Tải bản đầy đủ (.doc) (177 trang)

Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (646.01 KB, 177 trang )

TÂM LÍ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÍ HỌC SƯ PHẠM
TÂM LÍ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÍ HỌC SƯ PHẠM
Lê Văn Hồng - Lê Ngọc Lan - Nguyễn Văn Thàng

LỜI NÓI ĐẦU
Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm là hai chuyên ngành tâm lý
học góp phần trực tiếp hình thành quan điểm sư phạm và bồi dưỡng trình độ
nghiệm vụ cho sinh viên các trường sư phạm
Tài liệu này được viết theo chương trình giáo dục cốt lõi chuyên nghiệp
đã được “Chương trình giáo dục đại học” của Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiệm
thu, nhằm tạo điều kiện cho các trường Đại học sư phạm và Cao đẳng sư
phạm thực hiện tốt quyết định 2677/GD-ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo ngày 3/12/1993
Nội dung tài liệu gồm 2 phần:
Phần tâm lý học lứa tuổi trình bày các hiện tượng và quy luật tâm lý
theo các lứa tuổi, qua đó nêu lên nguyên nhân, động lực của sự phát triển
tâm lý cùng những đặc trưng tâm lý qua các giai đoạn phát triển
Phần tâm lý học sư phạm nghiên cứu các hiện tượng và quy luật tâm
lý dưới ảnh hưởng của tác động sư phạm, chủ yếu là dạy học và giáo dục
Để tài liệu được tiếp tục hoàn thiện trong những năm tới, chúng tôi
mong nhận được ý kiến đóng góp của cán bộ giảng dạy và sinh viên các
trường
Xin chân thành cảm ơn
Tác giả


Phần 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TÂM LÍ HỌC LỨA TUỔI
"Các bạn hãy nghiên cứu những quy luật của các hiện tượng tâm lý mà các
bạn muốn điều khiển và các bạn hãy hành động căn cứ trên những quy luật
này và những hoàn cảnh mà các bạn muốn vận dụng chúng vào đó".
K.D. Usinxki



Chương 1: NHẬP MÔN TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ
PHẠM

I - KHÁI QUÁT VỀ TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
Từ khi tâm lý học phát triển mạnh mẽ với tư cách là một khoa học độc
lập thì đồng thời cũng nảy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi sự nghiên cứu tâm lý có
tính chất chuyên biệt, khiến cho các ngành tâm lý học ứng dụng được phát
sinh. Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm là các chuyên ngành phát
triển sớm nhất của tâm lý học. Đó là sự ứng dụng của tâm lý học vào lĩnh vực
sư phạm lứa tuổi.
1. Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm
Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm cũng nghiên cứu tâm lý
người, nhưng không phải là con người đã trưởng thành mà là con người ở
các giai đoạn phát triển.
a. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học lứa tuổi là động lực phát triển
tâm lý theo lứa tuổi của con người, sự phát triển cá thể của các quá trình tâm
lý và các phẩm chất tâm lý trong nhân cách của con người đang được phát
triển (tâm lý học Đức gọi chuyên ngành này là tâm lý học phát triển): nó xem
xét quá trình con người trở thành nhân cách như thế nào? Tâm lý học lứa tuổi
nghiên cứu đặc điểm của các quá trình và các phẩm chất tâm lý riêng lẻ của
cá nhân ở các lứa tuổi khác nhau và sự khác biệt của chúng ở mỗi cá nhân
trong phạm vi cùng một lứa tuổi; nghiên cứu những khả năng lứa tuổi của
việc lĩnh hội các tri thức, phương thức hành động...


Ví dụ, tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu đặc điểm của tri giác nhìn, tri giác
nghe và sự tác động qua lại giữa chúng ở từng lứa tuổi ở các cá nhân trong
cùng một lứa tuổi...
Tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu các dạng hoạt động khác nhau của các

cá nhân đang được phát triển. Ví dụ: vui chơi, học tập lao động, hoạt động xã
hội... Mỗi một dạng hoạt động có vai trò, tác dụng khác nhau dối với sự phát
triển nhân cách ở từng lứa tuổi. Mỗi một giai đoạn phát triển có một dạng hoạt
động vừa sức và đặc trưng của nó.
b. Đối tượng của tâm lý học sư phạm là những quy luật tâm lý của việc
dạy học và giáo dục. Tâm lý học sư phạm nghiên cứu những vấn đề tâm lý
học của việc điều khiển quá trình dạy học, nghiên cứu sự hình thành của
những quá trình nhận thức, tìm tòi những tiêu chuẩn đáng tin cậy của sự phát
triển trí tuệ và xác định những điều kiện để đảm bảo phát triển trí tuệ có hiệu
quả trong quá trình dạy học, xem xét những vấn đề về mối quan hệ qua lại
giữa giáo viên và học sinh, cũng như mối quan hệ qua lại giữa học sinh với
nhau.
Những quan sát hàng ngày cho thấy, trẻ em rung cảm và suy nghĩ
không giống người lớn. Trẻ nhỏ không làm được rất nhiều điều. Nhưng vấn
đề không phải là ở chỗ trẻ chưa làm được những gì, chưa nắm được những
gì... mà vấn đề cơ bản là ở chỗ hiểu được đứa trẻ hiện có những gì, có thể
làm được những gì, nó sẽ thay đổi như thế nào và sẽ có được những gì trong
quá trình sống và hoạt động theo lứa tuổi... Có hiểu những điều đó mới hiểu
được nguyên nhân của những nét, những phẩm chất mới đặc trưng cho nhân
cách người lớn... Mặt khác, mỗi lứa tuổi có những khó khăn, và thuận lợi
riêng. Những khó khăn và thuận lợi đó đòi hỏi phải có phương pháp đối xử
riêng biệt, thích hợp với lứa tuổi. Có thể phương pháp này thích hợp với trẻ
nhỏ, nhưng lại không thể áp dụng được với thiếu niên.
c. Từ những nghiên cứu trên, tâm lý học lứa tuổi là tâm lý học sư phạm
có nhiệm vụ rút ra những quy luật chung của sự phát triển nhân cách theo lứa
tuổi, những nhân tố chỉ đạo sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi, rút ra


những quy luật lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong quá trình giáo dục và dạy
học, những biến đổi tâm lý của học sinh do ảnh hưởng của giáo dục và dạy

học. Từ đó cung cấp những kết quả nghiên cứu để tổ chức hợp lý quá trình
sư phạm, nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục và giảng
dạy.
Tất cả những thay đổi từ một đứa bé lọt lòng tới chỗ biết hành động
theo mục đích đã định... không mang tính chất ngẫu nhiên, mà diễn ra có quy
luật, có nguyên nhân của chúng. Nếu sự thay đổi ở một đứa trẻ nào đó diễn
ra sớm hơn, hoặc muộn hơn, hoặc không bình thường thì bao giờ cũng có
những nguyên nhân của nó. Những kiến thức tâm lý học lứa tuổi và tâm lý
học sư phạm sẽ giúp ta tìm được những nguyên nhân đó, đưa ra được
những biện pháp tác động hợp lý hơn và có ý thức hơn.
2. Quan hệ giữa tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm
Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm là những chuyên ngành của
tâm lý học, đều dựa trên cơ sở của tâm lý học đại cương. Tâm lý học đại
cương cung cấp cho hai chuyên ngành này những khái niệm cơ bản về các
hiện tượng tâm lý để hai chuyên ngành này sử dụng khi đi sâu vào đối tượng
nghiên cứu của mình. Ngược lại, nhờ những sự kiện của hai chuyên ngành
tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm mà những khái niệm cơ bản của
tâm lý học đại cương cũng trở nên phong phú, sâu sắc hơn.
Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm gắn bó chặt chẽ thống nhất
với nhau vì chúng có chung khách thể nghiên cứu - những con người bình
thường ở những giai đoạn phát triển khác nhau. Trẻ nhỏ: thiếu niên, thanh
niên là khách thể của tâm lý học lứa tuổi nếu nghiên cứu động thái của sự
phát triển theo lứa tuổi. Chúng là khách thể của tâm lý học sư phạm nếu
chúng được nghiên cứu với tư cách là người được dạy và được giáo dục
trong quá trình tác động có mục đích của nhà giáo dục.
Tâm lý học lứa tuổi chỉ có thể được nghiên cứu, nếu việc nghiên cứu
của nó không dừng ở mức độ thực nghiệm, mà được tiến hành trong nhưng
điều kiện cụ thể của việc dạy học và giáo dục, trong điều kiện tự nhiên của



đời sống của trẻ (vì tách khỏi những điều kiện đó thì trẻ em không thể phát
triển bình thường được) Nhưng đồng thời việc dạy học và giáo dục cũng
không thể được xem xét như là những hiện lượng độc lập, trừu xuất khỏi đối
tượng của dạy học và giáo dục. Như vậy cả tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học
sư phạm đều nghiên cứu trẻ em trong quá trình dạy học và giáo dục, và cùng
phục vụ đắc lực cho sự phát triển của chính đứa trẻ đó. Do đó mà sự phân
ranh giới giữa hai chuyên ngành chỉ có tính chất tương đối.

II - LÝ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TRÊN TRẺ EM
1. Khái niệm chung về sự phát triển tâm lý trẻ em
a. Quan niệm về trẻ em
Dựa trên những quan điểm triết học khác nhau, người ta hiểu về trẻ em
cũng rất khác nhau. Có quan niệm cho rằng trẻ em là "người lớn thu nhỏ lại",
sự khác nhau giữa trẻ em và người lớn về mọi mặt (cơ thể, tư tưởng, tình
cảm...) chỉ ở tầm cỡ, kích thước, chứ không khác nhau về chất. Nhưng ngay
từ thế kỉ XVIII J.J Rút xô (1712 – 1778) đã nhận xét rất tinh tế về những đặc
điểm tâm lý của trẻ nhỏ. Theo ông, trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại
và người lớn không phải lúc nào cũng hiểu được trí tuệ, nguyện vọng là tình
cảm độc đáo của trẻ thơ... vì "trẻ em có những cách nhìn, cách suy nghĩ và
cảm nhận riêng của của nó". Sự khác nhau giữa trẻ em và người lớn là sự
khác nhau về chất.
Những nghiên cứu của tâm lý học duy vật biện chứng đã khẳng định:
Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại. Trẻ em là trẻ em, nó vận động và
phát triển theo quy luật của trẻ em. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, đứa
trẻ đã là một con người, một thành viên của xã hội. Việc nuôi nấng, dạy dỗ nó
phải khác với con vật. Để nó tiếp thu được nền văn hoá xã hội loài người, đòi
hỏi phải nuôi dạy nó theo kiểu người (trẻ nhỏ phải dược bú sữa mẹ, được ăn
chín, ủ ấm, nhất là cần được âu yếm, thương yêu). Ngay từ khi ra đời đứa trẻ
đã có nhu cầu đặc trưng của con người - nhu cầu giao tiếp với người lớn.



Người lớn cần có những hình thức riêng. "ngôn ngữ" riêng để giao tiếp với
trẻ.
Điều kiện sống và hoạt động của các thế hệ người ở các thời kỳ lịch sử
khác nhau là rất khác nhau. Do vậy mỗi thời đại khác nhau lại có trẻ em của
riêng mình.
b. Quan niệm sai lầm về sự phát triển tâm lý trẻ em
Quan điểm duy tâm coi sự phát triển tâm lý trẻ em chỉ là sự tăng lên
hoặc giảm đi về số lượng các hiện tượng đang phát triển, mà không có sự
chuyển biến về chất lượng. Ví dụ: họ coi sự phát triển tâm lý trẻ em là sự tăng
số lượng từ của trẻ, tăng tốc độ hình thành kỹ xảo, tăng thời gian tập trung
chú ý, hay khối lượng tri thức được giữ lại trong trí nhớ... Sự tăng về số lượng
của các hiện tượng tâm lý có ý nghĩa nhất định trong sự phát triển của trẻ,
nhưng không thể giới hạn toàn bộ sự phát triển tâm lý của trẻ em vào những
chỉ số ấy.
Từ đó, những người theo quan niệm này đã nhìn nhận không kém sai
lầm về nguồn gốc của sự phát triển lâm lý. Quan niệm này xem sự phát triển
của mỗi hiện tượng như là một quá trình diễn ra một cách tự phát. Sự phát
triển diễn ra dưới ảnh hưởng của một sức mạnh nào đó mà người ta không
thể điều khiển được, không thể nghiên cứu được, không nhận thức được.
Quan niệm sai lầm này dược biểu hiện rõ ràng ở thuyết tiền định, thuyết
duy cảm, thuyết hội tụ hai yếu tố...
- Thuyết tiền định: những người theo thuyết này coi sự phát triển tâm lý
do các tiềm năng sinh vật gây ra và con người có tiềm năng đó ngay từ khi ra
đời. Mọi đặc điểm tâm lý chung và có tính chất cá thể đều là tiền định, đều có
sẵn trong các cấu trúc sinh vật là sự phát triển chỉ là quá trình trưởng thành,
chín muồi của những thuộc tính đã có sẵn ngay từ đầu và được quyết định
trước bằng con đường di truyền này.
Gần đây, sinh học đã phát hiện ra cơ chế gen của di truyền, người ta
bắt đầu liên hệ: những thuộc tính của nhân cách, năng lực cũng đã được mã



hoá, chương trình hoá trong các trang bị gen. Cụ thể, nhà di truyền học Anh
S.Auerbac cho rằng môi người bắt đầu sống "Khi trong tay có các gen cũng
như đấu thủ chơi một ván bài khi trong lay có các con bài. Đôi khi sự phân
phối có thể xấu đến mức thậm chí khó chờ đợi một kết quả vừa phải. Càng
hiếm có sự phân bố ưu việt đến mức để đạt được kết quả cao lại không đòi
hỏi một sự cố gắng nào".
Có lúc những người theo thuyết tiền định thường thể hiện dưới hình
thức mềm dịu hơn, ở chỗ có đề cập đến ý nghĩa của yếu tố môi trường.
Nhưng theo họ, môi trường chỉ là “yếu tố điều chỉnh”, “yếu tố thể hiện” một
nhân tố bất biến nào đó ở trẻ. Nhà tâm lý học Mỹ E.Toocdai cho rằng: "Tự
nhiên ban cho mỗi người một vốn nhất định, giáo dục cần phải làm bộc lộ vốn
đó là vốn gì và phải sử dụng nó bằng phương tiện tốt nhất". Và "vốn tự nhiên"
đó đặt ra giới hạn cho sự phát triển, cho nên một bộ phận học sinh tỏ ra
không đạt được kết quả nào đó "dù giảng dạy tốt, số khác lại tỏ ra có thành
tích “dù giảng dạy tồi”...
Như vậy vai trò của giáo dục đã bị hạ thấp. Giáo dục chỉ là nhân tố bên
ngoài có khả năng tăng nhanh hoặc kìm hãm quá trình bộc lộ những phẩm
chất tự nhiên, bị ức chế bởi tính di truyền. Từ đó, người ta đã rút ra kết luận
sư phạm sai lầm: sự can thiệp vào quá trình phát triển tự nhiên của trẻ là sự
tuỳ tiện, không thể tha thứ được.
- Thuyết duy cảm: Đối lập với thuyết tiền định, thuyết duy cảm giải thích
sự phát triển của trẻ chỉ bằng những tác động của môi trường xung quanh.
Theo những người thuộc trường phái này thì môi trường là nhân tố quyết định
sự phát triển của trẻ em, vì thế muốn nghiên cứu con người chỉ cần phân tích
cấu trúc môi trường của họ: môi trường xung quanh như thế nào thì nhân
cách của con người, cơ chế hành vi, những con đường phát triển của hành vi
sẽ như thế đó. Nhưng các nhà tâm lý học tư sản lại hiểu môi trường xã hội
một cách siêu hình, coi môi trường xã hội là bất biến, quyết định trước số

phận con người, còn con người được xem như là đối tượng thụ động trước
ảnh hưởng của môi trường.


