Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự vận dụng của Đảng ta trong lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.49 KB, 28 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trải qua thực tiễn 30 năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta tổng kết: “Trong quá trình đổi mới
phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam” 1. Như vậy, lại thêm một
lần nữa, Đảng ta khẳng định: Đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) là lựa chọn duy nhất
đúng của cách mạng Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng, đây là con đường đầy khó khăn và chưa hề có trong
tiền lệ lịch sử. Do tính mới mẻ của nó mà tất yếu sẽ có những hoài nghi vào sự thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Thậm chí có người còn cho rằng con đường đó là không
thể thực hiện được. Đặc biệt, từ sau khi CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp
đổ thì chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, lý luận hình thái kinh tế - xã hội (HTKTXH)
nói riêng đang bị bôi nhọ, chống phá và công kích gay gắt từ nhiều phía. Các thế lực
thù địch (kẻ thù của CNXH) đang lớn tiếng cho rằng lý luận HTKTXH của chủ nghĩa
Mác - Lênin đã lỗi thời, lạc hậu cần được thay thế bằng một lý luận mới, phù hợp hơn
với thời đại hiện nay (thời kỳ ngự trị của khoa học công nghệ). Không những vậy,
bằng những hoạt động cụ thể, chúng còn tìm mọi cách xuyên tạc lý luận HTKTXH
của chủ nghĩa Mác, xuyên tạc đường lối lãnh đạo của đảng, chống phá sự nghiệp xây
dựng CNXH ở nước ta.
Trong thực tiễn quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam những năm qua, việc
nhận thức và vận dụng lý luận HTKTXH của chủ nghĩa Mác - Lênin có thời điểm còn
có những sai lầm, khuyết điểm. Có vấn đề nhận thức chưa đúng, thậm chí còn nhận
thức sai. Sự vận dụng học thuyết còn mang tính giáo điều, thiếu sáng tạo, không sát
với điều kiện hoàn cảnh lịch sử ở Việt Nam. Vì vậy, muốn xây dựng thành công
CNXH - sự lựa chọn duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam, nhất thiết phải đổi mới
nhận thức và vận dụng sáng tạo lý luận HTKTXH vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
Đây là thực sự là nội dung có ý nghĩa rất lớn về cả lý luận và thực tiễn. Do đó, tác giả
lựa chọn vấn đề: “Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự


vận dụng của Đảng ta trong lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay”
làm chủ đề tiểu luận.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng TW Đảng, Hà Nội, 2016,
Tr.69.
1

1


NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN CƠ BẢN TRONG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ
XÃ HỘI CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

1. Phương pháp tiếp cận lịch sử xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin
Trước C.Mác, các nhà triết học thường bàn về xã hội một cách chung
chung, trừu tượng. Họ chưa có lý luận thực sự khoa học để nhận thức bản chất xã
hội và những quy luật khách quan chi phối sự vận động, phát triển của lịch sử xã
hội loài người. Các nhà triết học duy vật siêu hình do không nhận thức được các
mối quan hệ bản chất trong đời sống xã hội nên họ không tìm ra các quy luật của
lịch sử. Họ cho rằng, lịch sử vận động, phát triển một cách ngẫu nhiên, hỗn độn.
Các nhà triết học duy tâm lại nhìn xã hội trong giới hạn quan hệ tư tưởng, do vậy,
họ đi tìm động lực phát triển xã hội ở nhân tố tinh thần hoặc trong ý thức tư tưởng
của các vĩ nhân (cá nhân), anh hùng. Nhìn chung các nhà triết học trước C.Mác
không nhìn thấy tính lặp lại của các hiện tượng xã hội, từ đó quy khoa học xã hội
về việc miêu tả các hiện tượng xã hội một cách chủ quan.
Các nhà triết học tư sản theo “Thuyết kỹ trị” đã tuyệt đối hóa yếu tố kinh tế
- kỹ thuật, coi yếu tố kinh tế kỹ thuật quyết định sự phát triển của xã hội, xóa nhòa
sự khác biệt về bản chất của các chế độ xã hội. “Thuyết hội tụ” lại cho rằng do sự
phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, chế độ TBCN và chế độ XHCN sẽ gặp
nhau ở “xã hội hậu công nghiệp”.

AlvinTôplơ - nhà tương lai học người Mỹ đã nghiên cứu xã hội hiện đại và
chia lịch sử ra thành “ba làn sóng” tức “ba nền văn minh” lần lượt kế tiếp nhau là
nền văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh tin học. Lý luận này
đã tuyệt đối hóa yếu tố lực lượng sản xuất (LLSX) trong sự phát triển xã hội, xem
nhẹ yếu tố quan hệ sản xuất (QHSX) và kiến trúc thượng tầng (KTTT). Cách tiếp
cận này có giá trị nhất định, nhưng phiến diện và không chỉ ra được nguồn gốc,
động lực của sự phát triển của lịch sử xã hội.
Những cách phân kỳ như vậy, không đem lại cách nhìn khoa học về một xã
hội cụ thể. Đến C.Mác, dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng kết quá
trình lịch sử, C.Mác đã nêu ra quan điểm duy vật về lịch sử và hình thành học
2


thuyết về HTKTXH. Học thuyết HTKTXH của C.Mác ra đời là một cuộc cách
mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội. C.Mác đã nhìn thấy động lực của
lịch sử không phải do một tinh thần thần bí nào mà do hoạt động thực tiễn của con
người dưới tác động của các quy luật khách quan. Học thuyết HTKTXH là một nội
dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác - Lênin. Học thuyết đó vạch ra những
quy luật cơ bản của sự vận động phát triển xã hội, vạch ra phương pháp luận duy nhất
khoa học để nhận thức và cải tạo xã hội. Đây là cơ sở thế giới quan, phương pháp
luận chỉ đạo các chính đảng và nhà nước vô sản xác định cương lĩnh, đường lối, chủ
trương, chính sách trong xây dựng CNXH.
C.Mác đã nghiên cứu xã hội từ nền sản xuất vật chất đi từ nghiên cứu tự
nhiên, đem đối lập xã hội với tự nhiên để tìm ra những quy luật tự nhiên, từ đó rút
ra quy luật xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lê nin đã khẳng định quy luật tự nhiên và quy
luật xã hội đều có thuộc tính chung là tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người, mặc dù quy luật xã hội vận động thông qua hoạt
động của nhân tố chủ quan là con người nhưng nó vẫn mang nội dung khách quan.
C.Mác cho rằng xã hội là một chỉnh thể có hệ thống và cấu trúc, trong mỗi
giai đoạn nhất định đều có các yếu tố cơ bản và phổ biến: LLSX; QHSX; cơ sở

hạ tầng (CSHT) hợp thành trên các QHSX và KTTT tương ứng trên CSHT.
Trong đó, LLSX là nền tảng vật chất của xã hội, là tiêu chuẩn khách quan để
phân biệt các thời đại kinh tế, là yếu tố xét đến cùng quy định sự phát triển của
các HTKTXH. QHSX là quan hệ khách quan cơ bản hình thành trong quá trình
sản xuất, là quan hệ quyết định chi phối mọi quan hệ xã hội, là tiêu chuẩn để phân
biệt bản chất các xã hội khác nhau ở từng giai đoạn lịch sử. KTTT thể hiện bộ
mặt tinh thần của đời sống xã hội, do CSHT quyết định, nhưng nó cũng có tính
độc lập tương đối tác động trở lại CSHT. Sự tác động lẫn nhau của các yếu tố
trong HTKTXH, hình thành hai quy luật cơ bản, đó là quy luật QHSX phù hợp
với trình độ phát triển của LLSX và quy luật CSHT quyết định KTTT. Sự tác
động tổng hợp của hai quy luật ấy là động lực thúc đẩy xã hội phát triển mà suy
đến cùng do yếu tố LLSX quyết định.
Học thuyết Mác về HTKTXH nhấn mạnh vai trò quyết định, xét đến cùng
của nhân tố kinh tế, song không bao giờ coi kinh tế là yếu tố quyết định duy nhất
trong lịch sử. Ph.Ăngghen viết: “Theo quan điểm duy vật lịch sử, nhân tố quyết
định trong lịch sử, xét đến cùng, là sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện
3


thực. Cả C.Mác lẫn tôi chưa bao giờ khẳng định gì hơn thế. Do đó nếu ai xuyên tạc
câu đó khiến cho nó có nghĩa là nhân tố kinh tế quyết định duy nhất thì như vậy họ
đã biến câu đó thành một câu trống rỗng, trừu tượng, vô nghĩa, tình hình kinh tế là
cơ sở, như mọi yếu tố khác của KTTT... cũng đều ảnh hưởng đến quá trình của
những cuộc đấu tranh lịch sử và trong nhiều trường hợp, lại chiếm ưu thế trong
việc quyết định hình thức của những cuộc đấu tranh đó”2.
Khi nghiên cứu QHSX trong mối quan hệ biện chứng với LLSX, C.Mác
tập trung luận giải toàn diện cả ba mối quan hệ: quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức,
quan hệ phân phối. Trong đó quan hệ sở hữu về TLSX là quan hệ quyết định chi
phối các quan hệ khác. Từ đây, C.Mác tìm ra mâu thuẫn kinh tế đó là sự đối lập
giữa sở hữu và sử dụng dẫn đến mâu thuẫn về mặt xã hội trong xã hội tư bản đó là

kẻ sở hữu TLSX (giai cấp tư sản) thì không sử dụng TLSX, mà người sử dụng
TLSX (giai cấp vô sản) thì lại không sở hữu. Trong đó, người nào sở hữu TLSX
dẫn đến vị trí làm chủ, còn người nào sử dụng TLSX tất yếu rơi vào vị trí làm thuê.
Từ đó, nảy sinh ra mâu thuẫn giữa người chủ và người làm thuê, mâu thuẫn giữa
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Có thể nói đây là cách luận giải rất khoa học đi
từ tất yếu của các quan hệ kinh tế xã hội, từ mâu thuẫn kinh tế đến mâu thuẫn xã
hội, mâu thuẫn giai cấp, đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản.
C.Mác coi đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp chủ yếu của sự phát triển xã hội
loài người chuyển từ HTKTXH thấp lên HTKTXH cao hơn.
C.Mác không dừng lại khi tiếp cận lịch sử ở đời sống vật chất của xã hội
mà còn nghiên cứu đời sống tinh thần và chính trị từ một lĩnh vực mà C.Mác gọi là
KTTT. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử: KTTT là toàn bộ những
quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật v.v.. và
những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội v.v.. được hình
thành trên một CSHT nhất định. Nói cách khác, KTTT của xã hội là toàn bộ những
quan điểm tư tưởng của xã hội, những thiết chế tương ứng và cả những quan hệ nội
tại của chúng được hình thành trên một CSHT nhất định. Theo Ăngghen, vai trò của
các yếu tố trong KTTT rất quan trọng: “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật,
triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật vv... là dựa trên sự phát triển kinh tế. Nhưng
tất cả sự phát triển đó đều tác động lẫn nhau và cũng tác động đến cơ sở kinh tế”3.
2
3

C.Mác - Ph. Ăngghen, Tuyển tập, Tập 6, NXB Sự Thật, H.1984. Tr.726.
C.Mác, Ph. Ăngghen, Tuyển tập, Tập 4, NXB Sự thật. H.1984. Tr.788.

4


C.Mác nghiên cứu xã hội với tư cách là một chỉnh thể có cấu trúc, là một

HTKTXH, cái cơ sở để cắt nghĩa lịch sử. Cho nên, xã hội có đời sống vật chất tất
yếu sẽ có đời sống tinh thần của con người. Theo C.Mác: “Xã hội là sản phẩm của
sự tác động qua lại giữa những con người” 4. Ph.Ăngghen cũng khẳng định: “Trong
mỗi thời đại lịch sử, phương thức chủ yếu sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ
cấu xã hội do phương thức đó quyết định, đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị
của thời đại và lịch sử của sự phát triển, trí tuệ của thời đại, cái cơ sở mà chỉ có
xuất phát từ đó mới cắt nghĩa được lịch sử đó”5. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ từ
những sự liên hệ tác động lẫn nhau giữa những quan hệ kinh tế của xã hội tất yếu
sẽ nảy sinh những quan hệ chính trị tinh thần, từ quan hệ trong đời sống kinh tế có
quan hệ với tinh thần, trong xã hội có giai cấp và nhà nước sẽ có quan hệ chính trị.
Cho nên, khi nghiên cứu xã hội tất yếu phải nghiên cứu vấn đề chính trị.
Ở mỗi chế độ xã hội có trình độ và cơ sở kinh tế nhất định sẽ được xây
dựng trên đó một KTTT tương ứng, giai cấp thống trị xã hội sẽ gắn cho xã hội hệ
tư tưởng của mình và tính chất giai cấp được thể hiện rất rõ ở sự đối lập về quan
điểm tư tưởng và cuộc đấu tranh về chính trị tư tưởng của giai cấp đối kháng. Giai
cấp nào chiếm địa vị thống trị xã hội về kinh tế thì nó cũng chiếm luôn vị trí thống
trị trong KTTT xã hội.
Trong mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT tầng thì CSHT với
tính cách là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội không chỉ sản sinh ra KTTT tương
ứng, quy định tính chất mà còn kéo theo sự thay đổi của KTTT khi nó thay đổi.
Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT không chỉ thực hiện trong giai đoạn
chuyển tiếp có tính chất cách mạng từ xã hội này sang xã hội khác, mà còn được
thực hiện ngay trong bản thân mỗi một HTKTXH. C.Mác nhận định: “Cơ sở kinh
tế thay đổi thì toàn bộ các KTTT đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều, nhanh chóng” 6.
Theo C.Mác sự biến đổi của CSHT dẫn đến sự biến đổi của KTTT là cả một quá
trình diễn ra hết sức phức tạp. Nguyên nhân của quá trình đó xét cho cùng là do sự
phát triển của LLSX. Tuy nhiên, sự phát triển của LLSX chỉ trực tiếp gây ra sự
biến đổi của CSHT, còn sự biến đổi của CSHT, đến lượt nó - mới làm cho KTTT
biến đổi một cách căn bản.
C.Mác, Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập 27, NXB CTQG. H.1996. Tr657.

C.Mác, Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập 27, NXB CTQG. H.1996. Tr.657.
6
C.Mác, Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập 13, NXB CTQG. H.1993. Tr. 15.
4
5

5


Chủ nghĩa duy vật lịch sử luôn nhấn mạnh tính độc lập tương đối của
KTTT, vì KTTT có sự tác động trở lại đối với CSHT. Sự phụ thuộc của KTTT vào
CSHT không trực tiếp và không đơn giản, cũng không phải là sản phẩm thụ động
của CSHT, mà chúng có khả năng tác động đến CSHT một cách mạnh mẽ. Các bộ
phận của KTTT cũng có tính độc lập, tương đối, cùng tác động đến CSHT, trong
đó nhà nước, đảng phái, hệ tư tưởng có vai trò đặc biệt quan trọng. Tác động của
KTTT đối với CSHT diễn ra theo hai chiều hướng. KTTT tác động cùng chiều với
sự phát triển của CSHT sẽ thúc đẩy CSHT phát triển và nếu tác động ngược chiều
với sự phát triển của CSHT, của cơ cấu kinh tế nó sẽ kìm hãm sự phát triển của
CSHT, của kinh tế. Nghĩa là, khi KTTT phản ánh đúng tính tất yếu kinh tế, các quy
luật kinh tế khách quan sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. Và ngược lại, khi KTTT
không phản ánh đúng tính tất yếu kinh tế, các quy luật kinh tế khách quan sẽ kìm
hãm sự phát triển của kinh tế và đời sống xã hội.
Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT thông qua chức năng xã hội cơ
bản của nó là xây dựng, bảo vệ và phát triển CSHT hiện tồn, chống lại những lực
lượng cản trở, nguy cơ phá hoại sự tồn tại của chế độ kinh tế - xã hội đang tồn tại.
Trong đó nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng chi phối, thậm chí trong những
trường hợp nhất định nó quyết định khả năng tác động của các bộ phận khác của
KTTT đến toàn bộ đời sống xã hội nói chung và CSHT nói riêng. Tuy nhiên, chủ
nghĩa duy vật lịch sử cũng không tuyệt đối hoá vai trò của KTTT, của các yếu tố
chính trị đến sự phát triển của xã hội mà trong mối quan hệ tác động qua lại đó suy

cho cùng vẫn là nhân tố kinh tế đóng vai trò quyết định.
Như vậy, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã luận giải quy luật vận động đời sống
chính trị của xã hội trên cơ sở đời sống kinh tế, tạo thành điều kiện đủ khi nghiên
cứu, tiếp cận lịch sử xã hội. Đây là một phương pháp tiếp cận khoa học dựa trên tư
duy biện chứng trong luận giải các vấn đề về xã hội. Phương pháp tiếp cận lịch sử
bằng học thuyết HTKTXH giúp C.Mác nhìn thấy động lực của lịch sử là do hoạt
động thực tiễn của con người dưới tác động của các quy luật khách quan chứ
không phải một lực lượng siêu nhiên, thần bí nào. Xuất phát từ “Cái sự thật hiển
nhiên... là trước hết con người cần phải ăn uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động,
trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động
chính trị, tôn giáo, triết học...”7. Chừng nào cái sự thật hiển nhiên đó vẫn tồn tại thì
chừng đó quan niệm duy vật về lịch sử vẫn không thể bác bỏ được.
7

C.Mác, Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập 19, NXB CTQG. H.1993. Tr. 166.

6


Học thuyết HTKTXH là quan niệm duy vật biện chứng được cụ thể hoá
trong việc xem xét đời sống xã hội, trước hết học thuyết này gắn bó hữu cơ với
việc mở rộng các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng vào sự nhận thức
các hiện tượng xã hội. Chính việc mở rộng chủ nghĩa duy vật vào lĩnh vực lịch sử
xã hội đã cho phép vạch ra sự thống nhất giữa xã hội và tự nhiên, sự thống nhất
của toàn bộ thế giới vật chất.
Trong tất cả mọi quan hệ xã hội, C.Mác đã làm nổi bật những QHSX,
những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ khác. Bằng cách
này, chủ nghĩa duy vật biện chứng cung cấp cho khoa học xã hội một tiêu chuẩn
hoàn toàn khách quan để thấy được các quy luật xã hội. Do đó, “có thể đem những
chế độ của các nước khác nhau khái quát lại thành một khái niệm cơ bản duy nhất

là HTKTXH. Chỉ có sự khái quát đó mới cho phép chuyển từ việc mô tả (và từ
việc đánh giá theo quan điểm lý tưởng) những hiện tượng xã hội sang việc phân
tích hiện tượng đó một cách hết sức khoa học”8.
Việc xem xét lịch sử loài người theo đúng quan điểm duy vật đã giúp Mác
tìm ra những nét chung, cơ bản lặp đi lặp lại trong các chế độ xã hội của các nước
khác nhau. C.Mác đã chỉ ra rằng: xã hội loài người phải sản xuất để tồn tại và
phương thức sản xuất xuất ra của cải vật chất là cái quyết định các quan hệ chính
trị và pháp lý hiện hành trong một xã hội nhất định, cũng như quyết định các trào
lưu tư tưởng khác nhau của xã hội. Giá trị tinh thần đóng một vai trò tích cực trong
đời sống xã hội, nhưng xét đến cùng thì nhân tố khách quan quyết định trong lịch
sử vẫn là yếu tố kinh tế.
Học thuyết HTKTXH đã khắc phục được quan niệm trừu tượng về xã hội.
Nó bác bỏ cách miêu tả một xã hội nói chung, phi lịch sử, không thay đổi về chất.
Do việc hình thành học thuyết HTKTXH mà quan điểm phi lịch sử về xã hội đã
phải nhường chỗ cho quan điểm lịch sử cụ thể.
Học thuyết HTKTXH lần đầu tiên cung cấp cho chúng ta những tiêu chuẩn
thực sự duy vật về phân kỳ và cho phép đi sâu vào bản chất của quá trình lịch sử,
hiểu được lôgic khách quan của quá trình đó. Học thuyết này giúp cho việc hiểu
8

V.I Lênin, Toàn tập, Tập 1, NXB Tiến Bộ, M.1983. Tr. 163.

7


được sự vận động của xã hội theo các quy luật khách quan, vạch ra sự thống nhất
trong cái muôn màu muôn vẻ của các sự kiện lịch sử ở các nước khác nhau trong
các thời kỳ khác nhau. Chính vì thế mà nó đem lại cho khoa học xã hội sợi dây dẫn
đường để phát hiện ra những mối liên hệ nhân quả để giải thích chứ không chỉ mô
tả các sự kiện lịch sử. Nó là cơ sở khoa học để tiếp cận đúng khi giải quyết những

vấn đề cơ bản của các ngành khoa học xã hội rất đa dạng. Bất kỳ một hiện tượng
xã hội nào, từ hiện tượng kinh tế đến hiện tượng tinh thần, đều chỉ có thể hiểu đúng
khi gắn nó với một HTKTXH nhất định.
Gần đây, trước những thành tựu kỳ diệu của khoa học và công nghệ, lại
trong điều kiện chế độ XHCN ở nhiều nước bị sụp đổ, khuynh hướng tuyệt đối
hoá cách tiếp cận theo nền văn minh tăng lên nhằm hạ thấp, thậm chí loại bỏ cách
tiếp cận HTKTXH. Họ cho rằng lý luận về hình thái đang mất đi cả ý nghĩa nhận
thức luận lẫn cơ sở bản thể luận, không thể áp dụng vào bức tranh thế giới hiện đại.
Đây là quan điểm sai lầm, bởi học thuyết Mác về HTKTXH đòi hỏi phải phân tích
sự phát triển của các xã hội như một quá trình tổng hợp các nhân tố và các quy luật
khách quan. Còn cách tiếp cận theo các nền văn minh thường chỉ tách ra một vài
đặc trưng để phân biệt nền văn minh này với nền văn minh khác, có khi chỉ là trình
độ của LLSX, hoặc công cụ lao động; có khi là những nét đặc thù về văn hoá, về
cộng đồng chủng tộc, dân tộc, mà bỏ qua QHSX, kết cấu giai cấp xã hội, do đó bỏ
qua tính chất xã hội của nền văn minh đó.
Tóm lại, phương pháp tiếp cận các nền văn minh, hay sự đụng độ của các
nền văn hoá... đối với sự phát triển của xã hội tuy có những giá trị nhưng các cách
tiếp cận này thường không chú ý đến bản chất, nguồn gốc, các động lực của sự vận
động và phát triển. Bỏ qua vai trò của QHSX, mối quan hệ biện chứng giữa lực
LLSX và QHSX, các mối quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp...nên không thể
đem các phương pháp tiếp cận này thay thế học thuyết Mác về HTKTXH, mà học
thuyết HTKTXH vẫn là quan niệm duy nhất khoa học và cách mạng để phân tích
lịch sử và nhận thức các vấn đề xã hội.
2. Sự phát triển của các HTKTXH là một quá trình lịch sử - tự nhiên
Học thuyết HTKTXH không chỉ xác định các yếu tố cấu thành, mà còn
xem xét xã hội trong một quá trình biến đổi và phát triển không ngừng. Mác viết
“Tôi coi sự phát triển của những HTKTXH là một quá trình lịch sử, tự nhiên” 9.
Điều này được Lê nin giải thích rõ: “...chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào
9


C.Mác, Ph. Ăngghen, Tuyển tập, Tập 23, NXB CTQG. H.1993. Tr.21.

8


những QHSX và đem quy những QHSX vào trình độ của những LLSX thì người ta
mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những HTKTXH
là một quá trình lịch sử - tự nhiên”10
Mác coi LLSX và QHSX, CSHT và KTTT là những yếu tố hợp thành
không thể thiếu được của HTKTXH. Đồng thời, ông cũng coi mối quan hệ biện
chứng giữa các yếu tố đó chính là những quy luật phát triển của các HTKTXH với
tư cách là quá trình lịch sử tự nhiên.
Trong quan niệm coi sự vận động xã hội như một quá trình lịch sử - tự
nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin nêu lên những tư tưởng sau đây:
Một là, xã hội vận động theo những quy luật không những phụ thuộc vào ý
thức, ý chí và ý định của con người mà ngược lại còn quyết định cả ý chí, ý thức và
ý định của họ nữa. Lịch sử là lịch sử hoạt động của con người theo đuổi mục đích
của bản thân mình, nhưng không thể hoạt động tuỳ tiện, mà phải tuân theo những
quy luật khách quan. Mỗi hình HTKTXH được coi như một cơ thể xã hội, tự phát
triển theo những quy luật vốn có của nó, một cơ thể xã hội riêng biệt có những quy
luật riêng về sự ra đời của nó, về hoạt động của nó và bước chuyển của nó lên một
hình thái cao hơn, tức là biến thành một cơ thể xã hội khác.
Hai là, các quy luật xã hội mà nói riêng là các quy luật kinh tế, xét về bản
chất thì khác với các quy luật của giới tự nhiên. “Mỗi thời kỳ lịch sử đều có những
quy luật riêng của nó... Một khi cuộc sống đã vượt qua một thời kỳ phát triển nhất
định, đã từ giai đoạn này bước sang giai đoạn khác thì nó cũng bắt đầu bị quy luật
khác chi phối”11.
Ba là, những quy luật của xã hội, như quy luật về sự phù hợp giữa QHSX
với tính chất, trình độ của LLSX, giữa KTTT với CSHT... đều thể hiện xu hướng
vận động của xã hội xét trong phạm vi rộng và trong thời gian dài, tức là xét dưới

dạng khái quát, trừu tượng hoá. Vì vậy, sự vận động cụ thể của một xã hội cụ thể
trong những thời gian và không gian nhất định thường có những biểu hiện dường
như không trùng khớp với quy luật phổ biến. Chẳng hạn, Mác đã nhận xét: “Đối
với nghệ thuật... những thời kỳ hưng thịnh nhất định của nó hoàn toàn không tương
ứng với sự phát triển chung của xã hội, do đó cũng không tương ứng với sự phát
triển của cơ sở vật chất của xã hội, cơ sở này dường như cấu thành cái xương sống
của tổ chức xã hội... khó khăn chỉ là ở chỗ đưa ra được một công thức chung về
mâu thuẫn đó... giải thích được những mâu thuẫn đó”12.
V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 1, NXB Tiến Bộ. M.1974. Tr.163.
C.Mác, Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập 23, NXB CTQG, H.1994, Tr.34.
12
C.Mác, Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập 12, NXB CTQG, H.1993, Tr 889 – 890.
10

11

9


Như vậy, có thể nói lịch sử là hoạt động của con người theo đuổi mục đích
của bản thân mình, nhưng đó không thể là hoạt động tuỳ tiện, mà là hoạt động ý
thức hoặc vô thức tuân theo những quy luật khách quan. Do đó, lịch sử - tự nhiên
nghĩa là quá trình lịch sử nhưng mang tính tự nhiên, tiếp tục lịch sử của giới tự
nhiên, vận động theo quy luật và xét đến cùng thì không thể phụ thuộc vào ý muốn
con người. Chính là dựa vào tư tưởng vĩ đại này, dựa vào những định hình khách
quan của các quan hệ kinh tế - xã hội tạo ra cơ cấu kinh tế của xã hội.
C.Mác đã tách ra các HTKTXH: Cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ,
phong kiến và tư bản chủ nghĩa. Mỗi HTKTXH đó được coi là một cơ chế tự phát
triển theo những quy luật vốn có của nó, một cơ chế xã hội riêng biệt, có những
quy luật riêng về sự ra đời của nó về hoạt động của nó và bước chuyển biến của nó

lên một hình thức cao hơn, tức là biến thành một cơ chế xã hội khác. Sự thay thế
kế tiếp nhau của các HTKTXH: xã hội cộng sản nguyên thuỷ được thay thế bằng
xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng xã hội phong
kiến, xã hội phong kiến được thay thế bằng xã hội tư bản chủ nghĩa... tạo nên trục
đường tiến triển trong lịch sử loài người.
Khi nghiên cứu các quy luật của sự phát triển xã hội nói chung và nhất là
CNTB nói riêng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dự đoán sự xuất hiện một HTKTXH
mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Theo Mác, sự thay thế một HTKTXH này bằng
hình thái HTKTXH được thực hiện thông qua cách mạng xã hội. Nguyên nhân sâu
xa của cuộc cách mạng đó là mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX, đặc biệt là khi
QHSX trở thành xiềng xích của LLSX. Trong thời kỳ cách mạng, cơ sở kinh tế
thay đổi thì tất cả KTTT đồ sộ cũng thay đổi theo cho phù hợp. Từ những cơ sở
khoa học luận giải như vậy, chủ nghĩa Mác - Lê nin đã kết luận HTKTXH TBCN
nhất định sẽ được thay thế bằng HTKTXH cộng sản chủ nghĩa, và sự thay thế này
cũng là quá trình lịch sử - tự nhiên. Sự thay thế được thực hiện thông qua cách
mạng xã hội chủ nghĩa mà hai tiền đề quan trọng nhất của nó là sự phát triển của
LLSX và sự trưởng thành của giai cấp công nhân.
Với những đặc điểm như vậy làm cho sự phát triển giữa các quốc gia
thường diễn ra không đều, kể cả khả năng phát triển bỏ qua một HTKTXH nào đó.

10


Cho đến nay, lịch sử nhân loại đã trải qua bốn HTKTXH kế tiếp nhau: Cộng sản
nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và đang quá độ sang
CNXH - giai đoạn đầu của HTKTXH cộng sản chủ nghĩa. Song, do đặc điểm về
lịch sử, về không gian, thời gian, không phải quốc gia nào cũng phải trải qua tất cả
các HTKTXH theo một sơ đồ chung. Lịch sử cho thấy, có những nước do những
điều kiện khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài chi phối đã bỏ qua một
hoặc một vài HTKTXH nào đó trong tiến trình phát triển của mình. Chẳng hạn ở

một số nước (I-ta-li-a, Pháp, Tây Ban Nha...), chế độ phong kiến đã bắt đầu hình
thành trong lòng chế độ chiếm hữu nô lệ; chế độ phong kiến ra đời không phải từ
chế độ chiếm hữu nô lệ như (Nga, Ba Lan, Đức). Ở Mỹ, CNTB hình thành trong
điều kiện xã hội không trải qua chế độ phong kiến. Đây là sự phát triển rút ngắn bỏ
qua một hoặc vài HTKTXH.
Tất cả sự phát triển tuần tự qua đủ các hình HTKTXH lẫn phát triển rút
ngắn, bỏ qua một hình thái trong trường hợp nào đó đều là quá trình lịch sử tự
nhiên, xét theo những quy luật và những điều kiện cụ thể khách quan quy định.
Một số nước không qua hình thái này hay hình thái khác là một sự thật lịch sử và là
quá trình lịch sử - tự nhiên đối với quốc gia đó. Sở dĩ như vậy là vì sự vận động
của xã hội diễn ra không đồng đều giữa các quốc gia, các vùng. Trong lịch sử
thường xuất hiện những trung tâm phát triển cao hơn về sản xuất vật chất, về kỹ
thuật, hay về văn hoá, về chính trị... Sự giao lưu, xâm nhập, tác động qua lại với
các trung tâm đó làm xuất hiện khả năng một số nước đi sau có thể rút ngắn tiến
trình lịch sử mà không lặp đi lặp lại tuần tự các quá trình phát triển của nhân loại.
Lê nin viết: “Tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới đã
không loại trừ mà trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những
đặc điểm hoặc về hình thức, hoặc về trình tự của sự phát triển đó”13.
C.Mác nêu lên một luận điểm quan trọng: một xã hội, ngay cả khi đã phát
hiện được quy luật tự nhiên của sự vận động của nó,... cũng không thể nào nhảy
qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xoá bỏ những giai đoạn
đó. Nhưng nó có thể rút ngắn và làm dịu bớt được những cơn đau đẻ. Có quan
13

V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 45, NXB Tiến Bộ, M.1978, Tr. 431.

11


điểm dựa vào điểm này đã cho rằng: Mác đã phủ nhận khả năng bỏ qua các giai

đoạn phát triển tự nhiên, do đó cũng phủ nhận con đường phát triển bỏ qua một
HTKTXH nào đó, điều này hoàn toàn không đúng. C.Mác chỉ bác bỏ việc dùng ý
chí hoặc sắc lệnh để nhảy qua một giai đoạn phát triển nào đó đang bị quy định bởi
những điều kiện và quy luật khách quan xác định. Trái lại, khi đã xuất hiện những
điều kiện khách quan mới thì việc nhảy qua một giai đoạn phát triển nào đó lại
được đặt ra và có khả năng thực hiện, do đó có thể rút ngắn và làm dịu bớt những
cơn đau đẻ.
V.I.Lênin vận dụng quan điểm của C.Mác, nghiên cứu CNTB chuyển sang
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và đã nêu lên khả năng không phải trải qua giai đoạn
phát triển TBCN để tiến thẳng lên CNXH ở các nước lạc hậu. Nghĩa là trong những
điều kiện nhất định, ở các nước lạc hậu không nhất thiết phải diễn ra một cách tuần
tự như lịch sử ra đời và phát triển của CNTB như các nước tư bản đã từng trải qua.
V.I.Lênin viết: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến, các nước
lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô Viết và qua những giai đoạn nhất định tiến tới chủ
nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”14.
Theo V.I.Lênin, đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc bị áp bức bởi chủ
nghĩa đế quốc thì sau khi tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc phải tiến ngay
lên làm cách mạng XHCN, không phải trải qua hình thái kinh tế TBCN trong
những điều kiện cần và đủ: các nước đó phải giành được độc lập dân tộc, thiết lập
chuyên chính về tay công - nông; phải có đảng cộng sản lãnh đạo, lực lượng cách
mạng phát triển dựa trên khối liên minh công - nông vững chắc; hình thái kinh tế
TBCN đã trở nên lỗi thời lạc hậu, HTKTXH cộng sản đã xuất hiện trong lịch sử.
Theo đó, chủ trương phát triển rút ngắn để đi lên CNXH ở những quốc gia tiền tư
bản chủ nghĩa chẳng những không mâu thuẫn với quá trình lịch sử - tự nhiên mà
còn là biểu hiện sinh động của quá trình lịch sử tự nhiên ấy. Cũng như trong lịch
sử đã từng diễn ra một số nước bỏ qua chế độ chiếm hữu nô lệ hay chế độ phong
kiến để tiến lên chế độ tư bản chủ nghĩa. Chỉ khi nào và chỉ ai chủ trương thực hiện
“rút ngắn” một cách duy ý chí, bất chấp quy luật thì lúc đó mới trở nên đối lập với
quá trình lịch sử tự nhiên.
14


V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 42, NXB Tiến Bộ, M.1979. Tr. 266.

12


Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin đã luận giải rõ sự phát triển của xã hội là
sự thay thế các HTKTXH và quá trình thay thế là một quá trình lịch sử - tự nhiên
và chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả
trường hợp bỏ qua một HTKTXH nhất định trong những hoàn cảnh kịch sử cụ thể
nhất định. Do đó, đây là cơ sở phương pháp luận khoa học và cách mạng, cơ sở lý
luận, nền tảng tư tưởng cho Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
nhân dân ta lựa chọn con đường cách mạng của dân tộc mình.
II. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG
LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Quá độ đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn
duy nhất đúng và hợp quy luật của Việt Nam
Việt Nam lựa chọn mục tiêu CNXH từ rất sớm, mục tiêu này được khẳng
định nhất quán trong các thời kỳ cách mạng và đến nay Việt Nam vẫn kiên trì thực
hiện mục tiêu đó. Sự lựa chọn con đường đi lên CNXH không phải là ngẫu nhiên
tuỳ hứng, cũng không phải xuất phát từ mong muốn chủ quan của một số người
trong Đảng rồi gán ghép cho toàn dân tộc. Đó là kết quả của sự vận dụng các quy
luật lịch sử khách quan vào trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, phù hợp với xu
thế của thời đại hiện nay.
1.1. Lựa chọn con đường đi lên CNXH là phù hợp với quy luật phát triển
của các HTKTXH
Khi luận giải về sự vận động thay thế nhau của các HTKTXH, C.Mác đã
nghiên cứu sâu sắc hình thái đang tồn tại là CNTB và đi đến kết luận sự diệt vong
tất yếu của nó và được thay thế bằng một xã hội cao hơn là xã hội cộng sản chủ

nghĩa mà giai đoạn thấp là CNXH. C.Mác đã phân tích kỹ con đường phát triển
tuần tự và coi đó là một con đường chung của lịch sử. Ông đã giả định ngoài khả
năng đó, sự vận động của lịch sử còn có thể có khả năng thứ hai là phát triển bỏ
qua CNTB để tiến thẳng lên CNXH ở những nước chậm phát triển. Thực tiễn lịch
sử chứng minh đã có nhiều nước bỏ qua phương thức sản xuất nào đó trong quá
trình phát triển của mình. V.I.Lênin đã kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen về con đường “phát triển bỏ qua”, đồng thời vận dụng tư tưởng trên
vào nước Nga, Người đã cùng với Đảng Cộng sản Nga lãnh đạo cuộc cách mạng
XHCN đầu tiên trên thế giới nổ ra thắng lợi. Sự tồn tại và phát triển của chế độ Xô
Viết suốt 70 năm trong lịch sử là một minh chứng thuyết phục cho tư tưởng đúng
đắn của C.Mác và Ph.Ăngghen.
13


VI.Lênin đã chỉ rõ con đường phát triển của những nước còn lạc hậu tới
CNXH có những khác biệt so với những nước đã trải qua CNTB. Những nước lạc
hậu muốn thực hiện được “bỏ qua chủ nghĩa tư bản” để tiến tới CNXH phải có con
đường đi đúng đắn, không phải trực tiếp mà là gián tiếp. Các nước đó phải trải qua
nhiều khâu trung gian, quá độ, phải biết lợi dụng khai thác CNTB để rút ngắn quá
trình đi lên CNXH. Như vậy, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã thể hiện
một tư tưởng nhất quán và ngày càng phong phú đầy đủ hơn về vấn đề bỏ qua
CNTB. Sự phát triển bỏ qua chế độ TBCN tiến tới CNXH không phải là một hiện
tượng trái hoặc nằm ngoài quy luật vận động lịch sử tự nhiên của các HTKTXH
mà là một dạng biểu hiện đặc thù của quy luật đó.
Tư tưởng xuyên suốt của con đường phát triển bỏ qua là cần bỏ qua sự
thống trị của chủ nghĩa tư bản, bỏ qua những xấu xa lạc hậu của chế độ TBCN, tự
giác định hướng mọi hoạt động của xã hội theo mục tiêu CNXH. Để bỏ qua, phải
có đầy đủ các điều kiện khách quan cũng như nhân tố chủ quan. Phải có những
bước đi phù hợp, mọi sự nôn nóng chủ quan hoặc giản đơn, siêu hình đều có
thể gây nên những hậu quả làm chậm tiến trình phát triển.

Sự lựa chọn độc lập dân tộc gắn liền với CNXH của Đảng, nhà nước và
nhân dân ta đó hoàn toàn đúng đắn, dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn tin cậy, phù
hợp với ước nguyện, khát vọng của nhân dân ta. Ngay trong hành trình ra đi tìm
đường cứu nước, khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, dưới ánh sáng của cách mạng
Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản” 15 ; “Chỉ
có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” 16. Khi thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam, trong Chánh cương vắn tắt do Người soạn thảo đã chỉ rõ: “làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”17.
Thấm nhuần tư tưởng ấy, Đảng ta đã khẳng định “Cách mạng Việt Nam là
một quá trình cách mạng không ngừng từ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên cách
mạng XHCN. Và trong quá trình cách mạng, khi cả nước làm một nhiệm vụ chiến
lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta luôn luôn giương cao hai ngọn cờ
độc lập dân tộc và CNXH. Đó là đường lối, là sức mạnh, là nguồn gốc thắng lợi
của cách mạng nước ta.”18
1514

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, H 2002, tr. 314.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H 2002, tr. 128.
17
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H 2002, tr.1.
18
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, Nxb CTQG, H.2004, tr.500- 501.
16

14


Đường lối cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH đã được hiện

thực hóa một cách sinh động trên đất nước ta. Sau khi cuộc kháng chiến chống
Pháp thắng lợi, miền Bắc tiến hành xây dựng CNXH, miền Nam tiếp tục thực hiện
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Với thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất đất nước, Đảng đã lãnh đạo cả nước tiến lên CNXH.
Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng đến nay đã chứng minh sự
đúng đắn của mục tiêu, con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đó là con
đường duy nhất đúng, là một tất yếu lịch sử, không thể có con đường khác, càng
không thể là con đường TBCN. Bởi lẽ, để đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến,
giành độc lập dân tộc, giải phóng nhân dân khỏi áp bức bóc lột, đưa nhân dân ta từ
thân phận nô lệ thành người làm chủ đất nước là ước mơ, là khát vọng của nhân
dân ta. Để thực hiện ước mơ ấy, hơn nửa thể kỷ đã có biết bao đảng viên trung
kiên, quần chúng nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang hy sinh xương máu.
Vì vậy, sau khi giành được độc lập dân tộc, Đảng ta không thể đưa đất nước đi
theo con đường TBCN, không thể lại đưa giai cấp bóc lột quay trở lại địa vị thống
trị, đưa dân ta trở lại con đường lầm than, cơ cực, tiếp tục chịu thân phận ngựa
trâu, không thể tự tước đoạt, tự hủy hoại thành quả cách mạng với bao sự hy sinh
xương máu.
Việc lựa chọn mục tiêu, con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH của
Đảng ta, nhân dân ta dựa trên cơ sở khoa học của chủ nghĩa Mác -Lênin, được tổng
kết từ thực tiễn cách mạng thế giới và lịch sử dân tộc Việt Nam, hội đủ các nhân tố
khách quan và chủ quan, dân tộc và thời đại, hoàn toàn không phải dựa vào cảm tính,
thuần túy dựa trên nguyện vọng mong muốn chủ quan của Đảng và nhân dân ta.
Từ thực tiễn tình hình cách mạng thế giới và thành quả cách mạng Việt
Nam hơn 80 năm qua càng khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH là sự lựa chọn đúng đắn của Bác Hồ, của Đảng và nhân dân ta.
Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội IV, Đảng ta đã khẳng định: Trong thời
đại ngày nay khi độc lập dân tộc và CNXH không thể tách rời nhau, và ở nước ta
khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng XHCN, sự bắt đầu

của TKQĐ tiến lên CNXH, sự bắt đầu của thời kỳ thực hiện nhiệm vụ lịch sử của
chuyên chính vô sản... Như vậy, độc lập thống nhất không những gắn liền với nhau
mà còn tạo tiền đề cho CNXH.

15


Ngày nay, Tổ quốc ta hoàn toàn độc lập thì độc lập dân tộc và chủ CNXH
là một. Chỉ có CNXH mới thực hiện được ước mơ lâu đời của nhân dân lao động là
vĩnh viễn thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu. Chỉ có CNXH mới
đem lại cho nhân dân lao động quyền làm chủ đầy đủ, mới trả lại giá trị chân chính
cho con người. Có CNXH Tổ quốc ta mới có kinh tế hiện đại, văn hóa khoa học
tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, do đó bảo đảm cho đất nước ta vĩnh viễn độc lập
tự do và ngày càng phát triển phồn vinh. Chỉ có CNXH mới làm cho Tổ quốc ta
thống nhất ở trình độ cao nhất và đầy đủ nhất, thống nhất về lãnh thổ, chính trị và
tinh thần, về kinh tế, văn hóa xã hội, thống nhất về quyền lợi và nghĩa vụ, mọi
người đoàn kết, thương yêu nhau một cách chân thành và thắm thiết.
Trong các kỳ Đại hội, Đảng ta tiếp tục khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc
và CHXH và nhất quán thực hiện mục tiêu đó. “Trước sau như một, nhân dân ta
vẫn kiên trì con đường XHCN. Đó là mục tiêu chiến đấu 60 năm qua của Đảng và
nhân dân ta. Con đường chúng ta lựa chọn phù hợp với trào lưu tiến hóa chung của
thời đại.”19 Trong xu thế vận động chung đó của thế giới, thì việc Việt Nam “đi lên
chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh … Đây là một quá trình cách mạng
sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi
về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời
kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội
đan xen”20.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, trước sự tác động từ khủng
hoảng của các nước XHCN, Đảng ta tiếp tục khẳng định dứt khoát mục tiêu độc

lập dân tộc và CNXH. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa VI trình bày
tại Đại hội VII của Đảng đã làm rõ cơ sở khoa học của sự kiên định đó: “Đối với
nước ta không còn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thực sự và tự do hạnh
phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự
lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930...”
19
20

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 50, Nxb CTQG, H.2007, tr 217.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr 70.

16


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH (bổ sung, phát triển
năm 2011), tiếp tục khẳng định: “Từ thực tiễn phong phú của cách mạng, Đảng ta
đã rút ra những bài học kinh nghiệm lớn: nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
CNXH - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm
nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện
CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”.21
Tuy nhiên, trong những năm qua đã có không ít quan điểm phê phán đường
lối cách mạng Việt Nam, phủ nhận, xuyên tạc mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH
mà và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân ta đã lựa
chọn. Nhất là từ khi mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sự sụp đổ càng có
nhiều quan điểm phủ nhận con đường cách mạng Việt Nam, phủ nhận mục tiêu
độc lập dân tộc và CNXH. Họ đòi phán xét lại lịch sử, cho rằng Đảng ta đưa đất
nước tiến lên CNXH là vội vàng. Một số người cho rằng, không thể đi theo con
đường XHCN, rằng “đưa dân tộc đi theo con đường XHCN là đưa dân tộc vào chỗ
chết”, nên chọn con đường tư bản chủ nghĩa… Đồng thời, có những quan điểm cho
rằng: sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc chưa vội tiến lên CNXH mà cần thực

hiện chế độ dân chủ nhân dân. Và hiện nay, không nên kiên định con đường
CNXH mà hãy quay lại thực hiện chế độ dân chủ nhân dân. Có quan điểm lại cho
rằng, đổi mới đất nước theo kinh tế thị trường là đưa đất nước phát triển theo con
đường TBCN. Thực chất các quan điểm trên đều nhằm mục đích phủ nhận mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa
chọn. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần nêu cao tinh thần cảnh giác, đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực phản động, cơ
hội, xét lại dưới mọi màu sắc, đồng thời phê phán, khắc phục những biểu hiện nhận
thức không đúng, dao động về con đường, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH
trong một bộ phận nhân dân ta.
Những gì mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức phấn đấu, thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước là đang xây dựng chế độ XHCN theo những đặc
trưng của CNXH mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH 1991
21

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tr. 65

17


đã xác định, đồng thời tiếp tục được cụ thể hóa, bổ sung, phát triển trong
Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội XI của Đảng (2011). Chúng ta thực
hiện đường lối đổi mới không phải để xa rời CNXH, mà để chúng ta càng vững
bước theo con đường XHCN. Đó chính là quá trình hiện thực hóa mục tiêu độc
lập dân tộc gắn liền với CNXH. Hiện nay và trong những năm tới, thời cuộc có
thể có nhiều đổi thay, nhưng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH mãi mãi là
mục tiêu, con đường duy nhất đúng đắn, là tất yếu lịch sử của dân tộc ta trong
thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh.
1.2. Lựa chọn con đường đi lên CNXH là phù hợp với đặc điểm của thời đại
hiện nay

Trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể hiện nay, nước ta có những điều kiện khách
quan bên ngoài và bên trong rất thuận lợi để quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN. Điều kiện bên ngoài là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ làm cho LLSX thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao, đã mở
đầu giai đoạn mới của quá trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong
lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện hiện thực để nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật
chất - kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới cho sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước. Trong điều kiện kinh tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ sở vật chất - kỹ
thuật, xã hội loài người đòi hỏi phát triển lên một xã hội mới của nền văn minh cao
hơn - đó là nền văn minh của kinh tế tri thức. Do đó, quá độ lên CNXH là con
đường phát triển hợp quy luật khách quan. Sau CNTB nhất định phải là một chế độ
xã hội tốt đẹp hơn - chế độ XHCN. Bối cảnh, điều kiện quốc tế mới nêu trên đã tạo
khả năng để Việt Nam chúng ta thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.
Điều kiện bên trong là nước ta đã giành được độc lập dân tộc, có chính quyền của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, đặc biệt là những thành
tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của 30 năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi tình
trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu
nhập trung bình, đang đẩy mạnh CNH, HĐH, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế
quốc tế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đây là điều kiện tiên
quyết, quyết định con đường quá độ lên CNXH ở nước ta.

18


Thời kỳ quá độ là thời kỳ mà trình độ phát triển kinh tế - xã hội chưa vượt
hoàn toàn khỏi tiến trình phát triển của CNTB, tiến trình đó phải được tiếp tục đẩy
mạnh dưới chính quyền của nhân dân, mà hình thức thích hợp nhất là CNTB nhà
nước và kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước XHCN theo định hướng
XHCN. Đó cũng là tư tưởng cốt lõi của Chính sách kinh tế mới (NEP) trong

TKQĐ lên CNXH do V.I.Lênin vạch ra.
Nói “nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN” có nghĩa là trong lịch
sử nước ta không có một giai đoạn nào mà trong đó, giai cấp tư sản nắm chính
quyền và QHSX TBCN giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế. “Con đường đi lên của
nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc
xác lập vị thế thống trị của QHSX và KTTT TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và
công nghệ, để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại” 22. Con đường
đi lên CNXH ở nước ta, gọi là TKQĐ với ý nghĩa là đất nước ta phải trải qua một
trạng thái xã hội mang tính trung gian, chuyển tiếp giữa HTKTXH cũ và HTKTXH
mới, trong đó nền kinh tế là nền kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần kinh tế.
TKQĐ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN thực chất là Nhà nước ta tự đảm nhận
nhiệm vụ lịch sử phát triển sức sản xuất của xã hội, tự tạo lập những điều kiện vật
chất của sản xuất và những quan hệ xã hội tương ứng với điều kiện vật chất ấy, làm
cơ sở hiện thực cho CNXH. