Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Cuộc Chiến Chống Ma Túy Báo Cáo Của Quỹ Toàn Cầu Về Chính Sách Phòng, Chống Ma Túy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 32 trang )

Cuộc chiến chống ma túy
Báo cáo của Quỹ Toàn cầu về chính sách
phòng, chống ma túy
Tháng 6 năm 2011

TÓM TẮT
Cuộc chiến toàn cầu chống ma túy đã thất bại với những hậu quả phá hủy
đối với cá nhân và xã hội trên toàn thế giới. 50 năm sau ngày Công ước của Liên
Hợp Quốc về chống ma túy có hiệu lực và sau 40 năm khi Tổng thống Nixon
phát động cuộc chiến chống ma túy của Chính phủ Mỹ, cải cách chính sách
kiểm soát ma túy của Mỹ và toàn cầu là vấn đề cấp thiết.
Chi phí lớn về hình sự và các biện pháp áp chế nhắm vào các nhà sản xuất,
buôn lậu và người sử dụng các loại ma túy bất hợp pháp rõ ràng không có hiệu
quả giảm nguồn cung hoặc nhu cầu sử dụng. Khi một tổ chức buôn bán hay một
nhà cung cấp ma túy bị loại bỏ lập tức xuất hiện một nguồn cung cấp khác. Nỗ
lực áp chế nhắm tới người tiêu dùng cản trở các biện pháp y tế làm giảm nguy
cơ lây nhiễm HIV/AIDS, tử vong do sử dụng ma túy quá liều và hậu quả có hại
khác của việc sử dụng ma túy. Chi ngân sách Nhà nước cho các chiến lược
nhằm giảm nguồn cung ma túy không có hiệu quả
Các nguyên tắc và khuyến nghị của chúng tôi có thể được tóm tắt như
sau:
Dừng việc áp chế về hình sự và kỳ thị đối với người sử dụng ma túy nhưng
không gây hại cho người khác. Thách thức hơn là củng cố quan niệm sai lầm về
thị trường chất gây nghiện, sử dụng ma túy và sự phụ thuộc vào chất gây nghiện.
Chính phủ niên khuyến khích các mô hình thử nghiệm sử dụng chất gây
nghiện theo quy định một cách hợp pháp để làm giảm quyền lực của các tổ chức
tội phạm và bảo vệ sức khỏe của người dân và an ninh xã hội. Khuyến nghị này
đặc biệt áp dụng với cần sa nhưng chúng tôi không khuyến khích trong trường
hợp xóa bỏ kết án và các quy định pháp luật khác để đạt được mục tiêu này và
sử dụng mô hình này cho những vấn đề khác.
Cung cấp các dịch vụ sức khỏe và điều trị cho những người cần. Đảm bảo


các phương thức điều trị có sẵn, bao gồm không chỉ điều trị methadone và


buprenorphine mà còn có sự trợ giúp của chương trình điều trị heroin đã được
thử nghiệm và chứng minh thành công ở nhiều nước châu Âu và Canada. Thực
hiện cung cấp bơm kim tiêm sạch và các biện pháp giảm thiểu tác hại khác đã
được chứng minh hiệu quả trong việc làm giảm lây truyền HIV và nhiễm trùng
máu cũng như sử dụng ma túy quá liều dẫn đến tử vong. Tôn trọng các quyền
con người của những người sử dụng ma túy. Bãi bỏ việc ngược đãi trong quá
trình điều trị chẳng hạn như việc giam giữ bắt buộc, cưỡng bức lao động và lạm
dụng về thể chất hoặc tâm lý trái với quyền con người theo quy định của pháp
luật hoặc loại bỏ quyền tự quyết.
Áp dụng những chính sách, quy định đã nêu ở trên cho những người có liên
quan đối với tất cả các tầng lớp trong xã hội chẳng hạn như người trồng, người
đưa tin, người cung cấp nhỏ lẻ để chấm dứt thị trường ma túy bất hợp pháp.
Nhiều nạn nhân của bạo lực, đe dọa hoặc phụ thuộc thuốc. Trong những thập kỷ
gần đây đã thực hiện bắt giữ và tống giam hàng chục triệu người này làm chật
cứng các nhà tù, việc này đã làm hủy hoại cuộc sống của những người phạm tội
và gia đình họ nhưng không làm giảm sự sẵn số lượng của ma túy bất hợp pháp
hay sức mạnh của các tổ chức tội phạm. Số lượng người các hoạt động này có vẻ
không có giới hạn, họ sẵn sàng tham gia để cuộc sống của họ, gia đình của họ
được tốt hơn hay nói cách khác là thoát khỏi cảnh đói nghèo. Kiểm soát nguồn
cung cấp ma túy tốt hơn nhắm vào những nơi khác.
Đầu tư vào hai hoạt động có thể ngăn chặn những người trẻ tuổi sử dụng
ma túy và cũng ngăn chặn được những người đã sử dụng ma túy phát triển các
vấn đề nghiêm trọng hơn. Từ chối một cách dễ dàng với thông điệp “chỉ nói
không” và “không khoan dung” các chính sách ủng hộ các nỗ lực giáo dục căn
cứ vào thông tin đáng tin cậy và chương trình phòng, chống tập trung vào các kỹ
năng xã hội và các ảnh hưởng ngang nhau. Các nỗ lực phòng, chống thành công
nhất có thể là những mục tiêu cụ thể ở nhóm có nguy cơ.

Tập trung hành động đàn áp vào các tổ chức tội phạm bạo lực nhưng làm
giảm quyền lực của họ và ưu tiên giảm bạo lực và đe dọa. Nỗ lực thực thi pháp
luật không nên tập trung vào việc giảm thị trường cung cấp ma túy mà thay vào
đó giảm mối hại của ma túy cho từng cá nhân, cộng đồng và an ninh quốc gia.
Bắt đầu bằng thay đổi việc sử dụng ma túy trên toàn cầu. Thay thế vào đó
là chính sách ma túy và các chiến lược điều khiển ý thức và chính sách tài chính
có trách nhiệm và chiến lược quốc gia tương xứng căn cứ vào các yếu tố khoa
học, y tế, an ninh và nhân quyền thông qua các tiêu chí đánh giá phù hợp. Xem
xét lập kế hoạch phân loại các loại thuốc có kết quả bất thường như phân loại


của cần sa, lá coca và MDMA. Đảm bảo rằng các công ước quốc tế được giải
thích hoặc sửa đổi để thích ứng với thử nghiệm giảm tác hại, xóa bỏ kết án và
các quy định pháp lý.
Xóa bỏ sự ngăn cấm về tranh luận và cải cách. Đã đến lúc phải hành động
ngay.

GIỚI THIỆU
DỰ TOÁN TIÊU THỤ MA TÚY HÀNG NĂM CỦA LIÊN HỢP QUỐC,
TỪ NĂM 1998 ĐẾN 2008
Thuốc phiện

Cocaine

Cần sa

1998

12.9 triệu


13.4 triệu

147.4 triệu

2008

17.35 triệu

17 triệu

160 triệu

% tăng

34.5%

27%

8.5%

Cuộc chiến toàn cầu chống ma túy đã bị thất bại. Khi Liên Hợp Quốc ban
hành công ước về ma túy 50 năm trước và khi Tổng thống Nixon phát động
cuộc chiến chống ma túy cách đây 40 năm, những người hoạch định chính sách
tin rằng pháp luật thực thi nghiêm sẽ chống lại được những người tham gia sản
xuất, phân phối và sử dụng ma túy hướng tới giảm bớt thị trường và kiểm soát
được ma túy như cocaine, heroin và cần sa và kết quả cuối cùng là một “thế giới
(tự do, miễn phí, tự chủ) ma túy”. Trong thực tế, quy mô toàn cầu của các thị
trường ma túy bất hợp pháp phần lớn được các nhóm tội phạm có tổ chức kiểm
soát đã phát triển đáng kể trong giai đoạn này. Ước tính chính xác số lượng ma
túy tiêu dùng toàn cầu 50 năm qua không được tổng hợp, chỉ có 1 bảng phân

tích số lượng này trong 10 năm qua cho thấy thị trường ma túy ngày càng lớn
mạnh và đang phát triển nhanh chóng (xem biểu đồ trên).
Mặc dù các bằng chính cho thấy chính sách ngày càng tăng nhưng không
đạt được mục tiêu đặt ra, hầu hết các cơ quan hoạch định chính sách ở cấp quốc
gia và quốc tế có xu hướng tránh việc công khai giám sát hoặc tranh luận về lựa
chọn thay thế.
Thiếu lãnh đạo về chính sách ma túy đã thúc đẩy việc thành lập Quỹ Toàn
cầu và dẫn chúng ta đến cùng một quan điểm rằng đã đến lúc phải xem xét một
cách nghiêm túc, toàn diện và rộng khắp về chiến lược phù hợp để đối phó với
vấn đề ma túy. Điểm đầu tiên là vấn đề này là sự công nhận trên toàn cầu về ma


túy như là một tập hợp sự gắn kết sức khỏe với nhau thách thức xã hội quản lý,
không phải là một cuộc chiến tranh giành chiến thắng.
Các thành viên của Quỹ Toàn cầu đã đồng ý trên 4 nguyên tắc cốt lõi nên
hướng dẫn quốc gia và quốc tế về chính sách, chiến lược ma túy và thực hiện 11
khuyến nghị về hành động.

