Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

ý NGHĨA PHÁT HUY sức MẠNH đại ĐOÀN kết TOÀN dân tộc TRONG sự NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN đại HÓA đối với GIỮ VỮNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ hội CHỦ NGHĨA ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.73 KB, 19 trang )

1

Ý NGHĨA PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐỐI VỚI GIỮ
VỮNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Đại đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được hun đúc qua
hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Từ khi ra đời, Đảng ta đã vận dụng
chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam để giải quyết vấn
đề giai cấp và dân tộc một cách chủ động, sáng tạo, tài tình, nhất quán trong
chiến lược đại đoàn kết dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc.
Ngày nay, tinh thần đại đoàn kết đó đang được tiếp tục phát huy cao độ, trở
thành động lực, nhân tố có tính chất quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới;
Trải qua các kỳ Đại hội, Đảng ta đều khẳng định rõ: Vấn đề dân tộc là vấn đề
chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa; sức mạnh của cách mạng là sức
mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng; tôn trọng, giúp
đỡ đồng bào các dân tộc và tạo mọi điều kiện để đồng bào các dân tộc phát triển.
Hiện nay, trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tinh thần đại đoàn kết tiếp tục được phát
huy cao độ, trở thành động lực của công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, trong quá
trình thực hiện chủ trương, chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc cũng còn
những yếu kém, khuyết điểm…Do đó, các thế lực thù địch đã lợi dụng vào đó
để chống phá nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây không ít khó
khăn, trở ngại cho sự nghiệp cách mạng nước ta.
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
đòi hỏi Đảng ta phải giải quyết tốt vấn đề dân tộc nhằm phát huy được sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa


2



xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đây cũng là điều kiện cơ bản để
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, đồng thời cũng là
vấn đề quyết định đến sự sống còn của cách mạng Việt Nam.
Với ý nghĩa đó, vấn đề: “Ý nghĩa phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” là đề tài mang tính thời sự luôn
nóng hổi và cần nhận thức đúng đắn.
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về đoàn kết giai cấp, dân tộc
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
Cở sở lý luận quan trọng nhất đối với quan điểm về đại đoàn kết toàn
dân tộc là những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng; nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản
lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc; liên minh công - nông là cơ sở để
xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng; đoàn kết dân tộc phải gắn với đoàn
kết quốc tế, “vô sản các nước, đoàn kết lại”, “vô sản tất cả các nước và các
dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”, vv…
Như vậy, vấn đề đoàn kết giai cấp, dân tộc đã được các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin đề cập từ rất sớm: Thời kỳ C.Mác, do điều kiện lịch sử
nên chưa đề cập trực tiếp đến vấn đề đoàn kết dân tộc, song những tư tưởng về
đoàn kết giai cấp đã được nói đến, đặc biệt là vấn đề liên minh công nông. Theo
C.Mác, chỉ khi nào thực hiện được liên minh công nông thì giai cấp vô sản mới
thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình. Nếu không thực hiện được sự liên
minh đó thì giai cấp vô sản chỉ có những bài “đơn ca ai điếu” mà thôi. Vì vậy,
kết thúc cuốn “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác đã viết: “Vô sản các



