Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Nghiên cứu về trắc nghiệm thích nghi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.64 KB, 12 trang )

Nghiên cứu về trắc nghiệm thích nghi
Nguyễn Thị Thu Thảo
Trường Đại học Công nghệ
Luận văn Thạc sĩ ngành: Công nghệ thông tin; Mã số: 1.01.10
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Việt Hà
Năm bảo vệ: 2008
Abstract: Trình bày các khái niệm cơ bản về e-learning : khái niệm, lịch sử phát triển,
kiến trúc hệ thống và một số chuẩn của e-learning. Trình bày trắc nghiệm trực tuyến :
các khái niệm trắc nghiệm trực tuyến, tình hình phát triển và ứng dụng, giới thiệu về
đặc tả QTI (cấu trúc, mô tả ...) cho phép tạo các câu hỏi và đóng gói nội dung để có
thể tương thích với các hệ thống e-learning. Trình bày về trắc nghiệm thích nghi, bao
gồm các vấn đề: khái niệm, hoạt động của hệ thống, các ưu nhược điểm, quá trình phát
triển và một số dạng phát triển, phương pháp trắc nghiệm thích nghi có ràng buộc,
phương pháp trắc nghiệm thích nghi với việc sinh các câu hỏi dựa vào quy tắc, sử
dụng thời gian trong trắc nghiệm thích nghi. Trình bày thực nghiệm mô tả bài trắc
nghiệm thích nghi đối với môn Tin học cơ sở trong Trường Đại học Công nghệ, sử
dụng đặc tả QTI để mô tả dữ liệu câu hỏi
Keywords: E-learning; Trắc nghiệm thích nghi; Trắc nghiệm trực tuyến; Đào tạo điện
tử
Content
MỞ ĐẦU
Trong những năm cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, thế giới đã chứng kiến sự phát triển
mạnh mẽ chưa từng có của khoa học kỹ thuật đặc biệt là trong lĩnh vực máy tính và truyền
thông với việc phổ biến của máy tính cá nhân và sự xuất hiện của mạng máy tính toàn cầu
Internet, đã và đang mang lại cho con người những điều kiện tham gia vào một xã hội mới đa
dạng về thông tin và không gian địa lý. Những thành tựu này cũng mang lại cho con người
một môi trường học tập thuận lợi hơn bao giờ hết. Với người học, việc học tập không còn bị
ràng buộc bởi vấn đề thời gian, không gian và khoảng cách địa lý [4]. Người học được chủ
động trong việc xác định nội dung học, tiến trình học tập trên cơ sở nhu cầu và trình độ của
bản thân. Những phương tiện truyền thông hiện đại cũng mang lại cho người học khả năng
trao đổi học hỏi lẫn nhau một cách đơn giản dễ dàng, mỗi vấn đề một người học gặp phải có


thể được nhanh chóng giải quyết với sự trợ giúp của giáo viên cũng như của rất nhiều người
học khác tại nhiều nơi trên thế giới bất chấp sự khác biệt về thời gian, không gian địa lý. Còn
đối với người dạy, họ có thêm những phương tiện hỗ trợ trong việc biên tập, quản lý nội dung
bài học cũng như trong việc theo dõi và trợ giúp người học. Các hoạt động học tập dựa trên