NGUYÊN TẮC
1. Chính sách về ma túy phải được xây dựng dựa vào thực nghiệm chắc
chắn và có các nghiên cứu, bằng chứng khoa học. Sự đo lường cơ bản của
thành công là giảm tác hại với sức khỏe, y tế, phúc lợi, an ninh của cá nhân
và xã hội.
Trong 50 năm qua kể từ khi Liên Hợp Quốc khởi xướng một hệ thống cấm
ma túy trên toàn cầu một cách thực sự, chúng tôi đã học được rất nhiều về bản
chất, mô hình sản xuất, phương thức phân phối, sử dụng và sự phụ thuộc vào ma
túy, kết quả của những cố gắng là đã làm giảm những vấn đề này. Điều này có
thể hiểu được các nhà kiến trúc sư của hệ thống đã đặt niềm tin vào các khái
niệm xóa bỏ sản xuất, sử dụng thuốc (với sự soi sáng của các bằng chứng có sẵn
rất hạn chế tại thời điểm đó). Tuy nhiên, không có lý do gì lại bỏ qua các bằng

chứng và kinh nghiệm tích lũy từ đó. Chính sách và chiến lược chống ma túy ở
tất cả các cấp độ thường xuyên được điều chỉnh bởi quan điểm ý thức hoặc lợi
ích quốc gia và không chú ý nhiều đến sự phức tạp của việc sử dụng và nghiện
ma túy cũng như thị trường ma túy.
Hoạch định chính sách hiệu quả đòi hỏi một sự rõ ràng về mục tiêu của
chính sách. Công ước về chống ma túy năm 1961của Liên Hợp Quốc đã cho
thấy rõ rằng mục tiêu cuối cùng là cải thiện “sức khỏe và phúc lợi của nhân
loại”.
Điều này nhắc nhở chúng ta rằng các chính sách ma túy phát triển và được
thực hiện với hy vọng đạt được kết quả giảm tác hại cho cá nhân, xã hội trở nên
ít tội phạm, sức khỏe con người tốt hơn và kinh tế - xã hội phát triển. Tuy nhiên,
chúng tôi đánh giá sự thành công trong cuộc chiến chống ma túy bằng nhiều
biện pháp hoàn toàn khác nhau – những báo cáo về quy trình, chẳng hạn như số
lượng các vụ ma túy bị bắt giữ, số tiền từ việc buôn bán ma túy thu được hoặc
sự khắc nghiệt của các vụ xét xử. Những chỉ số này có thể cho biết chúng ta


đang ở giai đoạn khó khăn như thế nào nhưng lại không cho biết chúng ta thành
công như thế nào trong việc cải thiện sức khỏe và phúc lợi của nhân loại.
2. Chính sách về chống ma túy phải được dựa trên quyền con người và
các nguyên tắc y tế công cộng. Chúng ta nên chấm dứt sự kỳ thị và phân
biệt với những người sử dụng ma túy và những người tham gia vào trồng
trọt, sản xuất, phân phối ma túy và cần đối xử với người điều trị cai nghiện
ma túy như những bệnh nhân, không phải người phạm tội.
Một số nguyên tắc cơ bản nền tảng cho tất cả các khía cạnh của chính sách
quốc gia và quốc tế. Đây là những ghi nhận trong Bản Tuyên ngôn về nhân
quyền và các điều ước quốc tế đã tuân theo. Liên quan đặc biệt đến chính sách
về ma túy là có quyền với cuộc sống, sức khỏe, đúng quy định và xét xử công
bằng, không bị tra tấn, điều trị cưỡng bức, vô nhân đạo hoặc phân biệt đối xử
hay cư xử như một nô lệ. Những quyền này là bất khả xâm phạm và cam kết ưu

tiên các thỏa thuận quốc tế bao gồm cả các công ước kiểm soát ma túy. Ông
Navanethem Pillay, Cao ủy Nhân quyền của Liên Hợp Quốc đã tuyên bố: “Cá
nhân người sử dụng ma túy không bị mất các quyền con người của họ. Thông
thường, người sử dụng ma túy bị xã hội phân biệt, đối xử, bị buộc phải chấp
nhận điều trị và thường bị tổn thương bởi các phương pháp tiếp cận trong đó
nhấn mạnh tội phạm và hình phạt mà không chú trọng đến giảm tác hại và tôn
trọng nhân quyền” (5).
Một số biện pháp về y tế công cộng đã được công nhận và cho thấy thấy
hiệu quả (6,7) (thường được gọi là giảm thiểu tác hại, bao gồm cung cấp bơm
kim tiêm sạch và điều trị bằng các loại thuốc thay thế đã được chứng minh như
methadone hoặc buprenorphine) có thể giảm thiểu nguy cơ tử vong do dùng
thuốc quá liều hoặc lây truyền của HIV và nhiễm trùng máu (8). Tuy nhiên, các
Chính hủ thường không thực hiện đầu đủ các can thiệp này, liên quan đến việc
cải thiện sức khỏe của người sử dụng ma túy, họ đang hủy hoại thông điệp
“tough on drugs”. Điều này là không hợp lý, hy sinh sức khỏe và phúc lợi của
một nhóm công dân trong khi có các biện pháp sẵn có bảo vệ sức khỏe có hiệu
quả là không thể chấp nhận được và làm tăng nguy cơ phải đối mặt với cộng
đồng lớn hơn.


TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH MA TÚY VỚI TỶ LỆ NHIỄM HIV
GẦN ĐÂY TRONG SỐ NHỮNG NGƯỜI TIÊM CHÍCH MA TÚY
Ví dụ của các nước thực hiện chiến lược giảm thiểu tác hại toàn diện:

Tỉ lệ % lây nhiễm HIV trong số những người tiêm chích ma túy

Ví dụ của các nước đã giới thiệu một phần các chiến lược giảm hại
hoặc quá muộn trong tiến trình

Tỉ lệ % lây nhiễm HIV trong số những người tiêm chích ma túy


Ví dụ các nước đã phản đối thực hiện các chiến lược giảm thiểu tác hại,
bất chấp sự hiện diện của tiêm chích ma túy.


Tỉ lệ % lây nhiễm HIV trong số những người tiêm chích ma túy

Các nước sớm thực hiện giảm thiểu tác hại và chiến lược y tế công cộng đã
có kinh nghiệm luôn có tỉ lệ lây nhiễm HIV trong số những người tiêm chích ma
túy thấp. Tương tự như vậy, các nước phản ứng bằng cách giới thiệu chương
trình giảm thiểu tác hại đã thành công trong việc ngăn chặn và làm đảo ngược sự
lan rộng của HIV. Mặt khác, nhiều quốc gia thực hiện các biện pháp răn đe và
thô bạo thì tỉ lệ lây nhiễm HIV qua tiêm chích ma túy ngày càng tăng, tỉ lệ
nhiễm HIV cao nhất thuộc về những người tiêm chích ma túy (10,11,12).
Một cách tiếp cận mù quáng “buôn bán ma túy” tương tự còn phải bàn.
Nhiều người tham gia vào thị trường ma túy, chính họ là nạn nhân của bạo lực,
sự hăm dọa hoặc phụ thuộc vào ma túy. Một ví dụ về hiện tượng này là ma túy
“những người cứng đầu” là người có thể nhìn thấy rủi ro trong chuỗi cung ứng
và phân phối ma túy. Không giống như những người phụ trách của các tổ chức
buôn bán ma túy, những người không thường có hiểu biết rộng và quá khứ phạm
tội bạo lực, một số ttham gia vào việc buôn bán ma túy chủ yếu là để có được
tiền cho sự phụ thuộc ma túy của riêng họ. Chúng ta không nên đối xử với tất cả
những người bị bắt vì buôn bán ma túy như nhau, nhiều người trong số họ bị
cưỡng chế hoặc hành động hoặc do hoàn cảnh kinh tế. Là không thích hợp để xử
phạt những người phạm tội theo cùng một cách như các thành viên của các
nhóm tội phạm bạo lực kiểm soát thị trường có tổ chức.
Cuối cùng, nhiều quốc gia vẫn phản ứng với những người nghiện ma túy
với việc xử phạt và kỳ thị. Trong thực tế, nghiện ma túy là một tình trạng sức
khỏe ở trạng thái tâm thần không bình thường có thể do các nguyên nhân xã hội,
tâm lý, vật lý (ví dụ điều kiện sinh sống khắc nghiện hoặc có tiền sử có vấn đề