3

nước, đoàn kết lại” và sau này Người còn nhấn mạnh đến vấn đề liên minh công
nông, coi đó là vấn đề chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ V.I.Lênin, do điều kiện lịch sử đã có những thay đổi lớn,
Người đã nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết giai cấp và
đoàn kết dân tộc. V.I.Lênin khẳng định: Cách mạng không phải chỉ là sự
nghiệp của giai cấp công nhân mà đó là sự nghiệp của đông đảo quần chúng
nhân dân lao động. Để cách mạng đi đến thắng lợi, cần phải thực hiện được
sự đoàn kết giữa giai cấp công nhân với các giai tầng khác trong xã hội cũng
như thực hiện tốt sự đoàn kết giữa các dân tộc và V.I.Lênin đã tiếp tục phát
triển khẩu hiệu của C.Mác “Vô sản các nước, đoàn kết lại” thành khẩu hiệu
“Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều
yếu tố và được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển biện chứng chủ
nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân
loại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin đã được vận dụng và phát triển sáng
tạo, phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai
đoạn cách mạng.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết là một tư tưởng cơ bản,
xuyên suốt. Theo Người, đoàn kết là vấn đề chiến lược, lâu dài, đoàn kết phải
thật sự chân thành, cởi mở, rộng rãi, không phải là thủ đoạn chính trị, đoàn kết
tất cả mọi người không để sót một ai. Người viết: “Đoàn kết của ta không
những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài…Ai có tài, có đức, có sức, có lòng
phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”1. Trong bài Dân
vận (15/10/1949), Hồ Chí Minh viết: “Vận động tất cả lực lượng của mỗi một
người dân, không để sót một người dân nào góp thành lực lượng toàn dân”2.
1
2


Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.438.
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.698.


4

Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh coi đoàn kết dân tộc là
một động lực phát triển xã hội, phát triển đất nước, phát triển phong trào cách
mạng, chứ không chỉ là động lực đấu tranh giai cấp. Hồ Chí Minh coi đoàn kết,
đại đoàn kết là nguyên nhân của mọi thắng lợi, Người nói: “Đoàn kết! Đoàn kết!
Đại doàn kết! Thành công! Thành công! Đại thành công!”. Đối với Người đại
đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng và khi nói đến
đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa là phải tập hợp được mọi người dân vào một
khối trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để
đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta phải còn đoàn kết để xây
dựng nước nhà”3. Vì vậy, mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn
kết dân tộc chính là nền độc lập thống nhất của Tổ quốc, là cuộc sống tự do và
hạnh phúc của nhân dân cần phải xây dựng từ hôm nay cho đến mai sau.
Theo Người, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân và Người đã
chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà
đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao
động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà,
gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các nhân dân
khác”4. Trong khi nhấn mạnh đến sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân,
Người chỉ rõ lực lượng nòng cốt, làm nền tảng là liên minh công - nông - lao
động trí óc, nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân
tộc càng được mở rộng; Đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn
phải gắn với đại đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn
liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, đây thực sự là

sự phát triển rực rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng đại đoàn kết dân
tộc của Hồ Chí Minh.

3
4

Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr.438.
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr.438.


5

Trong những năm chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, Người đã nêu rõ: “Phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp
mọi nơi”5 và từ đó, tư tưởng của Người về đoàn kết với phong trào cách mạng
thế giới càng được làm rõ hơn và đầy đủ hơn. Trong sự nghiệp hoạt động cách
mạng vĩ đại của mình, Bác Hồ đã có hơn 40 % số bài nói, bài viết về đoàn kết;
Người là biểu tượng của tinh thần đoàn kết sâu rộng, chân thành của toàn Đảng,
toàn dân, và toàn quân ta, của nhân dân, bè bạn, đồng chí trên thế giới, Người là
tấm gương sáng ngời về đoàn kết toàn dân tộc.
* Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của
dân tộc Việt Nam.
Trước hết là tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cố kết dân tộc, đoàn
kết dân tộc đã được hình thành và củng cố trong hàng nghìn năm lịch sử đấu
tranh dựng nước và giữ nước của cả dân tộc, tạo thành một truyền thống bền
vững, thấm sâu vào tư tưởng tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam.
Tinh thần ý thức ấy đã tạo nên sức mạnh vô địch của cả một dân tộc để chiến
thắng mọi thiên tai, địch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân
tộc được giữ vững.

