ bản để tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng,
là vũ khí sắc bén cần thiết cho sự tiến bộ, trưởng thành của mỗi cán bộ, đảng viên;
tự phê bình và phê bình như cơm ăn, nước uống, như không khí để thở hàng ngày.
Tự phê bình và phê bình được Hồ Chí Minh xác định là một trong 12 điều "Tư
cách của Đảng chân chính cách mạng". Tự phê bình và phê bình "Cốt đoàn kết và
thống nhất nội bộ". Chỉ có thực hiện tốt tự phê bình và phê bình "Đảng mới chóng
phát triển, công việc mới chóng thành công".
Vì vậy, ngay từ đầu tác phẩm, Hồ Chí Minh đã đề cập đến vấn đề "Phê
bình và sửa chữa". Theo Người, Đảng không che dấu những khuyết điểm của
mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa
chữa, để tiến bộ và để dạy bảo cán bộ, đảng viên. Có người không muốn tự
phê bình và phê bình nên đã ngụy biện rằng: nếu phê bình khuyết điểm của
mình, của đồng chí mình, của Đảng và Chính phủ thì địch sẽ lợi dụng mà
công kích, phá hoại ta. Đó là một nhận thức sai lầm. Hồ Chí Minh đã nghiêm
khắc phê phán quan điểm này. Người cho rằng, một Đảng dám công khai
thừa nhận khuyết điểm của mình để sửa chữa, để tiến bộ mới là một Đảng
dũng cảm; một Đảng giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng.
Người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết
điểm; mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Do vậy, mục
đích tự phê bình và phê bình là làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy
nở như hoa mùa xuân, phần xấu bị mất dần đi. "Phê bình cho đúng,
chẳng những không làm giảm thể diện và uy tín của cán bộ, của Đảng.
Trái lại, còn làm cho sự lãnh đạo mạnh mẽ hơn, thiết thực hơn, do đó mà
uy tín thể diện càng tăng thêm" 8. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Mục đích phê
bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa chữa cách
làm cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ" 9. Mục đích là
8
9
Sđd, tr. 284.
Sđd, tr. 232.
8
cho mọi người học lẫn ưu điểm của nhau và giúp nhau sửa chữa những
khuyết điểm.
Tự phê bình và phê bình là quy luật chung của các Đảng Cộng sản, đối
với Đảng Cộng sản Việt Nam lại càng quan trọng. Đảng ta ra đời từ một
nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa nửa phong kiến, chịu ảnh hưởng nặng nề
của tư tưởng phong kiến, thực dân "Cũng như những người hàng ngày lội
bùn" nên trên người ắt nhiễm hơi bùn. Điều đó không có gì lạ. Mặt khác, khi
đảng viên có chức, có quyền rất dễ nảy sinh những biểu hiện của chủ nghĩa
cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng,
quan liêu, xa rời quần chúng. Muốn khắc phục những biểu hiện đó, cần tiến
hành tự phê bình và phê bình ráo riết, thường xuyên. Cũng như người lội bùn
lâu mà nhiễm hơi bùn thì phải tắm rửa và "phải tắm rửa lâu mới sạch".
Đội ngũ đảng viên của Đảng phần đông xuất thân từ nông dân và
nhiều giai tầng khác nhau, mang theo những đặc điểm tư tưởng, tâm lý, lối
sống khác nhau, điều đó tất yếu nảy sinh những mâu thuẫn trong Đảng. Đó
không phải là mâu thuẫn đối kháng, nhưng cũng là nguy cơ gây mất đoàn
kết, không tập trung, thống nhất được tư tưởng, trí tuệ trong Đảng. Vì vậy,
cách tốt nhất là thường xuyên tự phê bình và phê bình ráo riết để giải quyết
hiệu quả những mâu thuẫn đó.
Mục đích của tự phê bình và phê bình mà Hồ Chí Minh chỉ ra chứa
đựng yếu tố cách mạng và tính nhân văn sâu sắc. Để đạt được mục đích ấy
cần phải có thái độ đúng, phương pháp đúng, có lý, có tình, trên tình thương
yêu giai cấp. Trước hết phải có thái độ đúng trong tự phê bình và phê bình.
Hồ Chí Minh yêu cầu phê bình mình cũng như phê bình người, phải
triệt để, thật thà không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm
và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm
thọc. Phê bình việc làm chứ không phê bình người. Những người bị phê
bình thì phải vui lòng nhận để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản
chí, bi quan, hoặc oán ghét.
9
Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: Bệnh chủ quan, bệnh ích kỷ, bệnh hẹp hòi,
v.v..mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn
đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên
trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong ra. Vì vậy, ta phải ra sức đề
phòng những kẻ địch đó, phải chữa hết những chứng bệnh đó. Nhưng
"phải suy tính cho kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ
gặp sao làm vậy" 10, "Để chữa khỏi những bệnh kia, ta phải tự phê bình ráo
riết, và phải lấy lòng thân ái, lấy lòng thành thật mà ráo riết phê bình
đồng chí mình. Hai việc đó phải đi đôi với nhau" 11. Trong lúc phê bình,
khuyết điểm phải vạch ra rõ ràng, mà ưu điểm cũng phải nhắc đến. Phải
biết khuyến khích nhau, bắt chước nhau, giúp nhau tiến bộ.
Hồ Chí Minh yêu cầu tự phê bình và phê bình phải thường xuyên, liên
tục, kiên trì. "Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê
bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong đảng
sẽ không có bệnh mà đảng sẽ mạnh khỏe vô cùng"12. Nếu không làm thường
xuyên thì khuyết điểm sẽ ngày càng tích tụ nhiều lên, lấn át ưu điểm. Những
cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất, tham ô, tham nhũng, vi phạm tư cách
đảng viên, nguyên nhân suy cho cùng là do không thường xuyên tự phê bình
và tiếp thu phê bình. Hồ Chí Minh đã cảnh tỉnh nếu không kiên quyết sửa
chữa khuyết điểm của chúng ta thì cũng như giấu giếm bệnh tật trong mình,
không dám uống thuốc để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy hiểm đến tính
mệnh. Phát hiện càng sớm, điều trị bệnh càng chóng khỏi; để bệnh nặng rất
khó chữa, thậm chí có khi không chữa nổi.
Cha ông ta có câu: Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng. Khen thì dễ
nhưng "phê" thì rất khó. Ai cũng muốn được khen mà không muốn bị chê,
chê là đụng chạm đến lòng tự ái, đụng chạm đến khuyết tật của con người,
đụng chạm đến nó là sẽ đau. Chính vì thế trên thực tế, không ít người sợ bị
10
11
12
Sđd, tr. 238.
Sđd, tr. 238.
Sđd, tr. 239.
10
phê bình và ngại phê bình người khác. Đó là một khuyết điểm. Mặt khác, tự
phê bình và phê bình phải thật sự dân chủ mới mong trong Đảng có nhiều
sáng kiến, mới tập trung được trí tuệ.
Hồ Chí Minh vạch rõ hiện tượng mất dân chủ, khiến cho "các đảng viên
và cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không
dám phê bình"13. Điều đó dễ dẫn đến hậu quả: Cấp trên và cấp dưới cách biệt
nhau, quần chúng với Đảng xa rời nhau. Trên thì tưởng cái gì cũng tốt đẹp.
Dưới thì cái gì cũng không dám nói rõ ra. Họ không nói vì sợ bị "trù". Không
dám nói ra thì họ cứ để trong lòng, rồi sinh ra uất ức, chán nản. Rồi sinh ra
"không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng", "trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng
nhiều mồm", sinh ra thói "thậm thà thậm thụt và những thói xấu khác."
Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ vừa phải dân chủ lắng nghe ý
kiến phê bình của cấp dưới, của quần chúng, vừa phải "biết cách phê bình
sáng suốt, khôn khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những
khuyết điểm của mình, để tự mình sửa chữa" 14. Trong khi chỉ ra những yêu
cầu về thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình, Hồ Chí Minh cũng
đã thẳng thắn phê bình những biểu hiện tiêu cực về thái độ phê bình của
một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Trong Đảng có một bộ phận "sao cũng mặc kệ, sao cho xong chuyện
thì thôi", không phê bình, không tự phê bình. Hồ Chí Minh coi đó là thái
độ của những cán bộ, đảng viên ươn hèn, yếu ớt. Hoặc có biểu hiện lợi
dụng sai lầm khuyết điểm của người khác để đạt mục đích tự tư tự lợi, đó
là thái độ "của kẻ đầu cơ". Hoặc một số khác thì "đối với những người có
khuyết điểm và sai lầm đó, như đối với hổ mang, thuồng luồng. Họ đòi hỏi
phải đuổi bọn kia ra khỏi Đảng ngay. Nếu không làm như thế thì họ cho
rằng: thôi hỏng hết rồi! Do đó họ đâm ra chán nản, thất vọng. Hoặc họ
13
14
Sđd, tr. 243.
Sđd, tr. 244.
11
không làm gì nữa hết. Thậm chí họ bỏ Đảng. Đó là thái độ của những
người máy móc quá. Đó cũng là bệnh chủ quan" 15.
Hồ Chí Minh vạch rõ biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân - một thứ vi
trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm - trong tự phê bình
và phê bình. Đối với những người mắc bệnh "cá nhân" thì việc gì không phê
bình trước mặt để nói sau lưng. Khi sinh hoạt không nói gì, ra ngoài mới nói.
Không bao giờ đề nghị gì với Đảng. Ai có ưu điểm cũng không chịu học
theo, ai có khuyết điểm cũng không dám phê bình. Còn khi họ phê bình ai thì
không phải vì Đảng, không phải vì tiến bộ, không phải vì công việc, mà vì
"công kích cá nhân, cãi bướng, trả thù, tiểu khí".
Hồ Chí Minh kết luận: "Trong công tác, trong tranh đấu, trong huấn
luyện, các đảng viên, các cán bộ, cần phải luôn luôn tự hỏi mình, tự kiểm
điểm mình và đồng chí mình. Luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình,
thì khuyết điểm nhất định hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng ta
nhất định thắng lợi"16. Trong tự phê bình và phê bình phải đặt lợi ích của
Đảng lên trên hết, kiên quyết chống bệnh tự mãn, kiêu ngạo, tự tư tự lợi, ba
hoa…Phải thực hành khẩu hiệu "chí công vô tư".
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình trong tác phẩm
"sửa đổi lối làm việc" có giá trị lịch sử và ý nghĩa lý luận, thực tiễn to lớn đối
với Đảng, nhà nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên ta. Những tư tưởng đó đã
kịp thời định hướng, nâng cao nhận thức và cổ vũ hoạt động tự phê bình và
phê bình, khắc phục kịp thời những khuyết điểm chủ yếu trong cán bộ, đảng
viên và các tổ chức Đảng. Tư tưởng đó không chỉ có giá trị to lớn lúc bấy giờ
mà còn có ý nghĩa rất sâu sắc, thiết thực đối với công tác xây dựng Đảng hiện
nay.
Trong sinh hoạt và hoạt động thực tiễn, mỗi con người và mỗi tổ chức
đều có những ưu điểm và khuyết điểm, có mặt thuận lợi và khó khăn, có nhân
15
16
Sđd, tr. 264.
Sđd, tr. 265.
12
tố tích cực và tiêu cực, có cái tiến bộ và cái lạc hậu. Các mặt đó luôn mâu
thuẫn với nhau, tác động chi phối lẫn nhau. Quá trình phát triển của mỗi con
người, mỗi tổ chức như thế nào và theo chiều hướng nào phụ thuộc chính vào
cách thức giải quyết mâu thuẫn giữa các mặt tốt - xấu, thuận lợi - khó khăn,
tích cực - tiêu cực đó. Mỗi người đảng viên và tổ chức đảng cũng như vậy;
muốn tiến bộ và phát triển thì phải phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm.
Muốn sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, phải thiết thực tự phê bình và
phê bình. Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: tự phê bình và phê
bình là quy luật phát triển của các Đảng Cộng sản. Kế thừa và vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo xây
dựng và hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khéo léo sử dụng vũ khí tự phê bình và phê bình. Người coi đó là "luật phát
triển" trong Đảng và được Người nâng lên tầm nghệ thuật trong công tác xây
dựng và chỉnh đốn Đảng.
4. Ý nghĩa của tác phẩm đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn
đảng hiện nay
Trải qua 61 năm tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” vẫn còn nguyên
giá trị và nó đã thấm sâu vào lớp lớp cán bộ, đảng viên của Đảng, nó đã trở
thành vũ khí lý luận, vũ khí tinh thần sắc bén, trở thành lẽ sống cao cả của
người cán bộ cách mạng. Tác phẩm đã góp phần không nhỏ vào sự khắc
phục những sai lầm, khuyết điểm về mặt đạo đức trong cán bộ đảng viên,
xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh. Trong tình hiện nay ngẫm
lại những tinh thần mà tác phẩm đề cập thì Hồ Chí Minh đã dự báo hết sức
sâu sắc về những khuyết điểm của cán bộ, đảng viên. Thực tiễn xây dựng
Đảng cho thấy: Lúc nào, nơi nào việc tự phê bình và phê bình không được
thực hiện nghiêm túc thì lúc đó, nơi đó xuất hiện những điều kiện làm suy
yếu tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ quan liêu, hách dịch, cửa quyền và ở đó
luôn nảy sinh các hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
13
Quán triệt và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê
bình, trong suốt quá trình xây dựng và hoạt động, Đảng ta luôn coi trọng tự
phê bình và phê bình. Đảng ta khẳng định tự phê bình và phê bình là quy luật
phát triển của Đảng, là thước đo trình độ sinh hoạt dân chủ trong Đảng và là
ý thức trách nhiệm của Đảng với nhân dân. Tự phê bình và phê bình là biện
pháp quan trọng để giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ Đảng, để giữ vững và
tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Đảng là một tổ chức chính
trị, tất yếu trong quá trình vận động, phát triển, nội bộ Đảng sẽ nảy sinh mâu
thuẫn. Nhưng đó không phải là mâu thuẫn đối kháng, mà là mâu thuẫn giữa
cái mới và cái cũ, giữa cái tiến bộ với cái lạc hậu. Đảng lấy tự phê bình và
phê bình là biện pháp cơ bản để giải quyết những mâu thuẫn đó, tạo động lực
cho sự vận động, phát triển của Đảng và đặt thành một chế độ tự phê bình và
phê bình trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, vấn đề tự phê bình và phê bình càng
trở nên cần thiết hơn. Bởi vì, Đảng phải giải quyết nhiều nhiệm vụ nặng nề,
nhiều vấn đề mới, phức tạp và luôn luôn vận động, nảy sinh. Sự nắm bắt và
nhận thức của cán bộ, đảng viên không thể ngay lập tức đạt được sự sâu sắc
mọi vấn đề; đồng thời càng khó tránh khỏi những khuyết điểm, sai lầm.
Thông qua tự phê bình và phê bình chẳng những giúp cho tổ chức và mỗi cán
bộ, đảng viên vững vàng hơn về bản lĩnh chính trị, nâng cao được đạo đức
cách mạng, mà còn nâng cao được kiến thức, năng lực, trình độ, đổi mới
được tác phong công tác; phẩm chất đạo đức được bồi dưỡng, rèn luyện, thử
thách.
Chính nhờ có sự trung thành, quán triệt và vận dụng đúng đắn tư tưởng
Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình trong xây dựng và hoạt động, Đảng
ta đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết, mở nhiều đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng,
đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong toàn đảng mà Đảng mới có đủ sức
mạnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác;
mới có đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách cam go, vững vàng chèo lái con
14
thuyền cách mạng ở những thời điểm hiểm nghèo, trong những giai đoạn lâm
nguy, vận mệnh đất nước như "ngàn cân treo sợi tóc".