về tình cảm). Cố gắng quản lý tình trạng phức tạp này thông qua xử phạt là biện
pháp không có hiệu quả, chúng ta có thể thành công hơn bằng cách cung cấp các
dịch vụ điều trị cai nghiện ma túy dựa trên những căn cứ. Các nước đối xử với
công dân nghiện ma túy như bệnh nhân cần điều trị thay vì xử lý như những


người phạm tội đã chứng minh những kết quả hết sức tích cực trong việc giảm
tội phạm, nâng cao sức khỏe và khắc phục khả năng phụ thuộc ma túy.
BỆNH NHÂN KHÔNG PHẢI TỘI PHẠM
Một cách tiếp cận nhân đạo và có hiệu quả
Trường hợp nghiên cứu 1: Thụy Sỹ (13)
Phản ứng với vấn đề nghiêm trọng và có thể nhìn thấy ma túyphát triển
khắp đất nước những năm 1980, Thụy Sỹ đã thực hiện một loạt các chính sách
và chương trình mới (bao gồm cả chương trình thay thế heroin) đối với sức khỏe
cộng đồng thay vì các biện pháp hình sự. Việc thực hiện nhất quán chính sách
này đã dẫn đến giảm tổng thể về số lượng người nghiện ma túy cũng như một
loạt các lợi ích khác. Một nghiên cứu quan trọng đã kết luận rằng (14):
“Điều trị thay thế heroin nhắm mục tiêu người sử dụng liều cao, giả định
rằng 3.000 người nghiện đại diện cho 10%-15% người sử dụng heroin ở Thụy
Sỹ có thể chiếm 30%-60% nhu cầu ma túy trên thị trường bất hợp pháp. Rất
nhiều trong số họ tham gia giao dịch và các hình thức phạm tội khác, học cũng
phục vụ như là một liên kết giữa các nhà bán buôn và người sử dụng. Khi những
người nghiện ma túy được sử dụng thuốc thay thế được ổn định đồng nghĩa với
việc đáp ứng được nhu cầu, việc sử dụng ma túy bất hợp pháp của họ sẽ giảm
xuống và giảm tham gia vào các hoạt động phạm tội khác.
Chương trình thay thế heroin có 3 hiệu ứng với thị trường ma túy là:
- Làm giảm đáng kể mức tiêu thụ ma túy của những người nghiện nặng và
và việc giảm nhu cầu này ảnh hưởng đến khả năng tồn tại của thị trường ma túy
(ví dụ: số lượng người nghiện mới đăng ký tại Zurich vào năm 1990 là 850
người, đến năm 2005 con số này đã giảm xuống còn 150 người;

- Làm giảm mức độ của hoạt động tội phạm khác có liên quan đến thị
trường ma túy (ví dụ giảm được 90% tội phạm trộm cắp tài sản cam kết tham gia
thành viên của chương trình điều trị thay thế);
- Loại bỏ những người nghiện tại địa phương và các đại lý cung cấp ma túy,
người nghiện ma túy ở Thụy Sỹ thường khó tìm được người bán.
Trường hợp nghiên cứu thứ 2: Anh (15)
Nghiên cứu được thực hiện ở Anh về ảnh hưởng của chính sách chuyển
hướng giam giữ thành chương trình điều trị đã chứng minh giảm vi phạm sau


chương trình điều trị can thiệp. Ngoài việc tự báo cáo, các nhà nghiên cứu trong
trường hợp này còn có được số liệu tiền án, tiền sự từ cảnh sát . Nghiên cứu
cũng cho thấy 1.476 người sử dụng ma túy những năm trước đã giảm 48% sau
khi được điều trị.
Trường hợp nghiên cứu thứ 3: Hà Lan (16,17,18)
Là một trong 15 nước thuộc Liên Minh châu Âu, Hà Lan là nước có tỷ lệ
người tiêm chích heroin thấp nhất và không có hiện tượng tăng số người sủ dụng
có vấn đề. Heroin không còn hấp dẫn đối với đại đa số trong giới trẻ và được coi
là thứ “ma túy ngu xuẩn”. Số lượng những người sử dụng heroin giảm đáng kể
và độ tuổi trung bình những người sử dụng tăng lên. Trong số các dịch vụ điều
trị nghiện và giảm tác hại có chương trình trao đổi bơm kim tiêm và phát
methadone, heroin theo đơn dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt.
Việc phát heroin theo đơn ở Hà Lan trên thực tế đã làm giảm số các vụ
phạm tội và gây rối trật tự công cộng ít nghiêm trọng và có ảnh hưởng tích cực
đến sức khỏe của những người phụ thuộc vào ma túy. Năm 2011 số người phụ
thuộc vào heroin ở Hà Lan ước tình là 28-30 nghìn người. Đến năm 2008 số
lượng này giảm xuống dưới 18 nghìn người. Số người sử dụng thuốc phiện ở Hà
Lan đã “già đi”; bên cạnh đó tỷ lệ thanh niên (từ 15-29 tuổi) sử dụng thuốc
phiện trong số những người đang được điều trị nghiện cũng giảm.


NGUYÊN TẮC (tiếp)
3. Việc nghiên cứu và triển khai chính sách về ma túy nên là trách
nhiệm của toàn cầu, nhưng bên cạnh đó phải tính đến những điểm khác
nhau về văn hóa, chính trị, xã hội. Chính sách phải tôn trọng quyền và nhu
cầu của những người liên quan đến việc điều chế, buôn bán và sử dụng ma
túy được nêu rõ trong Công ước năm 1988 về đấu tranh chống buôn bán
bất hợp pháp chất gây nghiện và các chất hướng thần.
Hệ thống của LHQ về kiểm soát chất ma túy được thành lập dựa trên quan
điểm rằng tất cả các Quốc gia phải chung tay giải quyết vấn đề tồn tại thị trường
ma túy và các vấn đề liên quan khác. Đây là một quan điểm hoàn toàn đúng
đắn; đương nhiên các nước sản xuất, các nước buôn bán và các nước tiêu thụ
(mặc dù sự khác nhau hiện nay cũng không còn nhiều, vì nhiều nước tồn tại cả 3
yếu tố trên) phải cùng chịu trách nhiệm về vấn đề này.


Tuy nhiên, quan điểm chung tay cùng chịu trách nhiệm thường xuyên trở
thành “bó buộc” và kìm hãm việc nghiên cứu và triển khai các mô hình thực
nghiệm. LHQ (thông qua Ủy ban Quốc tế về kiểm soát ma túy) và đặc biệt là
Mỹ (nước đi đầu trong công cuộc ‘chứng nhận’) trong suốt 50 năm gần đây đã
cố gắng hết sức để đảm bảo rằng tất cả các Quốc gia trên Thế giới đưa vào chính
sách ma túy của mình cùng một cách tiếp cận duy nhất và không thay đổi- cùng
một luật, cùng một biện pháp kiểm soát thi hành luật cứng rắn.
Nhưng trong khi nhiều Chính phủ càng ngày càng hiểu rõ hơn về sự phức
tạp của vấn đề và xem xét những phương án khác nhau để giải quyết các vấn đề
đó trên lãnh thổ của mình, thì nhiều Quốc gia bắt đầu áp dụng những yếu tố quy
định trong Công ước linh hoạt hơn để thử áp dụng những chiến lược và chương
trình mới, như sáng kiến xóa bỏ việc kết án hay chương trình giảm thiểu tác hại.
Khi đó những biện pháp này sẽ đưa ra những cách tiếp cận khoan dung hơn với
việc sử dụng ma túy nhưng Quốc gia tiến hành các biện pháp này phải chịu một
áp lực ngoại giao quốc tế là không được phá vỡ sự toàn vẹn Công ước quốc tế,

cho dù chính sách này hợp với luật pháp của nước đó, mang lại kết quả tốt và
được người dân ủng hộ.
Trong số những ví dụ về việc chịu áp lực như vậy (mà có thể gọi bằng cái
tên “chủ nghĩa đế quốc kiểm soát ma túy”) có thể tính đến phản ứng gay gắt của
các bên khi Chính phủ Bolivia yêu cầu đưa việc nhai lá coca ra khỏi các mục
của Công ước năm 1961 về việc cấm sử dụng các chất ma túy ngoài mục đích y
học. Mặc dù một vài nghiên cứu khoa học (19) chỉ ra rằng việc nhai lá coca của
người bản địa không liên quan đến bất kỳ khía cạnh nào của thị trường cocaine
quốc tế và đa số người dân Bolivia (và các nước láng giềng) đều ủng hộ việc sửa
đổi, những nước giàu với nhu cầu sử dụng cocaine lớn (mà đứng đầu là Mỹ) đã
đưa ra phản đối chính thức về việc sửa đổi (20).
Quan điểm cho rằng hệ thống kiểm soát ma túy quốc tế không được thay
đổi và bất kỳ sự thay đổi nào dù nó có hợp lý hay chỉ là những thay đổi nhỏ có
thể đe dọa đến sự toàn vẹn của Công ước là một quan điểm rất thiển cận.
Cũng như tất cả các thỏa thuận đa phương, Công ước về kiểm soát buôn
bán ma túy phải được xem xét lại và cải tiến hơn trong bối xã hội phức tạp và
nhiều thay đổi hiện nay. Đặc biệt, Chính phủ các nước phải có khả năng thử
nghiệm các biện pháp phù hợp với điều kiện của nước mình hơn. Việc phân tích
và trao đổi kinh nghiệm là một trong những khía cạnh quan trọng của việc xác
định hiệu quả của những phương thức tiếp cận khác nhau, còn quan điểm cho


rằng tất cả các nước dường như đều đang có những luật lệ, điều cấm và những
chương trình hoàn toàn giống nhau đang gây những hạn chế không cần thiết và
phản tác dụng.
HẬU QUẢ NGOÀI Ý MUỐN
Cách thức tiến hành cuộc chiến chống ma túy đã dẫn đến việc tăng các hậu
quả tiêu cực cho xã hội trong các nước sản xuất, quá cảnh và nước sử dụng ma
túy. Cựu Giám đốc điều hành Văn phòng Liên Hợp Quốc về Ma túy và tội
phạm, Antonio Maria Costa, đã trình bày ngắn gọn những hậu quả tiêu cực với 5

ý chính:
1. Sự phát triển của các “thị trường đen bất hợp pháp” sinh ra từ lợi nhuận
của việc đáp ứng nhu cầu quốc tế về ma túy.
2. Sự thay đổi đáng kể của chính sách như là kết quả của việc chọn lọc các
nguồn lực khan hiếm để tài trợ các hoạt động có quy mô lớn của các cơ quan
thực thi pháp luật trong cuộc đấu tranh với thị trường bất hợp pháp này.
3. Sự chuyển dịch địa lý mà thường được gọi là “hiệu ứng bong bóng”, khi
mà việc sản xuất ma túy được di dời từ nơi này qua nơi khác để tránh sự chú ý
của các cơ quan luật pháp.
4. Việc thay thế một loại chất hướng thần bằng các loại khác hay việc người
dùng chuyển sang loại ma túy mới khi mà loại ma túy trước đây họ thích dùng
hiên nay rất khó để kiếm được, ví dụ như do sự kiểm soát từ phía cảnh sát.
5. Sự kỳ thị của xã hội đối với những người sử dụng ma túy, kết quả là họ
bị xã hội chối bỏ, gạt ra ngoài lề (21).
.

4. Chính sách về ma túy cần được thực hiện trên cơ sở phối hợp tham
gia của gia đình, nhà trường, các chuyên gia trong lĩnh vực bảo vệ sức khỏe
cộng đồng và lĩnh vực phát triển, thậm chí cần có sự tham gia của cả các
nhà lãnh đạo và các tổ chức pháp luật cũng như các tổ chức chính trị có liên
quan khác.
Không cần phải nghi ngờ khi khẳng định Cảnh sát, Bộ đội Biên phòng và
các lược lượng quân đội dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư pháp, Bộ An Ninh Quốc
phòng và Bộ Nội vụ là những đơn vị đi đầu trong việc thi hành chính sách chống
ma túy. Đây cũng là những quan tâm hàng đầu ở cấp độ đa phương trong các tổ
chức khu vực và quốc tế. Mặc dù Chính phủ các nước thường xuyên nhận thức
được rằng, chiến lược vũ trang trong cuộc chiến chống ma túy chỉ là một phần
của một hệ thống các cách tiếp cận bên cạnh các chương trình xã hội, các biện



pháp bảo vệ sức khỏe cộng đồng, nhưng việc hiện đại hóa cơ cấu xây dựng các
chính sách, phân bổ ngân sách và thực hiện các chương trình vẫn còn chậm trễ.
Sự lỏng lẻo của thể chế gây cản trở cho việc thực hiện các chính sách khách
quan, khoa học. Đó không đơn giản chỉ là các vấn đề lý thuyết- các nghiên cứu
khoa học (22, 23)mới nhất đã chỉ ra rằng, Nhà nước có thể đảm bảo hiệu quả tài
chính và xã hội hơn nhiều lần nếu đầu tư vào các chương trình bảo vệ sức khỏe,
các chương trình xã hội thay vì đầu tư vào các biện pháp giảm cung ma túy và
các hoạt động luật pháp. Tuy nhiên ở hầu hết các nước phần lớn các nguồn lực
có được chỉ để sử dụng để đảm bảo về thi hành luật chống ma túy và trừng phạt
những người sử dụng ma túy (24).
Có thể nhận thấy rõ LHQ còn thiếu sự nhất quán. Để hình thành cơ chế
toàn cầu về kiểm soát ma túy đòi hỏi phải thành lập 3 cơ quan giám sát việc thực
hiện công ước – Văn phòng LHQ về ma túy và tội phạm (UNODC), Ban Kiểm
soát ma túy quốc tế (INCB) và Ủy ban về ma túy (CND). Những cơ quan trên
được thành lập dựa trên khái niệm cho rằng cuộc chiến chống ma túy trước hết
là cuộc chiến chống tội phạm. Không có gì đáng ngạc nhiên khi bản chất của cơ
cấu này là ưu tiên các biện pháp vũ trang, còn các hoạt động thực thi pháp luật
vẫn chính là những điều quen thuộc và gẫn gũi để điều hành các cơ quan của cơ
cấu này.
Hiện nay khi mà bản chất của các thử thách trong cuộc chiến chống ma túy
thay đổi thì cũng cần phải thay đổi cả các thể chế. Chính sách ma túy toàn cầu
phải được xây dựng dựa trên cơ sở chính sách chiến lược chung của tất cả các cơ
quan liên quan của Liên Hợp Quốc, tất nhiên không chỉ có UNODC mà còn có
sự tham gia của UNAIDS, WHO, UNDP, UNICEF, Tổ chức về bình đẳng giới (
Liên hiệp phụ nữ của LHQ), Ngân hàng Thế giới và Văn phòng Cao ủy Nhân
quyền. Điều đấng lo ngại là hiện nay Tổ chức Y tế thế giới chỉ đóng một vai trò
nhỏ trong hệ thống phòng kiểm soát ma túy trong khi đã được công ước quốc tế
về phòng chống ma túy giao một nhiệm vụ quan trọng trong lĩnh vực này.



KIẾN NGHỊ
1 . Bỏ các điều cấm. Tiến hành các cuộc thảo luận mở và đưa ra các
biện pháp nhằm hạn chế có hiệu quả việc tiêu thụ cũng như cảnh báo và
làm giảm tác hại của việc sử dụng ma túy và các loại thuốc kiểm soát. Mở
rộng các hoạt động nghiên cứu khoa học và phân tích tính hiệu quả của các
chiến lược, các chương trình (25).
Đẩy mạnh các hoạt động mang tính chât trính trị và cộng đồng, làm cho
chúng được công nhận một cách rông rãi: các hoạt động diễn ra phải chứng
minh một các xác đáng tính thiếu xác thực của các chiến lược trấn áp, giải quyết
các vấn đề có liên quan đến ma túy cũng như cuộc chiến với ma túy chưa dành
được thắng lợi và không mang tính khả quan.Chính phủ các nước có quyền được
kết hợp các biện pháp chính trị khác nhau sao cho phù hợp với tình hình của
nước mình và giải quyết các vấn đề về thị trường buôn bán cũng như tiêu thụ ma
túy nhằm gây ảnh hưởng tích cực đến mức độ phạm tội cũng như giảm bớt tác
hại về mặt xã hội và y tế.
2. Đưa ra các biện pháp y tế dự phòng và điều trị cho người mắc bệnh
do sử dụng ma túy thay cho việc kiếm soát hình sự và các biện pháp trừng
phạt họ.
Ý tưởng “Cuộc chiến chống ma túy” hình thành dựa trên quan điểm về
viêc bắt giữ và các biện pháp trừng trị ngiêm khắc sẽ kìm chế sử dụng ma túy.
Trên thực tế quan điểm này đã bị bác bỏ - nhiều nước áp dụng những điều luật
cứng rắn và phổ biến rộng rãi việc bắt giữ và bỏ tù đối với người sử dụng và các
đại lý buôn bán ma túy, theo ghi nhận tại các nước này mức độ tiêu thụ ma túy
cùng các vấn đề có liên quan là cao hơn so với các nước áp dụng chính sách
khoan dung hơn về ma túy. Ngược lại tại các nước không áp dụng biện pháp kết
án và các hạn chế việc bắt giữ , trừng phạt thì tốc độ gia tăng tiêu thụ ma túy và
các chất gây nghiện là thấp, mặc dù sự nguy hiểm đã được cảnh báo trước.
SÁNG KIẾN XÓA BỎ KẾT ÁN KHÔNG LÀM TĂNG VIỆC SỬ DỤNG
THUỐC
Bồ Đào Nha

Vào tháng Bảy năm 2001, Bồ Đào Nha trở thành quốc gia châu Âu đầu tiên
thực hiện xóa bỏ kết án việc sử dụng và lưu trữ tất cả các loại ma túy bất hợp
pháp. Nhiều nhà quan sát quan trọng của chính sách, tin rằng nó sẽ dẫn đến gia
tăng sử dụng ma túy và các vấn đề liên quan. Tiến sĩ Caitlin Hughes của Đại học