Đối với mỗi người Việt Nam, yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết đã trở
thành một tình cảm tự nhiên: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương; Người trong
một nước phải thương nhau cùng”; “Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng
khác giống nhưng chung một giàn”; hoặc “Một cây làm chẳng nên non. Ba
cây chụm lại nên hòn núi cao” v.v…
Tất cả đã ghi đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành
quan hệ ba tầng chặt chẽ: Gia đình - làng xã - quốc gia và cũng trở thành sợi
dây liên kết các dân tộc, các giai tầng trong xã hội Việt Nam.
5

Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.267 – 268.


6

Truyền thống ấy không chỉ được phản ánh trong kho tàng văn học dân
gian, mà còn được những anh hùng dân tộc ở các thời kỳ lịch sử khác nhau như
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung đúc kết nâng lên thành
phép đánh giặc, giữ nước, “tập hợp bốn phương manh lệ”, “trên dưới đồng
lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức”, “tướng sĩ một lòng phụ tử”, “khoan
thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là
dân”…Truyền thống ấy được tiếp nối trong tư tưởng tập hợp lực lượng dân tộc
của các nhà yêu nước trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và
các thế lực phong kiến tiếp tay cho ngoại bang, mà tiêu biểu nhất là cụ Phan
Bội Châu và cụ Phan Chu Trinh ở những năm đầu thế kỷ XX.
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước
gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc Việt
Nam đã hình thành và củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững.
Tinh thần ấy, tình cảm ấy theo thời gian đã trở thành lẽ sống của mỗi
con người Việt Nam, chúng làm cho vận mệnh mỗi cá nhân gắn chặt vào vận

mệnh của cộng đồng, vào sự sống còn và phát triển của dân tộc. Chúng là cơ
sở của ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hy sinh vì dân, vì nước
của mỗi con người Việt Nam; đồng thời là giá trị tinh thần thúc đẩy sự phát
triển của cộng đồng và của mỗi cá nhân trong quá trình dựng nước và giữ
nước, làm nên truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc. Dù lúc thăng, lúc
trầm

nhưng chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc

Việt Nam bao giờ cũng là tinh hoa đã được hun đúc và thử nghiệm qua hàng
nghìn năm lịch sử chinh phục thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ
quốc của ông cha ta, nó luôn là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành quan
điểm về đại đoàn kết dân tộc.
* Từ yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới


7

Trong quá trình đấu tranh giải phóng đất nước, đại đoàn kết toàn dân
tộc đã tạo nên một lực lượng cách mạng hùng hậu, đủ sức để đánh bại kẻ thù
xâm lược với những chiến thắng đi vào lịch sử như chiến thắng Điện Biên
Phủ, Đại thắng mùa xuân 1975…thống nhất đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sau khi giành được độc lập, con đường phát triển của cách mạng Việt
Nam là quá độ bỏ qua chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một xuất
phát điểm rất thấp; Hơn nữa, các thế lực thù địch không từ bỏ bất cứ một thủ
đoạn nào để chống phá sự nghiệp cách mạng, đe dọa đến nền độc lập của
nước ta; Công cuộc xây dựng những cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế quốc tế…đã đặt ra những yêu
cầu, nhiệm vụ mới cho cách mạng Việt Nam. Điều đó đòi hỏi phải phát huy
cao độ nội lực, tranh thủ ngoại lực, đặc biệt là phải phát huy sức mạnh của

khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Có
như vậy, cách mạng Việt Nam mới giành được thắng lợi.
* Từ yêu cầu của việc đấu tranh chống âm mưu chia rẽ, phá hoại
khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch
Hiện nay, các thế lực thù địch đã, đang và sẽ tìm mọi cách để chống
phá cách mạng nước ta trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trọng
điểm là hướng vào vấn đề dân tộc, tôn giáo và đại đoàn kết dân tộc…
Việt Nam với 54 dân tộc anh em, trải qua hàng nghìn năm dựng nước
và giữ nước luôn sát cánh bên nhau để chống thiên tai địch họa. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự đoàn kết đó càng được củng cố, tăng
cường trong điều kiện mới, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương, chính
sách cụ thể nhằm giải quyết tốt vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc. Tuy nhiên,
ở một khía cạnh nhất định, chúng ta cũng nhận thấy rằng, có lúc, có thời điểm
việc thực hiện vấn đề này còn tồn tại những khuyết điểm…Lợi dụng những


8

thiếu sót, khuyết điểm đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đẩy mạnh
thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, tuyên truyền, kích động gây chia
rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất trật tự an toàn xã hội ở một số địa
phương trong cả nước, đặc biệt là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tình
hình đó, đặt ra yêu cầu mới cho cuộc đấu tranh ngăn chặn âm mưu chia rẽ
khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch. Hơn lúc nào hết, vấn đề
dân tộc và đoàn kết dân tộc càng phải được quan tâm giải quyết đúng đắn,
phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể.
*Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của cách mạng
Việt Nam và thế giới.
Trong thời phong kiến chỉ có những cuộc đấu tranh thay đổi triều đại

nhưng chúng đã ghi lại những tấm gương tâm huyết của ông cha ta với tư
tưởng “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” và “Khoan
thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”. Năm 1858,
thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, mở đầu cho thời kỳ cai trị và áp bức
của chúng đối với dân tộc ta trong suốt gần 80 năm trời ròng rã. Nhưng cũng
chính trong vòng gần 80 năm đó, chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn
kết của dân tộc lại sôi nổi hơn bao giờ hết. Nó kết thành một làn sóng vô cùng
to lớn, mạnh mẽ, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, thông qua các xu
hướng khác nhau để cứu nước, dù cuối cùng tất cả các xu hướng đó đều bị
thất bại. Những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng của các nhà yêu
nước tiền bối và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử
trong giai đoạn này để lại những bài học kinh nghiệm cho Đảng ta trong quá
trình giải quyết vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc.
Phong trào yêu nước Việt Nam đã diễn ra rất mạnh mẽ từ khi thực dân
Pháp xâm lược nước ta. Từ các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Yên Thế,


9

cuối thế kỷ XIX, đến các phong trào Đông Du, Duy Tân chống thuế đầu thế
kỷ XX đều bị thất bại. Thực tiễn bi tráng, hào hùng, của dân tộc đã chứng tỏ
bước vào thời đại mới chỉ có tinh thần yêu nước thì không thể đánh bại được
các thế lực xâm lược. Vận mệnh đất nước đòi hỏi phải có một lực lượng lãnh
đạo cách mạng mới, đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với
quy luật phát triển của lịch sử và những yêu cầu của thời đại mới, đủ sức quy
tụ được cả dân tộc vào cuộc đấu tranh chống đế quốc thực dân xây dựng được
khối đại đoàn kết toàn dân tộc bền vững thì mới giành được thắng lợi.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvich, đứng đầu là V.I.Lênin, Cách
mạng tháng Mười Nga đã giành thắng lợi và đã để lại những bài học kinh
nghiệm quý báu cho phong trào cách mạng thế giới; đặc biệt là bài học về huy

động, tập hợp lực lượng quần chúng công - nông đông đảo để giành và giữ
chính quyền cách mạng, đánh tan sự can thiệp của 14 nước đế quốc để xây
dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, mở ra một thời đại mới cho lịch sử nhân loại.
2. Ý nghĩa phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc đối
với giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
* Những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về đại
đoàn kết toàn dân tộc
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, đặc biệt từ Đại hội VI đến nay, nhận thức của Đảng
ta về đại đoàn kết toàn dân tộc có những phát triển mới. Quán triệt tư tưởng
“lấy dân làm gốc”, Đại hội VI đã nêu lên bốn bài học kinh nghiệm lớn, trong
đó, bài học thứ nhất là: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán
triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động; Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, Hội nghị trung ương 8
đã ra nghị quyết 8B (ngày 27 - 3 - 1990) về đổi mới công tác quần chúng của