Hiện nay, vẫn còn những biểu hiện xem nhẹ, chưa thực sự nghiêm túc
tự phê bình và phê bình. Ở nơi này, nơi khác, lúc này lúc khác, sinh hoạt tự
phê bình và phê bình chỉ còn là hình thức. Người ta vẫn tổ chức sinh hoạt đều
đặn, nhưng thực chất lại tước mất linh hồn của các buổi sinh hoạt, vấn đề tự
phê bình và phê bình lại bị biến thành vũ khí cầu lợi cá nhân…
Ngày nay, bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, chứa đựng
những yếu tố khó lường. Đảng lãnh đạo nhân dân ta thực hiện sự nghiệp đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhiệm vụ của Đảng
rất nặng nề. Phạm vi, quy mô lãnh đạo ngày càng mở rộng, đối tượng lãnh
đạo đa dạng phức tạp; vai trò lãnh đạo của Đảng tăng lên, đòi hỏi Đảng phải
luôn luôn và thực sự trong sạch vững mạnh.
Trong khi đó, cuộc sống sinh hoạt của cán bộ, đảng viên chịu nhiều chi
phối, tác động của nhiều yếu tố, cả tích cực và tiêu cực. Do những tác động
tiêu cực của mặt trái cơ chế kinh tế thị trường, sự du nhập lối sống ngoại lai
và các tệ nạn xã hội… đã tác động, làm nhiều người thay đổi về quan niệm
thang giá trị đạo đức xã hội, làm xói mòn các giá trị truyền thống tốt đẹp. Đó
là những nguy cơ đe dọa sự trong sạch của đảng và của cả hệ thống chính trị.
Một bộ phận cán bộ đảng viên suy thoái về đạo đức lối sống, sa vào
chủ nghĩa cá nhân, thực dụng. Sinh ra nhiều căn bệnh nguy hiểm: cục bộ, ích
kỷ, vụ lợi, ham quyền lực, ham của cải làm giàu bất chính; lối sống xa hoa,
hưởng lạc. Đối với đồng chí đồng đội, họ kèn cựa, địa vị , gây mất đoàn kết;
đối với nhân dân thì quan liêu, sách nhiễu, xa rời hoặc dân chủ giả tạo, ngoài
mặt…Không ít cán bộ, đảng viên vì lợi ích cá nhân, mải lo lợi ích cá nhân,
gia đình mà quên hết lợi ích của Đảng, của dân.
Để khắc phục tình trạng trên, tự phê bình và phê bình phải được coi là
biện pháp cơ bản, có ý nghĩa quyết định. Thực hiện tốt tự phê bình và phê
15
bình cho phép giải quyết thấu đáo các vấn đề nảy sinh về tư tưởng, đạo đức,
lối sống một cách kiên quyết, ráo riết nhưng thiết thực, có lý có tình, không
rơi vào tình trạng đối kháng, đao to búa lớn, do đó mà đạt hiệu quả cao. Điều
đó hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh về mục đích và
tính chất của tự phê bình và phê bình trong Đảng.
Để phát huy tác dụng của tự phê bình và phê bình, phải nhận thức rõ
những đặc điểm trong khi tiến hành tự phê bình và phê bình hiện nay. Đó là
tình trạng nhận thức và hành động không đúng: hoặc tập trung quan liêu, gia
trưởng, độc đoán, hoặc dân chủ cực đoan. Bên cạnh đó, hiện tượng hữu
khuynh né tránh, kém tính chiến đấu của không ít cán bộ, đảng viên làm ảnh
hưởng tiêu cực đến hiệu quả tự phê bình và phê bình.
Trong giai đoạn hiện nay, việc quán triệt và đẩy mạnh tự phê bình và
phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh đang là vấn đề vừa cơ bản, lâu dài; vừa
là những yêu cầu trước mắt của cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng,
của quá trình đổi mới và cải cách bộ máy hành chính, đổi mới cung cách làm
việc của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi cán bộ, đảng viên nhằm xây dựng Đảng ta,
Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh, thực sự của dân, do dân, vì dân,
hướng tới thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
Tự phê bình và phê bình còn là một bộ phận cấu thành văn hóa chính
trị của Đảng ta, bởi vì chỉ có tự phê bình và phê bình thì Đảng mới giữ vững
được danh hiệu cao quí “Đảng ta quang minh chính đại”, “Đảng ta là đạo
đức, là văn minh”, là “hiện thân của trí tuệ, lương tâm và danh dự của dân
tộc”… mà truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân dân ta hun đúc
nên. Tất cả những điều đó gắn liền với yêu cầu mỗi chúng ta phải không
ngừng phấn đấu, học tập, rèn luyện những tư tưởng trên của Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhiều hơn nữa để chiến thắng cái “tôi” trong chính bản thân mình, chỉ
có như thể Đảng ta mới hoàn thành được sứ mệnh lịch sử trong tình hình
mới.
16
Để thực hiện được điều đó, trước hết mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức
Đảng cần thực hiện nghiêm túc những quy định mới về tự phê bình và phê
bình mà Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII đã đề ra: "Mở rộng dân
chủ, khuyến khích tranh luận; tôn trọng tập hợp và xem xét để tiếp thu hết ý
kiến đúng đắn của các cấp ủy viên và đảng viên trước khi quyết định" 17 và
“Trong những năm tới….tiếp tục đưa việc tự phê bình và phê bình trong các
cấp ủy và tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở thành nền nếp thường
xuyên và theo định kỳ, không làm qua loa, chiếu lệ, hình thức; vận động
nhân dân tích cực góp ý phê bình cán bộ, đảng viên”18.
Đồng thời các cấp bộ Đảng cần tập trung vào một số biện pháp chủ yếu
như: tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đặc biệt là giáo dục đạo đức
cách mạng, làm cho cán bộ, đảng viên hiểu rõ vai trò, sự cần thiết phải đẩy
mạnh tự phê bình và phê bình, mục đích phương pháp tự phê bình và phê
bình, kiên quyết duy trì, thực hiện nghiêm túc nền nếp chế độ tự phê bình và
phê bình trong các cấp ủy, tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, các tổ chức xã
hội. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ gìn sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng, chống mọi biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội
thực dụng, cục bộ bè phái, mất đoàn kết.
Thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, kịp thời phát hiện và xử lý
nghiêm những tổ chức đảng, đảng viên không thực hiện tốt nghị quyết, chỉ thị
của Đảng về tự phê bình và phê bình, nhất là những người có thái độ thành
kiến, trù dập người phê bình; phải có biện pháp bảo vệ người phê bình đã
dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; mặt khác phải có biện pháp
cụ thể buộc người có khuyết điểm, bị phê bình phải sửa chữa khuyết điểm.
Trong điều kiện xã hội bùng nổ thông tin như hiện nay, các luồng
thông tin, các nguồn thông tin, các hình thức truyền tin rất đa dạng phong
phú. Một mặt nó mở ra điều kiện thuận lợi mới để thực hiện dân chủ công
khai và công bằng trong xã hội. Chính nhờ các điều kiện đó mà các hình thức
17
18
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) khóa VIII, Nxb CTQG, H, 1999, tr.31.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr. 140.
17
linh hoạt của tự phê bình và phê bình được thực hiện, nhiều trường hợp vi
phạm khuyết điểm, nhiều biểu hiện vi phạm, thông qua các phương tiện
thông tin mà kịp thời khắc phục, rút kinh nghiệm chung trong toàn Đảng một
cách nhanh chóng và hiệu quả nhất… Đây là một vấn đề cần được nghiên
cứu chu đáo để phát huy tác dụng tốt hơn nữa trong công tác xây dựng Đảng.
Mặt khác, cần phải có biện pháp quản lý được tất cả các luồng, các nguồn tin,
các phương tiện thông tin, có thể áp dụng các tiến bộ kỹ thuật nhằm thẩm
định, điều tra, kiểm tra nhanh và chính xác các tin tức; quản lý chặt chẽ hoạt
động thông tin nhằm giảm thiểu, khắc phục những hạn chế góp phần cung
cấp những cứ liệu thực tiễn thiết thực cho công tác xây dựng Đảng trong điều
kiện mới; chỉ có như vậy mới đảm bảo cho tự phê bình và phê bình thực sự vì
sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và trong toàn xã hội.
Vận dụng tư tưởng này vào chăm lo giáo dục cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên trong Quân đội ta hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một điển hình mẫu mực Mác xít - Lênin nít về
tự phê bình và tự phê bình, đồng thời Người thường xuyên chăm lo giáo dục
cho đội ngũ cán bộ trong quân đội. Theo Người, để cán bộ hiểu rõ nội dung phê
bình và tự phê bình, đã nhiều lần Người phát biểu một cách xúc tích về khái
niệm “phê bình” và “tự phê bình”. Người cho rằng: “Phê bình là nêu ưu điểm
và vạch khuyết điểm của đồng chí mình. Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch
khuyết điểm của mình. Tự phê bình và phê bình phải đi đôi vơi nhau”19. Khái
niệm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra thật rõ ràng, dễ hiểu. Song trong thực tế,
việc thực hiện nó lại không dễ dàng chút nào. Phê bình và tự phê bình theo tư
tưởng Hồ Chí Minh là phải có quan điểm toàn diện, phải chú ý cả ưu điểm và
khuyết điểm, phải kết hợp chặt chẽ cả hai mặt: phê bình và tự phê bình. Diều
này tưởng như đơn giản, nhưng trước kia cũng như ngày nay, đã có không ít cán
bộ thường tiến hành phê bình một cách phiến diện, chỉ nêu khuyết điểm mà ít
chú ý tới ưu điểm của đồng chí, chỉ phê bình người, mà ít quan tâm đến tự phê
19
X.Y.Z (Hồ Chí Minh)- Sửa đổi lối làm việc. Nxb sự thật.H.1995, tr. 60.
18
bình mình. Đây là căn bệnh phải kiên quyết khắc phục. Song, để khắc phục
được nó, chắc chắn phải là một quá trình đấu tranh lâu dài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ cho đội ngũ cán bộ về mục đích, ý nghĩa
của phê bình và tự phê bình. Trong nhiều bài nói, bài viết với đội ngũ cán bộ trong
quân đội. Người đã từng khẳng định: “Phê bình và tự phê bình là để cho mình tiến
bộ, quân đội và nhân dân tiến bộ, để tăng thêm tình đoàn kết giữa cán bộ với cán
bộ, giữa cán bộ với chiến sĩ, giữa quân đội với nhân dân”20. Người cho rằng, phê
bình và tự phê bình có ý nghĩa rất to lớn, có mục đích rất cao đẹp đối với sự tiến bộ,
trưởng thành của quân đội. Vì thế, đã nhiều lần Người nhấn mạnh phê bình và tự phê
bình là để: mọi người học tập ưu điểm của nhau; mọi người giúp nhau sửa chữa
khuyết điểm; mọi người ngày càng đoàn kết, thống nhất, mọi người cùng tiến bộ,
trưởng thành. Muốn đạt được mục đích cao đẹp ấy thì cán bộ không những phải có
phương pháp phê bình đúng, mà còn phải gương mẫu trong thực hiện phê bình và tự
phê bình. Để có phương pháp phê bình đúng đắn, trước hết, cán bộ phải có động cơ
trong sáng, thái độ chân tình, hết lòng vì sự tiến bộ của đồng chí: “phê bình phải rõ
ràng, thiết thực, ngay thẳng, thành thật, mục đích là cốt để sửa chữa, chứ không
phải để công kích, cốt giúp nhau tiến bộ, chứ không phải làm cho đồng chí khó chịu
nản lòng”21. Thực tế đã khẳng định rằng, chí có động cơ trong sáng, thái độ chân
tình, mềm dẻo, lời lẽ thuyết phục, thì phê bình mới đem lại hiệu quả cao. Vì vậy, Hồ
Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ khi phê bình “chớ dùng lời mỉa mai, cay chua, đâm
thọc” và phải chú ý chỉ “phê bình việc làm, chứ không phê bình người”. Hồ Chí
Minh đòi hỏi người cán bộ phải trung thực, thành khẩn, phải có quan điểm khách
quan, toàn diện trong phê bình và tự phê bình. Người lưu ý cán bộ phải luôn nhớ
rằng: “Người ta ai cũng có khuyết điểm, những ai cũng có ưu điểm…Nói cái sấu
phải nói cả cái tốt. nếu chỉ nói cái sấu là lệch”. Người rất quan tâm đến phương pháp
phê bình. Theo Người muốn “thấu lý, đạt tình” thì phương pháp phê bình phải đạt tới
trình độ nghệ thuật: “Ta phải biết cách phê bình sáng suốt, khôn khéo như tấm
20
21
Hồ Chí Minh- Với các lực lượng vũ trng nhân dân. Nxb Quân đội nhân dân. H. 1975. tr.186.