Quan điểm này xuất hiện ở nước Anh, coi trẻ em sinh ra " như tờ giấy
trắng" hoặc "tấm bảng sạch sẽ". Sự phát triển tâm lý của trẻ hoàn toàn phụ
thuộc vào tác động bên ngoài, do vậy người lớn muốn vẽ nên tờ giấy cái gì thì
nó nên thế...
Quan điểm như vậy sẽ không giải thích được vì sao trong môi trường
như nhau, lại có những nhân cách rất khác nhau.
- Thuyết hội tụ hai yêu tố. Những người theo thuyết này tính tới tác
động của hai yếu tố (môi trường và tính di truyền) khi nghiên cứu trẻ em.
Nhưng họ hiểu về tác động của hai yếu tố đó một cách máy móc, dường như
sự tác động qua lại giữa chúng quyết định trực tiếp tới quá trình phát triển,
trong đó di truyền giữ vai trò quyết định và môi trường là điều kiện để biến
những đặc điểm tâm lý đã được định sẵn thành hiện thực.
Theo họ, sự phát triển là sự chín muồi của những năng lực, những nét
tính cách, những hứng thú và sở thích... mà trẻ sinh ra đã có. Những nét và
những đặc điểm tính cách... do cha mẹ hoặc tổ tiên truyền lại cho thế hệ sau
dưới dạng có sẵn, bất biến. Trong đó nhịp độ và giới hạn của sự phát triển là
tiền định.
Một số người theo thuyết này có đề cập đến ảnh hưởng của môi trường
đối với tốc độ chín muồi của năng lực và nét tính cách được truyền lại cho trẻ
(nhà tâm lý học Đức V.Stecmơ). Nhưng môi trường không phải là toàn bộ
những điều kiện và hoàn cảnh mà đứa trẻ (hay người lớn) sống, mà chỉ là gia
đình của trẻ. "Môi trường" đó được xem như cái gì riêng biệt, tách rời khỏi
toàn bộ đời sống xã hội. “Môi trường xung quanh” đó thường xuyên ổn định,
ảnh hưởng một cách định mệnh tới sự phát triển của trẻ. Tác động của môi
trường, cũng như ảnh hưởng của yếu tố sinh vật (di truyền) định trước sự
phát triển của trẻ, không phụ thuộc vào hoạt động sư phạm của nhà giáo dục

vào tính tích cực ngày càng tăng của trẻ.
Thuyết hội tụ hai yếu tố cũng sai lầm không kém gì thuyết tiền định là
thuyết duy cảm. Tính chất máy móc, siêu hình của các quan niệm này đều đã
bị phê phán.


Mặc dù quan niệm của những người đại điện cho các thuyết trên bề
ngoài có vẻ khác nhau, nhưng thực chất đều có những sai lầm giống nhau:
- Họ đều thừa nhận đặc điểm tâm lý của con người là bất biến hoặc là
tiền định, hoặc là do tiềm năng sinh vật di truyền, hoặc là ảnh hưởng của môi
trường bất biến. Với quan niệm như vậy thì trong trường hợp nào con em của
tầng lớp có đặc quyền, đặc lợi cũng đều có trình độ phát triển tâm lý hơn hẳn
con em giai cấp bóc lột (do họ có tố chất di truyền tốt hơn hoặc do họ sống
trong môi trường trí tuệ có tổ chức cao). Do vậy sự bất bình đẳng trong xã hội
là tất nhiên, là hợp lý.
- Các quan niệm này đã đánh giá không đúng vai trò của giáo đục. Họ
xem xét sự phát triển của trẻ em một cách tách rời và không phụ thuộc vào
những điều kiện cụ thể mà trong do quá trình phát triển tâm lý đang diễn ra.
Họ đã phủ nhận tính tích cực riêng của cá nhân, coi thường những mâu thuẫn
biện chứng được hình thành trong quá trình phát triển tâm lý. Coi đứa trẻ là
một thực thể tự nhiên, thụ động, cam chịu ảnh hưởng có tính chất được con
người, là thực thể xã hội tích cực, chủ động trước tự nhiên có thể cải tạo
được tự nhiên, xã hội và bản thân để phát triển nhân cách... Vì phủ nhận tính
tích cực của trẻ, nên không hiểu được vì sao trong những điều kiện cùng một
môi trường xã hội lại hình thành nên những nhân cách khác nhau về nhiều chỉ
số, hoặc vì sao có những người giống nhau về thế giới nội tâm, về nội dung
và hình thức hành vi lại được hình thành trong những môi trường xã hội khác
nhau.
c. Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển tâm lý
Nguyên lý phát triển trong triết học Mác-lênin thừa nhận sự phát triển là

quá trình biến đổi của sự vật từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đó
là một quá trình tích luỹ dần về số lượng dẫn đến sự thay đổi về chất lượng,
là quá trình nảy sinh cái mới trên cơ sở cái cũ, do sự đấu tranh giữa các mặt
đối lập nằm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng.
Quan điểm Mác xít này được vận dụng để xem xét sự phát triển tâm lý
trẻ em. Bản chất của sự phát triển tâm lý trẻ em không phải là sự tăng hoặc


giảm về số lượng, mà là một quá trình biến đổi về chất lượng tâm lý. Sự thay
đổi về lượng của các chức năng tâm lý dẫn đến sự thay đổi về chất và đưa
đến sự hình thành cái mới một cách nhảy vọt.
Sự phát triển tâm lý gắn liền với sự xuất hiện những đặc điểm mới về
chất - những cấu tạo tâm lý mới ở những giai đoạn lứa tuổi nhất định (ví dụ,
nhu cầu tự lập ở trẻ lên ba..) Trong các giai đoạn phát triển khác nhau, có sự
cải biến về chất của các quá trình tâm lý và toàn bộ nhân cách trẻ.
Xét trong toàn cục, phát triển là cả một quá trình kế thừa. Sự phát triển
tâm lý trẻ em là một quá trình trẻ em lĩnh hội nền văn hoá xã hội của loài
người.
Bằng lao động của mình, con người ghi lại kinh nghiệm, năng lực...
trong các công cụ sản xuất, các đồ dùng hàng ngày, các tác phẩm văn hoá
nghệ thuật..., con người đã tích luỹ kinh nghiệm thực tiễn xã hội của mình
trong các đối tượng do con người tạo ra và các quan hệ con người với con
người. Ngay từ khi ra dời đứa trẻ đã sống trong thế giới đối tượng và những
quan hệ đó. Đứa trẻ không chỉ thích nghi với thế giới đồ vật và hiện tượng do
con người tạo ra, mà còn lĩnh hội thế giới đó. Đứa trẻ đã tiến hành những
hoạt động căn bản tương ứng với hoạt động mà trước đó loài người đã thể
hiện vào trong đồ vật, hiện tượng. Nhờ cách đó nó lĩnh hội được những năng
lực đó cho mình. Quá trình đó là quá trình tâm lý trẻ phát triển.
Như vậy, phát triển tâm lý là kết quả hoạt động của chính đứa trẻ với
những đối tượng do loài người tạo ra.

Những đứa trẻ không tự lớn lên giữa môi trường. Nó chỉ có thể lĩnh hội
kinh nghiệm xã hội khi có vai trò trung gian của người lớn. Nhờ sự tiếp xúc
với người lớn và hướng dẫn của người lớn mà những quá trình nhận thức, kĩ
năng, kĩ xảo và cả những nhu cầu xã hội của trẻ được hình thành. Người lớn
giúp trẻ em nắm được ngôn ngữ, phương thức hoạt động...
Những biến đổi về chất trong tâm lý sẽ đưa đứa trẻ từ lứa tuổi này sang
lứa tuổi khác. Bất cứ một một mức độ nào của trình độ trước cũng là sự


chuẩn bị cho trình độ sau. Yếu tố tâm lý lúc đầu ở vị trí thứ yếu, sau chuyển
sang vị trí chủ yếu.
Tóm lại sự phát triển tâm lý của trẻ đầy biến động và diễn ra cực kì
nhanh chóng. Đó là một quá trình không phẳng lặng, mà có khủng hoảng và
đột biến. Chính hoạt động của đứa trẻ dưới sự hướng dẫn của người lớn làm
cho tâm lý của nó được hình thành và phát triển.
Nhưng, các nhà tâm lý học Mácxít cũng thừa nhận rằng, sự phát triển
tâm lý chỉ có thể xảy ra trên nền của một cơ sở vật chất nhất định (một cơ thể
người với những đặc điểm bẩm sinh di truyền cửa nó). Trẻ em sinh ra với
những đặc điểm bẩm sinh, di truyền nhất định. Vì vậy sự phát triển tâm lý của
mỗi người dựa trên cơ sở vật chất riêng. Sự khác nhau này có thể ảnh hưởng
tới tốc độ đỉnh cao... của các thành tựu của con người cụ thể trong một lĩnh
vực nào đó, có thể ảnh hưởng tới con đường và phương thức khác nhau của
sự phát triển các thuộc tính tâm lý. Chúng là tiền đề, điều kiện cần thiết để
phát triển tâm lý, những điều kiện đó không quyết định sự phát triển tâm lý, nó
có thể trở thành hiện thực hay không còn phụ thuộc vào một tổ hợp những
yếu tố khác nữa.
2. Quy luật chung của sự phát triển tâm lý trẻ em.
a. Tính không đồng đều của sự phát triển tâm lý
Trong những điều kiện bất kỳ, thậm chí ngay cả trong những điều kiện thuận
lợi nhất của việc giáo dục thì những biểu hiện tâm lý, những chức năng tâm lý

khác nhau... cũng không thể phát triển ở mức độ như nhau. Có những thời kỳ
tối ưu đối với sự phát triển một hình thức hoạt động tâm lý nào đó. Ví dụ: giai
đoạn thuận lợi nhất cho sự phát triển ngôn ngữ là thời kỳ từ 1 tuổi đến 5 tuổi;
cho sự hình thành nhiều kỹ xảo vận động là tuổi học sinh cấp I, cho sự hình
thành tư duy toán học là giai đoạn từ 15 - 20 tuổi.
b. Tính toàn vẹn của tâm lý
Cùng với sự phát triển tâm lý con người ngày càng có tính trọn vẹn,
thống nhất và bền vững. Sự phát triển tâm lý là sự chuyển biến dần các trạng


thái tâm lý thành các đặc điểm tâm lý cá nhân. Tâm lý trẻ nhỏ phần lớn là một
tổ hợp thiếu hệ thống những tâm trạng rời rạc khác nhau. Sự phát triển thể
hiện ở cho những tâm trạng đó dần dần chuyển thành các nét của nhân cách.
Ví dụ, tâm trạng vui vẻ, thoải mái nảy sinh trong quá trình lao động chung hợp
với lứa tuổi: nếu được lặp đi lặp lại thường xuyên sẽ chuyển thành lòng yêu
lao động.
Tính trọn vẹn của tâm lý phụ thuộc khá nhiều vào động cơ chỉ đạo hành
vi của trẻ. Cùng với giáo dục, cùng với sự mở rộng kinh nghiệm sống, những
động cơ hành vi của trẻ ngày càng trở nên tự giác, có ý nghĩa xã hội và ngày
càng bộc lộ rõ trong nhân cách của trẻ. Trẻ mẫu giáo thường hành động vì
muốn thoả mãn một điều gì đó và động cơ đó thay đổi luôn trong một ngày.
Nhưng thiếu niên và thanh niên thường hành động do động cơ xã hội, do tinh
thần nghĩa vụ, do sự phát triển toàn diện của bản thân... thúc đẩy.
c. Tính mềm dẻo và khả năng bù trừ
Hệ thần kinh của trẻ em rất mềm dẻo. Dựa trên tính mềm dẻo của hệ
thần kinh mà tác động của giáo dục có thể làm thay đổi tâm lý trẻ em.
Tính mềm dẻo cũng tạo ra khả năng bù trừ, khi một chức năng tâm lý
hoặc sinh lý nào đó yếu hoặc thiếu thì những chức năng tâm lý khác được
tăng cường, phát triển mạnh hơn để bù đắp hoạt động không đầy đủ của
chức năng bị yếu hay bị hỏng. Thí dụ: khuyết tật của thị giác được bù đắp

bằng sự phát triển mạnh mẽ hoạt động của thính giác. Trí nhớ kém có thể
được bù trừ bằng tính tổ chức cao, tính chính xác của hoạt động.
Đó là một số quy luật cơ bản của sự phát triển tâm lý trẻ em. Nhưng
những quy luật đó chỉ là một số xu thế của sự phát triển tâm lý của trẻ có thể
xảy ra. Những quy luật đó có sau so với ảnh hưởng của môi trường (trong đó
có giáo dục). Sự phát triển và ngay cả tính độc đáo của những xu thế đó cũng
phụ thuộc vào điều kiện sống của trẻ em (trước hết là giáo dục). Sự phát triển
tâm lý của trẻ em không tuân theo quy luật sinh học, mà tuân theo quy luật xã
hội. Dù có bộ óc tinh vi đến đâu chăng nữa, nhưng không sống trong xã hội


loài người thì trẻ cũng không thể trở thành thực thể người với đầy đủ tính xã
hội.
3. Dạy học, giáo dục và sự phát triển tâm lý
Trẻ chỉ có thể lĩnh hội kinh nghiệm xã hội nhờ sự tiếp xúc với người
lớn. Nhưng sự tiếp xúc của trẻ với người lớn có hiệu quả tốt với điều kiện là
sự tiếp xúc đó được tổ chức đặc biệt và chặt chẽ, nhất là trong quá trình hoạt
động sư phạm. Do vậy, giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển tâm
lý trẻ em. Giáo dục và dạy học là con đường đặc biệt để truyền đạt những
phương tiện hoạt động của con người (công cụ, kí hiệu), truyền đạt những
kinh nghiệm xã hội cho thế hệ sau. Khi nói tới vai trò chủ đạo của giáo dục,
dạy học, các nhà tâm lý học Mácxít nhấn mạnh, đó là quá trình tác động có
mục đích, có ý thức của thế hệ trưởng thành đối với thế hệ trẻ phạm hình
thành những phẩm chất nhất định của cá nhân đáp ứng được những nhu cầu
của xã hội.
Khi khẳng định vai trò chủ đạo của giáo dục, dạy học đối với sự phát
triển tâm lý trẻ em chúng ta cần lưu ý: tâm lý của con người mang tính chủ
thể, những tác động của điều kiện bên ngoài luôn luôn bị khúc xạ thông qua
kinh nghiệm sống của con người. Do vậy, những học sinh khác nhau có thể
có thái độ khác nhau trước cùng một yêu cầu của cô giáo.

Con người là chủ thể hoạt động, chủ thể trước những tác động của môi
trường. Do vậy, các tác động của bên ngoài quyết định tâm lý của con người
một cách gián tiếp thông qua quá trình tác động qua lại của con người với môi
trường, thông qua hoạt động của con người trong môi trường đó.
Hơn nữa, con người là một chủ thể tích cực có thể tự giác thay đổi
được chính bản thân mình - con người có thể tự giáo dục (ở tuổi thiếu niên,
tự ý thức phát triển mạnh mẽ, các em có thể tự giáo dục một cách có ý thức).
Nhưng quá trình tự giáo dục của trẻ không tách khỏi tác động của môi trường.
Nó được giáo dục kích thích, hướng dẫn... và diễn ra trong quá trình đứa trẻ
tác động qua lại tích cực với những người xung quanh.


Do vậy, những tác động như nhau, những điều kiện bên ngoài như
nhau có thể ảnh hưởng khác nhau đến trẻ em...
Giáo dục dạy học có vai trò chủ đạo đối với sự phát triển. Mối quan hệ giữa
giáo dục, dạy học và phát triển là mối quan hệ biện chứng. Hai quá trình này
không phải là hai quá trình diễn ra song song, mà chúng thống nhất với nhau,
có quan hệ tương hỗ nhau. Sự phát triển tâm lý của trẻ chỉ có thể diễn ra một
cách tốt đẹp trong những điều kiện của giáo dục và dạy học. Nhưng để giữ
được vai trò chủ đạo, giáo dục và dạy học phải kích thích, dẫn dắt sự phát
triển chứ không chờ đợi sự phát triển. Giáo dục phải đi trước một bước, phải
đón trước sự phát triển, tạo nên ở trẻ quá trình giải quyết mâu thuẫn liên tục
để thúc đẩy sự phát triển.
Tuy vậy, trong khi kích thích sự phát triển, đi trước sự phát triển một
bước, giáo dục và dạy học cần tính đến những đặc điểm của mức độ đã đạt
được ở trẻ, tính đến đặc điểm lứa tuổi và quy luật bên trong của sự phát triển.
Do vậy, khả năng của giáo dục và dạy học rất rộng lớn, nhưng không vô hạn.
Muốn tâm lý của trẻ phát triển đúng đắn rất cần có sự tự giáo dục của trẻ
trong tất cả các thời kỳ của cuộc đời.


III - SỰ PHÂN CHIA GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ
1. Quan niệm về giai đoạn phát triển của tâm lý
Có thể nói quan niệm bản chất của sự phát triển tâm lý con người như
thế nào thì quan niệm về lứa tuổi tương ứng như vậy.
Quan niệm sinh vật coi sự phát triển tâm lý như là một quá trình sinh
vật tự nhiên, đã khẳng định tính bất biến, tính tuyệt đối của các giai đoạn lứa
tuổi. Quan niệm đối lập lại phủ nhận khái niệm lứa tuổi. Họ coi sự phát triển
như là sự tích luỹ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo một cách đơn giản.
Tâm lý học Mácxít, đại diện là L.X.Vưgôtxki, coi lứa tuổi là một thời kỳ
phát triển nhất định đóng kín một cách tương đối, mà ý nghĩa của nó được
quyết định bởi vị trí của thời kỳ đó trong cả quá trình phát triển chung, và ở đó


những quy luật phát triển chung bao giờ cũng được thể hiện một cách độc
đáo về chất. Khi chuyển từ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác bao giờ cũng xuất
hiện những cấu tạo tâm lý mới chưa từng có trong các thời kỳ trước. Những
cấu tạo mới này cải tổ lại và làm biến đổi chính tiến trình phát triển.
Mỗi giai đoạn được quyết định bởi một tổ hợp nhiều điều kiện. Đó là
đặc điểm của những điều kiện sống và hoạt động của trẻ cùng với hệ thống
các yêu cầu đề ra cho trẻ trong giai đoạn đó; đặc điểm của các mối quan hệ
của trẻ với môi trường xung quanh; kiểu tri thức và hoạt động mà trẻ đã nắm
được cùng với phương thức lĩnh hội các tri thức đó và một yếu tố cần thiết
nữa là những đặc điểm của sự phát triền cơ thể trẻ ở giai đoạn đó. Những
đặc điểm lứa tuổi là đặc điểm chung. đặc trưng điển hình nhất: chỉ ra hướng
phát triển chung. Nhưng lứa tuổi không phải là phạm trù tuyệt đối, bất biến.
Giai đoạn lứa tuổi chỉ có ý nghĩa tương đối.
Tuổi chỉ có ý nghĩa là yếu tố thời gian trong quá trình phát triển của trẻ.
Trẻ cần thời gian chuẩn bị về mọi mặt để chuyển sang một giai đoạn phát
triển mới (để lớn lên về cơ thể, mở rộng quan hệ xã hội, tích luỹ tri thức,
phương thức hành động...). Nhưng tuổi không quyết định trực tiếp sự phát

triển nhân cách. Tuổi có thể phù hợp với trình độ phát triển tâm lý của trẻ
hoặc có thể đi nhanh hay chậm hơn... là do ta biết vận dụng thời gian và điều
kiện giáo dục để tổ chức cuộc sống của trẻ, tổ chức sự tiếp xúc của trẻ với
thế giới xung quanh có tốt hay không.
2. Phân chia giai đoạn phát triển tâm lý trẻ em
Căn cứ vào những thay đổi cơ bản trong điều kiện sống và hoạt động
của trẻ, căn cứ vào những thay đổi trong cấu trúc tâm lý của trẻ mà cả vào sự
trưởng thành của cơ thể trẻ em, người ta chia ra một số thời kỳ chủ yếu trong
sự phát triển tâm lý trẻ em:
- Giai đoạn trước tuổi học:
+ Tuổi sơ sinh: Thời kỳ 2 tháng đầu sau khi sinh
+ Tuổi hài nhi: Thời kỳ 2 tháng đến 12 tháng


+ Tuổi vườn trẻ: Từ 1 đến hết 3 năm
+ Tuổi mẫu giáo: Từ 3 đến hết 5 năm
- Giai đoạn tuổi học sinh:
+ Thời kỳ đầu tuổi học hay nhi đồng: Từ 6 đến 11, 12 tuổi.
+ Thời kỳ giữa tuổi học hay thiếu niên: Từ 11, 12 đến 14, 15 tuổi.
+ Thời kỳ cuối tuổi học hay đầu tuổi thanh niên: Từ 14, 15 đến 17, 18
tuổi.
Mỗi thời kỳ có một vị trí, vai trò nhất định trong quá trình chuyển từ đứa
trẻ mới sinh sang một nhân cách trưởng thành. Mỗi thời kỳ phát triển có
những nét tâm lý đặc trưng của mình, mà đứa trẻ phải trải qua. Sự chuyển từ
thời kỳ này sang thời kỳ khác bao giờ cũng gắn với sự xuất hiện những cấu
tạo tâm lý mới về chất.

CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Tóm tắt quan điểm cơ bản của thuyết tiền định, thuyết duy cảm,
thuyết hội tụ hai yếu tố về nguồn gốc sự phát triển tâm lý trẻ em. Những

thuyết đó có đặc điểm gì cần phê phán?
2. Nêu quan điểm của tâm lý học duy vật biện chứng về sự phát triển
tâm lý trẻ em. Từ đó rút ra kết luận gì cho công tác sư phạm?
3. Tâm lý học duy vật biện chứng quan niệm như thế nào về quan hệ
giữa giáo dục, dạy học và sự phát triển tâm lý?
4. Tại sao nói giai đoạn phát triển tâm lý chỉ có ý nghĩa tương đối?

CÂU HỎI THẢO LUẬN
Quan điểm của tâm lý học duy vật biện chứng về trẻ em và sự phát
triển tâm lý trẻ em. Từ đó rút ra những kết luận cần thiết cho công tác sư
phạm


Nội dung chỉnh cần đề cập
- Quan niệm về sự phát triển tâm lý của trẻ
- Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý trẻ em
- Vai trò của các yếu tố và mối tương quan của chúng trong sự phát
triển tâm lý của trẻ.

BÀI TẬP THỰC HÀNH
Anh (chị) hãy sưu tầm ca dao, tục ngữ phản ánh quan điểm của nhân
dân nước ta xoay quanh các vấn đề:
- Di truyền và sự phát triển tâm lý của trẻ em.
- Hoàn cảnh và sự phát triển tâm lý của trẻ em.
- Giáo dục và sự phát triển tâm lý của trẻ em.
- Tính tích cực hoạt động của trẻ và sự phát triển tâm lý của chúng.
Vận dụng quan điểm tâm lý học Mácxít phân tích những quan niệm
đúng, sai, chưa đầy đủ của các câu ca dao tục ngữ được sưu tầm.

Chương 2: TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ

(Thiếu niên)
“Thiếu niên không còn là trẻ con. Nhưng chưa hẳn là người lớn”
I – VỊ TRÍ, Ý NGHĨA CỦA GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ Ở LỨA TUỔI
HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
Lứa tuổi học sinh trung học cơ sở bao gồm những em có độ tuổi từ 11,
12 tuổi đến 14, 15 tuổi. Đó là những em đang theo học từ lớp 6 đến lớp 9 ở
trường trung học cơ sở.
Lứa tuổi này còn gọi là lứa tuổi thiếu niên và nó có một vị trí đặc biệt
trong thời kỳ phát triển của trẻ em. Vị trí đặc biệt này được phản ánh bằng
những tên gọi khác nhau của nó: “thời kỳ quá độ”, “tuổi khó bảo”, “tuổi khủng


hoảng”, “tuổi bất trị”... Những tên gọi đó nói lên tính phức tạp và tầm quan
trọng của lứa tuổi này trong quá trình phát triển của trẻ em.
Đây là thời kỳ chuyển từ thời thơ ấu sang tuổi trưởng thành.
Nội dung cơ bản của sự khác biệt ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở
với các em ở lứa tuổi khác là sự phát triển mạnh mẽ, thiếu cân đối về các mặt
trí tuệ, đạo đức. Sự xuất hiện những yếu tố mới của sự trưởng thành do kết
quả của sự biến đổi cơ thể, của sự tự ý thức, của các kiểu quan hệ với người
lớn, với bạn bè, của hoạt động học tập, hoạt động xã hội...
Yếu tố đầu tiên của sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi học sinh trung
học cơ sở là tính tích cực xã hội mạnh mẽ của bản thân các em nhằm lĩnh hội
những giá trị, những chuẩn mực nhất định, nhằm xây dựng những quan hệ
thoả đáng với người lớn, bạn bè, và cuối cùng nhằm vào bản thân, thiết kế
nhân cách của mình, thiết kế tương lai của mình với ý đồ thực hiện những ý
định, mục đích, nhiệm vụ... một cách độc lập.
Tuy nhiên quá trình hình thành cái mới thường kéo dài về thời gian và
phụ thuộc vào điều kiện sống, hoạt động của các em. Do đó, sự phát triển
tâm lý ở lứa tuổi này diễn ra không đồng đều về mọi mặt. Điều đó quyết định
sự tồn tại song song "vừa tính trẻ con, vừa tính người lớn" ở lứa tuổi này. Mặt

khác, ở những em cùng độ tuổi lại có sự khác biệt về mức độ phát triển các
khía cạnh khác nhau của tính người lớn. Sự khác nhau đó do hoàn cảnh
sống, hoạt động khác nhau của các em. Hoàn cảnh đó có hai mặt:
1. Những yếu tố của hoàn cảnh kìm hãm sự phát triển tính người lớn
Trẻ chỉ bận vào việc học tập, không có những nghĩa vụ khác, nhiều bậc
cha mẹ có xu thể không để cho trẻ hoạt động, làm những công việc khác
nhau của gia đình, của xã hội.
2. Những yếu tố hoàn cảnh thúc đẩy sự phát triển tính người lớn
Nguồn thông tin phong phú, sự gia tăng về thể chất, về phát dục, nhiều
bậc cha mẹ quá bận, gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, đòi hỏi


đứa trẻ phải lao động nhiều để sinh sống. Điều đó đưa đến trẻ sớm có tính
độc lập, tự chủ hơn.
Tất cả những điều kiện khác nhau của cuộc sống tạo ra sự khác biệt
căn bản trong sự phát triển những khía cạnh khác nhau của tính người lớn ở
lứa tuổi học sinh trung học cơ sở.
Phương hướng phát triển tính người lớn ở lứa tuổi này có thể xảy ra
theo các hướng sau:
- Đối với một số em, tri thức sách vở làm cho các em hiểu biết nhiều,
nhưng còn có nhiều mặt khác nhau trong đời sống thì như trẻ con, các em
hiểu biết rất ít.
- Có những em rất ít quan tâm đến việc học tập ở nhà trường; những tri
thức cơ bản mà nhà trường giảng dạy thì các em ít chú ý đến, mà chỉ quan
tâm đến những vấn đề làm thế nào cho phù hợp với mốt, coi trọng việc giao
tiếp với người lớn, với bạn bè lớn tuổi, để bàn bạc, trao đổi với họ các vấn đề
trong cuộc sống, để tỏ ra mình cũng như người lớn.
- Ở một số em khác không biểu hiện tính người lớn ra bên ngoài,
nhưng thực tế đang cố gắng rèn luyện mình có đức tính ở người lớn như tính
dũng cảm, tự chủ, độc lập... còn quan hệ với bạn bè khác giới như trẻ con.

Những hướng trên phát triển tính người lớn nêu trên có khác nhau,
nhưng đều có một tham số chung, đó là mong muốn thớ thành "người lớn",
nhưng lại biểu hiện tính người lớn khác nhau, vì thế mà hình thành những giá
trị của cuộc sống có nội dung khác nhau.

II – NHỮNG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ Ở LỨA TUỔI HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ
1. Sự biến đổi về mặt giải phẫu sinh lý ở lứa tuổi học sinh trung học cơ
sở
- Đây là lứa tuổi phát triển mạnh mẽ nhưng không đồng đều bề mặt cơ
thể. Tầm vóc của các em lớn lên trông thấy. Trung bình một năm các em cao


lên được 5, 6 cm. Các em nữ ở độ tuổi 12, 13 phát triển chiều cao nhanh hơn
các em nam cùng độ tuổi, nhưng đến 18, 20 tuổi thì sự phát triển chiều cao
dừng lại. Các em nam ở độ tuổi 15, 16 tuổi thì cao đột biến, vượt các em nữ
và đến 24, 25 tuổi mới dừng lại.
Trọng lượng cơ thể mỗi năm tăng từ 2,4 kg đến 6 kg.
- Sự phát triển của hệ xương, mà chủ yếu là sự phát triển các xương
tay, xương chân rất nhanh, nhưng xương ngón tay, ngón chân lại phát triển
chậm. Vì thế ở lứa tuổi này các em không mập béo, mà cao, gầy thiếu cân
đối, các em có vẻ lóng ngóng vụng về, không khéo léo khi làm việc, thiếu thận
trọng hay làm đổ vỡ. Điều đó gây cho các em một biểu hiện tâm lý khó chịu.
Các em ý thức được sự lóng ngóng vụng về của mình, mà cố che giấu nó
bằng điệu bộ không tự nhiên cầu kỳ, tỏ ra mạnh bạo, can đảm để người khác
không chú ý tới vẻ bề ngoài của mình. Chỉ một sự mỉa mai chế giễu nhẹ
nhàng về hình thể, tư thế đi đứng của các em đều gây cho các em những
phản ứng mạnh mẽ.
- Sự phát triển của hệ thống tim mạch cũng không cân đối. Thể tích của
tim tăng rất nhanh, hoạt động của tim mạnh mẽ hơn, nhưng kích thước của

mạch máu lại phát triển chậm. Do đó có một số rối loạn tạm thời của hệ tuần
hoàn, tăng huyết áp, tim đập nhanh, hay gây nhức đầu, chóng mặt, mệt mỏi
khi làm việc.
- Tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh (đặc biệt là tuyến giáp trạng),
thường dẫn đến sự rối loạn của hoạt động thần kinh. Do đó, các em dễ xúc
động, dễ bực tức, nổi khùng. Vì thế, ta thấy ở các em thường có những phản
ứng gay gắt, mạnh mẽ và những cơn xúc động.
- Hệ thần kinh của thiếu niên còn chưa có khả năng chịu đựng những
kích thích mạnh, đơn điệu, kéo dài. Do tác động của những kích thích như
thế, thường gây cho các em tình trạng bị ức chế hay ngược lại xảy ra tình
trạng bị kích động mạnh. Vì vậy sự phong phú của các ấn tượng, những chấn
động thần kinh mạnh, hoặc sự chờ đợi lâu dài về những biến cố gây xúc
động... đều có tác động mạnh mẽ tới lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, có thể


làm cho một số em bị ức chế, uể oải, thờ ơ, lơ đễnh, tản mạn, số khác làm
những hành vi xấu, không đúng bản chất của các em.
- Sự thay đổi về thể chất ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở đã làm cho
các em có những đặc điểm nhân cách khác với các em ở lứa tuổi trước. Lứa
tuổi này là lứa tuổi có nghị lực dồi dào, có tính tích cực cao, có nhiều dự định
lớn lao. Là phụ huynh, là các nhà giáo dục cần thấy được đặc điểm này, để tổ
chức công tác dạy học là giáo dục các em có hiệu quả, tránh định kiến.
Một đặc điểm nữa cần phải chú ý dấn ở lứa tuổi này, đó là thời kỳ phát
dục. Sự phát dục ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là một hiện tượng bình
thường, diễn ra theo quy luật sinh học và chịu ảnh hưởng của môi trường tự
nhiên và môi trường xã hội.
Sự phát dục ở các em trai vào khoảng 15, 16 tuổi, ở các em nữ vào
khoảng 13, 14 tuổi. Biểu hiện ở thời kỳ này là cơ quan sinh dục phát triển và
xuất hiện những dấu biểu phụ của giới tính. Thời kỳ phát dục sớm hay muộn
phụ thuộc vào yếu tố dân tộc và yếu tố khí hậu. Các em sống ở miền Nam

thường phát dục sớm hơn các em ở miền Bắc. Sự phát dục còn phụ thuộc
vào chế độ sinh hoạt cá nhân, sức khoẻ, bệnh tật, ăn uống, lao động, nghỉ
ngơi, đời sống tinh thần của các em nữa. Hiện nay do điều kiện xã hội có
nhiều thay đổi, nên có sự gia tốc phát triển thể chất và phát dục.
Đến 15, 16 tuổi, giai đoạn phát dục đã kết thúc, có thể sinh đẻ được tuy
nhiên các em chưa trưởng thành về mặt cơ thể và đặc biệt là sự trưởng thành
về mặt xã hội. Chính vì thế mà một số nhà khoa học cho rằng ở lứa tuổi học
sinh trung học cơ sở không có sự cân đối giữa phát dục, giữa bản năng
tương ứng, những tình cảm và ham muốn đượm màu sắc tình dục với mức
độ trưởng thành về mãi xã hội và tâm lý. Nhiều khó khăn trở ngại ở lứa tuổi
này chính ở chỗ các em chưa biết đánh giá, chưa biết kìm hãm và hướng dẫn
bản năng, ham muốn của mình một cách đúng đắn; chưa biết kiểm tra tình
cảm và hành vi, chưa biết xây dựng mối quan hệ đúng đắn với người bạn
khác giới. Vì thế mà các nhà giáo dục cần phải giúp đỡ các em một cách tế


nhị, khéo léo để các em hiểu đúng vấn đề, đừng làm cho các em băn khoăn lo
ngại.
2. Sự thay đổi của điều kiện sống
a. Đời sống gia đình của học sinh trung học cơ sở
Ở lứa tuổi này địa vị của các em trong gia đình đã thay đổi, được gia
đình thừa nhận như là một thành viên tích cực của gia đình, được cha mẹ,
anh chị giao cho những nhiệm vụ cụ thể như chăm sóc em nhỏ khi cha mẹ đi
vắng, như nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa, chăn nuôi gia súc... ở các gia đình neo
đơn, các em phải tham gia lao động thực sự để góp phần nâng cao thu nhập
của gia đình, các em đã ý thức được các nhiệm vụ đó và thực hiện tích cực.
Điều quan trọng và có ý nghĩa lớn đối với các em là đã được tham gia
bàn bạc một số công việc của gia đình, về những việc của cha mẹ, anh chị,
quan tâm đến việc xây dựng và bảo vệ uy tín của gia đình hơn các em học
sinh tiểu học. Những sự thay đổi đó đã động viên, kích thích học sinh trung

học cơ sở hoạt động tích cực, độc lập tự chủ.
b. Đời sống trong nhà trường của học sinh trung học cơ sở
Hoạt động học tập và các hoạt động khác của học sinh trung học cơ sở
có nhiều sự thay đổi, có tác động quan trọng tới sự hình thành những đặc
điểm tâm lý lứa tuổi học sinh trung học cơ sở như:
+ Bắt đầu thay đổi về nội dung dạy học:
Bắt đầu vào học trường trung học cơ sở, các em được tiếp xúc với
nhiều môn học khác nhau, mỗi môn học bao gồm một hệ thống tri thức với
những khái niệm trừu tượng, khái quát, có nội dung phong phú, sâu sắc, do
đó, đòi hỏi thay đổi cách học. Các em không thể học thuộc từng bài, mà phải
biết cách lập dàn bài, tóm tắt, nắm bắt ý chính, dựa vào các ý chính mà trình
bày toàn bộ bài học theo cách hiểu của mình.
Sự phong phú về tri thức từng môn học làm cho khối lượng tri thức các
em lĩnh hội dược tăng lên nhiều. Tầm hiểu biết của các em được mở rộng


+ Sự thay đổi về phương pháp dạy học và hình thức học tập: Các em
được học nhiều môn, nhiều thầy cô giảng dạy. Mỗi môn học có phương pháp
phù hợp với bộ môn đó, mỗi thầy cô dạy có cách trình bày, có phương pháp
độc đáo của riêng mình, sử dụng các hình thức dạy học khác nhau. Sự khác
nhau này đã ảnh hưởng đến việc lĩnh hội, đến sự phát triển trí tuệ và nhân
cách của các em. Thái độ say sưa, hứng thú học tập, việc hình thành và phát
triển cách lập luận độc đáo cùng những nét tính cách quý báu của các em
đều do ảnh hưởng của cách giảng dạy và nhân cách làm người thầy.
c. Đời sống của học sinh trung học cơ sở trong xã hội
Ở lứa tuổi này các em được xã hội thừa nhận như một thành viên tích
cực, và được giao một số công việc nhất định trên nhiều lĩnh vực khác nhau
như tuyên truyền cổ động, giữ trật tự đường phố, giúp đỡ gia đình thương
binh liệt sĩ, tham gia các tổ chăm sóc trâu bò. các tổ kỹ thuật nông nghiệp... ở
lứa tuổi này các em thích làm công tác xã hội, vì:

+ Có sức lực đã hiểu biết nhiều, muốn được một người thừa nhận mình
là người lớn, muốn làm những công việc được mọi người biết đến, nhất là
những công việc làm với người lớn.
+ Cho rằng công tác xã hội, là việc làm của người lớn, và có ý nghĩa
lớn lao. Do đó được làm các công việc xã hội là thể hiện mình đã là người
lớn, và muốn thừa nhận mình là người lớn. Đó là một nhu cầu của các em, vì
thế nhiều khi các em bỏ công việc gia đình học tập mà tích cực tham gia công
việc ở ngoài xã hội.
+ Hoạt động xã hội là hoạt động có tính chất tập thể. Ở lứa tuổi này các
em thích làm những công việc có tính chất tập thể, những công việc liên quan
đến nhiều người và có được nhiều người cùng tham gia.
Do tham gia công tác xã hội, mà quan hệ của học sinh trung học cơ sở
được mở rộng, các em được tiếp xúc với nhiều người, nhiều vấn đề của xã
hội, do đó tầm hiểu biết được mở rộng, kinh nghiệm cuộc sống phong phú
lên, nhân cách của các em được phát triển.


Tóm lại, do có sự thay đổi điều kiện sống, điều kiện hoạt động của các
em ở trong gia đình, nhà trường, xã hội, mà vị trí các em được nâng lên. Các
em ý thức được sự thay đổi này và tích cực hoạt động cho phù hợp với sự
thay đổi đó. Do đó tâm lý, nhân cách của học sinh trung học cơ sở được hình
thành và phát triển phong phú hơn ở các lứa tuổi trước.

III – MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ "KHỦNG HOẢNG" TRONG SỰ PHÁT TRIỀN
TÂM LÝ Ở LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
Trong tâm lý học đã tồn tại những quan điểm khác nhau về vấn đề
"khủng hoảng" ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở. Một trong những quan
điểm đã tồn tại lâu dài (gần 1/4 thế kỷ) đó là quan niệm sinh vật hóa lứa tuổi
này. Quan điểm này cho rằng, những đặc điểm phát triển đột biến ở lứa tuổi
học sinh trung học cơ sở là do nguyên nhân sinh vật.

Những người đại diện cho quan niệm này là C. Khôn và Z. Frơt. Họ cho
rằng thời kỳ học sinh trung học cơ sở là thời kỳ "khủng hoảng", thời kỳ có
những hiện tượng không tránh khỏi như “điên loạn”, “thô bạo”, “vô chính
phủ”... Tất cả cái đó là do nguyên nhân sinh vật, do thời kỳ phát dục gây ra.
Vào khoảng những năm 20 - 30 của thế kỷ này, các nhà tâm lý học đã
bắt đầu tập trung sức lực vào nghiên cứu để chống lại quan niệm trên. Ở các
nước khác nhau các nhà khoa học đã tích luỹ được những số liệu nghiên cứu
cụ thể, đã làm sáng tỏ sự phụ thuộc nhân cách của lứa tuổi học sinh trung
học cơ sở vào nguyên nhân xã hội của nó. Về phương hướng này phải kể
đến sự đóng góp rất to lớn của các nhà tâm lý học, giáo dục học Liên Xô cũ.
Thực tiễn giáo dục của Macarencô là một ví dụ điền hình về nguyên nhân xã
hội của các đặc điểm tâm lý của trẻ.
Các nhà nhân chủng học cũng góp phần đáng kể vào việc chống lại
quan niệm trên. Những công trình nghiên cứu của họ, có ý nghĩa rất lớn bề
mặt lý luận. Họ đã chứng minh hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống quyết định:
+ Thời gian dài hay ngắn của lứa tuổi này.


+ Có hay không có "cuộc khủng hoảng", sự xung đột, những khó khăn
của lứa tuổi này.
+ Bản chất của sự chuyển từ trẻ con sang người lớn.
Từ những kết quả nghiên cứu của mình, họ đã bác bỏ quan niệm sinh
vật của Z. Frơt, và cho rằng bản chất tự nhiên trong con người không có thể
mâu thuẫn với xã hội, bởi vì cái tự nhiên trong con người đã mang tính chất
xã hội.
Lênin đã phát triển những tư tưởng của các nhà nhân chủng học. Ông
đã phân tích vị trí của thiếu niên trong xã hội hiện đại và thời kỳ xung đột từ
trẻ con đến người lớn. Từ đó xác nhận rằng trong xã hội tồn tại hai nhóm
người: nhóm trẻ con và nhóm người lớn, và cho rằng lứa tuổi học sinh trung
học cơ sở là trẻ con vận động từ nhóm trẻ con sang nhóm người lớn. Ở lứa

tuổi này có sự mong muốn chuyển vào nhóm người lớn. Nhưng các em chưa
được thừa nhận là người lớn, vì các em ở giữa hai nhóm người này. Ông cho
rằng, mức độ khó khăn, xung đột ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở phụ
thuộc vào sự phân biệt gay gắt những nhóm trẻ con và những nhóm người
lớn trong xã hội, và thời kỳ này kéo dài, hay ngắn phụ thuộc vào khi trẻ con
còn ở giữa hai nhóm này.
L.X.Vưgôxki khi nghiên cứu lứa tuổi học sinh trung học cơ sở cũng đặt
vấn đề cần thiết phải xem xét những tổ chức mới được hình thành trong nhân
cách của lứa tuổi này và làm rõ hoàn cảnh xã hội của sự phát triển của nó.
Hoàn cảnh xã hội trong mỗi lứa tuổi có một hệ thống quan hệ không lặp lại
giữa trẻ con và môi trường. Sự cải tổ lại hệ thống quan hệ này tạo nên nôi
dung chính của "cuộc khủng hoảng" ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở.
Tóm lại, sự phát triển những tư tưởng trong sự giải thích "cuộc khủng
hoảng" ớ lứa tuổi học sinh trung học cơ sở đã được tích luỹ và khái quát lại
dần và cho rằng những đặc điểm biểu hiện và diễn biến của thời kỳ này được
xác định bởi hoàn cảnh xã hội cụ thể của cuộc sống, bằng vị trí xã hội của các
em trong thế giới người lớn.


×