10

Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, nhấn mạnh quan
điểm: Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân.
Trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ
và kinh tế tri thức có vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình phát triển
lực lượng sản xuất, Đảng ta nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò của các giai tầng
trong xã hội, nhất là của tầng lớp trí thức. Lần đầu tiên, trong cương lĩnh năm
1991, Đảng ta đã nêu lên khái niệm mới về khối liên minh công - nông - trí
làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đại hội VIII khẳng định: “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng
kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng.
Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt

qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những
thành tựu hôm nay”6.
Từ tư duy mới về vai trò của nhân dân, về vấn đề dân tộc trong thời kỳ
mới, Đảng ta xác định đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới: đại đoàn
kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực chủ
yếu của cách mạng Việt Nam.
Đại hội IX của Đảng một lần nữa nhấn mạnh: “Động lực chủ yếu để
phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà
các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực
của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội” 7. Như vậy, so với các động lực
khác, đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực tổng hợp và là động lực to lớn
nhất. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khoá IX, về phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh đã nhận định đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố có ý nghĩa quyết định
6
7

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1996, tr.73.
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001, tr.23.


11

bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng
thời đó cũng chính là điều kiện để bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay.
Tiếp tục đường lối được xác định trong các đại hội trước, Đại hội X đã
nhấn mạnh vấn đề phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xem đó là một trong bốn
thành tố của chủ đề Đại hội. Quan điểm phát huy sức mạnh toàn dân tộc của

Đại hội X được thể hiện qua các nội dung sau:
Một là, đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là
đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là động lực chủ yếu và là
nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc là nhằm để đạt được mục
tiêu độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh.
Ba là, đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính
trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều hình
thức, biện pháp.
Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về vấn đề đại đoàn kết
toàn dân tộc bắt đầu từ sự nhận thức đúng vị trí của yếu tố lợi ích. Nghị quyết
Hội nghị trung ương 8 khoá VI về đổi mới công tác quần chúng của Đảng,
tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân đã nêu lên quan điểm: “Động
lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân
và kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ công dân”.
Như vậy, yếu tố quan trọng đầu tiên, có tính chất quyết định bảo đảm thực
hiện đại đoàn kết toàn dân tộc chính là phải bảo đảm công bằng xã hội, chăm


12

lo lợi ích thiết thực, chính đáng của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, kết
hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội.
Cùng với việc giải quyết đúng đắn, hợp lý quan hệ lợi ích, phát huy chủ
nghĩa yêu nước, thực hiện dân chủ là những yếu tố quan trọng để củng cố và
phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước luôn là động
lực lớn nhất của dân tộc ta trong quá trình lịch sử. Dân chủ vừa là mục tiêu,

vừa là động lực của cách mạng. Nhân dân ta rất coi trọng dân chủ. Muốn đoàn
kết thì phải dân chủ; dân chủ là tăng cường đoàn kết. Tư duy về dân chủ của
Đảng ta cũng có sự phát triển trong mối quan hệ với tư duy đoàn kết toàn dân
tộc, khi nhấn mạnh kết hợp nguyên tắc tập trung dân chủ với nguyên tắc hiệp
thương dân chủ để làm phong phú thêm nền dân chủ ở nước ta.
Ba yếu tố nêu trên tuy có sự sắp xếp khác nhau trong từng giai đoạn
lịch sử nhưng luôn gắn bó với nhau và cơ sở để tạo ra điểm tương đồng để
thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc.
* Xây dựng sự đồng thuận xã hội để phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Hiện nay, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, Đảng ta xác định: “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh làm điểm tương đồng”8
Điểm tương đồng tổng quát hơn dễ đạt được sự nhất trí hơn, cả với
đồng bào trong nước và đồng bào ta định cư ở nước ngoài, để tạo ra sự tương
đồng về quan điểm, thái độ phải: “Xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ,
thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích
chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan
dung…để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng
8

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc làn thứ XI,Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.239 – 240.


