Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Ứng dụng Marketing trong kinh doanh xuất bản phẩm tại Nhà xuất bản Tài nguyên – Môi trường và Bản đồ Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.19 KB, 48 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Marketing không chỉ là một chức năng trong hoạt động kinh doanh, nó
còn là một triết lý dẫn dắt toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp trong việc phát
hiện, đáp ứng và làm thoả mãn nhu cầu khách hàng. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp
cần phải xác định thi trường của mình là gì, khách hàng của mình là ai, họ muốn
gì và mong muốn gì từ sản phẩm của doanh nghiệp? doanh nghiệp cần phải làm
gì, làm như thế nào để làm cho khách hàng hài lòng và quay trở lại.
Trong điều kiện kinh tế phát triển và hội nhập như hiên nay, cạnh tranh
luôn là yếu tố để các doanh nghiệp hướng tới. Để tồn tại, phát triển, mỗi doanh
nghiệp phải biết tự làm mới mình, không chỉ tận dụng cơ hội, phát huy những
thế mạnh mà còn phải biết đối mặt với những thách thức mà nền kinh tế mang
lại. Do vậy trước tình hình thị trường sôi động và phức tạp, doanh nghiệp kinh
doanh xuất bản phẩm nói chung và NXB Tài nguyên – Môi trường và Bản đồ
Việt Nam nói riêng đang phải cố gắng tìm cho mình một hướng đi đúng đắn để
thích nghi với những điều kiện mới. Để củng cố và giữ vững vị thế của mình
trên thương trường các doanh nghiệp cần phải ứng dụng Marketing một cách
hiệu quả bởi Marketing có khả năng kết nối hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp với thị trường, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh hướng theo thị
trường, biết lấy thị trường và nhu cầu khách hàng làm cơ sở cho mọi quyết định
kinh doanh.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của việc ứng dụng Marketing đối với hoạt
động của doanh nghiệp kinh doanh XBP trong nền kinh tế thị trường nên em đã
chọn đề tài : “Ứng dụng Marketing trong kinh doanh xuất bản phẩm tại
Nhà xuất bản Tài nguyên – Môi trường và Bản đồ Việt Nam” làm chuyên
đề nghiên cứu của mình.
2. Phạm vi của đề tài.

1



Phạm vi đề tài chỉ đề cập tới tình hình ứng dụng Marketing của NXB
Tài nguyên – Môi trường và Bản đồ Việt Nam tại trụ sở 85 Nguyễn Chí Thanh,
Đống Đa, Hà Nội.
3. Mục đích nghiên cứu.
Tuy đây không phải là một đề tài mới nhưng lại có ý nghĩa rất thiết thực
đối với hoạt động kinh doanh XBP của NXB Bản đồ trong điều kiện hiện nay.
Chuyên đề đã đề cập tới những cơ sở lý luần về hoạt động Marketing trong kinh
doanh thương mại nói chung, kinh doanh XBP nói riêng và thực tiễn hoạt động
của NXB Bản đồ trong nền kinh tế thị trường từ đó đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động Marketing trong kinh doanh XBP tại NXB.
4.

Bố cục của đề tài:
Ngoài lời mở đầu, kết luần, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung

chính của chuyên đề được chia làm 3 phần
Chương 1 : Cơ sở lý luận và vai trò của Marketing trong kinh doanh
XBP tại NXB Tài nguyên – Môi trường và Bản đồ Việt Nam.
Chương 2 : Thực trạng hoạt động ứng dụng Marketing trong kinh
doanh XBP ở NXB Tài nguyên – Môi trường và Bản đồ Việt Nam.
Chương 3 : Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện hoạt động
Marketing tại NXB Tài nguyên – Môi trường và Bản đồ Việt nam.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Chuyên đề nghiên cứu sử dụng các phương pháp truyền thống như
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê…

CHƯƠNG 1
2



CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ VAI TRÒ CỦA MARKETING TRONG
KINH DOANH XBP TẠI NXB TÀI NGUYÊN – MÔI TRƯỜNG VÀ BẢN
ĐỒ VIỆT NAM.
1.1

Cơ sở lý luận về Marketing.

1.1.1 Khái niệm và chức năng của Marketing.
1.1.1.1

Khái niệm.

Marketing là thuật ngữ Tiếng Anh , nó được sử dụng lần đầu tiên vào
năm 1902 tại trường Đại học Michigan, Hoa kỳ. Khi mới ra đời từ thuật ngữ này
có tên là “Market” và trong suốt một trời gian dài Marketing chỉ giới hạn trong
lĩnh vực thương mại. Vào những năm 1970, trong điều kiện cạnh tranh độc
quyền gay gắt, nhiệm vụ của Marketing ngày càng phức tạp. Chính vì vậy lĩnh
vực áp dụng của Marketing được mở rộng. Nó không chỉ được áp dụng trong
khuôn khổ nội địa mà còn được mở rộng trên thị trường quốc tế, không chỉ đối
với những sản phẩm hữu hình mà còn cả những sản phẩm vô hình. Tuy nhiên
cho đến nay, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau trong việc đưa ra một định nghĩa
về Marketing. Bài viết xin trích dẫn một số định nghĩa marketing của các tổ
chức hoạt động trong ngành :
 Theo hiệp hội Marketing của Mỹ:
Marketing là thực hiện các hoạt động kinh doanh nhằm hướng vào
dòng vận chuyển hàng hóa dịch vụ từ người sản xuất tới người tiêu thụ hoặc
người sử dụng.
 Theo Philip Kotle:
Marketing là một hoạt động của con người nhằm thỏa mãn những nhu cầu
và mong muốn của họ thông qua trao đổi.

 Theo viện Marketing của Anh:
Marketing là một quá trình tổ chức và quản lý toàn bộ các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, từ việc phát hiện ra và biến sức mua của người tiêu dung
thành nhu cầu thực sự về một mặt hàng cụ thể đến sản xuất kinh doanh và đưa
3


các hàng hóa đến người tiêu dùng cuối cùng nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp
thu được lợi nhuận dự kiến.
 “Marketing là một môn khoa học kinh tế nghiên cứu các tính quy luật
hình thành nhu cầu trên thị trường và hệ thống các chính sách, phương tiện nghệ
thuật làm cho quá trình sản xuất phù hợp với nhu cầu xã hội, thỏa mãn nhu cầu ở
mức độ tối đa nhằm đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất.”
Dù có một vài sự khác nhau nhưng các ý kiến trên đều nhằm đề cập đến
các khía cạnh của marketing, đó là : Marketing chính là một hệ thống các hoạt
động kinh tế, là tổng thể các giải pháp của một công ty trong hoạt động kinh
doanh nhằm đạt được mục tiêu của mình, là sự tác động tương hỗ của hai mặt
trong một quá trình thống nhất. Một mặt, nghiên cứu nhu cầu thị trường, thị hiếu
của người tiêu dùng để định hướng sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu đó. Mặt
khác, tác động tích cực đến thị trường, đến nhu cầu người tiêu dùng nhằm đấy
mạnh quá trình tiêu dùng và sản xuất.
Mặc dù đã xuất hiện rất nhiều quan điểm, góc nhìn về Marketing nhưng
nổi bật lên hai quan điểm được các nhà chuyên môn gọi là Marketing cổ điển và
Marketing hiện đại.
 Marketing cổ điển ( Marketing truyền thống )
Quan điểm Marketing cổ điển xuất hiện khá sớm khi sản xuất và tiêu
dùng chưa có khoảng cách lớn. Trên thị trường người bán giữ vai trò là chủ đạo
và chi phối. Do đó nội dung của Marketing cổ điển rất đơn giản, nó chỉ bao gồm
một số thủ pháp để thúc đẩy bán hàng.
Đặc trưng của thị trường trong thời kì này là:

+ Sản xuất chưa phát triển, phạm vi thị trường, số lượng nhà cung cấp
còn hạn chế, thị trường do người bán kiểm soát.
+ Phạm vi hoạt động của Marketing chỉ bó hẹp trong lĩnh vực thương mại
nhằm tìm kiếm thị trường để tiêu thụ những hàng hóa hoặc dịch vụ có sẵn.

4


+ Triết lý của Marketing cổ điển : Bán cái mà nhà sản xuất có nhằm mục
tiêu thu lợi nhuận tối đa cho người bán.
Trong thời kỳ này thì doanh nghiệp tập trung nguồn lực thúc đẩy tiêu
thụ, tìm mọi cách để tăng khối lượng sản phẩm hàng hóa được sản xuất ra. Bán
được càng nhiều hàng và thu được nhiều lợi nhuận là tiêu chuẩn để đánh giá
chất lượng và hiệu quả kinh doanh.
Khi nền kinh tế thị trường phát triển vượt bậc do ảnh hưởng của cuộc
cách mạng KHKT và các nhân tố khác đã làm cho cung cầu vượt lên, giữa sản
xuất và tiêu dùng có khoảng cách lớn thì vị trí và vai trò của người mua trong
quan hệ mua – bán trên thị trường có sự thay đổi. “ Thị trường của người bán”
nay đã trở thành “thị trường của người mua” buộc các nhà sản xuất kinh doanh
từ chỗ chi phối thị trường nay phải xác định được nhu cầu , mong muốn của thị
trường và khách hàng, từ đó tìm mọi cách để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn
đó bằng những cách thức có ưu thế hơn so với đối thủ cạnh tranh.
 Marketing hiện đại.
Theo quan điểm hiện đại thì Marketing là chức năng quản lý doanh
nghiệp về mặt tổ chức, bao gồm việc quản lý toàn diện hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, từ việc phát hiện ra nhu cầu thị trường đến việc tổ chức sản
xuất ra những hàng hóa, dịch vụ phù hợp với nhu cầu và đến việc tổ chức phân
phối chúng, rồi bán chúng nhằm thỏa mãn tối đa những nhu cầu được phát hiện
ra để đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất. Mục tiêu của Marketing hiện đại là thu
được lợi nhuận cho người bán, cho nhà sản xuất thông qua việc thỏa mãn tốt nhu

cầu của người mua, người tiêu dùng.
Hoạt động của Marketing hiện đại giải quyết vấn đề trao đổi hàng hóa
của doanh nghiệp trên thị trường. Marketing hiện đại khẳng định sản xuất không
còn giữ vị trí trung tâm nữa, toàn bộ hoạt động sản xuất của doanh nghiệp phải
bắt đầu từ khách hàng và hướng tới thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Triết lý
của Marketing hiện đại là “ bán những cái mà khách hàng cần” .
5


Qua nghiên cứu Marketing hiện đại chúng ta có thể đưa ra một số nhận
xét sau:
- Marketing là một khái niệm đang trong quá trình hoàn thiện và phát
triển.
- Marketing trước hết được xem xét như là nghệ thuật tổ chức, điều hành
các hoạt động kinh tế nhằm thỏa mãn nhu cầu ở mức cao nhất , nhu cầu của
người tiêu dùng được thể hiện ở phương châm bán hàng: bán cái mà khách hàng
cần, thị trường cần.
- Marketing coi nhu cầu của khách hàng, thị trường là điểm xuất phát và
là mục đích hoạt động kinh tế của doanh nghiệp.
- Marketing góp phần thực hiện mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là
lợi nhuận.
1.1.1.2 Bản chất của Marketing trong nền kinh tế thị trường.
Định hướng của Marketing là tư tưởng kinh doanh mà theo đó mọi hoạt
động của doanh nghiệp phụ thuộc vào khách hàng, để cố gắng thỏa mãn tối đa
nhu cầu khách hàng. Khách hàng giữ vị trí trung tâm, thu hút sự chú ý của doanh
nghiệp. Lợi nhuận của doanh nghiệp chỉ có thể đảm bảo được khi phục vụ tốt
khách hàng trong toàn bộ quá trìnhcủa hoạt động kinh doanh. Khi chấp nhận
kinh doanh theo định hướng Marketing thì doanh nghiệp phải đi theo 3 tư
tưởng:
+


Định hướng khách hàng dẫn dắt toàn bộ hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp.
+ Toàn bộ nỗ lực của doanh nghiệp phải được liên kết với nhau thành
một hệ thống và hướng tới mục tiêu chung là thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của
khách hàng.
+ Lợi nhuận không chỉ là bán hàng mà xuất hiện với tư cách là đối tượng
được tìm kiếm liên tục (doanh nghiệp tìm kiếm lợi nhuận mang tính chất chiến
lược).
6


1.1.1.3

Chức năng của Marketing.

Với vai trò là bộ phận tạo ra khách hàng cho doanh nghiệp, tùy theo
tính chất và đặc điểm kinh doanh của từng doanh nghiệp, Marketing trong
doanh nghiệp có nhiều chức năng khác nhau. Các chức năng chính của hoạt
động Marketing trong doanh nghiệp:
+

Nghiên cứu, phân tích tiềm năng, nhu cầu tiêu dùng để phát hiện ra

nhu cầu của thị trường.
+ Tăng cường khả năng thích nghi của doanh nghiệp trong điều kiện thị
trường biến động thường xuyên.
+


Thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng của khách hàng, của thị

trường.
+

Kết nối các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp với thị trường làm

tăng cường hiệu quả kinh doanh.
1.1.2

Chiến lược của Marketing.

1.1.2.1 Khái niệm.
Chiến lược marketing là hệ thống các đường lối xác lập mối quan hệ
giữa doanh nghiệp và thị trường giúp cho doanh nghiệp ứng phó với cạnh tranh
trên thị trường. Chiến lược Marketing xác định chiến lược sản phẩm tác động
đến các chiến lược bộ phận khác hoặc có thể hiểu chiến lược Marketing là chiến
lược liên kết các yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài của doanh nghiệp.
Chiến lược Marketing = Thị trường mục tiêu + Marketing hỗn hợp.
1.1.2.2 Các mục tiêu chiến lược của Marketing.
Hầu hết các chiến lược Marketing của doanh nghiệp đều nhằm vào 3 mục
tiêu chính:
 Mục tiêu lợi nhuận:
Lợi nhuận là mục tiêu xuyên suốt, thường trực, lâu dài, cơ bản và là
điều kiện để đạt được những mục tiêu khác. Lợi nhuận thu được sẽ giúp cho
doanh nghiệp thực hiện việc tái sản xuất mở rộng, cải thiện đời sống vật chất và
7


tinh thần cho cán bộ, công nhân viên, khai thác các nghiệp vụ khác của doanh

nghiệp. Việc thực hiện chiến lược Marketing góp phần quan trọng vào việc nâng
cao hiệu quả kinh doanh, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
 Mục tiêu thế lực:
Thế lực là mục tiêu thể hiện sự tăng trưởng và phát triển vững mạnh
của doanh nghiệp. Muốn đứng vững và phát triển trong sự cạnh tranh khốc liệt
của thị trường thì nhà kinh doanh phải không ngừng củng cố thế lực của mình.
Khi có thị phần lớn, thế lực mạnh thì nhà kinh doanh mới có thể chi phối được
thị trường và tạo ra những lợi thế trong cạnh tranh để nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Mục tiêu thế lực được thể hiện ở các tiêu chí như:
- Khối lượng hàng hóa bán ra và doanh số bán hàng.
- Thị phần và quy mô kinh doanh của doanh nghiệp.
- Uy tín và các mối quan hệ của doanh nghiệp.
- Số lượng khách hàng.
Để đạt được những mục tiêu này thì doanh nghiệp cần vận dụng một cách
có hiệu quả các chiến lược Marketing.
 Mục tiêu an toàn:
Xã hội càng phát triển thì mục tiêu an toàn càng được con người coi
trọng và trong hoạt động kinh doanh cũng vậy. Doanh nghiệp không nên chỉ tập
trung vào việc đi mở rộng thị trường mà không chú ý đến yếu tố an toàn. Chỉ có
sự an toàn thì doanh nghiệp mới giảm bớt được những rủi ro và phát triển vững
mạnh.
Để đạt được các mục tiêu an toàn doanh nghiệp có thể sử dụng các giải
pháp như:
- Tìm thị trường ổn định về an ninh, chính trị, pháp luật.
- Tìm thị trường có nhu cầu ổn định.
- Kinh doanh trên nhiều phân đoạn thị trường.
1.1.2.3 Các chiến lược Marketing bộ phận.
8



Marketing hỗn hợp là hệ thống đồng bộ các công cụ có thể kiểm soát
được doanh nghiệp có thể sử dụng và chinh phục khách hàng. Marketing hỗn
hợp được nghiên cứu theo bốn tham số cơ bản : sản phẩm, giá cả, xúc tiến và
phân phối.
 Chiến lược sản phẩm.
Khi nói về sản phẩm hàng hóa, những người tiếp cận theo góc độ
truyền thống cho rằng: Sản phẩm của doanh nghiệp được hiểu và mô tả thông
qua biểu hiện vật chất. Người ta chỉ đề cập tới hàng hóa hiện vật mà doanh
nghiệp đang sản xuất kinh doanh chứ không chú ý tới các yếu tố khác có liên
quan như: dịch vụ, bao bì, phương thức thanh toán…
Đối với các chuyên gia Marketing, sản phẩm – hàng hóa được biểu hiện
ở phạm vi rộng lớn hơn: “Sản phẩm hàng hóa là tất cả những cái, những yếu tố
có thể thỏa mãn nhu cầu hay ước muốn của khách hàng, cống hiến lợi ích cho họ
và có khả năng đưa ra chào bán trên thị trường với mục đích thu hút sự chú ý
mua sắm, sử dụng hay tiêu dùng”.
Chiến lược sản phẩm là yếu tố nền tảng của chiến lược Marketing hỗn
hợp, được xác định dựa trên kế hoạch kinh doanh quy mô lớn hơn dành cho sản
phẩm mới và chiến lược Marketing tổng thể cho mọi sản phẩm đang có của
doanh nghiệp. Khi xem xét về chiến lược sản phẩm, doanh nghiệp cần quan tâm
tới các vấn đề sau:
 Quản lý chất lượng tổng hợp.
Việc nghiên cứu thị trường và khách hàng không chỉ trả lời cho câu hỏi
khách hàng cần gì, bao nhiêu, cần vào thời điểm nào và khả năng thanh toán của
họ ra sao mà còn phải biết họ đòi hỏi mức độ chất lượng như thế nào, chất lượng
nào thỏa mãn nhất? Tuy nhiên sự đòi hỏi của khách hàng là không giới hạn, để
quyết định mức định lượng thích ứng doanh nghiệp phải nghiên cứu chất lượng
của những sản phẩm cạnh tranh và thay thế. Từ đó, xác định những yêu cầu về
chất lượng và định hướng quản lý chất lượng trong quá trình chế tạo sản phẩm.
9



 Phát triển nhãn hiệu.
Việc lựa chọn nhãn hiệu cho sản phẩm có ý nghĩa quan trọng đảm bảo
thành công của phát triển sản phẩm mới. Việc lựa chọn nhãn hiệu phải đảm bảo
những yêu cầu tối thiểu sau:
+ Gợi mở một cái gì đó về đặc tính của sản phẩm chẳng hạn như lợi ích,
giá trị sử dụng của sản phẩm.
+

Tên nhãn hiêu phải dễ phát âm và dễ nhớ, không trùng hoặc không

tương tự với nhãn hiệu của doanh nghiệp khác.
+ Đúng luật lệ để có thể đăng ký nhãn hàng với cơ quan có thẩm quyền.
+ Hợp với phong tục, tập quán của thị trường mục tiêu.
 Quyết định lựa chọn bao gói sản phẩm.
Bao bì sản phẩm phải thực hiện đồng bộ 4 chức năng : bảo quản thông
tin về hàng hóa, thẩm mỹ, tạo nên sự hấp dẫn của sản phẩm với khách hàng và
chức năng thương mại.
Đóng gói cần đảm nhiệm các chức năng bảo vệ, kinh tế, lợi nhuận và hỗ
trợ khách hàng. Lựa chọn bao bì sản phẩm là cần thiết đối với việc xác định,
miêu tả và xúc tiến sản phẩm. Do đó những khía cạnh này cần được đề cập khi
phát triển chiến lược sản phẩm để có thể đáp ứng được đúng nhu cầu của khách
hàng mục tiêu.
Chiến lược sản phẩm là cơ sở quyết định định hướng sản xuất, quy mô
cũng như tốc độ phát triển của doanh nghiệp. Vị thế và uy tín của doanh nghiệp
trên thị trường được thể hiện ở thị phần mà doanh nghiệp nắm giữ. Vì vậy,
muốn đứng vững và tăng cường sức cạnh tranh, điều đầu tiên nhà doanh nghiệp
phải quan tâm là sản phẩm của mình bao gồm cả yếu tố chất lượng và hình thức.
Sản phẩm có chất lượng cao, bao bì hấp dẫn, được khách hàng chấp nhận là cơ
sở quan trọng nhất để tạo uy tín cho nhãn hiệu hàng hóa và thương hiệu của

doanh nghiệp.
 Chiến lược giá cả.
10


Chiến lược giá cả có vai trò rất quan trọng trong chiến lược Marketing.
Chiến lược giá cả ảnh hưởng rất lớn tới khối lượng hàng hóa tiêu thụ của doanh
nghiệp. Một chiến lược giá cả thích hợp sẽ có tác động mạnh tới thu nhập và lợi
nhuận của doanh nghiệp. Bởi thế, các doanh nghiệp đã sử dụng chiến lược giá cả
như một vũ khí sắc bén giúp doanh nghiệp giành thắng lợi trong cạnh tranh .Nếu
như trong nền kinh tế chỉ huy giá cả được nhà nước quy định thì trong nền kinh
tế thị trường giá cả chủ yếu được quyết định bởi thị trường , khi định giá hàng
hóa doanh nghiệp cần lưu ý một số điểm sau:
- Giá doanh nghiệp đưa ra phải phù hợp với sự chấp nhận của khách
hàng.
- Giá của từng loại mặt hàng phải phù hợp với quan hệ cung – cầu của
mặt hàng đó trong từng thời điểm.
- Giá của hàng hóa, sản phẩm phải xem xét trong mối quan hệ với giá cả
của sản phẩm cạnh tranh và sản phẩm thay thế.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần quan tâm tới các nhân tố ảnh hưởng tới
giá như : Tình hình cạnh tranh trên thị trường; chất lượng, uy tín của sản phẩm;
các chế độ chính sách quản lý của Nhà nước….
Khi xây dựng chiến lược giá cả, doanh nghiệp có thể lựa chọn các cách
định giá như sau:
• Định giá hướng vào doanh nghiệp: Lợi ích của doanh nghiệp được đảm
bảo và coi trọng trước khi đảm bảo lợi ích của khách hàng và thị trường. Những
nhân tố thuộc về doanh nghiệp như : chi phí sản xuất, chi phí Marketing…. trở
thành những yếu tố quyết định trong việc định giá sản phẩm. Để thực hiện được
chiến lược này, doanh nghiệp phải thực sự vững mạnh, có vị trí và uy tín vững
chắc trên thị trường.

• Định giá hướng ra thị trường: Chiến lược này yêu cầu các doanh nghiệp
xem xét, nghiên cứu các nhân tố như cung, cầu, quy luật cạnh tranh, đặc điểm
khách hàng..,khi tiến hành định giá. Chiến lược này chỉ rõ lợi ích của doanh
11


nghiệp chỉ được đảm bảo khi lợi ích của khách hàng và thị trường được đảm
bảo. Trong chiến lược giá thì quan điểm chung là chỉ cần giảm giá hơn sơ với
đối thủ cạnh tranh một chút là doanh nghiệp đã có cơ hội bán hàng .
Hiện nay trong kinh doanh XBP có một số cách định giá được doanh
nghiệp áp dụng như:
- Định giá theo đối tượng sử dụng chính là dựa trên khách hàng. Căn cứ
vào thu nhập, nghề nghiệp, sở thích, thị hiếu của khách hàng để định giá.
- Định giá theo chất lượng và giá trị của hàng hóa. Giá hàng hóa tỷ lệ
thuận với chất lượng và giá trị sử dụng. Giá trị của hàng hóa càng cao, chất
lượng càng cao thì giá càng cao.
- Chính sách giá hớt váng: hớt lấy phần ngon của thị trường với 2 điều
kiện chất lượng hàng hóa hơn hẳn các doanh nghiệp khác và hướng tới nhóm
khách hàng không nhạy cảm về giá.
- Định giá theo chu kì sống của sản phẩm: hàng hóa ở những giai đoạn
khác nhau thì sẽ có giá cả khác nhau. Giai đoạn đầu hàng hóa có thể cao hoặc
thấp; giai đoạn phát triển thì giá cao; giai đoạn suy thoái và bão hòa thì giảm giá,
tăng triết khấu.
- Chính sách giá theo nguồn khai thác : do chi phí ở các nguồn khai thác
là khác nhau nên doanh nghiệp sẽ định giá cho hàng hóa ở các nguồn khai thác
là khác nhau.
 Chiến lược phân phối.
Chiến lược phân phối được xem như là một nhân tố quan trọng quyết
định sự thành công trong Marketing. Hoạt động phân phối giải thích vấn đề
hàng hóa, dịch vụ được đư từ nhà san xuất tới người tiêu dùng như thế nào?

Các kênh phân phối là cầu nối đưa hàng hóa qua hoặc không qua trung
gian tới người tiêu dùng cuối cùng. Chính nhờ mạng lưới trung gian này đã giúp
cho nhà sản xuất rút ngắn khoảng cách với người tiêu dùng.

12


Có 2 loại kênh phân phối mà doanh nghiệp co thể sử dụng đó là kênh
phân phối loại dài và kênh phân phối loại ngắn:
 Kênh phân phối loại dài là kênh phân phối mà trong đó doanh nghiệp
thông qua nhiều lực lượng trung gian để đưa hàng hóa của mình tới người sử
dụng. Khi sử dụng kênh phân phối loại dài hàng hóa của doanh nghiệp sẽ được
phân phối trên nhiều thị trường góp phần làm tăng thị phần, mở rộng mạng lưới
tiêu thụ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, phí lưu thông của kênh dài là khá lớn.
 Kênh phân phối loại ngắn là kênh phân phối mà ở đó hàng hóa được
đưa trực tiếp từ nhà sản xuất tới người sử dụng hoặc chỉ qua một, hai nhà sản
xuất trung gian tới người sử dụng.
Với loại kênh này doanh nghiệp có thể giảm được chi phí lưu thông
hàng hóa tạo điều kiện giảm giá thành sản phẩm, tốc độ chu chuyển hàng hóa
nhanh giúp tăng lợi nhuận của doanh nghiệp đồng thời đáp ứng nhu cầu tốt hơn.
Tuy nhiên, không phải loại hàng hóa nào cũng thực hiện được loại kênh này mà
phải là hàng hóa có nhu cầu cao.
Việc sử dụng kênh dài hay ngắn là phụ thuộc vào hàng hóa và mục tiêu
của doanh nghiệp. Để lựa chọn kênh phân phối phù hợp doanh nghiệp cần phải
xác định đó là loại hàng hóa gì? Nhu cầu của đối tượng khách hàng ra sao và
mục tiêu của doanh nghiệp như thế nào?
 Chiến lược xúc tiến.
Xúc tiến trong Marketing là việc chuyển giao những thông điệp cần
thiết về doanh nghiệp, về sản phẩm, về phương thức phục vụ, về những lợi ích
mà khách hàng sẽ thu được khi mua sản phẩm của doanh nghiệp cũng như

những tin tức cần thiết từ phía khách hàng để qua đó doanh nghiệp tìm cách thỏa
mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
Mục đích của chiến lược xúc tiến chính là cung cấp thông tin cho khách
hàng nhằm thúc đẩy quá trình mua hàng của khách hàng .
Một số biện pháp xúc tiến được các doanh nghiệp sử dụng hiện nay là:
13


 Tuyên truyền là một công cụ tuy chưa được xem trọng trong hoạt động
Marketing nhưng nó lại có tác động mạnh, đạt hiệu quả cao ít tốn kém. Khi sử
dụng các biện pháp tuyên truyền doanh nghiệp cần lưu ý :
+ Các thông điệp phải phù hợp với các yếu tố tâm lý, trình độ văn hóa,
tầng lớp xã hội.
+ Cách truyền đạt phải phù hợp với khả năng và nhận thức của khách
hàng mục tiêu.
+ Thời điểm để tung ra các thông điệp phù hợp.
+ Chọn kênh nào, địa điểm nào để gửi thông điệp.
 Quảng cáo: là một trong những công cụ quan trọng nhất trong hoạt
động Marketing. Quảng cáo chuyển các thông tin có sức thuyết phục tới khách
hàng mục tiêu của doanh nghiệp. Mục đích của quảng cáo là để thu hút sự chú ý
của khách hàng, thuyết phục họ về những lợi ích, sự hấp dẫn của sản phẩm.
Mục tiêu của quảng cáo xuất phát từ mục tiêu kinh doanh của doanh
nghiệp như: mục tiêu doanh số, lợi nhuận, thị phần, nâng cao uy tín của doanh
nghiệp, sản phẩm. Các mục tiêu quảng cáo thường được phân laoi thành: Quảng
cáo thông tin, quảng cáo thuyết phục, quảng cáo nhắc nhở.
Quyết định về chi phí quảng cáo: sau khi xem xét các mục tiêu quảng
cáo doanh nghiệp sẽ quyết định chi phí quảng cáo cho sản phẩm. Có 4 phương
pháp xác định chi phí : Phương pháp tùy theo khả năng, tính theo% doanh số,
cân bằng cạnh tranh, mục tiêu và công việc.
Quyết định về nội dung thông điệp quảng cáo: cần thiết kế, phác họa

những ý tưởng đển có được nội dung mong muốn. Có 3 loại ý tưởng:
+ Ý tưởng về sự hợp lý: sản phẩm đem lại những lợi ích theo yêu cầu :
bền, tiết kiệm…
+ Ý tưởng tạo cảm xúc: kích thích những tình cảm tích cực của khách
hàng dẫn đến việc mua hàng.
+ Ý tưởng đạo đức : hướng đến cái thiện nơi khách hàng.
14


Quyết định về phương tiện quảng cáo: doanh nghiệp phải lựa chọn
phương tiện quảng cáo cho phù hợp với khách hàng mục tiêu và chiến lược kinh
doanh: báo chí, TV, radio, Internet ,pano, áp phích….
Đánh giá hiệu quả quảng cáo: để đánh giá hiệu quả quảng cáo cần phân
tích mục tiêu quảng cáo có đạt được hay không? Mục tiêu cuối cùng là bán được
nhiều hàng hơn nhằm tăng doanh số và lợi nhuận.
 Khuyến mại : bao gồm nhiều công cụ cổ động nhằm kích thích thị
trường, tiêu thụ nhanh sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Mục tiêu của
khuyến mại là thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng của khách hàng.
Có nhiều công cụ khuyến mại khác như:
- Hàng mẫu.
- Quà tặng là sản phẩm cũng loại hay khác loại, phiếu trúng thưởng…
- Khuyến mại các dịch vụ khác như gói quà, vận chuyển.
- Ngoài ra doanh nghiệp còn có thể sử dụng nghệ thuật bán hàng của
nhân viên thông qua ứng xử, giao tiếp….
 Tham gia hôi chợ, triểm lãm để tìm kiếm khách hàng và thị trường mới.
Như vậy, với 4 chiến lược Marketing cụ thể doanh nghiệp đã có công
cụ hỗ trợ đắc lực khi tham gia vào thị trường. Tùy vào thị trường, mục tiêu và
khả năng của doanh nghiệp mà nhà kinh doanh có thể lựa chọn được những
chiến lược Marketing sao cho phù hợp.
1.1.3 Môi trường Marketing.

1.1.3.1 Khái niệm.
Môi trường Marketing của công ty là tập hợp những chủ thể tích cực và
những lực lượng hoạt động ở bên ngoài công ty và có khả năng ảnh hưởng tới
hoạt động ra quyết định của bộ phận Marketing, thiết lập và duy trì mối quan hệ
hợp tác với khách hàng mục tiêu.
Những thay đổi của môi trường Marketing có ảnh hưởng sâu sắc, mạnh
mẽ tới các doanh nghiệp, bao gồm cả ảnh hưởng tốt và ảnh hưởng xấu. Như vậy,
15


môi trường Marketing tạo ra cả những cơ hội thuận lợi và cả những sức ép, sự
đe dọa cho tất cả các nhà kinh doanh. Bởi vậy các doanh nghiệp luôn phải nhạy
bén, tỉnh táo để có thể hiểu rõ, nắm bắt các thay đổi của môi trường Marketing
để có các phản ứng và hoạt động kịp thời.
Căn cứ vào tính chất và phạm vi ảnh hưởng môi trường marketing của
doanh nghiệp đước chia thành môi trường vi mô và môi trường vĩ mô.
1.1.3.2 Môi trường Marketing vi mô.
 Khái niệm:
Môi trường Marketing vi mô là những lực lượng có quan hệ trực tiếp
tới bản thân doanh nghiệp và ảnh hưởng tới doanh nghiệp khi phục vụ khách
hàng. Đó là các yếu tố nội tại của doanh nghiệp, nguồn cung ứng, trung gian
Marketing, khách hàng, đối thủ cạnh tranh, công chúng trực tiếp…..mà doanh
nghiệp có thể kiểm soát được.
 Ảnh hưởng của các nhân tố thuộc môi trường vi mô.
• Các yếu tố và lực lượng bên trong doanh nghiệp.
Công tác marketing không phải là nhiệm vụ riêng của những người
làm trong bộ phận Marketing mà còn là trách nhiệm và nghĩa vụ của toàn bộ
công nhân viên trong công ty. Các quyết định Marketing phải tuân thủ nhiệm vụ
chiến lược, mục tiêu cụ thể, các chính sách và định hướng phát triển do ban lãnh
đạo công ty vạch ra.

Bộ phận Marketing phải làm việc chặt chẽ và đồng bộ với các bộ phận
chức năng khác trong công ty như : phòng tài chính, phòng sản xuất, phòng kinh
doanh….để đạt được hiệu quả cao nhất.
• Nguồn cung ứng.
Nguồn cung ứng là những cá nhân hay công ty cung cấp cho doanh
nghiệp nguồn vật tư, nguyên liệu để sản xuất ra sản phẩm và dịch vụ nhất định.
Các nhà cung ứng có thể ảnh hưởng tới chất lượng, giá thành và tiến trình sản

16


xuất. Do vậy, công tác Markeitng cho các nhà cung cấp phải thực hiện tốt để có
thể sản xuất ra các sản phẩm phù hợp.
Bất kỳ một sự thay đổi nào từ phía nhà cung ứng sớm hay muộn , trực
tiếp hay gián tiếp cũng gây ảnh hưởng tới việc ứng dụng Marketing của doanh
nghiệp. Chính vì vậy, các nhà quản lý luôn phải quan tâm tới thái độ của các nhà
cung cấp đối với doanh nghiệp mình và đối thủ cạnh tranh.
• Trung gian Markeitng.
Trung gian Marketing là những cá nhân hay doanh nghiệp hỗ trợ cho
việc phân phối tiêu thụ, quảng bá hàng hóa, dịch vụ của mình ra thị trường. Họ
bao gồm: đại lý bán buôn, bán lẻ, hệ thống phân phối, các hang dịch vụ
Marketing như các tổ chức hỗ trợ đầu tư, các ngân hàng, quỹ tín dụng, công ty
bảo hiểm…..giúp doanh nghiệp có được sự hỗ trợ về mặt tài chính và hạn chế
rủi ro trong việc mua bán hàng hóa.
Trung gian Marketing đóng vai trò rất quan trọng giúp doanh nghiệp
tìm kiếm được khách hàng, thực hiện được việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị
trường, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
• Khách hàng.
Khách hàng là yếu tố quyết định tới sự thành công hay thất bại của
doanh nghiệp bởi lẽ khách hàng là người tạo nên thị trường. Nhu cầu và sự biến

đổi nhu cầu của khách hàng ảnh hưởng tới toàn bộ quyết định Marketing của
doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp phải thường xuyên theo dõi nhu cầu khách
hàng.
Có 5 dạng thị trường khách hàng mà doanh nghiệp cần quan tâm nghiên
cứu kĩ:
+ Thị trường người tiêu dùng: những ca nhân, hộ dân, tổ chức mua bán
hàng hóa, dịch vụ để sử dụng cho các nhu cầu tiêu dùng.
+ Thị trường các nhà sản xuất: các khách hàng mua hàng hóa, dịch vụ để
gia công, chế biến them hoặc sử dụng vào quá trình sản xuất khác.
17


+ Thị trường buôn bán trung gian : các cá nhân, tổ chức mua bán hàng
hóa, dịch vụ để bán lại kiếm lời.
+ Thị trường các cơ quan và tổ chứ của Đảng và Nhà nước : các cơ quan
Nhà nước mua hàng hóa, dịch vụ để sử dụng công cộng hay chuyển giao cho
những người cần thiết.
+ Thị trường quốc tế : là những khách hàng nước ngoài bao gồm người
tiêu dùng, người sản xuất, người mua trung gian và chính phủ các quốc gia khác.
Khách hàng là mục tiêu cuối cùng của Marketing, mọi nỗ lực marketing
suy cho cùng là nhằm thỏa mãn cao nhất các nhu cầu và mong muốn của khách
hàng.
• Đối thủ cạnh tranh:
Mọi doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường đều phải đối đầu với các
đối thủ cạnh tranh khác. Quan điểm Marketing xem xét cạnh tranh ở 4 góc độ:
+ Cạnh tranh mong muốn nghĩa là cùng một lượng thu nhập người ta có
thể sử dụng vào các mục đích khác nhau và khi dùng vào mục đích này có thể
thôi không dùng vào mục đích khác bởi đó chính là cơ cấu chi tiêu.
+ Cạnh tranh giữa các sản phẩm khác chủng loại mà đều có thể thỏa mãn
một nhu cầu cụ thể.

+ Cạnh tranh giữa các sản phẩm cùng chủng loại để đáp ứng nhu cầu đó.
+ Cạnh tranh giữa các nhãn hiệu trong cùng một môi trường.
Công tác marketing cần nghiên cứu và làm rõ các nhu cầu và mong
muốn cụ thể của thị trường, hiểu được các đối thủ cạnh tranh theo từng loại,
thấy rõ điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ trong việc phục vụ các nhu cầu ấy khi
tìm ra các ưu thế cạnh tranh để quảng bá và tuyên truyền cho ưu thế ấy nhằm thu
hút sự quan tâm của khác hàng.
1.1.3.3 Môi trường Marketing vĩ mô.
 Khái niệm.

18


Môi trường marketing vĩ mô là những lực lượng thuộc phạm vi rộng
trong xã hội, nó có ảnh hưởng tới các quyết định Marketing của doanh nghiệp.
Môi trường Marketing vĩ mô là những yếu tố tồn tại khách quan, không thể kiểm
soát và thay đổi.
 Ảnh hưởng của các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô.
 Môi trường dân cư.
Yếu tố đầu tiên mà doanh nghiệp cần theo dõi là dân số vì chính con
người làm nên thị trường. Doanh nghiệp cần quan tâm đến quy mô và tỷ lệ dân
số ở các thành phố, khu vực và các quốc gia khác nhau. Ngoài ra, các yếu tố như
sự phân bố tuổi tác, lứa tuổi, giới tính, trình độ học vấn cũng dẫn đến những
thay đổi trong nhu cầu đối với các loại hàng hóa, dịch vụ.
 Môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế có ảnh hưởng lớn đến khả năng tăng trưởng cũng
nhưng sức hấp dẫn của thị trường. Thị trường cần có sức mua của người tiêu
dùng. Sức mua của người tiêu dùng lại phụ thuộc vào các yếu tố như tình hình
phát triển kinh tế, giá cả, khả năng thanh toán, thu nhập, phân bố thu nhập và
các xu hướng tiêu dùng. Do vậy, doanh nghiệp khi ứng dụng Marketing phải

nắm được những yếu tố thay đổi trong môi trường kinh tế để có thể đưa ra các
quyết định kinh doanh phù hợp.
 Môi trường tự nhiên.
Việc ứng dụng Marketing của doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi rất nhiều
yếu tố của môi trường tự nhiên. Sản xuất càng phát triển thì các ảnh hưởng tới tự
nhiên càng nhiều và ngược lại những biến đổi trong môi trường tự nhiên cũng
ảnh hưởng tới sản phẩm. Sự thiếu hụt về nguồn nguyên vật liệu thô, giá nguyên
vật liệu ngày cang tăng đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm kiếm các nguồn
nguyên vật liệu. Đặc biệt, những giải pháp để chống lại nạn ô nhiễm môi trường:
ô nhiễm môi trường nước, không khí….đã làm gia tăng chí phí Marketing.

19


 Môi trường KHKT và công nghệ.
KHKT và công nghệ có ảnh hưởng to lớn đến sản xuất kinh doanh và
tiêu thụ. Các tiến bộ KHKT sẽ làm ra các sản phẩm mới đồng thời làm nảy sinh
các nhu cầu mới và làm triệt tiêu cả công nghệ cũ hay nhu cầu cũ…. Công cuộc
cạnh tranh về KHKT mới giúp cho doanh nghiệp có thể chiến thắng trên thị
trường và giảm bớt chi phí trong sản xuất.
 Môi trường văn hóa – xã hội.
Văn hóa là hệ thống các chuẩn mực . giá trị, quy tắc hành vi mà mọi
thành viên phải tôn trọng và tuân theo. Văn hóa tác động mạnh mẽ tới việc ra
quyết định Marketing trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Môi trường văn hóa ảnh hưởng tới thị hiếu, tập quán, tín ngưỡng, các
công trình , trình độ văn hóa dân cư…
Môi trường văn hóa vừa tạo ra nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng đem
đến nhiều thách thức cho hoạt động Marketing. Đó chính là sự hội nhập, sự đa
dạng hóa và giao thoa của các nền văn hóa trên thế giới đã khiến cho việc ứng
dụng Marketing của doanh nghiệp phải thích ứng hơn để phù hợp với các diễn

biến đó.
1.1.4 Quản trị Marketing.
Hiệp hội Marketing Mỹ định nghĩa về quản trị Marketing như sau:
“Quản trị Marketing là quá trình lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch , định
giá, khuyến mãi và phân phối hàng hóa, dịch vụ và ý tưởng để tạo ra sự trao đổi
với các nhóm mục tiêu, thỏa mãn những mục tiêu của khách hàng và tổ chức”.
Quản trị Marketing có vai trò hết sức quan trọng trong doanh nghiệp, nó
có tác dụng định hướng và liên kết các hoạt động quản trị khác.
Trong hoạt động marketing, mỗi cá nhân và bộ phận đều có chức năng và
vai trò riêng, nhiệm vụ và trách nhiệm được xác định rõ rang.
Quản trị Marketing không phải là kích thích nhu cầu có khả năng thanh
toán về các sản phẩm của doanh nghiệp mà nó có nhiệm vụ tác động đến mức độ
20


thời điểm và cơ cấu của nhu cầu có khả năng thanh toán theo các giải pháp hiệu
quả nhất để doanh nghiệp thực hiện được mục tiêu của mình. Vì vậy. quản trị
Marketing thực chất là quản trị nhu cầu có khả năng thanh toán.
1.2

Vai trò của Marketing đối với hoạt động kinh doanh XBP của

NXB Tài nguyên – Môi trường và Bản đồ Việt Nam.
1.2.1 Marketing giúp NXB đưa XBP của mình vào thị trường và
thích ứng với nhu cầu của khách hàng.
Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu về XBP của khách hàng ngày
càng phong phú và đa dạng. Việc đưa XBP của doanh nghiệp thâm nhập vào thị
trường, thích ứng với nhu cầu của khách hàng là việc không hề đơn giản. Chính
hoạt động Marketing đã làm cho XBP thâm nhập thị trường nhanh hơn và phù
hợp với nhu cầu của khách hàng. Bởi lẽ khi sử dụng Marketing là doanh nghiệp

đã sản xuất dựa trên cơ sở nghiên cứu kỹ lưỡng nhu cầu khách hàng. Do vậy sản
phẩm, hàng hóa đưa ra thị trường sẽ đáp ứng trúng nhu cầu của khách hàng.
Không chỉ vậy khi ứng dụng Marketing sẽ giúp doanh nghiệp tìm kiếm
được những biện pháp thích ứng được với thị trường một cách hiệu quả nhất.
1.2.2 Marketing giúp cho NXB nghiên cứu và phân tích nhu cầu tiềm
năng để thỏa mãn khách hàng ở mức độ tối đa.
Nghiên cứu thị trường, phân tích nhu cầu khách hàng là một chức năng
quan trọng của Marketing. Nhu cầu XBP hiện nay rất phong phú và đa dạng. Để
thỏa mãn được nhu cầu tối đa của khách hàng , NBX cần quan tâm tới tất cả
các nhu cầu hiện tại cũng như nhu cầu tiềm năng. Marketing giúp NXB dự đoán
được hướng phát triển của thị trường trong tương lai.
Bên cạnh đó Marketing giúp NXB nắm bắt được nhu cầu của khách
hàng, nhu cầu nào sắp bão hòa, đang bão hòa, sẽ biến mất để có các biện pháp
đối phó kịp thời. Đồng thời Marketing giúp NXB chuẩn bị những XBP mới thỏa
mãn nhu cầu của khách hàng.

21


Như vậy, Marketing giúp NXB nắm bắt chính xác thông tin về nhu cầu
trên thị trường để nhanh chóng điều chính hoạt động sản xuất kinh doanh sao
cho phù hợp với thực tế.
1.2.3 Marketing giúp NXB tổ chức và hoàn thiện hệ thống phân phối
XBP có hiệu quả.
Khi áp dụng Marketing hoạt động phân phối diễn ra có hiệu quả bởi
Marketing nghiên cứu sâu sắc về khách hàng. Marketing giúp NXB nghiên cứu
và chọn lọc các nhà trung gian, môi giới có khả năng tốt nhất để đem XBP tới
tay người tiêu dùng. Marketing còn giúp NXB xây dựng được kênh phân phối
XBP một cách khoa học, xác đinh được XBP sử dụng loại hình kênh nào? Số
lượng các nhà trung gian tham gia vào kênh là bao nhiêu… Rõ ràng, Marketing

đã giúp NXB tổ chức và hoàn thiện hệ thống kênh phân phối XBP của mình một
cách tốt nhất.
1.2.4 Marketing giúp NXB thực hiện tốt mục tiêu kinh doanh.
Kinh doanh XBP là một hoạt động kinh doanh đặc thù bởi lẽ nó luôn
đảm bảo đồng thời hai nhiệm vụ: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Marketing
có vai trò quan trọng trong việc giúp NXB thực hiện tất cả các mục tiêu của
mình. Nhờ việc ứng dụng Marketing mà hoạt động kinh doanh XBP của NXB
luôn gắn nới thị trường, gắn với nhu cầu khách hàng, góp phần tăng doanh thu
và lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đồng thời, uy tín và vị thế của NXB trên thị
trường ngày càng được khẳng định.

22


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ỨNG DỤNG MARKETING
TRONG KINH DOANH XBP TẠI NXB
TÀI NGUYÊN – MÔI TRƯỜNG VÀ BẢN ĐỒ VIỆT NAM.
2.1 Tổng quan về NXB Tài nguyên – Môi trường và Bản Đồ Việt Nam.
2.1.1 Vài nét cơ bản về NXB Tài nguyên – Môi trường và Bản Đồ Việt
Nam.
Ngày 28/1/1995, theo quyết định số 18/QĐ-ĐC của Tổng cục trưởng
Tổng cục Đại chính quyết định thành lập Nhà xuất bản Bản đồ.
Ngày 21/12/1996, Xí nghiệp In địa chính và Xí nghiệp Bản đồ được sát
nhập vào Nhà xuất bản Bản đồ. Tiếp đó, trong quá trình phát triển của mình,
Nhà xuất bản Bản đồ tiếp tục sát nhập thêm các đơn vị khác như : Phân xưởng
In – Công ty Trắc địa Bản đồ số 1, Xí nghiệp Đo vẽ Bản đồ - Công ty Trắc địa
Bản đồ số 3 và Xí nghiệp In Khí tượng thủy văn. Đây là NXB duy nhất thuộc
Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trong lĩnh vực biên tập, xuất
bản, in và phát hành bản đồ, sách, tài liệu chuyên ngành về tài nguyên – môi

trường trên phạm vi cả nước và nước ngoài. Đặc biệt, theo quyết định số
919/QĐ-BTNMT ngày 24/5/2010 Nhà xuất bản Bản đồ được chuyển đổi thành
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Nhà xuất bản Tài nguyên - Môi
trường và Bản đồ Việt Nam.
 Tên gọi và địa chỉ giao dịch.
- Tên đầy đủ bằng Tiếng Việt : Công ty TNHH một thành viên Nhà xuất
bản Tài nguyên – Môi trường và Bản đồ Việt Nam.
- Tên giao dịch viết tắt TMBVN.
- Tên giao dịch quốc tê : Viet Nam Publishing House of Natural
Resources, Environment and Cartography.
- Viết tắt là : NARENCA.
23


- Trụ sở chính : số 85 đường Nguyễn Chí Thanh, phường Láng Hạ, quận
Đống Đa, thành phố Hà Nội.
- Tel : (84-4) 38 344 610 - 38 343 812 - 38 359 667
- Fax : (84-4) 38 344 610 - 38 351 920
- Email :

* Website :

 Nhà xuất bản Bản đồ có ngành nghề kinh doanh chính :
- Xuất bản các loại sách, tài liệu chuyên ngành phục vụ công tác quản lý,
phổ biến pháp luật, khoa học – kỹ thuật, thông tin, tuyên truyền về tài nguyên
môi trường theo quy định của pháp luật.
- Biên tập, xuất bản, in và phát hành hệ thống bản đồ địa hình, địa chính,
hành chính, bản đồ nền cơ sở; bản đồ, tập bản đồ, atlas, quả cầu chuyên ngành,
chuyên đề trên giấy, CD – rom, mạng internet và trên các phương tiện khác.
- In và phát hành các loại sách, tạp chí, lịch, nhãn bao bì hàng hóa, sản

phẩm quảng cáo và các ấn phẩm khác phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
- Kinh doanh sản phẩm, thiết bị, vật tư trong lĩnh vực xuất bản,in,phát
hành, quảng cáo.
- Dịch vụ cho thuê nhà, xưởng, văn phòng, kho bãi.
- Tổ chức và tham gia các triểm lãm, hội chợ về sách, văn hóa phẩm,
thiết bị in trong và ngoài nước.
- Tư vấn , thiết kế các dự án, dự toán và giám sát thi công các công trình
thuộc lĩnh vực đất đai, đo đạc, bản đồ.
- Ứng dụng chuyển giao công nghệ, tư vấn dịch vụ trong các lĩnh vực:
xuất bản, in ấn, phát hành, đo đạc, bản đồ ; thiết kế xây dựng cơ sở dữ liệu thông
tin địa lý, cơ sở dữ liệu đất đai, tài nguyên môi trường và phát triển các ứng
dụng GIS.
 Cơ cấu tổ chức:
- Cơ cấu quản lý : cơ cấu quản lý của công ty bao gồm có Chủ tịch công
ty kiêm Tổng giám đốc, Tổng biên tập, các Phó tổng giám đốc, Kiểm soát viên.
24


- Tổ chức giúp việc Chủ tịch Công ty kiêm Tổng giám đốc gồm :
Văn phòng.
Phòng Kế hoạch – Thị trường.
Phòng Tài chính – Kế toán.
Phòng Biên tập – Tư liệu bản đồ.
Phòng Quản lý xuất bản.
Phòng Biên tập sách.
Phòng Công nghệ - Đào tạo.
- Các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Nhà máy In bản đồ.
Xí nghiệp Bản đồ.
Trung tâm Biên tập và Công nghệ cao.

Trung tâm Phát triển ứng dụng GIS.
Trung tâm Phát hành.
Trung tâm Kĩ thuật tài nguyên và môi trường.
Trung tâm Kinh doanh và dịch vụ tổng hợp.
Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh.
Chi nhánh tại miền trung.
2.1.2 Môi trường kinh doanh của NXB Bản đồ.
NXB Bản đồ có trụ sở chính đặt tại trung tâm thủ đô Hà Nội. Đây là
một điều kiện thuận lợi lớn hơn bởi lẽ Hà Nội chính là huyết mạch kinh tế, chính
trị ,văn hóa , giáo dục….của đất nước.
 Môi trường chính trị.
Hà Nội là thành phố có vị thế và vai trò đặc biệt quan trọng. Với vị trí
thuận lợi nằm ở cửa ngõ lục địa châu á ra bờ biển Thái Bình Dương, nơi đây tập
trung tất cả các cơ quan đầu não của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, nơi thường
xuyên diễn ra các hoạt động chính trị và sự kiện trọng đại của cả nước; trung
tâm gặp gỡ, giao lưu với các quốc gia và các tổ chức trên thế giới.
25


×