New South Wales và Giáo sư Alex Stevens của Đại học Kent đã thực hiện
nghiên cứu chi tiết về ảnh hưởng của xóa bỏ kết án ở Bồ Đào Nha. Nghiên cứu
(26) của họ xuất bản gần đây đã chỉ ra rằng đây không phải là trường hợp nhân
rộng các kết luận của nghiên cứu trước đây của họ (27) và của Viện Cato (28).
Báo cáo Hughes và Stevens 2010 phát hiện một sự gia tăng nhỏ trong tỷ lệ
tổng thể sử dụng ma túy ở Bồ Đào Nha trong 10 năm kể từ khi xóa bỏ kết án,
nhưng ở một mức độ phù hợp với các nước khác tương tự như sử dụng ma túy
vẫn còn tội phạm. Trong xu hướng chung này, cũng đã có được một sự suy giảm
cụ thể trong việc sử dụng heroin, trong năm 2001, mối quan tâm chính của chính
phủ Bồ Đào Nha. Kết luận tổng thể của họ là việc loại bỏ các hình phạt hình sự,
kết hợp với việc sử dụng các phản ứng thay thế điều trị cho những người đấu
tranh với sự phụ thuộc thuốc, làm giảm gánh nặng của việc thực thi pháp luật về
thuốc trên hệ thống công lý hình sự và mức độ tổng thể của vấn đề sử dụng ma
túy.

So sánh Hà Lan và các thành phố Mỹ
Một nghiên cứu của Reinarman, et. al. so sánh rất khác nhau về quản lý môi
trường của Amsterdam, có tự do chính sách "quán cà phê cần sa" (một hình thức
xóa bỏ kết án trên thực tế) trở lại những năm 1970, và San Francisco, ở Mỹ,
trong đó criminalizes người sử dụng cần sa. Các nhà nghiên cứu muốn xem xét
liệu môi trường chính sách đàn áp của San Francisco ngăn cản công dân hút
thuốc lá cần sa hoặc trì hoãn việc bắt đầu sử dụng. Họ phát hiện ra rằng nó đã
không kết luận rằng:
"Những phát hiện của chúng tôi không hỗ trợ tuyên bố rằng hình sự giảm

sử dụng cần sa và xóa bỏ kết án làm tăng sử dụng cần sa ... Với ngoại lệ sử dụng
ma túy cao hơn trong
San Francisco, chúng tôi tìm thấy điểm tương đồng mạnh mẽ trên cả hai
thành phố. Chúng tôi không tìm thấy bằng chứng ủng hộ tuyên bố rằng hình sự
giảm sử dụng hoặc sử dụng xóa bỏ kết án tăng đó "29.
Úc
Các nhà nước Tây Úc đã giới thiệu một chương trình xóa bỏ kết án cần sa trong
năm 2004, và các nhà nghiên cứu đánh giá tác động của nó bằng cách so sánh
các xu hướng phổ biến trong tiểu bang đó với các xu hướng trong phần còn lại
của đất nước. Nghiên cứu này là phức tạp bởi thực tế là nó đã diễn ra trong một


thời gian khi sử dụng cần sa trong suy giảm chung trên toàn quốc. Tuy nhiên,
các nhà nghiên cứu thấy rằng xu hướng giảm này là như nhau ở Tây Úc, đã thay
thế các biện pháp chế tài hình sự đối với việc sử dụng hoặc sở hữu cần sa với xử
phạt hành chính, thường nhận được một cảnh báo của cảnh sát được gọi là một
"thông báo vi phạm”. Các tác giả:
"Các dữ liệu sử dụng cần sa trong nghiên cứu này cho thấy rằng, không
giống như những dự đoán của những nhà bình luận nào những người quan trọng
của chương trình, sử dụng cần sa tại Tây Úc đã tiếp tục giảm mặc dù sự ra đời
của Đề án Cannabis Thông báo vi phạm "(30).
So sánh giữa các quốc gia khác nhau tại Mỹ
Mặc dù sở hữu cần sa là một hành vi phạm tội hình sự theo luật pháp Hoa
Kỳ liên bang, các quốc gia cá nhân có thay đổi chính sách đối với sở hữu của
thuốc. Trong Báo cáo năm 2008 của Ủy ban Cannabis triệu tập bởi Quỹ
Beckley, các tác giả đã xem xét nghiên cứu đã được thực hiện để so sánh phổ
biến cần sa trong những quốc gia đã hợp pháp hóa với những người duy trì hình
phạt hình sự đối với sở hữu. Họ kết luận rằng:
"Với nhau, bốn nghiên cứu này chỉ ra rằng các quốc gia giới thiệu những
cải cách không những tăng lớn hơn trong sử dụng cần sa ở người lớn hoặc thanh

thiếu niên. Cũng không khảo sát tại các nước này cho thấy thái độ thuận lợi hơn
đối với sử dụng cần sa hơn so với những quốc gia mà vẫn duy trì lệnh cấm
nghiêm ngặt với các hình phạt hình sự "(31).
Trong ánh sáng của những kinh nghiệm này, rõ ràng là chính sách hình sự
và hình phạt khắc nghiệt của sử dụng ma túy đã được một sai lầm đắt tiền, và
chính phủ nên thực hiện các bước để tái tập trung nỗ lực và nguồn lực của họ về
chuyển hướng người sử dụng ma túy vào các dịch vụ chăm sóc y tế và xã hội.
Tất nhiên, điều này không nhất thiết có nghĩa là các biện pháp trừng phạt cần
được loại bỏ hoàn toàn - rất nhiều người sử dụng ma túy cũng sẽ cam kết tội
phạm khác mà họ cần phải được tổ chức chịu trách nhiệm - nhưng phản ứng
chính chiếm hữu và sử dụng ma túy nên được cung cấp lời khuyên thích hợp,
điều trị và dịch vụ y tế cho các cá nhân, những người cần chúng, chứ không phải
là hình phạt hình sự tốn kém và phản tác dụng.

3. Khuyến khích thử nghiệm của các chính phủ với các mô hình quy
định của pháp luật thuốc (với cần sa, ví dụ) được thiết kế để làm suy yếu


sức mạnh của tổ chức tội phạm và bảo vệ sức khỏe và an ninh của công dân
của họ.
Các cuộc tranh luận trên các mô hình thay thế các quy định thị trường thuốc
đã quá thường xuyên bị hạn chế bởi các dichotomies sai khó khăn, mềm mại,
đàn áp hoặc tự do. Trong thực tế, chúng tôi đang tìm kiếm cùng một mục tiêu một tập hợp các chính sách ma túy và các chương trình giảm thiểu sức khỏe và
tác hại xã hội, và tối đa hóa an ninh cá nhân và quốc gia. Nó là vô ích để bỏ qua
những người tranh luận cho một thị trường bị đánh thuế và điều chỉnh đối với
các loại thuốc hiện đang bất hợp pháp. Đây là một lựa chọn chính sách cần được
phát triển cùng với sự chặt chẽ như bất kỳ other.(32)
Nếu các chính phủ quốc gia hoặc chính quyền địa phương cảm thấy rằng
các chính sách xóa bỏ kết án sẽ tiết kiệm tiền và mang lại sức khỏe tốt hơn và
kết quả xã hội cho cộng đồng của họ, hoặc việc tạo ra một thị trường quy định

có thể làm giảm sức mạnh của tội phạm có tổ chức và cải thiện an ninh của công
dân của họ, sau đó quốc tế cộng đồng cần hỗ trợ và tạo điều kiện thử nghiệm
chính sách đó và học hỏi từ ứng dụng của họ.
Tương tự như vậy, chính quyền quốc gia và Liên Hiệp Quốc cần phải xem
xét lại lịch trình của các chất khác nhau. Tiến độ hiện nay, được thiết kế để đại
diện cho những rủi ro tương đối và tác hại của thuốc khác nhau, đã được thiết
lập trong 50 năm trước, khi có ít bằng chứng khoa học để những quyết định này.
Điều này đã dẫn đến một số bất thường rõ ràng - cần sa và lá coca, đặc biệt, bây
giờ dường như không đúng dự kiến và điều này cần phải được giải quyết.
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA MỨC KIỂM SOÁT VÀ MỨC HẠI
Trong một báo cáo được xuất bản bởi tạp chí The Lancet năm 2007, một
nhóm các nhà khoa học (33) đã cố gắng để xếp hạng một loạt các loại thuốc
hướng thần theo tác hại thực tế và tiềm năng họ có thể gây ra cho xã hội. Đồ thị
bên phải tóm tắt các phát hiện của họ và đối họ với mức độ nghiêm trọng với
các loại thuốc điều trị trong hệ thống kiểm soát ma túy toàn cầu.
Trong khi đây là những đánh giá thô, họ rõ ràng cho thấy các loại mức độ
được gán với các chất khác nhau trong các điều ước quốc tế cần phải được xem
xét trong ánh sáng của kiến thức khoa học hiện tại.


