Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Thư viện số trên nền tảng điện toán đám mây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (854.97 KB, 23 trang )

Thư viện số trên nền tảng điện toán đám mây
Điện toán đám mây (cloud computing) chưa hẳn là một công nghệ mới, nhưng
nó là một cuộc cách mạng đang làm thay đổi bản chất của công nghệ thông tin và
tác động mạnh đến mọi lĩnh vực trong đó có hoạt động thư viện. Khái quát điện
toán đám mây và phác thảo xu thế tất yếu của việc ứng dụng thư viện số trên nền
tảng công nghệ điện toán đám mây là yêu cầu cấp bách hiện nay.
10.5.1. Khái quát:
Điện toán đám mây là biểu tượng tượng trưng cho Internet và thường được sử dụng
trong các mô hình, sơ đồ mạng máy tính. Do đó, điện toán đám mây được hiểu như cách
thức áp dụng các kỹ thuật điện toán dựa trên Internet. Cụ thể hơn, đó là một mô hình mà
mọi thông tin đều được lưu trữ, tính toán, xử lý trong các máy chủ đặt trên Internet.
Người sử dụng có thể làm việc với các thông tin đó mà không cần phải hiểu biết về công
nghệ, kỹ thuật và hạ tầng cơ sở của đám mây.
H ình 10.5

Mô hình tổng quan về Cloud

computing

Với cách thức lưu
trữ và xử lý thông tin như vậy,
người sử dụng có thể
dễ dàng truy cập vào đám
mây chỉ với một ứng
dụng có khả năng truy nhập
Internet và từ bất kỳ
thiết bị nào, bao gồm máy
tính, thiết bị cầm
tay, di động, thiết bị giải
trí... Ví dụ rõ ràng
nhất về ứng dụng thực tế


đang được sử dụng rộng rãi,
đại diện cho một ứng dụng trong mô
hình điện toán đám mây, là dịch vụ thư điện tử trực tuyến được cung cấp bởi nhiều hãng
lớn như Hotmail của Microsoft, Yahoo Mail của Yahoo, Gmail của Google... Với dịch vụ
này, người sử dụng chỉ cần trình duyệt web cùng tài khoản cá nhân đã được đăng ký là có
thể thực hiện trao đổi, giao dịch thư điện tử mà không cần quan tâm đến vấn đề kỹ thuật,
phần mềm, hạ tầng do điều đó được đảm bảo bởi các nhà cung cấp dịch vụ, mà cụ thể ở
đây là Microsoft, Yahoo, Google...
Tóm lại: Điện toán đám mây là các phát triển dựa vào mạng Internet sử dụng các
công nghệ máy tính. Đây là một kiểu điện toán trong đó những tài nguyên tính toán và
lưu trữ được cung cấp như những dịch vụ trên mạng. Người dùng không cần biết hay có
kinh nghiệm điều khiển và vận hành những công nghệ này.
Điện toán đám mây bao gồm: Dịch vụ cơ sở hạ tầng (IaaS, Infrastructure as a
Service) nền tảng như một dịch vụ (Paas: Platform as a Service), phần mềm hoạt động
như dịch vụ (SaaS: Software as a service). Dịch vụ Web và những xu hướng công nghệ
mới. Chúng đều dựa vào mạng Internet để đáp ứng nhu cầu sử dụng của người dùng.
Những ví dụ tiêu biểu về điện toán đám mây là Salesforce.com và Google Apps. Chúng
cung cấp những ứng dụng thương mại trực tuyến, được truy cập thông qua trình duyệt


web, trong khi dữ liệu và phần mềm được lưu trên đám mây.
Đám mây là hình ảnh ẩn dụ cho mạng Internet và là sự trừu tượng cho những cơ sở
hạ tầng phức tạp mà nó che giấu.
Điện toán đám mây thường bị nhầm lẫn với điện toán lưới (grid computing) (một
loại hình điện toán phân tán được tạo bởi các mạng máy tính nhỏ hoặc các cặp máy tính,
hoạt động phối hợp với nhau để thực hiện các chức năng rất lớn), điện toán theo nhu cầu
(utility computing) (khối những tài nguyên máy tính, như các bộ xử lý và bộ nhớ, trong
vai trò một dịch vụ trắc lượng tương tự với các công trình hạ tầng kỹ thuật truyền thống)
và điện toán tự trị (autonomic computing) (các hệ thống máy tính có khả năng tự quản
lý).

Trên thực tế, việc triển khai các cơ sở hạ tầng cho điện toán đám mây dựa trên các
đặc điểm của điện toán lưới, điện toán theo nhu cầu và điện toán tự trị. Điện toán đám
mây có thể được xem như là giai đoạn tự nhiên tiếp theo từ mô hình điện toán lưới.
10.5.2. Kiến trúc
Điểm chủ yếu trong cơ sở hạ
bao gồm các dịch vụ tin cậy
tâm dữ liệu và được xây
các công nghệ ảo hóa khác
thể truy cập được từ bất kỳ

tầng của điện toán đám mây hiện nay
được phân phối qua trung
dựng trên các máy chủ với
nhau. Các dịch vụ này có
nơi nào trên thế giới, và
“đám mây” là điểm truy

Hình10.6 Kiến trúc của điện toán đám mây

cập duy nhất đáp ứng tất cả nhu cầu của
người dùng máy tính. Việc cung cấp
đám mây phải phù hợp với yêu cầu của khách hàng về chất lượng dịch vụ và mức độ
chấp nhận của dịch vụ. Các tiêu chuẩn mở và phần mềm nguồn mở cũng quyết định đến
sự lớn mạnh của điện toán đám mây.
Kiến trúc đám mây gồm: nền tảng đám mây (Cloud Platform), các dịch vụ đám mây
(Cloud Service), cơ sở hạ tầng đám mây (Cloud Infrastructure), lưu trữ đám mây (Cloud
Storage).
10.5.3. Đặc tính:



Nói chung khách hàng không cần sở hữu cơ sở hạ tầng, họ sẽ chỉ phải trả cho
những gì họ sử dụng. Việc chia sẻ giữa nhiều người thuê giúp tận dụng nguồn tài nguyên
máy tính và giảm phí tổn.
Một số nhà cung cấp bao gồm Amazon, Google và Yahoo. Gần đây, Microsoft
cũng giới thiệu dịch vụ điện toán đám mây mới là Windows Azure. Những dịch vụ này
có thể được truy cập nhờ Microsoft Visual Studio bằng cách cài đặt Windows Azure
SDK và Windows Azure Tools cho Visual Studio.
Điện toán đám mây có những đặc điểm chính bao gồm:tránh phí tổn cho khách
hàng; độc lập thiết bị và vị trí; cho phép khách hàng truy cập hệ thống từ bất kỳ nơi nào
hoặc bằng bất kỳ thiết bị gì; nhiều người sử dụng: giúp chia sẻ tài nguyên và giá thành,
cho phép tập trung hóa cơ sở hạ tầng, tận dụng hiệu quả các hệ thống; phân phối theo nhu
cầu sử dụng; quản lý được hiệu suất; tin cậy; khả năng mở rộng; cải thiện tài nguyên; khả
năng duy trì.
10.5.4. Thành phần:
Về cơ bản, “điện toán đám mây” được chia ra thành 5 lớp riêng biệt, có tác động qua lại
lẫn nhau:
10.5.4.1.Client (lớp khách hàng): Lớp Client của điện toán đám mây bao gồm phần cứng

và phần mềm, để dựa vào đó, khách hàng có thể truy cập và sử dụng các ứng dụng/dịch
vụ được cung cấp từ điện toán đám
mây. Chẳng hạn máy tính
và đường dây kết nối Internet (thiết bị
phần cứng) và các trình
duyệt web (phần mềm)….
Hình10.7 Thành phần của

điện toán đám mây

Lớp ứng dụng của điện
toán đám mây làm nhiệm vụ phân

phối phần mềm như một
dịch vụ thông qua Internet, người dùng không cần phải cài đặt và chạy các ứng dụng đó
trên máy tính của mình, các ứng dụng dễ dàng được chỉnh sữa và người dùng dễ dàng
nhận được sự hỗ trợ.
10.5.4.2. Application (lớp ứng dụng):

- Các hoạt động được quản lý tại trung tâm của đám mây, chứ không nằm ở phía khách
hàng (lớp Client), cho phép khách hàng truy cập các ứng dụng từ xa thông qua Website.
- Người dùng không còn cần thực hiện các tính năng như cập nhật phiên bản, bản vá
lỗi, download phiên bản mới… bởi chúng sẽ được thực hiện từ các “đám mây”.