13

thuận xã hội. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài
hoà quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội”9
Nguyên tắc đồng thuận xã hội đòi hỏi mọi thành viên hoặc đa số đồng ý

thoả thuận đối với nguyên tắc chung và ý chí chung. Một quyết định được
thông qua phải là “mẫu số chung” cho mọi thành viên dù các thành viên có
thể có nhiều sự khác nhau. Sự đồng thuận xã hội, nhằm đạt tới sự cố kết xã
hội, chống lại sự phân liệt xã hội.
Xã hội ta phát triển ngày càng đa dạng. Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế làm xuất hiện nhiều giai tầng với
những lợi ích khác nhau. Nước ta là một nước đa dân tộc, đa tôn giáo, Đảng ta
đã tìm ra được “mẫu số chung” cho những điểm khác nhau đó là điểm tương
đồng, do đó cũng có thể quan niệm đồng thuận trong xã hội ta hiện nay là sự
nhất trí trên những điểm tương đồng. Về kinh tế, là sự phát triển hài hoà các
lợi ích (cá nhân, tập thể, cộng đồng xã hội…) vì sự phát triển chung của đất
nước. Về chính trị, điểm đồng thuận là mục tiêu chung: giữ vững độc lập
thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Về
tinh thần, tư tưởng là chủ nghĩa yêu nước chân chính. Về mặt văn hoá, tín
ngưỡng, tâm linh là sự hướng thiện, tôn trong những giá trị văn hoá, đạo đức
mang tính nhân bản; là sự giữ gìn và phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên,
tôn vinh và nhớ ơn những người có công với Tổ quốc, dân tộc và cộng đồng;
là sự tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng.
Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị bao gồm Đảng,
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, trong đó nhấn mạnh
vai trò hạt nhân lãnh đạo là tổ chức đảng.
- Tổ chức đảng nằm trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc và là hạt nhân
lãnh đạo của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hạt nhân ấy có mạnh mới có
9

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội. 2011, tr.240.


14


“sức hút”, bảo đảm khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh, kinh nghiệm
thực tế vừa qua chỉ ra rằng, ở những nơi có tình hình bất ổn, mất đoàn kết
chính là vì nơi đó tổ chức đảng yếu kém. Để thực sự là hạt nhân lãnh đạo khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn; đặc biệt là
cần xây dựng những cơ chế cụ thể để Mặt trận và các đoàn thể động viên
nhân dân tham gia xây dựng Đảng; Đảng phải chăm lo lãnh đạo xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Nhà nước phát huy vai trò to lớn trong việc thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc không phải chỉ bằng việc thể chế hoá đường lối, chủ trương của
Đảng thành chính sách, pháp luật, mà còn có trách nhiệm tổ chức thực hiện
các chính sách, pháp luật đó một cách có hiệu quả, thông qua bộ máy công
quyền trong sạch, tận tuỵ, công tâm, hết lòng phục vụ nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân đóng vai trò đại
diện cho lợi ích chung và lợi ích từng giai cấp, từng giới quần chúng, đồng thời
là cầu nối giữa Đảng, chính quyền và nhân dân. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải
thông qua Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và các hình thức đa dạng khác, tức là
đoàn kết thông qua tổ chức và bằng tổ chức. Vai trò giám sát, phản biện xã hội
của Mặt trận và các đoàn thể xã hội nhân dân cần được đề cao.
Đại đoàn kết phải được thực hiện từ cơ sở, trong từng cộng đồng dân
cư nhỏ như thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố, cơ quan, đơn vị… Từ hơn 10 năm
nay, Mặt trận Tổ quốc đã thực hiện tốt cuộc vận động: “Toàn dân đoàn kết
phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tập
trung vào các vấn đề: xây dựng phong trào toàn dân thi đua làm kinh tế giỏi,
làm giàu hợp pháp, từng gia đình làm giàu cho mình, cho cộng đồng, cho đất
nước; xoá đói, giảm nghèo, phấn đấu hằng năm có thêm nhiều đơn vị, địa
phương không còn hộ nghèo. Tiếp tục thực hiện tốt phong trào “Toàn dân xây
dựng đời sống văn hoá” và các cuộc vận động ngăn chặn, đẩy lùi các hiện