4. Thiết lập các số liệu tốt hơn, các chỉ số và mục tiêu để đo lường sự
tiến bộ.
Hệ thống đánh giá thành công trong lĩnh vực chính sách thuốc hiện nay về
cơ bản là flawed.(34) tác động của chiến lược thuốc nhất là đánh giá mức độ cây
trồng tiêu diệt, bắt bớ, co giật và hình phạt áp dụng cho người sử dụng, người
trồng và các đại lý. Trong thực tế, bắt giữ và trừng phạt người sử dụng ma túy
không ít để giảm mức độ sử dụng ma túy, lấy ra các đại lý ở mức độ thấp chỉ
đơn giản là tạo ra một cơ hội thị trường cho những người khác, và ngay cả



những hoạt động lớn nhất và thành công nhất chống lại bọn tội phạm có tổ chức
(phải mất nhiều năm để lập kế hoạch và thực hiện ) đã được chứng minh là có,
tốt nhất, tác động cận biên và ngắn ngủi trên giá thuốc và sự sẵn có. Tương tự
như vậy, xóa bỏ cây thuốc phiện, cần sa hoặc coca chỉ displaces canh tác bất hợp
pháp đến các khu vực khác.
Một tập hợp các chỉ số mới là cần thiết để thực sự hiển thị các kết quả của
chính sách ma túy, theo tác hại hoặc lợi ích của họ cho các cá nhân và cộng
đồng - ví dụ, số lượng nạn nhân của bạo lực ma túy liên quan đến thị trường và
đe dọa, mức độ tham nhũng được tạo ra bởi thuốc thị trường, mức độ của tội
phạm nhỏ cam kết của người sử dụng phụ thuộc, mức độ phát triển kinh tế xã
hội trong cộng đồng nơi sản xuất, bán, tiêu thụ ma túy tập trung, mức độ phụ
thuộc vào ma túy trong cộng đồng, mức độ tử vong do quá liều; và mức độ của
HIV viêm gan C lây nhiễm giữa người sử dụng ma túy. Hoạch định chính sách
có thể và nên rõ và đo lường kết quả của những mục tiêu này.
Do đó, chi phí các nguồn lực công được tập trung vào hoạt động có thể
được hiển thị để có một tác động tích cực trên các mục tiêu này. Trong trường
hợp hiện tại trong hầu hết các quốc gia, điều này có nghĩa là tăng cường đầu tư
vào các chương trình y tế và xã hội, và cải thiện nhắm mục tiêu của nguồn lực
thực thi pháp luật để giải quyết bạo lực và tham nhũng liên quan với các thị
trường thuốc 35 Trong một thời gian thắt lưng buộc bụng tài chính, chúng ta có
thể không còn đủ khả năng để duy trì đầu tư nhiều tỷ đô la có giá trị chủ yếu
mang tính biểu tượng.
5. Thách thức, hơn là củng cố, quan niệm sai lầm phổ biến về thị
trường thuốc, sử dụng ma túy và sự phụ thuộc thuốc.
Quốc Kỳ làm cho một ước tính bảo thủ hiện đang có 250 triệu người sử
dụng thuốc bất hợp pháp trên thế giới, và rằng có hàng triệu người tham gia vào
sản xuất, trồng trọt và phân phối. Chúng tôi chỉ đơn giản là không thể đối xử với
họ như tội phạm.
Hiện nay, các nhà hoạch định chính sách quá nhiều tăng cường các ý tưởng
rằng tất cả những người sử dụng thuốc 'nghiện vô đạo', và tất cả những người

tham gia tại các thị trường thuốc là chủ mưu hình sự tàn nhẫn. Thực tế là phức
tạp hơn nhiều.
Trong một chừng mực nào đó, nhà hoạch định chính sách miễn cưỡng phải
thừa nhận phức tạp này là bắt nguồn từ sự hiểu biết của họ về ý kiến công chúng
trên những vấn đề này.


Nhiều công dân bình thường không có những lo ngại chính hãng về những
tác động tiêu cực của thị trường ma túy bất hợp pháp, hoặc hành vi của những
người phụ thuộc, dưới ảnh hưởng của, thuốc bất hợp pháp. Những nỗi sợ này là
có căn cứ trong một số giả định chung về những người sử dụng ma túy và thị
trường thuốc, chính phủ và chuyên gia xã hội dân sự cần phải giải quyết bằng
cách nâng cao nhận thức của một số sự kiện thành lập (nhưng phần lớn không
được công nhận). Ví dụ:
• Phần lớn những người sử dụng thuốc không phù hợp với khuôn mẫu của
người nghiện phi luân lý và đáng thương ". Trong số 250 triệu người sử dụng
ma túy ước tính trên toàn thế giới, Liên Hợp Quốc ước tính rằng có ít hơn 10%
có thể được phân loại như phụ thuộc, "vấn đề người sử dụng ma túy ,(36)
• Hầu hết người tham gia vào canh tác bất hợp pháp của coca, thuốc phiện,
thuốc phiện, cần sa là các hộ nông dân nhỏ phải vật lộn để kiếm sống cho gia
đình của họ. Cơ hội sinh kế thay thế được đầu tư tốt hơn so với phá hủy duy
nhất của họ phương tiện sống còn.
• Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của cá nhân bắt đầu sử dụng thuốc
có nhiều hơn để làm với thời trang, ảnh hưởng của bạn bè, và bối cảnh xã hội và
kinh tế hơn so với tình trạng pháp lý thuốc, rủi ro của dò, hoặc messages.(37)
phòng chính phủ, (38)
• Các yếu tố góp phần vào sự phát triển các mô hình có vấn đề hoặc phụ
thuộc của sử dụng có nhiều hơn để làm với chấn thương thời thơ ấu hoặc bỏ bê,
điều kiện sinh sống khắc nghiệt, bên lề xã hội, và vấn đề tình cảm, chứ không
phải là điểm yếu đạo đức hoặc hedonism.(39)

Đó là không thể để cảm giác lo sợ hoặc trừng phạt một người nào đó ra
khỏi sự phụ thuộc thuốc, nhưng với loại phải điều trị dựa trên bằng chứng,
người dùng phụ thuộc có thể thay đổi hành vi của họ và là thành viên tích cực và
hiệu quả của các community.(40)
• Hầu hết người có liên quan đến buôn bán ma túy được các đại lý nhỏ và
không phải là bọn côn đồ rập khuôn từ những bộ phim - phần lớn những người
bị giam giữ để xử lý hoặc buôn bán ma túy cá nhỏ trong hoạt động (thường là bị
cưỡng chế vào thực hoặc bán ma túy), những người có thể dễ dàng được thay
thế mà không làm gián đoạn các supply.(41),( 42)
Trưởng thành hơn và cân bằng ngôn chính trị và truyền thông có thể giúp
nâng cao nhận thức của công chúng và sự hiểu biết. Cụ thể, cung cấp một tiếng
nói đại diện của nông dân, người sử dụng, gia đình và cộng đồng bị ảnh hưởng


do sử dụng ma túy và sự phụ thuộc có thể giúp truy cập những huyền thoại và sự
hiểu lầm.
6. Các nước tiếp tục đầu tư chủ yếu trong thực thi pháp luật một cách
tiếp cận (mặc dù các bằng chứng) nên tập trung hành động đàn áp của họ
vào tổ chức tội phạm bạo lực và buôn bán ma túy, để giảm tác hại liên quan
đến thị trường thuốc bất hợp pháp.
Các nguồn lực của các cơ quan thực thi pháp luật có thể được nhiều hiệu
quả hơn mục tiêu chiến đấu với các nhóm tội phạm có tổ chức đã mở rộng
quyền lực của họ và đạt được trên mặt sau của lợi nhuận thị trường thuốc. Ở
nhiều nơi trên thế giới, đe dọa bạo lực, tham nhũng gây ra bởi các nhóm này là
một mối đe dọa lớn đối với an ninh cá nhân và quốc gia và các tổ chức dân chủ,
nỗ lực của chính phủ và các cơ quan thực thi pháp luật để ngăn chặn hoạt động
của họ vẫn còn cần thiết.
Tuy nhiên, có một cần phải xem xét lại chiến thuật của chúng tôi trong cuộc
chiến này. Có một lý thuyết hợp lý đưa ra MacCoun và Reuter43 cho thấy rằng
những nỗ lực giảm cung cấp hiệu quả nhất trong một thị trường mới và chưa

phát triển, nơi mà các nguồn cung cấp được kiểm soát bởi một số lượng nhỏ của
các tổ chức buôn bán. Trường hợp các điều kiện tồn tại, thiết kế thích hợp và có
mục tiêu hoạt động thực thi pháp luật có khả năng kiềm chế sự xuất hiện của các
thị trường mới. Chúng tôi phải đối mặt với tình hình hiện nay ở Tây Phi. Mặt
khác, thị trường thuốc đa dạng và được thiết lập tốt, ngăn chặn sử dụng thuốc
bằng dừng cung cấp không phải là một mục tiêu thực tế.
THUỐC Ở TÂY PHI: ĐÁP ỨNG VỚI THÁCH THỨC NGÀY CÀNG
TĂNG CỦA TỘI PHẠM NARCOTRAFFIC VÀ TỔ CHỨC
Chỉ trong một vài năm, Tây Phi đã trở thành một quá cảnh lớn và trung tâm
tái đóng gói cocaine sau một sự thay đổi chiến lược của tập đoàn ma túy của Mỹ
Latinh đối với thị trường châu Âu. Thu lợi nhuận từ quản lý yếu kém, nghèo đói,
mất ổn định và được trang bị bị cảnh sát và các cơ quan tư pháp, và được hỗ trợ
bởi giá trị to lớn của việc buôn bán ma túy, mạng lưới tội phạm đã trà trộn vào
các chính phủ, các tổ chức nhà nước và quân đội. Tham nhũng và rửa tiền, thúc
đẩy buôn bán ma túy, các chính trị pervert địa phương và nền kinh tế địa phương
nghiêng.
Một kịch bản nguy hiểm đang nổi lên là narco-giao thông đe dọa di căn vào
chính trị rộng lớn hơn và thách thức an ninh. Phản ứng ban đầu quốc tế để hỗ trợ
hoạt động khu vực và quốc gia đã không thể đảo ngược xu hướng này. New
evidence (44) cho thấy mạng lưới tội phạm đang mở rộng hoạt động và tăng


cường các vị trí của họ thông qua các liên minh mới, đặc biệt là với các nhóm vũ
trang. Câu trả lời hiện tại cần phải được khẩn trương mở rộng và điều phối dưới
sự lãnh đạo Tây Phi, với sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật quốc tế. Phản ứng tích
hợp thực thi pháp luật và phương pháp tiếp cận tư pháp, với sự phát triển xã hội
và các chính sách ngăn ngừa xung đột - và họ cần có sự tham gia của các chính
phủ và xã hội dân sự như nhau.
Chúng tôi cũng cần phải nhận ra rằng nó là bản chất bất hợp pháp của thị
trường tạo ra nhiều vụ bạo lực liên quan đến thị trường - thị trường hàng hóa

quy phạm pháp luật và quy định, trong khi không phải không có vấn đề, không
cung cấp những cơ hội tương tự cho tội phạm có tổ chức để làm cho lợi nhuận
lớn, thách thức tính hợp pháp của chủ quyền chính phủ, và, trong một số trường
hợp nổi dậy quỹ, và khủng bố.
Điều này không nhất thiết có nghĩa là tạo ra một thị trường pháp lý là cách
duy nhất để làm suy yếu sức mạnh và tầm với của các tổ chức buôn bán ma túy.
Chiến lược thực thi pháp luật một cách rõ ràng có thể cố gắng để quản lý và hình
dạng của thị trường bất hợp pháp, ví dụ, tạo ra các điều kiện và tư nhân quy mô
nhỏ "mạng lưới tình bạn 'các loại cung cấp có thể phát triển mạnh, nhưng trấn áp
các hoạt động quy mô lớn hơn có liên quan đến bạo lực hoặc sự bất tiện cho
công chúng. Tương tự, nhu cầu về thuốc từ những người phụ thuộc vào một số
chất (ví dụ, heroin) có thể được đáp ứng thông qua các chương trình theo toa y
tế tự động làm giảm nhu cầu thay thế đường phố. Chiến lược như vậy có thể
được nhiều hơn nữa hiệu quả trong việc giảm bạo lực liên quan đến thị trường
và tác hại hơn so với các nỗ lực vô ích để tiêu diệt toàn bộ thị trường.
Mặt khác, thiết kế kém thuốc thực hành thực thi pháp luật thực sự có thể
làm tăng mức độ đe dọa, bạo lực và tham nhũng liên quan với các thị trường
thuốc. Cơ quan thực thi pháp luật và các tổ chức buôn bán ma túy có thể trở
thành lôi kéo vào một loại 'chạy đua vũ trang, trong đó các nỗ lực thực thi lớn
hơn dẫn đến sự gia tăng tương tự như sức mạnh và bạo lực của những kẻ buôn
người. Trong kịch bản này, các điều kiện được tạo ra trong các tổ chức buôn bán
tàn nhẫn và bạo lực nhất phát triển mạnh. Không may, điều này dường như là
những gì chúng ta đang chứng kiến ở Mexico và nhiều nơi khác trên thế giới.
THỰC TẾ THI HÀNH LUẬT VÀ SỰ GIA TĂNG BẠO LỰC
Một nhóm các nhà khoa học và chuyên gia y tế công cộng từ Cộng hòa
Columbia đã tiến hành xem xét một cách có hệ thống những số liệu (45) về ảnh
hưởng từ hoạt động tích cực của các cơ quan hành pháp lên mức độ bạo lực liên
quan đến buôn bán ma túy (bao gồm hoạt động của các băng nhóm được trang



bị vũ khí để kiểm soát thị trường, các vụ án mạng và các vụ cướp bóc có liên
quan đến buôn bán ma túy).
Tại một số thành phố ở Mỹ và Sydney (Úc), các nhà điều tra đã tìm ra rằng
sự gia tăng số lượng các vụ bắt giữ và áp lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật
lên việc buôn bán ma túy có sự liên hệ lớn đến việc gia tăng các vụ giết người và
các loại tội phạm bạo lực khác. 91% các nghiên cứu về ảnh hưởng của sự tăng
cường họat động của các cơ quan bảo vệ pháp luật lên thị trường ma túy chỉ ra
rằng, hoạt động tích cực của cảnh sát dẫn đến việc gia tăng bạo lực đáp trả. Các
nhà nghiên cứu đi đến kết luận: "Các bằng chứng khoa học sẵn có cho thấy việc
gia tăng cường độ can thiệp của các cơ quan bảo vệ pháp luật với mục đích phá
vỡ thị trường buôn bán ma túy, thông thường sẽ không làm giảm mức độ bạo lực
của các băng nhóm buôn bán ma túy. Ngược lại, có những số liệu cho thấy bạo
lực liên quan đến buôn bán ma túy và tỷ lệ giết người cao là hậu quả tự nhiên
của việc cấm ma túy, còn việc sử dụng các phương pháp ngày càng tinh vi và
tốn kém để làm gián đoạn mạng lưới lan truyền ma túy có thể vô tình dẫn đến
việc gia tăng mức độ bạo lực.”(46)
Các nhà nghiên cứu Anh cũng đã phân tích tác động của hoạt động của
cảnh sát đến thị trường ma túy và nhấn mạnh rằng:
“Hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật có thể gây ảnh hưởng tiêu cực
đến tính chất và mức độ thiệt hại liên quan đến tội phạm ma túy thông qua việc
gia tăng vô ý mức độ nguy hiểm đến sức khỏe người dân và an ninh công cộng
và thay đổi hành vi của các cá nhân sử dụng ma túy cũng như sự ổn định và hoạt
động của thị trường ma túy. (Ví dụ, đẩy các băng đảng đến hoạt động tại vùng
lãnh thổ khác, hoặc gây ra sự gia tăng số lượng các vụ đụng độ bạo lực giữa các
băng đảng này với các băng đảng đã hoạt động trong khu vực này từ trước
đó).”(47)
7. Áp dụng các biện pháp thay thế trừng phạt đối với các đại lý nhỏ lẻ
và lần đầu vi phạm luật
Mặc dù ý tưởng xóa bỏ việc kết án đối với những người sử dụng chất ma
túy hay những người nghiện ma túy về cơ bản vẫn đang được thảo luận, chúng

tôi tin rằng giải pháp như thế này có thể được áp dụng đối với những người
được coi là đơn vị nhỏ nhất trong việc buôn bán ma túy. Hầu hết những người bị
bắt vì buôn bán ma túy nhỏ lẻ không phải là các băng đảng hay là thành viên của
các băng nhóm có tổ chức, mà chỉ là những thanh niên bị lợi dụng và bắt buộc
tham gia vào công việc đầy rủi ro là bán ma túy trên đường phố; đó là những


người nghiện cố gắng kiếm tiền bằng mọi cách để có thể sử dụng ma túy; là
những người bị đe dọa, cưỡng chế bắt buộc phải chuyển ma túy qua biên giới.
Thông thường những người này bị truy tố theo cùng một tội như những tội
phạm bạo lực hay những thành viên của các băng nhóm có tổ chức- những
người kiểm soát thị trường, và kết quả của việc thi hành luật bừa bãi là những
người này bị áp dụng những hình phạt rất nặng.
Hiện nay trên thế giới, đa số các vụ bắt giữ là liên quan đến các đối tượng
buôn bán nhỏ lẻ- những người không phạm các tội bạo lực và có địa vị thấp
trong thị trường ma túy. Họ dễ bị phát hiện, dễ bị bắt hơn cả và họ không có tiền
để “chạy án” (48). Kết quả là, các trại giam của Nhà nước chỉ toàn là các đối
tượng vi phạm nhỏ mà phải chịu mức phạt dài hạn, điều đó gây tổn thất lớn mà
không có bất kỳ sự ảnh hưởng nào đến quy mô và lợi nhuận của thị trường ma
túy.
Ở một số nước, các đối tượng phạm tội này thậm chí còn phải đối mặt với
bản án tử hình, điều này rõ ràng là vi phạm luật pháp quốc tế về nhân quyền. Để
thể hiện sự tham gia của mình vào cuộc chiến chống ma túy, nhiều nước đã
thông qua các luật và áp dụng các hình phạt phù hợp với mức độ nghiêm trọng
của tội phạm nhưng vẫn không có nhiều tác dụng ngăn chặn đáng kể. Hiện nay
nhiệm vụ của các quốc gia là xem xét các biện pháp xử phạt thay thế đối với đối
tượng buôn bán nhỏ lẻ, hoặc sửa đổi luật để thiết lập được sự phân biệt rõ ràng
giữa các đối tượng tham gia vào thị trường ma túy.
8. Đầu tư nhiều hơn nữa nguồn lực vào các phương pháp phòng chống
một cách khoa học, hợp lý, tập trung đặc biệt vào giới trẻ.