việc sử dụng các phương tiện truyền thông này được gọi dưới tên chung là “Đào tạo điện tử”
(E-learning) [4].
Với những ưu điểm như vậy, trong những năm gần đây nhiều hệ thống đào tạo điện tử
đã được nghiên cứu và triển khai. Kiểm tra là một phần không thể thiếu trong một hệ thống elearning, nhờ đó mà người dạy có thể đánh giá khách quan và chính xác trình độ của thí sinh
qua nội dung kiểm tra. Phần này sẽ tạo nên thông tin phản hồi tới người dạy và giúp cho việc
hiệu chỉnh nội dung bài học cho phù hợp với đối tượng học
Trong những năm gần đây trắc nghiệm trực tuyến [2] (Online Testing hay Internet
Based Testing - iBT) [25] được đặc biệt quan tâm bởi các ưu điểm nổi bật của nó như: dễ
dàng sinh bài thi theo yêu cầu; có thể triển khai kỳ thi trên diện rộng; tích hợp với các hệ
thống đào tạo từ xa e-Learning; không phụ thuộc thời gian, địa điểm tổ chức kỳ thi... Hầu hết
các tổ chức sát hạch nổi tiếng trên thế giới đều chuyển sang phương thức trắc nghiệm trực
tuyến, hai ví dụ điển hình là: tổ chức Educational Testing Service (ETS) - />- một đơn vị chuyên tổ chức các kỳ thi sát hạch cấp chứng chỉ TOEFL, TOEIC, GRE,…- đã
chuyển kỳ thi TOEFL từ trắc nghiệm trên giấy sang iBT; hoặc tổ chức International Computer
Driving Licence Asia Pacific (ICDLAP) - - đơn vị tổ chức các kỳ thi
sát hạch kỹ năng Công nghệ Thông tin cũng chuyển sang hình thức sát hạch iBT. Cùng với sự
phát triển của phương thức đào tạo qua Web (Web Based Training), trắc nghiệm trực tuyến sẽ
ngày càng được quan tâm và phát triển.
Trắc nghiệm trên máy tính nói chung và trắc nghiệm trực tuyến nói riêng thường gồm
hai bộ phận quan trọng là: ngân hàng câu hỏi và phần mềm trắc nghiệm. Ngân hàng câu hỏi
được xem là phần nội dung (content) của phần mềm trắc nghiệm. Trong trắc nghiệm trực
tuyến, tất cả các câu hỏi trắc nghiệm thuộc một môn học hoặc một chủ đề nào đó được tập
trung lại thành một ngân hàng câu hỏi đặt ở phía máy chủ; phần mềm trắc nghiệm làm nhiệm
vụ tổ chức câu hỏi được lấy ra từ ngân hàng thành bài thi và phân phối đến thí sinh thông qua
trình duyệt Web, đồng thời thực hiện phân tích các phương án trả lời của thí sinh và cuối cùng

đưa ra kết quả đánh giá năng lực thí sinh. Việc đánh giá năng lực thí sinh (qua việc làm bài thi
trắc nghiệm) phụ thuộc vào một số yếu tố, trong đó đặc biệt chú ý đến: (1) ngân hàng câu hỏi
trắc nghiệm có chất lượng và phù hợp mục tiêu trắc nghiệm; (2) phương thức đánh giá năng
lực thí sinh khách quan và có độ chính xác cao.
Mặc dù vậy trắc nghiệm trực tuyến có những thuận lợi, là cho kết quả đánh giá ngay
tức thì, kiểm tra được nhiều thí sinh đồng thời nhưng nó vẫn có những nhược điểm của nó là
gây nhàm chán cho các thí sinh khi phải làm câu hỏi quá dễ hoặc gây căng thẳng cho thí sinh
khi phải làm các câu hỏi quá khó. Nhưng phương pháp này không thể thay thế được các
phương pháp thi truyền thống như hỏi thi vấn đáp, người hỏi thi có thể đưa ra câu hỏi thì phù
hợp với năng lực của thí sinh, phương pháp này chỉ áp dụng được khi thí sinh là ít, còn khi thí
sinh quá lớn thì không thể kiểm tra bằng phương pháp này được. Chính vì các nguyên nhân

2


trên mà trắc nghiệm thích nghi ra đời nó khắc phục được nhược điểm của hai phương pháp
trên [5], [12]. Nó có thể kiểm tra nhiều thí sinh cùng một lúc dựa trên máy tính được kết nối
mạng, cho thông tin về năng lực của thí sinh ngay tức thời, đưa ra các câu hỏi thi tức thời phù
hợp với năng lực của thí sinh. Việc đánh giá năng lực thí sinh cũng giống như trắc nghiệm
trực tuyến chỉ khác là tại mỗi câu hỏi được đưa ra là phù hợp với năng lực thí sinh, năng lực
này được cập nhật thường xuyên trong quá trình thí sinh làm bài cho đến khi đo được năng
lực thực sự của thí sinh (phụ thuộc vào bài thi của thí sinh kết thúc như thế nào; thông thường
bài thi của thí sinh kết thúc khi thí sinh trả lời một loạt các câu hỏi sai, hoặc hết thời gian hoặc
thí sinh đã đạt được ước lượng năng lực tối đa về yêu cầu của bài test khi đó năng lực của thi
sinh sẽ bằng độ khó tối đa của bài test mà môn học quy định).
Với các ưu điểm của trắc nghiệm thích nghi là kiểm tra đồng thời nhiều thí sinh đồng
thời, cho kết quả tức thời, thí sinh không phải đứng trước các câu hỏi quá khó đối với năng
lực của chính mình,… Mặt khác ở Việt Nam cũng chưa có tác giả nào tìm hiểu về trắc nghiệm
thích nghi nên với đánh giá trên tôi đã chọn đề tài luận văn là nghiên cứu về trắc nghiệm thích
nghi. Luận văn này tập trung tìm hiểu nó là hệ thống như thế nào hoạt động ra sao, các ưu

nhược điểm của nó…và thực nghiệm về trắc nghiệm thích nghi với giả sử ngân hàng câu hỏi
đã được định cỡ và sử dụng phương pháp tính điểm thô.
Các phần tiếp theo của luận văn có cấu trúc như sau:
Chương 1 trình bày các khái niệm cơ bản về e-learning: khái niệm, lịch sử phát triển,
kiến trúc hệ thống và một số chuẩn của e-learning.
Chương 2 trình bày về trắc nghiệm trực tuyến trong đó với các khái niệm trắc nghiệm
trực tuyến tình hình phát triển và ứng dụng, giới thiệu về đặc tả QTI (cấu trúc, mô tả…) cho
phép tạo các câu hỏi và đóng gói nội dung để có thể tương thích với các hệ thống e-learning.
Chương 3 trình bày về trắc nghiệm thích nghi, bao gồm các vấn đề: khái niệm, hoạt
động của hệ thống, các ưu nhược điểm, quá trình phát triển và một số dạng phát triển, phương
pháp trắc nghiệm thích nghi có ràng buộc, phương pháp trắc nghiệm thích nghi với việc sinh
các câu hỏi dựa vào quy tắc, sử dụng thời gian trong trắc nghiệm thích nghi.
Chương 4 trình bày thực nghiệm mô phỏng bài trắc nghiệm thích nghi đối với môn
học Tin học cơ sở trong Trường Đại học Công nghệ, sử dụng đặc tả QTI để mô tả dữ liệu câu
hỏi.
Phần kết luận của luận văn tổng kết các kết quả đã đạt được, kết luận và đưa ra một số
hướng nghiên cứu tiếp theo.
References
* Tài liệu Tiếng Việt

3


[1] Phùng Chí Dũng (2006), Nghiên cứu mô hình chia sẻ nội dung động cho đào tạo điện tử,
Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Công nghệ.

[2] Nguyễn Thị Thắm (2006), Lý thuyết trắc nghiệm và ứng dụng trong trắc nghiệm trực
tuyến, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Công nghệ.

[3] Lâm Quang Thiệp (1995), Trắc nghiệm và đo lường cơ bản trong giáo dục, Bộ Giáo dục

và Đào tạo.

[4] Tổng quan về e-learning />* Tài liệu Tiếng Anh

[5] Angel Syang (1993), “COMPUTERIZED ADAPTIVE TESTING IN COMPUTER
SCIENCE : Assessing Student Programming Abilities”, ACM-24thCSE-2/93 -lN,USA,
ACM 0-89791 -566 -6/93 /000210053, pp.53-57.

[6] Binet, A., & Simon, Th. A. (1905). Méthodes nouvelles pour le diagnostic du niveau
intellectual des anormoux [New methods for the diagnosis of abnormal levels of
intellect]. L’Anneé Psychologie, 11, 191–336.

[7] Brown, J.M., & Weiss, D.J. (1977). An adaptive testing strategy for achievement test
batteries (Research report 77–6). Minneapolis, MN: University of Minnesota,
Psychometric Methods Program.

[8] Eduardo Guzmán, Ricardo Conejo, Eva Millán, Mónica Trella, José Luis Pérez-De-LaCruz & Antonia Ríos (2004). “SIETTE: A Web–Based Tool for Adaptive Testing”,
International Journal of Artificial Intelligence in Education, 14, pp. 1 -33.

[9] Eduardo Guzmán, Ricardo Conejo and Emilio García-Hervás (2005). “An Authoring
Environment for Adaptive Testing”. Educational Technology & Society, 8 (3), PP 66-76.

[10] Elena García, Miguel-Ángel Sicilia, José-Ramón Hilera, José-Antonio 14aaGutiérrez
(2002), “Extending Question & Test Learning Technology Specifications with Enhanced
Questionnaire Models”, International Conference on Information Technology Based
Higher Education and Training ITHET, Budapet.

[11] Freund, Ph. A., Hofer, S., & Holling, H. (in press). Explaining and controlling for the
psychometric properties of computer-generated figural matrix items. Applied
Psychological Measurement.


4


[12] John Michael Linacre, Ph.D.MESA Psychometric LaboratoryUniversity of Chicago
(2000), “Computer-Adaptive Testing: A Methodology Whose Time Has Come”, Seoul,
South Korea: Komesa Press.

[13] Glas, C.A.W., & van der Linden, W.J. (2001). Modeling variability in item parameters
in item response models (Research report 01–11). Enschede, The Netherlands:
University of Twente.

[14] Glas, C.A.W., & van der Linden, W.J. (2003). Computerized adaptive testing with item
cloning. Applied Psychological Measurement, 27, 247–261.

[15] Hively, W., Patterson, H.L., & Page, S.H. (1968). A “universedefined” system of
arithmetic achievement items. Journal of Educational Measurement, 5, 275–290.

[16] Lilia Cheniti-Belcadhi (2007), “ Assessment personalization in the semantic web, Doctor
of Philosophy In the Computer Sciences College, french.

[17] Rasch, G. (1960). Probabilistic models for some intelligence and attainment tests.
Chicago: University of Chicago Press.

[18] Reckase, M.D. (1974) An interactive computer program for tailored testing based
on the one-parameter logistic model. Behavior Research Methods and Instrumentation
6(2): 208-212

[19] Sinharay, S., Johnson, M.S., & Williamson, D.M. (2003). Calibrating item families and
summarizing the results using family expected response functions. Journal of

Educational and Behavioral Statistics, 28, 295–313

[20] Wim J.van der Linder (2006). A lognormal model for response times on test items.
Journal of Educational and Behavioral Statistics, 31, 181–204.

[21] Wim J.van der Linder (2007). Sequencing an adaptive testing battery. Submitted for
publication.

[22] Wim J.van der Linder, Bernard P.Veldkamp (2008). Implementing Sympson-Hetter
Item-Exposure Control in a Shadow-Test Approach to Constrained Adaptive Testing,
International Journal of Testing, 8: 272–289,

[23] Wim J.van der Linder (2008b). Using response times for item selection in adaptive
testing. Journal of Educational and Behavioral Statistics, 33. In press.

[24] Wim J.van der Linder (2008), “some new developments in adaptive Testing
Technology”, journal of psychology: vol. 216 (1), pp. 3-11.

5


[25] W.P. Lee and A.Goh (2004), “Setting and Sharing Web-Based Assessments”, Web
Based Education Proceeding (416), pp.270-274.

[26] - QTI import of

Respondus-

generated question – Sakai


[27] />instructor/_Microsoft_LRN_Content.ht

[28] />[29] Advanced distributed learning, (2004), SCORM 2004 Overview, />[30] Advanced distributed learning, (2004), SCORM CAM, />[31] />[32] />
6


Nghiên cứu về trắc nghiệm thích nghi
Nguyễn Thị Thu Thảo
Trường Đại học Công nghệ
Luận văn Thạc sĩ ngành: Công nghệ thông tin; Mã số: 1.01.10
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Việt Hà
Năm bảo vệ: 2008
Abstract: Trình bày các khái niệm cơ bản về e-learning : khái niệm, lịch sử phát triển,
kiến trúc hệ thống và một số chuẩn của e-learning. Trình bày trắc nghiệm trực tuyến :
các khái niệm trắc nghiệm trực tuyến, tình hình phát triển và ứng dụng, giới thiệu về
đặc tả QTI (cấu trúc, mô tả ...) cho phép tạo các câu hỏi và đóng gói nội dung để có
thể tương thích với các hệ thống e-learning. Trình bày về trắc nghiệm thích nghi, bao
gồm các vấn đề: khái niệm, hoạt động của hệ thống, các ưu nhược điểm, quá trình phát
triển và một số dạng phát triển, phương pháp trắc nghiệm thích nghi có ràng buộc,
phương pháp trắc nghiệm thích nghi với việc sinh các câu hỏi dựa vào quy tắc, sử
dụng thời gian trong trắc nghiệm thích nghi. Trình bày thực nghiệm mô tả bài trắc
nghiệm thích nghi đối với môn Tin học cơ sở trong Trường Đại học Công nghệ, sử
dụng đặc tả QTI để mô tả dữ liệu câu hỏi
Keywords: E-learning; Trắc nghiệm thích nghi; Trắc nghiệm trực tuyến; Đào tạo điện
tử
Content
MỞ ĐẦU
Trong những năm cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, thế giới đã chứng kiến sự phát triển
mạnh mẽ chưa từng có của khoa học kỹ thuật đặc biệt là trong lĩnh vực máy tính và truyền
thông với việc phổ biến của máy tính cá nhân và sự xuất hiện của mạng máy tính toàn cầu

Internet, đã và đang mang lại cho con người những điều kiện tham gia vào một xã hội mới đa
dạng về thông tin và không gian địa lý. Những thành tựu này cũng mang lại cho con người
một môi trường học tập thuận lợi hơn bao giờ hết. Với người học, việc học tập không còn bị
ràng buộc bởi vấn đề thời gian, không gian và khoảng cách địa lý [4]. Người học được chủ
động trong việc xác định nội dung học, tiến trình học tập trên cơ sở nhu cầu và trình độ của
bản thân. Những phương tiện truyền thông hiện đại cũng mang lại cho người học khả năng
trao đổi học hỏi lẫn nhau một cách đơn giản dễ dàng, mỗi vấn đề một người học gặp phải có
thể được nhanh chóng giải quyết với sự trợ giúp của giáo viên cũng như của rất nhiều người
học khác tại nhiều nơi trên thế giới bất chấp sự khác biệt về thời gian, không gian địa lý. Còn
đối với người dạy, họ có thêm những phương tiện hỗ trợ trong việc biên tập, quản lý nội dung
bài học cũng như trong việc theo dõi và trợ giúp người học. Các hoạt động học tập dựa trên


việc sử dụng các phương tiện truyền thông này được gọi dưới tên chung là “Đào tạo điện tử”
(E-learning) [4].
Với những ưu điểm như vậy, trong những năm gần đây nhiều hệ thống đào tạo điện tử
đã được nghiên cứu và triển khai. Kiểm tra là một phần không thể thiếu trong một hệ thống elearning, nhờ đó mà người dạy có thể đánh giá khách quan và chính xác trình độ của thí sinh
qua nội dung kiểm tra. Phần này sẽ tạo nên thông tin phản hồi tới người dạy và giúp cho việc
hiệu chỉnh nội dung bài học cho phù hợp với đối tượng học
Trong những năm gần đây trắc nghiệm trực tuyến [2] (Online Testing hay Internet
Based Testing - iBT) [25] được đặc biệt quan tâm bởi các ưu điểm nổi bật của nó như: dễ
dàng sinh bài thi theo yêu cầu; có thể triển khai kỳ thi trên diện rộng; tích hợp với các hệ
thống đào tạo từ xa e-Learning; không phụ thuộc thời gian, địa điểm tổ chức kỳ thi... Hầu hết
các tổ chức sát hạch nổi tiếng trên thế giới đều chuyển sang phương thức trắc nghiệm trực
tuyến, hai ví dụ điển hình là: tổ chức Educational Testing Service (ETS) - />- một đơn vị chuyên tổ chức các kỳ thi sát hạch cấp chứng chỉ TOEFL, TOEIC, GRE,…- đã
chuyển kỳ thi TOEFL từ trắc nghiệm trên giấy sang iBT; hoặc tổ chức International Computer
Driving Licence Asia Pacific (ICDLAP) - - đơn vị tổ chức các kỳ thi
sát hạch kỹ năng Công nghệ Thông tin cũng chuyển sang hình thức sát hạch iBT. Cùng với sự
phát triển của phương thức đào tạo qua Web (Web Based Training), trắc nghiệm trực tuyến sẽ
ngày càng được quan tâm và phát triển.

Trắc nghiệm trên máy tính nói chung và trắc nghiệm trực tuyến nói riêng thường gồm
hai bộ phận quan trọng là: ngân hàng câu hỏi và phần mềm trắc nghiệm. Ngân hàng câu hỏi
được xem là phần nội dung (content) của phần mềm trắc nghiệm. Trong trắc nghiệm trực
tuyến, tất cả các câu hỏi trắc nghiệm thuộc một môn học hoặc một chủ đề nào đó được tập
trung lại thành một ngân hàng câu hỏi đặt ở phía máy chủ; phần mềm trắc nghiệm làm nhiệm
vụ tổ chức câu hỏi được lấy ra từ ngân hàng thành bài thi và phân phối đến thí sinh thông qua
trình duyệt Web, đồng thời thực hiện phân tích các phương án trả lời của thí sinh và cuối cùng
đưa ra kết quả đánh giá năng lực thí sinh. Việc đánh giá năng lực thí sinh (qua việc làm bài thi
trắc nghiệm) phụ thuộc vào một số yếu tố, trong đó đặc biệt chú ý đến: (1) ngân hàng câu hỏi
trắc nghiệm có chất lượng và phù hợp mục tiêu trắc nghiệm; (2) phương thức đánh giá năng
lực thí sinh khách quan và có độ chính xác cao.
Mặc dù vậy trắc nghiệm trực tuyến có những thuận lợi, là cho kết quả đánh giá ngay
tức thì, kiểm tra được nhiều thí sinh đồng thời nhưng nó vẫn có những nhược điểm của nó là
gây nhàm chán cho các thí sinh khi phải làm câu hỏi quá dễ hoặc gây căng thẳng cho thí sinh
khi phải làm các câu hỏi quá khó. Nhưng phương pháp này không thể thay thế được các
phương pháp thi truyền thống như hỏi thi vấn đáp, người hỏi thi có thể đưa ra câu hỏi thì phù
hợp với năng lực của thí sinh, phương pháp này chỉ áp dụng được khi thí sinh là ít, còn khi thí
sinh quá lớn thì không thể kiểm tra bằng phương pháp này được. Chính vì các nguyên nhân

2


trên mà trắc nghiệm thích nghi ra đời nó khắc phục được nhược điểm của hai phương pháp
trên [5], [12]. Nó có thể kiểm tra nhiều thí sinh cùng một lúc dựa trên máy tính được kết nối
mạng, cho thông tin về năng lực của thí sinh ngay tức thời, đưa ra các câu hỏi thi tức thời phù
hợp với năng lực của thí sinh. Việc đánh giá năng lực thí sinh cũng giống như trắc nghiệm
trực tuyến chỉ khác là tại mỗi câu hỏi được đưa ra là phù hợp với năng lực thí sinh, năng lực
này được cập nhật thường xuyên trong quá trình thí sinh làm bài cho đến khi đo được năng
lực thực sự của thí sinh (phụ thuộc vào bài thi của thí sinh kết thúc như thế nào; thông thường
bài thi của thí sinh kết thúc khi thí sinh trả lời một loạt các câu hỏi sai, hoặc hết thời gian hoặc

