Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Dự án dự thi cuộc thi Sáng tạo khoa học kĩ thuật cấp tỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 7 trang )

BÀI DỰ THI

HỘI THI SÁNG TẠO KHOA HỌC KỸ
THUẬT TỈNH ĐỒNG NAI LẦN THỨ XX –
2015
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong quá trình dạy bộ môn Hoá tại trường, có nhiều tiết học cần minh hoạ thí
nghiệm cũng như các tiết thực hành về tính chất hoá học để kiểm chứng các chất.
Trong hoá học lớp 8, khi dạy bài “ Axit – Bazơ – Muối ” để có thể phân biệt tính chất
của chúng cần đến một hoá chất đó là giấy quỳ tím. Nhưng trong quá trình thí
nghiệm thực hành đôi lúc không có đủ giấy quỳ để làm. Mặt khác giấy quỳ tím
đang được sử dụng có giá thành cao do phải nhập từ bên ngoài, bên cạnh đó nó
được làm từ hoá chất có thể gây hại cho sức khoẻ. Vì lí do trên mà tôi tự đặt cho
mình câu hỏi “Tại sao chúng ta không tự làm ra một loại giấy quỳ từ một loài
cây cỏ hay hoa nào đó” Sau

khi tìm đọc nhiều tài liệu liên quan trên sách báo

và internet chúng tôi quyết định thử nghiệm với nhiều loài hoa chứa sắc tố màu
tím và hồng gần nơi chúng tôi như:

râu ngô tím, hoa hồng, hoa dâm bụt, hoa

chiều tím. Chúng tôi nhận thấy rằng một điều kỳ diệu độ nhạy màu sắc của hoa
chiều tím với môi trường axit và bazơ là rất tốt và có tính chất tương tự như
giấy quỳ tôi đang sử dụng cho các tiết học. Xuất phát từ ý tưởng này chúng tôi
đã chọn giải pháp “nghiên cứu làm giấy quỳ từ hoa chiều tím bằng phương
pháp đơn giản” với mong muốn có thể thay thế giấy quỳ đang sử dụng hiện nay
với giá thành rẻ hơn và luôn có sẵn trong tự nhiên.
2. Mục tiêu nghiên cứu:


- Làm được giấy quỳ từ một loài hoa có chức năng tương tự như giấy quỳ tím
đang sử dụng với giá thành rẻ hơn, không gây hại cho sức khoẻ.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
a) ý nghĩa khoa học:


- Làm được giấy quỳ thoả mãn điều kiện hoá xanh khi nhúng vào môi trường bazơ như
xà phòng, dầu gội..., hoá đỏ khi nhúng vào môi trường axit như: giấm ăn, nước chanh,
axit...không thay đổi khi nhúng vào môi trường trung tính như muối ăn...
b) ý nghĩa thực tiễn:
- Từ những loài hoa có chất Flavin trong tự nhiên, gần gũi như: bắp cải tím, hoa dâm bụt,
râu bắp tím,....có thể tạo ra giấy quỳ
- Có thể sản xuất giấy quỳ giá thành rẻ, không gây hại sức khoẻ, từ đó rất hữu ích trong
các tiết dạy hoá học, công nghệ cần chứng minh các chất, chứng minh nguồn nước nuôi
thuỷ sản...
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu:
a) Giới hạn:

- Chỉ nghiên cứu với hoa chiều tím

b) Phạm vi nghiên cứu:
- Sử dụng các dụng cụ và hoá chất đơn giản: nước cất, bình đong, giấy lọc...
- Vườn hoa chiều tím nhà cô Trinh, Bảo Vinh – Long Khánh

Hình 1. Ảnh chụp vườn hoa chiều tím
- Thực nghiệm tại phòng Hoá trường THCS Bảo Quang


II. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Quỳ tím (giấy quỳ) là giấy có tẩm dung dịch etanol hoặc nước với chất màu tách từ