Rõ ràng, việc đầu tư vào các biện pháp ngăn chặn sử dụng ma túy trong
giới trẻ hoặc ngăn chặn để người mới thử dùng không trở thành phụ thuộc vào
ma túy sẽ mang lại kết quả to lớn. Phòng chống khi bắt đầu sử dụng hay khi tăng
nhu cầu sử dụng chất ma túy rõ ràng là hơn hẳn việc giải quyết các vấn đề sau
khi nó đã phát sinh. Tiếc là hầu hết những nỗ lực ban đầu để giảm mức độ tổng
thể của việc sử dụng ma túy thông qua hàng loạt các chiến dịch phòng ngừa
không được chuẩn bị kĩ càng và thực hiện chưa tốt. Trong khi việc cung cấp các
thông tin chính xác (và đáng tin cậy) về các rủi ro khi sử dụng ma túy là có ích
và đang giá, thì kinh nghiệm thực hiện việc phòng chống tổng thể (ví dụ như
chiến dịch truyền thông, các chương trình học đường phòng chống ma túy) lại
cho thấy những kết quả khác nhau. Các lời kêu gọi đơn giản như “chỉ cần nói
không” dường như không có ảnh hưởng gì đáng kể đến tình hình.(49)


Tuy nhiên, cũng có một số chương trình phòng chống được lên kế hoạch và
mục tiêu một cách cẩn thận mà trong đó tập trung vào các kỹ năng xã hội, và
ảnh hưởng lẫn nhau của những người nghiện.Các chương trình này có tác động
tích cực đến những thông số như độ tuổi lần đầu sử dụng và tác hại kèm theo khi
sử dụng ma túy. Nhiệt huyết, cách tiếp cận sáng tạo, và kinh nghiệm thực tế của
các tổ chức xã hội dân sự và các nhóm cộng đồng có một ý nghĩa đặc biệt, bởi
vì giới trẻ thường ít tin tưởng những thông tin phòng chống từ Nhà nước.
Những mô hình phòng chống thành công, như một quy luật, là những mô
hình hướng tới những nhóm nguy cơ cụ thể - thành viên các nhóm tự phát, trẻ
em trong các trường nội trú, thanh thiếu niên gặp khó khăn trong trường học
hoặc có vấn đề với cảnh sát. Những mô hình như vậy thường là những mô hình
kết hợp của giáo dục và xã hội nhằm giúp trẻ em và thanh thiếu niên không trở
thành những người sử dụng thường xuyên và phụ thuộc vào ma túy. Nếu những
mô hình này được thực hiện với quy mô lớn thì nó có thể giảm đáng kể số thanh
niên phụ thuộc vào ma túy hay bị lôi kéo vào các hoạt động buôn bán nhỏ lẻ.
9. Cung cấp cho người bị phụ thuộc vào ma túy sự lựa chọn rộng rãi

và phù hợp các phương án chữa trị, bao gồm việc điều trị thay thế và điều
trị duy trì heroin, và đặc biệt quan tâm tới các đối tượng có nguy cơ cao,
trong đó có các đối tượng đang ở trong trại giam hay các thiết lập giam giữ
khác.
Tại bất kỳ quốc gia hay nền văn hóa nào luôn có một vài phần trăm dân số
nhất định phụ thuộc vào chất ma túy, bất kể việc loại chất hướng thần nào đang
đang được chuộng tại các quốc gia đó và thể chế luật pháp của họ là gì. Việc
phụ thuộc vào chất ma túy không chỉ gây tổn hại nghiêm trọng đến nhân cách
người sử dụng mà còn gây tác động lớn đối với gia đình, những người xung
quanh và xã hội nói chung.
Do đó ngăn chặn và điều trị phụ thuộc ma túy là trách nhiệm hàng đầu và
cũng là việc đầu tư có lợi của các Chính phủ, bởi khi điều trị có hiệu quả có thể
tiết kiệm đáng kể nguồn lực chi cho việc giảm tội phạm và cải tiến trong hoạt
động y tế và xã hội.
Nhiều mô hình điều trị thành công (bằng cách sử dụng kết hợp điều trị thay
thế với các phương pháp tâm lý xã hội) đã được thực hiện và chứng minh được
hiệu quả trong những hoàn cảnh kinh tế, xã hội, văn hóa khác nhau. Tuy nhiên,
hầu hết các quốc gia chỉ áp dụng được những mô hình đơn lẻ, chỉ đủ để đáp ứng
một phần nhỏ nhu cầu, hoặc không xác định đúng các nhóm đối tượng và không
tập trung được nguồn lực để trợ giúp những người phụ thuộc ma túy nghiêm


trọng nhất. Vì vậy, Chính phủ các nước phải xây dựng một kế hoạch chiến lược
tổng thể để mở rộng quy mô các dịch vụ điều trị cho người phụ thuộc chất ma
túy.
Đồng thời, trong bất kỳ hình thức chữa trị nào cũng không được ngược đãi
người bệnh như giam giữ, lao động cưỡng bức, gây áp lực về thể chất và tinh
thần mà đi ngược lại với các tiêu chuẩn quyền con người, đối xử tàn nhẫn, vô
nhân đạo, bác bỏ quyền tự quyết của họ. Chính phủ cần đảm bảo rằng các cở sở
điều trị phải dựa trên các phương pháp khoa học, thuyết phục và phải tuân thủ

luật nhân quyền quốc tế.
10. Hệ thống Liên Hợp Quốc phải nhận trách nhiệm hàng đầu trong
việc cải cách chính sách ma túy toàn cầu. Điều này có nghĩa là phải thúc
đẩy việc tiếp cận có hiệu quả và khoa học, hỗ trợ các nước xây dựng chính
sách về ma túy phù hợp với hoàn cảnh và nhu cầu của họ, và đảm bảo sự
phối hợp giữa các cơ quan khác nhau, giữa chính sách và các công ước của
Liên Hợp Quốc.
Nếu như Chính phủ các nước có quyền tự do hành động đáng kể để từ chối
thi hành chính sách áp chế, hệ thống kiểm soát chất ma túy của Liên Hợp Quốc
vẫn tiếp tục hành động, chủ yếu với vai trò “chiếc áo tù” hơn là cản trở việc cải
cách và hiện đại hệ thống chính sách. Gần như suốt cả thế kỉ trước, Chính phủ
Mỹ đã kêu gọi phát triển và duy trì chính sách áp chế về ma túy. Do đó chúng
tôi hoan nghênh sự thay đổi cách phát ngôn của Chính quyền Mỹ hiện nay (50)chính Tổng thống Obama thừa nhận sự vô vọng của cuộc chiến chống ma túy
và tính khả thi của việc thay đổi chính sách (51). Nhưng sau các lời hùng biện,
Mỹ phải áp dụng các biện pháp cải cách thực sự, bằng cách hạn chế việc giam
giữ và trừng phạt những người sử dụng ma túy. Bên cạnh đó Mỹ phải tận dụng
ảnh hưởng ngoại giao to lớn của mình để thúc đẩy việc cải cách ở các nước
khác.
Cơ quan Liên Hợp Quốc về kiểm soát ma túy luôn bảo vệ các chính sách và
chiến lược cũ. Khi phải đối mặt với những minh chứng mới về thất bại của các
chiến lược cũ, thì cải cách là cần thiết. Về phía UNODC, đã có nhiều tuyên bố
về việc cân bằng và hiện đại hóa hệ thống; nhưng cũng tồn tại nhiều ý kiến phản
đối vấn đề này.
Các Quốc gia phải liên hệ với Liên Hợp Quốc để được giúp đỡ và chỉ đạo
hành động.
Liên Hợp Quốc có thể và nên nhận về mình vai trò lãnh đạo để giúp Chính
phủ các nước tìm kiếm lối thoát khỏi bế tắc chính trị hiện tại.



×