Hồ Chí Minh-Về tự phê bình và phê bình. Nxb Sự thật. H. 1976, tr. 35,36.
19
gương chiếu cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình để tự sửa
chữa”22.
Hồ Chí Minh còn kịch liệt phê phán thái độ “dĩ hòa vi quý”, e dè nể nang,
che dấu khuyết điểm, ngại đấu tranh phê bình. Người luôn nhắc nhở cán bộ, phải
kiên quyết chống thói “trước mặt thì nể, kể lể sau lưng”. Người phân tích một cách
sâu sắc, sinh động về thái độ nể nang, né tránh đấu tranh phê bình: “Nể nang
không phê bình, để cho đồng chí mình cứ sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc. Thế thì
khác nào thấy đồng chí ốm, mà không chữa cho họ. Nể nang mình, không dám tự
phê bình, để cho khuyết điểm của mình chứa chất lại. Thế thì khác nào tự bỏ thuốc
độc cho mình”23. Cách so sánh, ví von của Người thật giản dị, trong sáng, làm cho
những lời dậy của Người đã khắc sâu vào tâm khảm mỗi cán bộ. Từ đó mỗi cán bộ
càng hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa to lớn của việc đấu tranh phê bình đối với quá trình
tu dưỡng đạo đức. Hồ Chí Minh cũng kiên quyết phản đối thái độ phê bình thiếu
xây dựng, thái độ “đao to búa lớn”, “truy chụp vu cáo”, lợi dụng phê bình để moi
móc, công kích. Tất cả những hành vi, thái độ phê bình như vậy, đều không thể
chấp nhận, vì nó sẽ dẫn cán bộ tới chỗ vô đạo đức, “thất nhân tâm”.
Đối với cán bộ bị phê bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có những chỉ dẫn
quý báu. Người khuyên cán bộ bị phê bình thì “phải vui lòng nhận xét để sửa đổi”
và không bị phê bình mà “nản chí hoặc oán ghét”. Theo Người, điều quan trọng
là phải có nhiều biện pháp và quyết tâm sửa chữa hết các khuyết điểm sai lầm.
Bởi vì, đó là yếu cầu tất yếu khách quan đối với người cán bộ, đó cũng là mục
đích cao nhất của phê bình và tự phê bình.
Tóm lại, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn tu dưỡng rèn luyện đạo đức có
hiệu quả, thì nhất định đội ngũ cán bộ phải thực hiện tốt các phương pháp cơ bản
nêu trên. Song, ngoài những phương pháp cơ bản ấy, đội ngũ cán bộ nói chung và
cán bộ, đảng viên trong quân đội nói riêng, còn phải thực hiện nhiều phương
pháp, nhiều vấn đề khác, nhất là: tinh thần cầu thị, ý chí kiên quyết chống cái
“tà”, cái “ác”, chống những thói quen lạc hậu, biết kiên trì rèn luyện hàng ngày và
22
23
SĐD, tr.23.
SĐD, tr.26.
20
nỗ lực tự giác rèn luyện trong từng hành vi đạo đức cụ thể... Trải qua mấy chục
năm chăm lo xây dựng, giáo dục các lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xác lập một hệ thống các quan điểm về vai trò của đạo đức đối với
người cán bộ, về các chuẩn mực đạo đức cơ bản, các yêu cầu đạo đức trong các
mối quan hệ đặc trưng, cũng như các phương châm, phương pháp rèn luyện đạo
đức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội. Tư tưởng của Người về vấn đề
này hết sâu sắc, rộng lớn và ngày nay vẫn còn giữ nguyên giá trị.