10.5.4.3. Platform (lớp nền tảng): Cung cấp nền tảng cho điện toán và các giải pháp của

dịch vụ, chi phối đến cấu trúc hạ tầng của “đám mây” và là điểm tựa cho lớp ứng dụng,
cho phép các ứng dụng hoạt động trên nền tảng đó. Nó giảm nhẹ sự tốn kém khi triển
khai các ứng dụng khi người dùng không phải trang bị cơ sở hạ tầng (phần cứng và phần
mềm) của riêng mình.
10.5.4.4.Infrastructure (lớp cơ sở hạ tầng): Cung cấp hạ tầng máy tính, tiêu biểu là môi

trường nền ảo hóa. Thay vì khách hàng phải bỏ tiền ra mua các server, phần mềm, trung
tâm dữ liệu hoặc thiết bị kết nối… giờ đây, họ vẫn có thể có đầy đủ tài nguyên để sử
dụng mà chi phí được giảm thiểu, hoặc thậm chí là miễn phí. Đây là một bước tiến hóa
của mô hình máy chủ ảo (Virtual Private Server).
10.5.4.5.Server (lớp server - máy chủ): Bao gồm các sản phẩm phần cứng và phần mềm

máy tính, được thiết kế và xây dựng đặc biệt để cung cấp các dịch vụ của đám mây. Các
server phải được xây dựng và có cấu hình đủ mạnh để đám ứng nhu cầu sử dụng của số
lượng động đảo các người dùng và các nhu cầu ngày càng cao của họ.
10.5.5. Cấu hình cơ bản của ứng dụng đám mây:

Các dịch vụ điện toán đám mây thông thường bao gồm 3 cấu hình: Dịch vụ phần mềm
(SaaS), cho phép người dùng truy cập các ứng dụng được cung cấp bởi các nhà cung cấp
dịch vụ đám mây ngoại và nội bộ; Dịch vụ nền tảng (PaaS), các phần mềm và dịch vụ
thiết yếu chạy trên máy chủ hệ điều hành như các công cụ phát triển, cơ sở dữ liệu, trung
gian, phần mềm bảo mật và xác thực; Dịch vụ Cơ sở hạ tầng (IaaS), cho phép các tổ chức
tự cung cấp các hệ điều hành nền như Windows hay Linux bằng phương thức trả trước.
Sử dụng IaaS sẽ giúp giảm thiểu thời gian chờ đợi cho việc mua và lắp đặt máy chủ cũng
như tạo ra một nền tảng kinh doanh mạnh mẽ cho nhiều tổ chức. Một đặc điểm thiết yếu
của điện toán đám mây là “tính đàn hồi”. Tính đàn hồi này giúp cung cấp hàng trăm dịch
vụ cũng như đóng lại khi đã hoàn thành một cách dễ dàng và nhanh chóng. Khi sử dụng
IaaS, các tổ chức gần như không cần lo lắng về chi phí sau khi đã đóng dịch vụ, cũng
giống như việc tiền điện sẽ không còn được tính sau khi bóng đèn đã tắt. Tính đàn hồi
đám mây này được cho là một yếu tố quan trọng giúp giảm chi phí, từ chuyên môn còn
gọi là “bùng nổ đám mây”.
Mô hình kết nối điện toán đám mây gồm 4 loại: nội bộ, công cộng, lai ghép, và cộng
đồng. Đám mây nội bộ như đã nói ở phần trước được lắp đặt trên mạng lưới nội bộ của
công ty, sử dụng phương thức đa người dùng, và độc quyền cho tổ chức nội bộ. Trong
khi đó, dịch vụ đám mây công cộng có thể được truy cập từ các kết nối internet toàn cầu,
qua đó cơ sở hạ tầng và các dịch vụ cũng được chia sẻ bởi hàng nghìn người dùng trả
trước. Đám mây ghép lai là sự pha trộn có chọn lọc của đám mây cá nhân và công cộng,
còn được gọi là “bùng nổ đám mây”. Bùng nổ đám mây được tạo ra khi sức chứa của
mạng nội bộ bị quá tải và phần công việc chưa thực hiện sẽ được chuyển sang cho các
nhà cung cấp ngoài. Điện toán đám mấy giúp tránh suy thoái dịch vụ trong bối cảnh các


nhu cầu IT dễ biến đổi, cũng như tại các thời điểm nhu cầu tăng cao. Bùng nổ đám mây
được cho là một giải pháp tiềm năng giúp giảm chi phí cho điện toán đám mây; vì suy
cho cùng, không bao giờ nên chi trả cho những gì mà bạn không sử dụng. Cuối cùng,
khái niệm ít phổ biến hơn đó là đám mây cộng đồng – tập hợp các đám mây của các tổ
chức có sự tin cậy và khả năng hợp tác với nhau. Thông thường, các tổ chức chính phủ

và cộng đồng khoa học sử dụng đám mây cộng đồng để chia sẻ nguồn dữ liệu, trong khi
vẫn giữ được tính độc lập nhất định.
. 10.5.6. Cách thức hoạt động của Điện toán đám mây:
Để hiểu cách thức hoạt động của “đám mây”, tưởng tượng rằng “đám mây” bao
gồm 2 lớp: Lớp Back-end và
lớp Front-end.Hạ tầng thiết bị được
chứa ở lớp Back-End, và
giao diện người dùng của các
ứng dụng được chứa tại
lớp Front-End
Hình

10.8 Hoạt động của điện

toán đám mây
Lớp Front-end là
lớp người dùng, cho phép
người dùng sử dụng và
thực hiện thông qua giao
diện người dùng. Khi người dùng truy cập các dịch vụ trực tuyến, họ sẽ phải sử dụng
thông qua giao diện từ lớp Front-end, và các phần mềm sẽ được chạy trên lớp Back-end
nằm ở “đám mây”. Lớp Back-end bao gồm các cấu trức phần cứng và phần mềm để cung
cấp giao diện cho lớp Front-end và được người dùng tác động thông qua giao diện đó.
Bởi vì các máy tính trên “đám mây” được thiết lập để hoạt động cùng nhau, do vậy
các ứng dụng có thể sử dụng toàn bộ sức mạnh của các máy tính để có thể đạt được hiệu
suất cao nhất. Điện toán đám mây cũng đám ứng đầy đủ tính linh hoạt cho người dùng.
Tuy thuộc vào nhu cầu, người dùng có thể tăng thêm tài nguyên mà các đám mây cần sử
dụng để đáp ứng, mà không cần phải nâng cấp thêm tài nguyên phần cứng như sử dụng
máy tính cá nhân. Ngoài ra, với điện toán đám mây, vấn đề hạn chế của hệ điều hành khi
sử dụng các ứng dụng không còn bị ràng buộc, như cách sử dụng máy tính thông thường.

10.5.7. Sự khác biệt giữa điện toán đám mây và điện toán truyền thống
Trong mô hình điện toán truyền thống, các cá nhân, doanh nghiệp sẽ xây dựng riêng
cơ sở hạ tầng kỹ thuật để tự cung cấp các dịch vụ cho các hoạt động thông tin đặc thù của
mình. Với mô hình này, mọi thông tin sẽ được lưu trữ, xử lý nội bộ và họ sẽ trả tiền để
triển khai, duy trì cơ sở hạ tầng đó (mua thiết bị phần cứng, phần mềm chuyên dụng, trả
lương cho bộ phận điều hành...).Khác với mô hình điện toán truyền thống, điện toán đám
mây lưu trữ và xử lý toàn bộ thông tin trong đám mây Internet. Mọi công nghệ, kỹ thuật,
cơ sở hạ tầng cũng như chi phí triển khai trong đám mây sẽ do nhà cung cấp đảm bảo xây
dựng và duy trì. Do đó, thay vì phải đầu tư từ đầu rất nhiều tiền cho chi phí xây dựng cơ


sở hạ tầng riêng, các cá nhân, doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sẽ chỉ phải trả số
tiền vừa đủ theo nhu cầu sử dụng của mình (pay-for-what-you-use).
Như vậy, mô hình này có rất nhiều lợi ích như sử dụng hợp lý nguồn vốn, điều hòa chi
tiêu tính toán theo thực tế sử dụng, luôn hưởng năng suất tính toán theo cam kết của nhà
cung cấp dịch vụ, tận dụng được sức mạnh của Internet và các siêu máy tính, giảm cơ
bản trách nhiệm quản lý hệ thống CNTT nội bộ.
10.5.8.Mô hình cung cấp dịch vụ điện toán đám mây
Điện toán đám mây không phải là một công nghệ mà là mô hình cung cấp dịch vụ
điện toán đám mây và tiếp thị dịch vụ

Hình 10.9 Mô hình dịch vụ điện toán đám mây

CNTT đáp ứng các đặc trưng nào đó. Dịch vụ CNTT được cung cấp qua đám mây
được nhóm lại thành 3 dạng :Các dịch vụ cơ sở hạ tầng (Infrastructure as a Service –
IaaS) ; Các dịch vụ nền tảng (Platform as a Service – PaaS) và Các dịch vụ ứng dụng
(Software as a Service – SaaS).

10.5.9.


Các mô hình hạ tầng đám mây


Hình 10.10 Mô hình hạ tầng đám mây
Có ba kiểu hình thành đám mây ứng dụng trong đám mây thư viện: riêng tư, công cộng
và lai.
 Các đám mây công cộng có sẵn cho công chúng hoặc một nhóm ngành nghề lớn
và do một tổ chức bán các dịch vụ đám mây sở hữu và cung cấp. Một đám mây
công cộng là cái mà người ta hình dung là đám mây theo nghĩa thông thường; đó
là, các tài nguyên được cung cấp động trên Internet bằng cách sử dụng các ứng
dụng web từ một nhà cung cấp bên thứ ba bên ngoài cung cấp các tài nguyên chia
sẻ và gửi hóa đơn tính cước trên cơ sở tính toán việc sử dụng.
 Các đám mây riêng tư tồn tại bên trong tường lửa của công ty bạn và do tổ chức
của bạn quản lý. Chúng là các dịch vụ đám mây do bạn tạo ra và kiểm soát trong
doanh nghiệp của mình. Các đám mây riêng tư cũng cung cấp nhiều lợi ích tương
tự như các đám mây công cộng, sự khác biệt chủ yếu là tổ chức của bạn chịu trách
nhiệm thiết lập và duy trì đám mây đó.
 Các đám mây lai là một sự kết hợp của đám mây công cộng và riêng tư khi sử
dụng các dịch vụ có trong cả hai vùng công cộng và riêng tư. Các trách nhiệm
quản lý được phân chia giữa các nhà cung cấp dịch vụ đám mây công cộng và
chính doanh nghiệp. Khi sử dụng một đám mây lai, các tổ chức có thể xác định
các mục tiêu và các yêu cầu của các dịch vụ được tạo ra và có được chúng dựa vào
sự lựa chọn thích hợp nhất.
10.5.9.1. Lợi ích của điện toán đám mây
Bảo toàn năng lượng. Hợp nhất nguồn tài nguyên. Làm cho thông tin trở nên bảo mật
và sẵn sàng bất cứ khi nào cần thiết. Nói chung trong hầu hết các cơ quan, tổ chức và
doanh nghiệp cần phải điều chỉnh lại chiến lược sử dụng hạ tầng công nghệ thông
tin để giảm chi phí sản xuất, và một trong các xu hướng được tính đến là sử dụng mô
hình điện toán đám mây với những lợi ích điển hình được liệt kê dưới đây:



Giảm chi phí
Mô hình điện toán đám mây có chi phí thấp hơn so với mô hình sử dụng hạ tầng công
nghệ thông tin truyền thống vì phí sử dụng được trả theo dịch vụ và thời gian, mà
khách hàng không phải đầu tư quá nhiều vào cơ sở hạ tầng và giảm được chi phí vận
hành và bảo trì. Còn trong trường hợp mô hình điện toán riêng thì chi phí ban đầu và chi
phí định kỳ thấp hơn nhiều so với mô hình hạ tầng công nghệ thông tin truyền thống.
Tăng khả năng lưu trữ
Với cơ sở hạ tầng quy mô lớn được do nhà cung cấp mang lại, việc lưu trữ và bảo trì
khối lượng lớn dữ liệu có thể được tiến hành dễ dàng. Việc tăng đột ngột khối lượng
công việc cũng được xử lý hiệu quả, vì các đám mây có thể được mở rộng một cách dễ
dàng và linh hoạt. Khách hàng cũng không phải quan tâm đến các thay đổi trong công
nghệ lưu trữ, điều mà trước kia có thể gây ra vấn đề khi có chuyển đổi lớn về công
nghệ và phương tiện lưu trữ đặc biệt đối với những khối lượng dữ liệu lớn.
Tăng tính linh hoạt
Tính linh hoạt cao là một yêu cầu vô cùng quan trọng trong kinh doanh. Với các
doanh nghiệp phải điều chỉnh nhanh khi điều kiện kinh doanh thay đổi, tốc độ cung cấp
dịch vụ là rất quan trọng. Điện toán đám mây nhấn mạnh vào việc đưa các ứng dụng và
sản phẩm ra thị trường một cách nhanh chóng, bằng cách sử dụng các modul xây
dựng sẵn thích hợp nhất cho việc triển khai.
10.5.9.2. Thách

thức của điện toán đám mây

Điện toán đám mây là một mô hình điện toán mới mở ra cánh cửa đến với những cơ
hội lớn. Trong đám mây điện toán, các tài nguyên và dịch vụ công nghệ thông tin được
tách khỏi cơ sở hạ tầng và được cung cấp theo nhu cầu, phù hợp với quy mô trong một
môi trường đa người dùng. Điện toán đám mây đã có những ảnh hưởng rất sâu rộng, có ý
nghĩa ngay cả đối với những người không làm việc trong lĩnh vực kỹ thuật. Trước đây,
thông tin thường phát sinh từ một nguồn, từ email hoặc thư thoại và phần lớn là không

đồng bộ. Hiện nay, thông tin xuất phát từ nhiều ứng dụng và thông qua nhiều công cụ.
Các dịch vụ được chia sẻ giữa nhiều tổ chức, cho phép cùng một tập hợp hệ thống và ứng
dụng nền tảng đáp ứng nhiều nhu cầu một cách đồng thời và an toàn. Các ứng dụng, dịch
vụ và dữ liệu có thể được truy cập thông qua đa dạng các thiết bị được kết nối như là điện
thoại thông minh, máy laptop và các thiết bị Internet di động khác.
Khác với môi trường điện toán truyền thống, điện toán đám mây đang mở ra nhiều cơ
hội mới nhưng kèm theo đó là những thách thức mà các nhà quản lý phải nắm rõ để vận


hành hệ thống được trơn tru. Điện toán đám mây đang trở thành đích đến của nhiều
doanh nghiệp lớn, đặc biệt có liên quan tới mảng trung tâm dữ liệu.
Theo ông CK Lam, Giám đốc Tiếp thị các Giải pháp Doanh nghiệp, Juniper Networks
Châu Á-Thái Bình Dương, các nhà quản trị mạng cần hiểu rằng trong điện toán đám
mây, băng thông mạng luôn được tận dụng tối ưu ở hầu hết thời điểm. Chính vì vậy sẽ
luôn có những thách thức trong việc quản lý một môi trường có độ ảo hóa cao và những
tác động của chúng tới kiến trúc mạng. Quản trị mạng nên có kế hoạch để đơn giản kiến
trúc mạng, chia sẻ hạ tầng mạng với công nghệ ảo hóa, bảo mật môi trường của họ và
triển khai những công cụ giúp tự động hóa quy trình quản lý môi trường trung tâm dữ
liệu ảo hóa.
Bởi vì, trong môi trường điện toán truyền thống, nhiều cấu phần phần mềm và các quy
trình dựa vào hệ thống thiết bị tại chỗ. Trong một môi trường điện toán đám mây, hầu hết
mọi thứ được vận hành từ một máy chủ hoặc nhiều máy chủ trong trung tâm dữ liệu nơi
bạn tương tác cụ thể với chúng qua một trình duyệt. Điều này đặt ra ngày càng nhiều yêu
cầu đối với hệ thống mạng hiện thời cũng như hạ tầng bảo mật.
Hạ tầng mạng hiện tại được thiết kế và xây dựng cách đây cũng khoảng gần 2 thập kỷ.
Kiến trúc chuyển mạch 3-lớp phổ dụng này là hiệu quả ở thời điểm khi hầu hết các dữ
liệu được tập trung trong một bộ chuyển mạch đơn nhất trong một môi trường khách-chủ
nơi các hệ thống mạng tương đối nhỏ và được thiết kế theo quy tắc 80/20 (80% luồng dữ
liệu có thể nằm trong bộ chuyển mạch (switch) và 20% luồng dữ liệu có thể nằm ở bên
ngoài).

Điều không may là kiến trúc này hiện vẫn còn được sử dụng trong nhiều hệ thống
mạng trung tâm dữ liệu hiện nay. Các ứng dụng ngày nay như Web 2.0 hay kiến trúc
hướng dịch vụ (SOA) hiện chiếm đa số luồng dữ liệu chuyến tiếp server-tới-server,
chiếm tới 75% luồng dữ liệu chuyển tiếp trong kiến trúc chuyển mạch 3-lớp. Kiến trúc
này gây ra độ trễ lớn và chi phí cao để xây dựng hay bảo trì.
Các doanh nghiệp triển khai đám mây cá nhân là bởi họ muốn thụ hưởng các lợi ích
mà điện toán đám mây mang lại, chẳng hạn như tiết kiệm chi phí nhờ việc chia sẻ các
ứng dụng và hạ tầng. Một trong những vấn đề quan trọng cần lưu ý là bảo mật, điều ngày
càng trở thành một yếu tố trọng yếu trong môi trường đám mây công cộng.
Thách thức lớn của điện toán mây là vấn đề bảo mật. Điện toán mây được cấu thành
từ nhiều thành phần khác nhau. Từ máy chủ, lưu trữ, mạng được ảo hóa, tiếp theo là các
thành phần quản lý Cloud Management. Thành phần này sẽ quản lý tất cả các tài nguyên
được ảo hóa và tạo ra các máy chủ ảo với hệ điều hành, ứng dụng để cung cấp cho khách
hàng. Như vậy, điện toán mây là một mô hình lego với rất nhiều miếng ghép công nghệ
tạo thành. Mỗi một miếng ghép lại tồn tại trong nó những vấn đề bảo mật và vô hình


chung, điện toán mây khi giải bài toán bảo mật tất yếu phải giải quyết các vấn đề của
những miếng ghép trên.

Hình 10.11 Các tầng dịch vụ của điện toán mây
Một đánh giá khác từ Gartner về bảo mật trong điện toán mây năm 2009,có 7 nỗi lo ngại
mà khách hàng sử dụng điện toán mây đòi hỏi nhà cung cấp dịch vụ giải đáp thỏa đáng.
Dưới đây là chi tiết các vấn đề trên:

Tựu chung của 7 vấn đề trên, xin phân vào 3 nhóm tính chất về bảo mật sau:
[1] Tính tin cẩn (Confidentiality)(vấn đề 1, 2, 4): Dữ liệu của khách hàng được bảo vệ
như thế nào? Ngoài khách hàng, dữ liệu đó có thể bị xem trộm bởi chính nhà cung cấp
hay những khách hàng khác không? Các nhà cung cấp có đạt các chứng nhận của các tổ
chức thứ ba đánh giá về bảo mật hay không?

[2] Tính sẵn sàng (Availability)(Vấn đề 3, 5, 7): Ứng dụng cung cấp trên điện toán mây
luôn sẵn sàng hay không? Nếu xảy ra sự cố, thời gian khôi phục dịch vụ mất bao nhiêu
thời gian? Nhà cung cấp dịch vụ có đủ tài chính để cung cấp lâu dài cho khách hàng? Chế
độ bảo hiểm dữ liệu ra sao nếu nhà cung cấp ngừng dịch vụ vì lý do tài chính?


[3]Tính an ninh (Security)(Vấn đề 6): Ngoài các vấn đề, phòng chống tấn công, nhà
cung cấp dịch vụ có minh bạch cung cấp hiện trạng phục vụ điều tra và thông tin đến các
khách hàng nắm không?
Đi sâu vào công nghệ, để giải quyết các vấn đề trên, nhà cung cấp dịch vụ điện toán mây
phải xây dựng một chiến lược bảo mật qua nhiều lớp với nhiều công nghệ khác nhau đi từ
Hạ tầng – Phần cứng – Phần mềm - Ứng dụng – Tính pháp lý … Các thành phần bảo mật
này đảm bảo vận hành một cách đồng bộ với nhau, đem đến một hành lang bảo vệ cho
ứng dụng và dữ liệu nhưng đồng thời không đem đến sự phức tạp, khó khăn cho hoat
động sử dụng của khách hàng.

Hình 10.12 Các lớp bảo mật cho điện toán mây
Điện toán mây thực sự là một giải pháp kỳ diệu đáp ứng được tính chất hướng đến dịch
vụ của khách hàng. Nó cho phép chúng ta cung cấp năng lực tính toán theo đúng nhu cầu
sử dụng, một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, để điện toán mây thực sự đem lại sự an tâm
cho khách hàng thì vấn đề bảo mật là bài toán then chốt mà nhà cung cấp dịch vụ phải
giải hoàn chỉnh. Một bài toán rất nhiều thách thức nhưng thú vị.

10.5.9.3. Những ưu điểm chính của điện toán đám mây.


Điện toán đám mây đã tạo cơ sở hình thành phần mềm như là dịch vụ SaaS
(Software-as-a-Service) và các server theo định chế “đám mây”. Nhờ các server đám
mây, những trung tâm dữ liệu truyền thống có thể được thu nhỏ trong một valy, nên giá
thành trung tâm dữ liệu giờ đây giảm xuống đáng kể. Giá thành các “Server đám mây” và

thiết bị đầu cuối của người sử dụng giảm.
Nhờ điện toán đám mây, các công ty lớn giờ đây không cần phải mua máy chủ riêng,
không cần duy trì hàng trăm máy tính để chứa các dữ liệu của công ty, không cần đội
ngũ cán bộ quản trị mạng, không cần mua bản quyền các phần mềm, v..v … Thay vào
đó, công ty chỉ cần sử dụng dịch vụ cài đặt tại một trung tâm điện toán nào đó, đánh giá
dịch vụ đó có đáp ứng nhu cầu của công ty mình hay không, và trả tiền dịch vụ đó. Lúc
đó công ty sẽ “toàn tâm” tập trung sản xuất còn các nhà cung cấp dịch vụ sẽ lo cơ sở hạ
tầng và công nghệ thay thế để duy trì hoạt động mạng của công ty .
Đối với cá nhân
người sử dụng không cần biết bằng công nghệ, bằng hình thức nào, và bằng phương thức
quản lý như thế nào để tạo ra và duy trì các dịch vụ đó, mà chỉ quan tâm làm sao có thể
truy cập sử dụng dịch vụ với mức độ an toàn, tin cậy của dịch vụ được cung cấp có đáp
ứng được như cầu của mình hay không.
Ưu điểm chính của điện toán đám mây là có thể nhanh chóng bật và tắt các ứng dụng
("spin up") và có thể phát triển linh hoạt năng lực tính toán của bạn khi cần thiết. Ít nhất,
bất kỳ nền tảng điện toán đám mây nào cũng có thể liên tục cung cấp tài nguyên điện
toán càng ngày càng lớn theo yêu cầu. Một số nền tảng cũng cung cấp các nền tảng phát
triển dùng chung, phổ biến trên điện toán theo yêu cầu.Mặt khác, điện toán đám mây cho
phép tổ chức của bạn nhanh chóng triển khai các ứng dụng và phát triển chúng để đáp
ứng các nhu cầu của doanh nghiệp.
Tóm lại, điện toán đám mây được nói gọn thành “4 không” : không cần máy chủ,
không cần bảo trì, không sợ rủi ro, không có bản quyền, người sử dụng chỉ cần máy tính
nối mạng là có thể sở hữu nguồn tài nguyên vô tận trên internet.
10.5.9.4. Một số công ty làm dịch vụ điện toán đám mây
Các công ty tiên phong như Amazon đã xây dựng “hệ sinh thái dựa vào đám mây”
(cloud-based ecosystem) để làm cho các nội dung như sách điện tử có sẵn với mọi người.
Các công ty khác cũng phát triển “hệ sinh thái” riêng của mình. Mới đây Google đã mua
Motorola Mobility (công ty chuyên sản xuất máy tính bảng, smartphone và các công cụ
khác) với giá 12,5 tỉ USD mà mục tiêu là cho ra một loạt các công cụ di động mới tốt
nhất sử dụng các dịch vụ đám mây. Apple cũng có dịch vụ “iCloud”, trong đó cho phép

người dùng tồn trữ dến 5GB nội dung không tính phí và nhiều hơn nếu đồng ý trả phí.
iPhone 4S vừa trình làng có một số cải tiến trên dịch vụ tồn trữ và đồng bộ (storage-andsync) iCloud của Apple. iCloud cải tiến (sẽ được đưa vào các sản phẩm Apple mới chạy
trên hệ điều hành iOS 5) được xem là đối thủ của Amazon.


Các công ty phần mềm nhỏ cũng tận dụng lợi ích của điện toán đám mây như
Dropbox cho phép người dùng upload hình ảnh, văn kiện và các nội dung khác lên trang
web có giao diện đơn giản của nó rồi load lại chúng từ các công cụ khác thông qua tài
khoản đăng ký. Đa số công ty đều cung cấp miễn phí phần cơ bản của dịch vụ và chỉ tính
phí ở phần nâng cao. Dropbox miễn phí 2GB nội dung upload. Các công cụ di động có
khả năng đặc biệt và điện toán đám mây là hai trong ba cột trụ cơ bản tạo ra cuộc cách
mạng điện toán cá nhân. Nhưng cột trụ thứ ba – sự phổ biến của internet dải rộng - đã
tăng tốc độ cho nó.
10.5.9.5. Xu hướng Điện toán đám mây tại Việt Nam
Hiện trạng phát triển công nghệ “điện toán đám mây” tại Việt Nam. Dù được thế giới
dự đoán sẽ là "cơn sóng thần công nghệ " song khái niệm “điện toán đám mây vẫn còn
khá mới mẻ tại Việt Nam.”
IBM là doanh nghiệp tiên phong khai trương trung tâm điện toán đám mây tại Việt
Nam vào tháng 9/2008 với khách hàng đầu tiên là là Công ty cổ phần công nghệ và
truyền thông Việt Nam (VNTT). Sau đó, Microsoft là một trong những “đại gia” tiếp
bước điện toán đám mây ở thị trường Việt Nam, nhưng hiện vẫn đang trong giai đoạn
phát triển thử nghiệm.
Điện toán đám mây không còn là xu hướng mà là thực tế đang diễn ra. Có thể nói Việt
Nam là một trong những nước đầu tiên ở ASEAN đưa vào sử dụng điện toán đám mây.
Từ năm 2008 đến nay, ngày càng có nhiều khách hàng tìm đến các dịch vụ điện toán đám
mây của IBM”.
Tiếp đến, điện toán đám mây ở Việt Nam bắt đầu có những tín hiệu khả quan khi khi
FPT - nhà công nghệ hàng đầu của Việt Nam đã khẳng định vị thế tiên phong của mình
trong công nghệ bằng lễ ký kết với Microsoft châu Á-Trend Micro để hợp tác phát triển
"đám mây" ở châu Á. Nhận định về hợp tác này, đại diện Trend Micro cho rằng, điện

toán đám mây sẽ đem lại cơ hội cho Việt Nam bởi công nghệ hoàn toàn mới sẽ giúp giới
trẻ Việt Nam vốn rất năng động sẽ có thêm điều kiện sáng tạo và phát huy tài năng của
mình. Đồng thời, với tiềm năng về nhân lực, cơ sở hạ tầng và nhất là "tính sẵn sàng" của
FPT hai bên sẽ không chỉ dừng lại ở cung cấp dịch vụ về điện toán đám mây ở Việt Nam
mà sẽ vươn ra toàn cầu.
Sau cuộc ký kết đó một tuần, FPT tiếp tục hợp tác cùng "đại gia" Microsoft vào
tháng 05/2010. Tâm điểm của hợp tác này là một thỏa thuận nhằm phát triển nền tảng
điện toán đám mây dựa trên công nghệ của Microsoft. Hai bên đều cùng hướng đến việc
phát triển nền tảng cho các dịch vụ đám mây bao gồm truyền thông, hợp tác, lưu trữ dữ
liệu và các dịch vụ hạ tầng, nhằm phục vụ nhu cầu của đông đảo khách hàng.