15


tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội và văn hoá phẩm độc hại. Xây dựng phong trào
“Cả nước trở thành một xã hội học tập”, “Học tập suốt đời” trước hết trong
cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ. Tôn vinh người tốt, biểu dương việc tốt; bồi
dưỡng và nhân rộng điển hình tiên tiến. Lên án, phê phán, đấu tranh chống tệ
quan liêu, mất dân chủ, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, những hành động coi
thường kỷ luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật. Từ
năm 1998 đến nay, cuộc vận động xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở đã có những kết quả bước đầu rất quan trọng.
* Những yêu cầu mới đặt ra để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trước hết, cần hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật. Đây là vấn
đề có tính cấp thiết, là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến đại đoàn kết dân tộc. Có
tăng cường được đồng thuận xã hội hay không, củng cố và phát huy được sức
mạnh toàn dân tộc hay không, điều đó phụ thuộc rất lớn vào hệ thống chủ
trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những chính
sách, pháp luật liên quan trực tiếp tới từng dân tộc, giai cấp, tầng lớp xã hội,
tôn giáo như: Giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, trí thức, doanh nhân, thế
hệ trẻ, phi nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, vấn đề dân tộc và đoàn kết các
dân tộc, đối với đồng bào các tôn giáo và chính sách tôn giáo, đối với đồng
bào định cư ở nước ngoài... Bảo đảm những chủ trương, chính sách này vừa
đúng ý Đảng, vừa hợp lòng dân và sát với yêu cầu thực tiễn. Hội nghị lần thứ
bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành các nghị quyết về
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì "Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh", về công tác dân tộc, về công tác tôn giáo và
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và XI là những Nghị quyết hết
sức quan trọng về khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần tiếp tục cụ thể hóa, thể
chế hóa và thực hiện có hiệu quả trong thực tiễn.


16


Thứ hai, động viên và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc luôn gắn
liền với yêu cầu mở rộng dân chủ và giữ vững kỷ cương trong đời sống xã hội
trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... Các cấp chính
quyền, cơ quan nhà nước phải chăm lo, phát huy và bảo đảm quyền dân chủ
của nhân dân theo pháp luật, phòng chống, ngăn chặn có hiệu quả và xử lý
nghiêm minh những biểu hiện vi phạm quyền dân chủ của nhân dân, cũng như
những biểu hiện lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật, kích động, gây rối
trật tự công cộng, ảnh hưởng đến sự an toàn và ổn định xã hội, làm sứt mẻ
tình cảm và chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Trước yêu cầu đổi mới, chỉ có
mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa mới có đoàn kết thực sự và bền vững, thực
hiện dân chủ và đoàn kết từ trong Đảng ra toàn xã hội, ở các loại hình tổ
chức, nhất là ở cấp cơ sở và cộng đồng dân cư. Muốn vậy, rất cần đòi hỏi sự
gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong các tổ chức đảng, các cơ quan nhà
nước, của tổ chức Mặt trận và đoàn thể nhân dân, làm cho đội ngũ cán bộ nhà
nước thật sự là những "công bộc của dân", làm cho dân tin vào đội ngũ cán bộ
Nhà nước, dân tích cực và phát huy được quyền làm chủ Nhà nước
Thứ ba, tiếp tục phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cần sớm
cụ thể hóa, thể chế hóa và bảo đảm những điều kiện cần thiết để Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện giám sát
và phản biện xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng; phát huy
hơn nữa quyền dân chủ của nhân dân, thắt chặt mối liên hệ giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc các cấp cần đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động, tiếp tục đa dạng hóa các hình thức vận động tập hợp. Tiếp tục đẩy mạnh
Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh";
phong trào thi đua yêu nước, chung sức chung lòng cùng Đảng, Nhà nước
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; hợp tác và hội nhập kinh tế quốc