rễ cây địa y (ngành thực vật cộng sinh giữa tảo và nấm) Roccella và Dendrographa; có
màu gốc ban đầu là màu tím, được sử dụng trong ngành hóa học để thử, kiểm nghiệm
độ pH. Cụ thể, khái niệm pH là khái niệm để chỉ phương pháp định lượng nhằm xác
định tính axit hoặc bazơ của một dung dịch.
Quỳ tím giúp nhận biết dung dịch đang xét có tính axit hay bazơ, xác định độ
mạnh, yếu của axit hay bazơ thông qua các mức độ màu sắc của quỳ. Khi nhúng mảnh
giấy quỳ vào dung dịch, nếu màu giấy quỳ giữ nguyên màu tím thì dung dịch đó trung
tính, nếu ngả sang màu xanh thì dung dịch đó mang tính kiềm, nếu chuyển sang màu đỏ
thì dung dịch đó mang tính axit. Giấy quỳ ẩm (thấm nước cất) còn có thể giúp nhận biết
tính axit hay bazơ của các chất khí như H 2S, SO2, CO2
Như chúng ta đã biết được một trong các hoá chất có thể làm thay đổi được màu
sắc của môi trường axít hay bazơ giống như giấy quỳ là chất sắc tố Flavin đây là loại
sắc tố rất dễ tan trong nước và đặc biệt rất dễ phản ứng với môi trường axit hay bazơ
để cho kết quả chính xác giống hệt quỳ tím có rất nhiều trong các loài hoa, hay quả.(2)
Bên cạnh hoa dâm bụt, bắp cải tím thì hoa chiều tím, loài hoa này chứa sắc tố
Flavin rất là cao, từ đó mà chúng tôi có thể khẳng định rằng khả năng làm giấy quỳ từ
loài hoa này là rất khả thi và vô cùng hợp lý.


III. DỤNG CỤ VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Dụng cụ và hoá chất:
- Dụng cụ: chậu thuỷ tinh, cốc thuỷ tinh 250ml, đũa khuấy thuỷ tinh, máy xay sinh tố,
phễu lọc, cân điện tử, ống hút...
- Hoá chất: nước cất, giấy lọc khổ nhỏ và lớn, hoa chiều tím
Hình 2. Dụng cụ và hoá chất nghiên cứu
- Dự toán thời gian và kinh phí thực hiện:
 Thời gian thực hiện đề tài: từ 28 tháng 5 năm 2015 đến 26 tháng 6 năm 2015
 Kinh phí thực hiện:
+ Giấy lọc khổ lớn A0 (2 tờ)
+ Nước cất 2 lit:


2 x 10.000 = 20.000 đ
2 lit x 20.000 = 40.000 đ

2. Phƣơng pháp nghiên cứu:

Nghiên cứu bằng những phương pháp thủ công, đơn giản, như: rửa, xay, lọc,
tách chất và sấy hoặc làm khô.


IV. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Xử lý mẫu
Hoa chiều tím sau khi được hái về (hình 3), rửa sạch bằng nước sau đó để khô ráo
(hình 4). Dùng cân điện tử cân 100 gam hoa chiều tím (cho 1 lần làm), sau đó đi nghiên
cứu
Hình 3. Thu thập mẫu hoa chiều tím

Hình 4. Rửa sạch mẫu hoa chiều tím


2. Nghiên cứu ảnh hƣởng của môi trƣờng đến sự tổng hợp dung dịch hoa chiều tím.
Sau khi cắt nhỏ, xay nhiễn 100(gam) hoa chiều tím, tiếp đó bỏ vào ngâm với
100ml nước cất ở 100 0C (theo tài liệu (3)) để tổng hợp dung dịch khuấy đều khoảng 10
phút, lọc dung dịch bằng giấy lọc. Sau đó chúng tôi ngâm giấy lọc vào dung dịch trên,
làm khô ở nhiệt độ trong phòng, thì thu được kết quả như (Hình 5)
Hình 5. Kết quả mẫu giấy quỳ làm khô trong dung dịch có nước cất 100 0C

Hình 6. Kết quả mẫu giấy quỳ (nước cất 100 0C) thử bằng dung dịch axit



Hình 7. Kết quả mẫu quỳ tím( nước cất 1000C) nhúng trong dung dịch bazơ
Từ kết quả (hình 5), chúng tôi nhận thấy rằng sắc tố tím Flavin trong hoa chiều
tím không còn nữa, dung dịch chuyển sang màu vàng, dẫn đến sản phẩm mẫu giấy lọc
ngâm trong dung dịch mang đi thử kết quả như hình (6,7) trong dung dịch axit và bazơ
không thành công.
Tiếp tục xay nhiễn 100 gam hoa với 100ml nước cất ở nhiệt độ phòng, rồi khuấy
đều khoảng 10 phút, lọc dung dịch bằng giấy lọc. Sau đó ngâm giấy lọc vào dung dịch
trên, làm khô ở nhiệt độ trong phòng, thì hiện tượng kết quả như (hình8)



×