Thời gian gần đây,chủ đề “điện toán đám mây” đang là một trong những chủ để được
nhắc đến nhiều nhất tại các sự kiện công nghệ tại Việt Nam, nhất là sau hội thảo "Hành
trình tới công nghệ điện toán đám mây" do Microsoft tổ chức ngày 2/3/2011 tại Hà Nội,
với sự tham dự của hơn 300 chuyên gia IT và các nhà lãnh đạo của các doanh nghiệp.
Điều này chứng tỏ những vấn đề về điện toán đám mây hiện đang thu hút sự quan tâm
của rất nhiều doanh nghiệp trong nước, những người đang kiếm tìm giải pháp nâng cao
năng suất cho doanh nghiệp.
Tuy vậy, tiếp theo sau hội thảo ngày 02/03, “Vietnam Cloud computing Day 2011”
(Ngày Điện toán đám mây Việt Nam 2011) diễn ra ngày 9/3 tại Hà Nội cũng đưa ra nhận
định: mặc dù điện toán đám mây hiện đang được ứng dụng rộng rãi ở nhiều nước phát
triển trên thế giới bởi lợi ích đáng kể mà nó đem lại, nhưng ở Việt Nam các doanh nghiệp
vẫn chưa thực sự mặn mà với công nghệ này. Tuy nhiên theo các chuyên gia nhận định,
đây chính là giải pháp tối ưu để các doanh nghiệp nước ta giảm thiểu chi phí cũng như
tăng hiệu suất làm việc ở mức tối đa.
Dựa trên nền tảng điện toán đám mây, Công ty Lạc Việt cung cấp các phần mềm dựa
trên nền tảng điện toán đám mây như phần mềm Quản trị Thư viện số (Vebrary); Quản
trị nhân sự (HRM); Quản trị hệ thống bán lẻ (Master – Retail). Lạc Việt Vebrary trên nền
tảng công nghệ điện toán đám mây đã đang triển khai thử nghiệm tại Thư viện công cộng

tỉnh Đồng Nai và đã thu được kết quả đáng khích lệ. Về thực trạng ứng dụng điện toán
đám mây ở các doanh nghiệp Việt Nam, có thể rút ra kết luận như sau: Hiện nay đã có
một vài doanh nghiệp lớn tại Việt Nam đưa điện toán đám mây vào ứng dụng và hiệu
suất kinh doanh được cải thiện đáng kể.Tuy nhiên số lượng là khá ít. Phần lớn vẫn chỉ
dừng ở mức quan tâm và tìm hiểu.
10.6. Ứng dụng điện toán đám mây trong thư viện số
10.6.1. Lợi thế của điện toán đám mây trong thư viện số
Trong thư viện số thường xuyên phải sử dụng nhiều đến các cơ sở dữ liệu cùng với
các phép tính toán thống kê. Điện toán đám mây có thể cung cấp cho các cơ sở thư viện
số một phương pháp nhằm giúp người dùng tin một công cụ tra cứu nhanh truy cập
thông tin. Thông qua điện toán đám mây, các cơ sở thư viện số giải quyết được bài toán
về xây dựng cơ sở hạ tầng, phần mềm, và lưu trữ dữ liệu. Nhờ điện toán đám mây có thể
xây dựng dịch vụ sử dụng một lần và sau đó sử dụng nhiều lần bởi đông đảo người sử
dụng theo nhu cầu của họ. Điện toán đám mây là một lựa chọn tốt cho các cơ sở thư
viện số sử dụng hiệu quả. Nó sẽ không chỉ làm lợi cho người sử dụng còn giúp các thư
viện xây dựng cơ sở hạ tầng đa năng tính toán thường xuyên. Dịch vụ điện toán đám mây
thực hiện theo các mô hình dịch vụ khác nhau như nền tảng như một dịch vụ (PaaS), lưu
trữ như một dịch vụ hoặc phần mềm như một dịch vụ (SaaS), cơ sở hạ tầng như một dịch
vụ (IaaS). SaaS được sử dụng trong các đám mây riêng để cung cấp các phần mềm hỗ


trợ cho người sử dụng khai thác các phần mềm đắt giá khó tìm trên mạng. Điều này
không chỉ cung cấp cho họ những phần mềm chất lượng mà còn giải phóng người sử
dụng khỏi gánh nặng chi phí các phần mềm bản quyền. IaaS và PaaS được sử dụng để
đáp ứng các nhu cầu cơ sở hạ tầng của sinh viên, giảng viên, học giả nghiên cứu với một
số cấu hình phần cứng cụ thể cho các nhiệm vụ cụ thể.
Sử dụng hệ thống đăng nhập đơn giản,người sử dụng dễ dàng đưa ra yêu cầu và có thể
sử dụng cơ sở hạ tầng hầu như không giới hạn. Vì thế mạnh nhất của điện toán đám mây
là mô hình dịch vụ lưu trữ quy mô lớn thông tin. Dữ liệu có liên quan với công việc
nghiên cứu khác nhau, dự án hoặc thông tin có thể tái sử dụng, có thể được giao cho các

đám mây lưu trữ quản lý và có thể được truy cập theo yêu cầu. Các cơ sở thư viện số hợp
tác với nhau để xây dựng một kho lưu trữ thông tin theo mô hình lưu trữ tập trung ảo.
Đây là cơ chế hoạt động có hiệu quả nhằm giảm chi phí lưu trữ để duy trì kho dữ liệu thư
viện số theo điện toám đám mây.
“Dịch vụ lưu trữ đám mây” là cách gọi gần gũi chỉ những dịch vụ trực tuyến cung cấp
giải pháp giúp người dùng cất giữ các loại dữ liệu của họ lên “đám mây”, tức hệ thống
máy chủ của nhà cung cấp dịch vụ.“Dịch vụ lưu trữ đám mây” không chỉ giúp người
dùng có thể truy cập đến dữ liệu của họ từ bất cứ đâu, thông qua nhiều thiết bị có khả
năng kết nối Internet, mà còn giúp giảm thiểu rủi ro mất mát, hư hỏng dữ liệu đôi khi xảy
ra, nếu sử dụng các biện pháp lưu trữ truyền thống, như ổ cứng, ổ cứng di động USB, hay
đĩa DVD, CD…
10.6.2. Điện toán đám mây làm thay đổi bản chất quá trình biến thông tin thành tri
thức.
Từ trước đến nay, khái niệm thông tin được tiếp cận từ những giác độ, mỗi quan niệm
có chính kiến khác nhau từ một góc nhìn khác nhau về nó... Thông tin (Information, có
nguồn gốc từ thuật ngữ Latinh - Infomatio), có nghĩa là diễn giải, thông báo (Theo
Nguyễn Hữu Hùng: "Thông tin - Từ lý luận đến thực tiễn", Nxb Văn hoá Thông tin,
2005, tr.336). Khi hiểu theo nghĩa hẹp: "Thông tin là dữ liệu đã được chế biến tới mức độ
nào đó...", hay thông tin là "Các dữ liệu đã được tổ chức, xử lý, có mục đích (nhưng chưa
được đồng hoá)" (Theo Đặng Mộng Lân: "Kinh tế tri thức - Những khái niệm và vấn đề
cơ bản", Nxb Thanh niên, 2002, tr.28-30).
Cũng giống như thông tin, Tri thức được quan niệm rất khác nhau. Ở đây, Tri thức
(Knowledge) được hiểu là "Thông tin mang lại ý nghĩa và ích lợi cho người có thông tin
đó" (Phan Dũng: "Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới", Nxb Trẻ, 2010, tr.133). Theo
cách quan niệm này thì tri thức là thông tin nhưng không phải thông tin nào cũng là tri
thức. Khi ta nói người nào đó có thông tin thì điều đó có nghĩa là thông tin phải nằm
trong đầu của người đó. Theo đó, nếu bạn cầm trong tay một cuốn sách chưa đọc, băng,
đĩa CD chưa nghe, chưa xem... thì bạn chưa thể nói với mọi người rằng bạn đã có thông
tin. Ngay cả trường hợp, thông tin nằm trong trí nhớ của bạn rồi mà bạn chẳng thấy nó



liên quan gì đến, chẳng suy ra thêm được điều gì, chẳng thấy giúp ích gì cho mình hơn
trước ngay lập tức, hay trong tương lai thì nó vẫn chỉ là thông tin. Bởi vậy, chỉ khi thông
tin mang lại ý nghĩa và ích lợi cho bạn mới là tri thức.
Internet là mạng máy tính khổng lồ, kết nối hàng triệu máy tính, ... cung cấp nguồn
tài nguyên khổng lồ và vô tận, tuy nhiên các thông tin này phân bố hỗn độn do nhiều nhà
cung cấp. Do vậy để biến thông tin đó thành tri thức là bài toán hoàn toàn không đơn
giản. Quá trình biến thông tin thành tri thức là một quá trình xử lý thông tin phức tạp có
điều khiển. Cốt lõi của điện toán đám mây là làm cho toàn bộ môi trường tính toán và tri
thức ngày càng rẻ hơn. Tri thức có thể được tập trung xử lý và trong quá trình tập trung
xử lý đem các dữ liệu biến đổi thành thông tin. Quá trình này đã làm cho việc phổ cập tri
thức và năng suất lao động được nâng cao rõ rệt.
10.6.3. Tình hình ứng dụng dịch vụ điện toán đám mây trong thư viện điện tử
Một số nước trên toàn thế giới đã có sáng kiến sử dụng điện toán đám mây để phục
vụ cho giảng viên, sinh viên và các nhà nghiên cứu. Ở các nước, đặc biệt là Mỹ, các thư
viện của trường học đã tranh thủ nhanh việc ứng dụng này để giúp giảm thiểu những chi
phí liên quan đến việc đầu tư hệ thống, bản quyền phần mềm và nhân sự. Điều này càng
phù hợp hơn đối với các trường cao đẳng, đại học, nơi phải phục vụ cho một khối lượng
người dùng lên đến hàng chục nghìn. Tiêu biểu là Thư viện số toàn bộ duy nhất tại Italy,
Thư viện Thông tin Văn hóa châu Âu (the European Library of Information and Culture BEIC) chọn triển khai Primo tại site để làm giao diện cho các bộ sưu tập số của mình,
hiện đang được quản lý bởi hệ thống quản lý tài sản số Digitool của Ex Libris. Pierfranco
Minsenti, quản lý dự án hệ thống thư viện tại Đại học Ca’ Foscari, nhận xét: “Tính linh
hoạt của giao diện người dùng Primo sẽ cho phép chúng tôi kết hợp một cách dễ dàng
các tài nguyên trên Google với việc sử dụng công cụ lọc tiên tiến theo cả bộ sưu tập và
dạng tài liệu. Vì Primo Central bao gồm 97% tạp chí có phản biện mà Đại học
Ca’Foscari đặt mua, bởi vậy người dùng sẽ truy cập ngay lập tức tới số lượng bài báo
nghiên cứu khổng lồ. Primo giúp người dùng phát hiện sự phong phú và đa dạng của các
bộ sưu tập thư viện và quảng bá hệ thống thư viện này như là một giao diện cung cấp
thông tin học tập và nghiên cứu chính của trường.”
Đại học Iuav chọn triển khai Primo trong môi trường điện toán đám mây. Pierre

Piccotti, quản lý thông tin và dự án tại Đại học Iuav, giải thích, “Vì chúng tôi có một thư
viện nhỏ với nguồn lực hạn chế, dịch vụ điện toán đám mây của Primo Direct là một giải
pháp hoàn hảo cho chúng tôi. Nó cho phép chúng tôi giảm chi phí bảo trì phần cứng và
sử dụng thành thạo của các chuyên gia kỹ thuật từ Ex Libris hộ trợ kỹ thuật 24/24 giờ.
Đồng thời, thủ thư của chúng tôi vẫn duy trì được kiểm soát việc chuyển giao thông tin
tới người dùng.”
10.6.4. Thực trạng thư viện các trường đại học Việt Nam


Việc khai thác hiệu quả thông tin đã trở thành một trong những nhân tố hàng đầu
trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của bất kỳ một quốc gia nào. Thư viện là cầu
nối giữa thông tin và người sử dụng. Hiệu quả chất lượng đào tạo của trường đại học
không thể tách rời với thư viện trường đại học . Thư viện đại học là nơi cung cấp nguồn
thông tin tạo môi trường tự học và tự nghiên cứu, kích thích sự chủ động của người học;
kết nối thông tin của xã hội và nhu cầu thông tin của sinh viên; đồng thời hỗ trợ cải
tiến nội dung chương trình giảng dạy và thay đổi phương pháp giảng dạy học tập ở
trường đại học.
Hiện nay, hệ thống thư viện đại học Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu học tập
nghiên cứu của sinh viên. Hội nghị thư viện các trường đại học, cao đẳng lần thứ nhất do
Bộ Văn hoá Thể thao và Du lich phối hợp Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức tại Thành phố
Đà Nẵng (10/2008), đã nhận định: “Thư viện các trường đại học đang phải đối diện với
nhiều cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập, những khó khăn tập trung vào:
Nguồn lực thông tin còn nghèo nàn, cần được tăng cường; công nghệ phát hiện tài
nguyên thông tin hiện đại, qui trình và nghiệp vụ quản lý chưa được thống nhất và chuẩn
hóa; Bên cạnh đó sự phối hợp liên kết, liên thông giữa các thư viện còn yếu nên chưa tạo
ra được một sức mạnh tập trung”.
Việc đổi mới phương pháp dạy - học, chuyển đổi từ đào tạo theo niên chế sang đào
tạo theo hệ thống tín chỉ và mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu xã
hội . Đồng thời, đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ mới cho hoạt động thông tin - thư viện
trong các trường đại học. Thực hiện các giải pháp phát triển nguồn lực thông tin như:

nguồn học liệu điện tử, cơ sở dữ liệu các môn học, số hoá các giáo trình, các bộ sưu tập
số, thư viện số là hướng phát triển đúng nhằm phát huy hiệu quả hoạt động thông tin thư viện, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu của trường đại học.
Thực hiện chia sẻ nguồn lực thông tin trong hệ thống thư viện các trường đại học,
Trường Đại học Luật TP.HCM triển khai Giải pháp iDragon Cloud do Viện Công
nghiệp Phần mềm và Nội dung số thực hiện từ tháng 8/2011- 12/2011 trong giai đoạn 1
trường đã xây dựng được 580 tài liệu của Thư viện trường Đại học Luật TP.HCM đã
lên “mây” kho tài liệu điện tử để tra cứu tài liệu toàn văn phục vụ cho nhu cầu thông tin
của cán bộ và giáo viên, và khuyến khích cán bộ, giảng viên trong toàn trường tra cứu,
sử dụng kho tài liệu điện tử trên nền tảng iDragon Cloud có phân quyền truy cập,
bằng giải pháp điện toán đám mây – kỹ thuật tối ưu của thư viện điện tử đại học hiện
nay, nhằm tăng cường nguồn lực thông tin cho thư viện các trường đại học, đáp ứng tốt
nhu cầu thông tin cho hoạt động nghiên cứu khoa học, giảng dạy và học tập, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hội nhập quốc tế cần được nghiên cứu và triển khai. Với công nghệ này, các thư
viện sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí đầu tư máy chủ cũng như chi phí cho chuyên viên tin
học quản lý vận hành máy chủ và chỉ trả một khoảng chi phí theo đúng nhu cầu sử dụng.
Và khả năng mở rộng của mô hình này là vô hạn khi nhu cầu của thư viện tăng lên.
10.6.5. Mô hình

điện toán đám mây trong thư viện số và thư viện các trường Đại học.


Thư viện số cung cấp dịch vụ thông tin chất lượng nhưng đồng thời cũng liên tục lộ ra nhiều

hạn

chế. Vì điều kiện kinh tế hạn hẹp vùng miền phát sinh hiện tượng phát triển thiếu cân đối ,
chia sẻ các nguồn tài nguyên của khu vực gặp khó khăn, hình thành những ốc đảo bị cô lập thông tin hay dư thừa tài
nguyên, gây ra lãng phí, rất khó thỏa mãn được tổng cầu. Trong bối cảnh đó, điện toán đám mây có khả năng cung
cấp kế hoạch phù hợp từng ngày vượt qua những trở ngại của hiện tượng này.


Việc phát triển kinh tế không đồng đều ở những khu vực khác nhau đã khiến cho các
tài nguyên của thư viện số bị tạm thời thiếu hụt, cụ thể là thư viện số của các trường Đại
học địa phương. Nhiều trường Đại học và Cao đẳng trong khi không ngừng nâng cao
chất lượng đào tạo đã xây dựng thư viện số để mua các nguồn cơ sở dữ liệu cho riêng
mình, nhưng vì mục tiêu đào tạo và điều kiện kinh tế khác biệt nên các tài nguyên thư
viện giữa hai đại học có những khác biệt đáng kể.
Nhìn chung thư viện số của các trường đại học hiện nay còn những mặt khiếm
khuyết. Các nguồn dữ liệu giữa hai đại học vẫn còn tương đối độc lập, lượng các đề án
dư thừa vẫn còn khá cao, đã gây không ít lãng phí cho các nguồn tài chính và nhân lực,
hay có một số trường đại học và cao đẳng chỉ sử dụng một phần nhỏ các nguồn cơ sở dữ
liệu, chưa sử dụng hết hiệu suất, nên chưa tận dụng hết các nguồn tài nguyên số hóa.
Chính vì vậy,điện toán đám mây có thể giúp sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, và
có thể giải quyết những khiếm khuyết của các thư viện số. Giải pháp này giúp tin học
hoá, đơn giản hoá và thống nhất nghiệp vụ trong thư viện, tiết kiệm thời gian phục vụ
người sử dùng và kiểm kê kho định kỳ, tránh tình trạng thất thoát tài liệu do có hệ thống
tự động nhắc nhở mỗi khi có tài liệu quá hạn, tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa người sử
dùng với nhau, giữa người sử dùng với cán bộ thư viện (thảo luận diễn đàn), và giữa các
thư viện (qua cổng thông tin), tích hợp dữ liệu đa phương tiện, kết nối các tập dữ liệu số,
sưu tập số quy mô lớn.Điểm đặc biệt ở nền tảng điện toám đám mây này là không gian
làm việc độc lập, khả năng lưu trữ lớn, có thể truy cập mọi lúc mọi nơi trên nhiều thiết bị
như: iPad, điện thoại di động…liên thông giữa các dịch vụ khác nhau,dịch vụ tham khảo
trực tuyến, dịch vụ thư viện số di động... Điện toán đám mây thực hiện các chức năng phân
phối cho rất nhiều máy tính chứ không riêng cho các máy tính cục bộ hay các máy chủ từ xa. Nói cách
khác, điện toán đám mây có khả năng tích hợp dữ liệu và đưa chúng lên đám mây công cộng để
phục vụ người sử dụng.

10.6.5.1. Ứng dụng điện toán đám mây
Điện toán đám mây rất phù hợp với tính toán chi phí, hiệu suất, hợp tác nhóm và
những ưu điểm về vị trí địa dư. Vì đồng thời từng quy trình ứng dụng sử dụng riêng cho

mình một nền riêng, một máy chủ riêng sẽ rất lãng phí. Sử dụng điện toán đám mây có
thể chia sẻ máy chủ cho nhiều quy trình ứng dụng, thực hiện chia sẻ tài nguyên, và qua
đó cũng giảm thiểu dung lượng cho máy chủ, thực hiện tiết giảm chi phí. Do đó tận dụng
điện toán đám mây trong thư viện kỹ thuật số, sẽ đem lại hiệu quả cao hơn cho công việc,
đời sống và học tập.


Hình 10.13 Kế hoặch chia sẻ máy chủ

Mọi máy chủ điện toán đám mây đều có thể là máy chủ điện toán, và như vậy sẽ tiết kiệm máy chủ hay băng thông
rộng các nguồn và vv… Trong Hình 2 mọi đám mây đại diện cho nguồn cơ sở dữ liệu của các thư viện số các Đại
học. Cứ hai đám mây trở lên có thể tạo thành một đám mây lớn hơn, và ta có thể chia đám mây hay đám mây tích
hợp cho những vùng khác nhau hay các trường đại học có thứ hạng khác nhau. Saas, chữ viết tắt của Software as a
Service (Dịch vụ phần mềm), sẽ thông qua trình duyệt hình thành các dụ cung cấp cho các ứng dụng, giúp người sử
dụng và nhà cung cấp tiết giảm chi phí. Paas, 1 viết tắt của “Platform as a service” (Dịch vụ nền tảng), xác định bởi
dạng dịch vụ cung cấp nền ứng dụng và triển khai cho các nhà khai thác, để họ có thể sử dụng nền này để phát
triển, triển khai và quản lý Các ứng dụng SaaS. Nền tảng này thường bao gồm cơ sở dữ liệu, phần mềm trung gian
(quản lý kết nối giữa khách hàng và cơ sở dữ liệu) và các công cụ phát triển. Tất cả đều có dạng dịch vụ thong qua
Internet. Cơ sở hạ tầng IaaS vốn là dịch vụ, xác định có dạng dịch vụ cung cấp các phần cứng máy chủ, lưu trữ và
nối mạng. Bộ Phần mềm Phát triển SDK, là hỗ trợ phát triển một số phần mềm, tài liệu hướng dẫn, mẫu, và tập hợp
các công cụ. Nói chung, SDK là phát triển các ứng dụng nền Windows.

10.6.5.2 Tổ chưc thực hiện
Trong Hình 2, người quản lý đám mây bao gồm đại diện trường đại học, đại diện chính
phủ và đại diện nhà cung cấp dịch vụ. Trách nhiệm quản lý bao gồm quản lý tác nghiệp
hằng ngày, cung cấp dịch vụ cao cấp và bảo mật cao, hình thành hợp đồng, điều phối lợi
ích cho các bên tham gia và thực hiện xử phạt đối với người sử dụng phi pháp và hoạt
động trái phép.

Hình 10.14 Sơ đồ thực hiện điện toán đám mây

10.6.5.3.Phân tích mô hình phục vụ người sử dụng hiện nay tại các thư viện đại học
Các thư viện Đại học, là nền tảng nghiên cứu khoa học và đào tạo, chịu trách nhiệm
cung cấp dịch vụ thông tin cho người sử dụng. Trong quá khứ, hầu hết các thư viện
khẳng định dịch vụ của họ dựa vào các nguồn thư viện của riêng mình. Do đó các cán bộ
thư viện ít quan tâm đến nhu cầu của người sử dụng. Nhưng ngày nay, các thư viện hiện
đại đã thay đổi quan điểm. Theo đó, họ thường thu thập mọi thông tin có thể được để
nắm bắt mọi yêu cầu của người sử dụng. Sau đó họ phân tích thông tin và lý giải, phát
hiện vấn đề. Cuối cùng, họ sẽ cung cấp các biện pháp kỹ thuật cho người sử dụng. Tuy
nhiên, trong tương lai các dịch vụ của các thư viện hiện đại ngày càng tập trung vào nhu


cầu của người sử dụng. Và mục tiêu tối hậu của thư viện hiện đại là cung cấp các dịch vụ
đa cấp, hoàn hảo và phù hợp. Các mô hình phục vụ người sử dụng hiện hành chủ yếu bao
gồm mô hình dịch vụ WWW, mô hình dịch vụ FTP, mô hình dịch vụ BBS và E-mail,
vv..
10.6.5.3.1.Mô hình dịch vụ WWW ( WWW Service Model)
WWW (World Wide Web) dựa vào mô hình phục vụ khách hàng. Mô hình thể hiện mọi
thể loại hệ thống trình duyệt thông tin có nền tảng ngôn ngữ HTML và Giao thức HTTP.
Phân khu cụ thể gồm: Các máy chủ WWW chịu trách nhiệm kết nối các trang web bằng
các kết nối siêu văn bản và các khách hàng WWW chịu trách nhiệm hiển thị thông tin và
gửi yêu cầu đến các máy chủ. Và tính năng quan trọng nhất của dịch vụ WWW là độ tích
hợp cao. Nói cách khác, nó có thể kết nối mọi thể loại thông tin và dịch vụ thông suốt và
cung cấp giao diện sinh động cho người sử dụng sau cùng. Nói chung, WWW cung cấp
các phương tiện tìm kiếm mới và chia sẻ thông tin cho mọi người trên khắp thế giới.
Đồng thời, nó cũng sẽ từng bước trở thành môi trường đa phương tiện tương tác tốt nhất
cho mọi người.
10.6.5.3.2.Mô hình dịch vụ FTP(FTP Service Model)
FTP (viết tắt của File Transfer Protocol – giao thức chuyển nhượng tập tin) là giao
thức truyền thông được sử dụng rộng rãi. Và có nhiều quy tắc khác nhau hỗ trợ cho
chuyển giao tập tin trên Internet. Các quy tắc cho phép người sử dụng trực tuyến sao

chép các tập tin từ máy chủ này sang máy chủ khác, nên mang lại cho người sử dụng
nhiều tiện ích. Cũng giống như các dịch vụ Internet khác, FTP cũng dựa vào mô hình
phục vụ khách hàng. Đồng thời, rất dễ học cách sử dụng dịch vụ FTP. Trước hết, bạn chỉ
cần khởi động chương trình FTP để kết nối với máy chủ từ xa, kế đó phát lệnh chuyển
nhượng tập tin cho máy chủ từ xa và sau khi máy chủ nhận lệnh nó sẽ đáp ứng và thực
hiện đúng tác nghiệp. Ứng dụng dịch vụ FTP vào các hệ thống mạng thư viện Đại học sẽ
đem lại nhiều tiện nghi cho người sử dụng và cũng như cho các thư viện. Bằng cách sử
dụng dịch vụ FTP tại các thư viện Đại học, người sử dụng có thể tạo password cho riêng
mình, chẳng hạn như sử dụng địa chỉ Email, và qua đó thủ thư chấp nhận người sử dụng
xem qua thư mục dễ dàng. Ngoài ra, theo hồ sơ truy cập của người sử dụng, thủ thư có
thể cung cấp các dịch vụ tương ứng và thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng tốt hơn,
10.6.5.3.3.Mô hình Dịch vụ BBS và E-mail ( BSS and E-mail Service Model)
BBS (Bulletin Board Service – dịch vụ bản tin) là loại hình hệ thống dịch vụ thông tin
điện tử trên Internet. Cũng giống như bảng dán thông tin công cộng trên Internet, tất cả
người sử dụng có thể viết cảm tưởng hay thông báo trên bảng. Và E-mail là loại hình dịch vụ
thông tin trên Internet. Tóm lại, E-mail cung cấp phương thức truyền thông rất nhanh chóng, đơn giản và kinh tế cho
người sử dụng Internet trên toàn thế giới.

Thông qua Hệ thống BBS, người sử dụng thư viện có thể yêu cầu và góp ý cho cán bộ
thư viện mọi lúc, mọi nơi. Thường họ có thể nhận được đáp ứng trong thời gian ngắn.
Đồng thời, cán bộ thư viện có thể có thể thông tin đồng thời với nhiều người sử dụng hơn
thông qua BBS. Hơn thế nữa, thư viện của các Đại học có thể cho mở các bài giảng, gửi
thông báo cho nhiều người và cung cấp hỡ trợ trực tuyến cho người sử dụng qua hệ thống
BBS. Và thông qua hệ thống E-mail, người sử dụng có thể tiếp nhận thông tin và kiến
thức từ các nguồn nhanh chóng và kinh tế hơn mà không cần phải đích thân đến thư viện.


Trong môi trường thông tin hiện nay, nhiều công nghệ ITC được cập nhật kịp thời. Vì
vậy mô hình phục vụ người sử dụng hiện hành hiện nay coi như phần nào đã lỗi thời. Dù
có mang lại dịch vụ tiện nghi và tiết kiệm thời gian cho người sử dụng, chúng không thể

bắt kịp tốc độ phát triển của các thư viện. Trước các vấn đề thiếu vốn đầu tư, nhân lực và
các nguồn vật liệu, mô hình phục vụ người sử dụng hiện hành không thể đáp ứng yêu cầu
thật hiệu quả. Thậm chí, chúng có thể gây ra lãng phí các tài nguyên và ảnh hưởng đến
chất lượng của dịch vụ thư viện. Các dịch vụ BBS thường dựa vào văn bảng, chứ không
dựa vào GUI, và các dịch vụ BBS ban đầu đã đặt ra vấn đề sử dụng bộ ký tự ASCII đơn
giản hơn. Tuy nhiên, một số nhà sản xuất máy tính gia đình đã mở rộng bộ ký tự ASCII
để tận dụng được dung lượng màu và đồ họa tiên tiến cho hệ thống của mình.
10.6.5.4. Mô hình

dịch vụ thư viện số trường Đại học.

Với tốc độ phát triển công nghệ thông tin truyền thông nhanh chóng như hiện nay,
yêu cầu của người sử dụng thông tin ngày càng cá biệt hơn. Và hiên nay ngày càng có
nhiều thư viện ủng hộ dịch vụ lấy người sử dụng làm trung tâm. Vì vậy cán bộ thư viện
thường xuyên quan tâm và nghiên cứu yêu cầu sử dụng thông tin. Và chỉ có như thế, họ
mới có thể nắm bắt các nhu cầu cơ bản của người sử dụng. Và ngoài ra, thư viện có thể
phát triển các thông tin có nhu cầu và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người sử dụng. Các
thư viện trường Đại học, như tất cả chúng ta đều biết, có tác dụng rất lớn đến nghiên cứu
khoa học và quá trình đào tạo. Và công nghệ thông tin đã trở thành lực đẫy cho phát triển
thư viện. Hơn thế nữa, cán bộ thư viện có thể liên tục sử công nghệ hiện đại để phát triển
thư viện và tối ưu hóa dịch vụ thư viện. Liên quan đến việc mở rộng ứng dụng Điện toán
đám mây, trong thư viện số tại các thư viện. Bằng cách thiết lập đám mây công cộng cho
nhiều thư viện của các trường Đại học, chúng ta không chỉ bảo tồn tài nguyên thư viện
mà còn có thể thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng tốt hơn. Đám mây công cộng được
lưu trữ dung lượng lớn và được nhà cung cấp đám mây quản lý, các tài nguyên được
cung cấp động trên Internet bằng cách sử dụng các ứng dụng web từ một nhà cung cấp
bên thứ ba bên ngoài cung cấp các tài nguyên chia sẻ và gửi hóa đơn tính cước trên cơ sở
tính toán việc sử dụng giúp giảm chi phí, tăng hiệu quả. Và mô hình này có thể được minh họa trong
Hình 10.15


Hình 10.15 Ứng dụng điện toán đám mây tại các thư viện Đại học


10.6.5.4.1.Mô hình dịch vụ tìm hợp nhất ( Unified Search Service Model)
Mặc dù đã có các dịch vụ OPAC (Online Public Access Catalog – Danh mục truy
cập công cộng trực tuyến-Opac) và ILL (Inter-library loan – Mượn Liên Thư viện) nhưng người sử dụng
thư viện vẫn chưa thể tiếp cận được các tài nguyên chung thông qua nền tiếp cận thống nhất. Tuy
nhiên, với ứng dụng Điện toán đám mây tại các thư viện trường Đại học, các nguồn tài nguyên tích hợp của thư viện
đã hỗ trợ cho giao diện tiếp cận phân phối thống nhất. Đồng thời, nền tiếp cận thống nhất có thể quảng bá các
nguồn tài nguyên của thư viện, hướng dẫn và

giải đáp mọi thắc mắc của người sử dụng bằng cách sử dụng
chức năng chuyển hướng chất lượng cao. Do vậy, người sử dụng có thể nắm bắt nhiều phương thức
truy cập thông tin hơn và tận dụng các nguồn tài nguyên của thư viện.
10.6.5.4.2.Mô hình dịch vụ tư vấn tích hợp (Intergrated Consulting Services Model)
Ngày nay hầu như mọi thư viện Đại học đều có thể cung cấp cho người sử dụng tham
chiếu mạng thông qua BBS (Bulletin Board Service – dịch vụ bản tin) hay E- mail. Nhưng với nổ lực không ngừng
đáp ứng nhu cầu sử dụng, dịch vụ tham chiếu kỹ thuật số tích hợp đã ra đời. Và được thúc đẩy bởi Điện toán đám
mây, CDRS (Cooperative digital reference service – dịch vụ tham khảo tích hợp số) có thể thực hiện việc chia sẻ
công nghệ, các nguồn tài nguyên, chuyên gia và dịch vụ thư viện của các trường Đại học. Ngoài ra, sẽ cần phát triển
hệ thống dịch vụ thông minh và sẽ đem lại nhiều tiện nghi cho người

sử dụng thư viện.
10.6.5.4.3.Mô hình dịch vụ tiếp cận thời gian thực (Real-time Access Services Model)
Trong kỷ nguyên thư viện số, người sử dụng thư viện chú ý nhiều hơn các tập san điện tử, cơ sở dữ
liệu điện tử, vv... Đây thực sự là thách thức lớn cho các thư viện của các trường Đại học . Nhưng bằng
cách thực hiện Điện toán đám mây , thư viện của các trường Đại học có thể thành lập đám mây chia sẻ công cộng
liên hợp.Xét về mặt lý thuyết, đám mây cùng chia sẻ có thể lưu trữ một dung lượng và có khả năng tính toán vô hạn .
Nó có thể đem lại lợi ích rõ rệt cho các thư viện. Một mặt, các thư viện liên minh sẽ không còn phải lo nghĩ đến
chi phí phần cứng; mặt khác, nó có thể giảm thiểu tiền mua các các nguồn cơ sở dữ liệu điện tử qua lại giữa

các thư viện liên minh. Đồng thời, người sử dụng có thể đến viếng các tài nguyên cùng chia sẻ bằng bất kỳ loại thiết
bị đầu cuối nào, chẳng hạn như máy tính cá nhân, máy tính bảng và điện thoại di động chỉ qua truy cập
vào Internet. Tóm lại, ưu điểm của đám mây công cộng là chi phí thấp do tài nguyên chia sẻ với nhiều người dùng
và dễ dàng mở rộng khi nhu cầu tăng lên.Nhưng bên cạnh đó nó cũng có nhược điểm đó là các dữ liệu được lưu
trữ, quản lý bởi nhà cung cấp, đồng thời qua Internet do đó đi kèm theo rủi ro về mặt an ninh.

10.6.5.4.3. Mô hình dịch vụ kiến thức ( Knowledge Service Model)
Trong bối cảnh nền kinh tế sử dụng hiệu quả tri thức cho sự phát triển kinh tế và xã
hội, việc thu nhận và khai thác nguồn tri thức toàn cầu cũng như thích ứng và sáng tạo
nguồn tri thức đã trở thành nhân tố chủ đạo tác động đến nỗ lực nâng cao năng suất. Và
các thư viện trường Đại học là các kho lưu trữ, xử lý và phát tán kiến thức. Vì vậy làm
cách nào cung cấp cho người sử dụng tốc độ truyền tải thông tin và dịch vụ tri thức hữu
hiệu đã trở thành nhiệm vụ vô cùng cấp bách đối với người làm công tác thư viện hiện
nay. Tuy nhiên, Sự xuất hiện Điện toán đám mây đã thúc đẩy phát triển thư viện số. Và
tạo được đám mây công cộng cùng chia sẻ có thể tiết kiệm được nhiều nguồn tài lực giữa
các thư viện trường Đại học. Vì vậy, với sự trợ giúp của Điện toán đám mây, cán bộ thư
viện không phải bảo trì các thiết bị của mình hoặc phải giải quyết việc tra cứu một cách
cá nhân. Và cán bộ thư viện sẽ có nhiều thời gian và dành nhiều công sức cho việc cung
cấp cho người sử dụng những dịch vụ dựa trên tri thức nhưng không chì là thông tin đơn
thuần.


10.6.5.4.4. Mô hình dịch vụ định hướng tất cả mọi người (All-oriented Service Model)
So sánh với thư viện của các Đại học nước phát triển, chúng ta có thể nhận ra các thư
viện nước này đang thực hiện ý tưởng cung cấp dịch vụ cho tất cả mọi người. Ngoài ra, dù là giáo sư,
giảng viên hay sinh viên, tất cả mọi người đều có thể tiếp cận các tài nguyên thư viện số. Bên cạnh, hệ thống có thể
cho phép người sử dụng tiếp cận nhiều nguồn thư viện bằng cách sử dụng chứng thư liên quan do thư viện cấp. Và
các thư viện trong nước cũng có thể thực hiện được điều vừa nói trong môi trường đám mây. Ai cũng có quyền, sau
khi thông qua nhận dạng xác thực sử dụng mạng hợp pháp, truy cập vào các nguồn tài nguyên chung của hệ thống
thư viện số của các trường Đại học trên Internet. Nói cách khác, thư viện của các trường Đại học sẽ cung cấp dịch

vụ cho tất cả mọi người qua hỗ trợ của Điện toán đám mây.

Kết luận
Chúng ta đều biết rằng thư viện không chỉ là kho tàng kiến thức, mà còn nhắm vào
mục tiêu tối hậu: cung cấp dịch vụ phong phú cho mọi người. Vì vậy bước vào kỷ
nguyên mới, thư viện cần liên tục nâng cấp bằng nhiều ứng dụng công nghệ (ITC) hiện
đại. Và trong chương này, chúng tôi giới thiệu mô hình phục vụ người sử dụng hiện hành
tại các thư viện số trường Đại học bằng cách sử dụng Điện toán đám mây. Dù nghiên cứu
Điện toán đám mây hiện nay vẫn còn trong giai đoạn sơ khai, nhưng tác động do Điện
toán đám mây mang lại rất hiển nhiên. Điện toán đám mây vào các thư viện trường Đại
học, dịch vụ của các thư viện có bước nhảy vọt mới trong tương lai rất gần. Dịch vụ do
các thư viện cung cấp cho người sử dụng là trung tâm, chuyên nghiệp và hiệu quả nhiều
hơn, vv... Và tất cả chúng ta đều tin rằng ngành thư viện, với sự hỗ trợ của Điện toán đám
mây, sẽ đem lại nhiều lợi ích cho nghiên cứu, giảng dạy và học tập. Đám mây là môi
trường mạng rất tiên tiến; nó hứa hẹn với người sử dụng dịch vụ chất lượng và bảo mật
cao. Kỹ thuật và phương pháp điện toán đám mây ứng dụng cho thư viện số, không
những cải thiện tỷ suất sử dụng các nguồn tài nguyên để giải quyết tình trạng mất cân đối
về phát triển giữa các vùng của các trường đại học trước xu thế toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế.
TS Nguyễn Văn Hùng



×