17

tế... Trước mắt, tập trung thực hiện có hiệu quả các nhóm giải pháp của Chính
phủ nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng và bảo đảm an sinh
xã hội; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hai cuộc vận động "Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" và "Ngày vì người nghèo"; góp
phần chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân, nhất là
các gia đình chính sách, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào
vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai, bão lũ, đồng bào có đạo. Thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đại
đoàn kết toàn dân tộc, về các giai cấp, tầng lớp nhân dân như: công nhân,
nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ, người cao tuổi, cựu chiến binh, doanh
nhân, tôn giáo và người Việt Nam ở nước ngoài... Chăm lo và phát huy vai trò
của các cá nhân tiêu biểu, nhất là các nhân sỹ, trí thức, người dân tộc thiểu số,
chức sắc tôn giáo và người Việt Nam ở nước ngoài.
Thứ tư, Tăng cường đoàn kết quốc tế trong quá trình tiến hành công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, hội nhập khu vực và thế giới.
Chúng ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế, chỉ có quán triệt thực hiện tốt chính sách đại đoàn
kết dân tộc, đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh và đường lối đối ngoại của
Đảng; đặt trong mối liên hệ hữu cơ mật thiết với an ninh, quốc phòng, với ổn
định chính trị xã hội và phát triển kinh tế phục vụ đắc lực cho công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mới có thể đảm bảo để hội nhập mà không
bị hòa tan, không đánh mất mình, hội nhập quốc tế mà giữ gìn và phát huy
được bản sắc văn hóa dân tộc.
Kiên trì phấn đấu theo con đường mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn,
Đảng và nhân dân ta tiếp tục kế thừa và phát triển tư tưởng đại đoàn kết dân
tộc của Người trong điều kiện mới. Hiện nay, tình hình chính trị thế giới, bên
cạnh những thuận lợi: Quan hệ nước ta với nhiều nước được cải thiện, mở ra



18

triển vọng từng bước bình thường hoá còn có những mặt mới phức tạp tác động
vào nước ta. Các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, kích
động việc thực hiện đa nguyên chính trị, gây chia rẽ nội bộ hòng xoá bỏ sự lãnh
đạo của Đảng và làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc. Trước tình hình mới
đòi hỏi cần phải tăng cường hơn nữa khối đoàn kết toàn dân, động viên được
lực lượng của mọi tầng lớp nhân dân và việc thực hiện mục tiêu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc đưa sự nghiệp đổi mới đất nước đến thắng lợi.


19

KẾT LUẬN
Thời đại ngày nay càng sáng tỏ chân lý đại đoàn kết toàn dân tộc gắn
với mở cửa chủ động hội nhập quốc tế, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, và chỉ chủ động hội nhập mới có thể tồn tại và phát triển, mới có
thể giữ vững được độc lập dân tộc và xây dựng thành công một xã hội phát
triển, công bằng, dân chủ văn minh.
Để kế thừa, phát triển những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nội dung đoàn kết cần được bổ sung, hoàn
chỉnh và đổi mới cả về nội dung, hình thức. Không những phải định ra mục
tiêu đúng mà còn phải có chính sách biện pháp đúng theo nguyên tắc quyền
lợi của các giai cấp và các tầng lớp phải phục tùng quyền lợi của cả dân tộc.
Quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là quá trình lâu dài,
gắn với đấu tranh với những nhận thức sai trái lệch lạc như hẹp hòi định kiến,
chống khuynh hướng đoàn kết một chiều vô nguyên tắc, giữ vững nguyên tắc
Đảng lãnh đạo, đồng thời tăng cường khối liên minh công - nông - trí thức

trong khi mở rộng đoàn kết dân tộc. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn
dân tộc góp phần tạo nên động lực to lớn để thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.



×