thí sinh đã đạt được ước lượng năng lực tối đa về yêu cầu của bài test khi đó năng lực của thi
sinh sẽ bằng độ khó tối đa của bài test mà môn học quy định).
Với các ưu điểm của trắc nghiệm thích nghi là kiểm tra đồng thời nhiều thí sinh đồng
thời, cho kết quả tức thời, thí sinh không phải đứng trước các câu hỏi quá khó đối với năng
lực của chính mình,… Mặt khác ở Việt Nam cũng chưa có tác giả nào tìm hiểu về trắc nghiệm
thích nghi nên với đánh giá trên tôi đã chọn đề tài luận văn là nghiên cứu về trắc nghiệm thích
nghi. Luận văn này tập trung tìm hiểu nó là hệ thống như thế nào hoạt động ra sao, các ưu
nhược điểm của nó…và thực nghiệm về trắc nghiệm thích nghi với giả sử ngân hàng câu hỏi
đã được định cỡ và sử dụng phương pháp tính điểm thô.
Các phần tiếp theo của luận văn có cấu trúc như sau:
Chương 1 trình bày các khái niệm cơ bản về e-learning: khái niệm, lịch sử phát triển,
kiến trúc hệ thống và một số chuẩn của e-learning.
Chương 2 trình bày về trắc nghiệm trực tuyến trong đó với các khái niệm trắc nghiệm
trực tuyến tình hình phát triển và ứng dụng, giới thiệu về đặc tả QTI (cấu trúc, mô tả…) cho
phép tạo các câu hỏi và đóng gói nội dung để có thể tương thích với các hệ thống e-learning.
Chương 3 trình bày về trắc nghiệm thích nghi, bao gồm các vấn đề: khái niệm, hoạt
động của hệ thống, các ưu nhược điểm, quá trình phát triển và một số dạng phát triển, phương
pháp trắc nghiệm thích nghi có ràng buộc, phương pháp trắc nghiệm thích nghi với việc sinh
các câu hỏi dựa vào quy tắc, sử dụng thời gian trong trắc nghiệm thích nghi.
Chương 4 trình bày thực nghiệm mô phỏng bài trắc nghiệm thích nghi đối với môn
học Tin học cơ sở trong Trường Đại học Công nghệ, sử dụng đặc tả QTI để mô tả dữ liệu câu
hỏi.
Phần kết luận của luận văn tổng kết các kết quả đã đạt được, kết luận và đưa ra một số
hướng nghiên cứu tiếp theo.
References
* Tài liệu Tiếng Việt

3



[1] Phùng Chí Dũng (2006), Nghiên cứu mô hình chia sẻ nội dung động cho đào tạo điện tử,
Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Công nghệ.

[2] Nguyễn Thị Thắm (2006), Lý thuyết trắc nghiệm và ứng dụng trong trắc nghiệm trực
tuyến, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Công nghệ.

[3] Lâm Quang Thiệp (1995), Trắc nghiệm và đo lường cơ bản trong giáo dục, Bộ Giáo dục
và Đào tạo.

[4] Tổng quan về e-learning />* Tài liệu Tiếng Anh

[5] Angel Syang (1993), “COMPUTERIZED ADAPTIVE TESTING IN COMPUTER
SCIENCE : Assessing Student Programming Abilities”, ACM-24thCSE-2/93 -lN,USA,
ACM 0-89791 -566 -6/93 /000210053, pp.53-57.

[6] Binet, A., & Simon, Th. A. (1905). Méthodes nouvelles pour le diagnostic du niveau
intellectual des anormoux [New methods for the diagnosis of abnormal levels of
intellect]. L’Anneé Psychologie, 11, 191–336.

[7] Brown, J.M., & Weiss, D.J. (1977). An adaptive testing strategy for achievement test
batteries (Research report 77–6). Minneapolis, MN: University of Minnesota,
Psychometric Methods Program.

[8] Eduardo Guzmán, Ricardo Conejo, Eva Millán, Mónica Trella, José Luis Pérez-De-LaCruz & Antonia Ríos (2004). “SIETTE: A Web–Based Tool for Adaptive Testing”,
International Journal of Artificial Intelligence in Education, 14, pp. 1 -33.

[9] Eduardo Guzmán, Ricardo Conejo and Emilio García-Hervás (2005). “An Authoring
Environment for Adaptive Testing”. Educational Technology & Society, 8 (3), PP 66-76.

[10] Elena García, Miguel-Ángel Sicilia, José-Ramón Hilera, José-Antonio 14aaGutiérrez

(2002), “Extending Question & Test Learning Technology Specifications with Enhanced
Questionnaire Models”, International Conference on Information Technology Based
Higher Education and Training ITHET, Budapet.

[11] Freund, Ph. A., Hofer, S., & Holling, H. (in press). Explaining and controlling for the
psychometric properties of computer-generated figural matrix items. Applied
Psychological Measurement.

4


[12] John Michael Linacre, Ph.D.MESA Psychometric LaboratoryUniversity of Chicago
(2000), “Computer-Adaptive Testing: A Methodology Whose Time Has Come”, Seoul,
South Korea: Komesa Press.

[13] Glas, C.A.W., & van der Linden, W.J. (2001). Modeling variability in item parameters
in item response models (Research report 01–11). Enschede, The Netherlands:
University of Twente.

[14] Glas, C.A.W., & van der Linden, W.J. (2003). Computerized adaptive testing with item
cloning. Applied Psychological Measurement, 27, 247–261.

[15] Hively, W., Patterson, H.L., & Page, S.H. (1968). A “universedefined” system of
arithmetic achievement items. Journal of Educational Measurement, 5, 275–290.

[16] Lilia Cheniti-Belcadhi (2007), “ Assessment personalization in the semantic web, Doctor
of Philosophy In the Computer Sciences College, french.

[17] Rasch, G. (1960). Probabilistic models for some intelligence and attainment tests.
Chicago: University of Chicago Press.


[18] Reckase, M.D. (1974) An interactive computer program for tailored testing based
on the one-parameter logistic model. Behavior Research Methods and Instrumentation
6(2): 208-212

[19] Sinharay, S., Johnson, M.S., & Williamson, D.M. (2003). Calibrating item families and
summarizing the results using family expected response functions. Journal of
Educational and Behavioral Statistics, 28, 295–313

[20] Wim J.van der Linder (2006). A lognormal model for response times on test items.
Journal of Educational and Behavioral Statistics, 31, 181–204.

[21] Wim J.van der Linder (2007). Sequencing an adaptive testing battery. Submitted for
publication.

[22] Wim J.van der Linder, Bernard P.Veldkamp (2008). Implementing Sympson-Hetter
Item-Exposure Control in a Shadow-Test Approach to Constrained Adaptive Testing,
International Journal of Testing, 8: 272–289,

[23] Wim J.van der Linder (2008b). Using response times for item selection in adaptive
testing. Journal of Educational and Behavioral Statistics, 33. In press.

[24] Wim J.van der Linder (2008), “some new developments in adaptive Testing
Technology”, journal of psychology: vol. 216 (1), pp. 3-11.

5


[25] W.P. Lee and A.Goh (2004), “Setting and Sharing Web-Based Assessments”, Web
Based Education Proceeding (416), pp.270-274.


[26] - QTI import of

Respondus-

generated question – Sakai

[27] />instructor/_Microsoft_LRN_Content.ht

[28] />[29] Advanced distributed learning, (2004), SCORM 2004 Overview, />[30] Advanced distributed learning, (2004), SCORM CAM, />[31] />[32] />
6



×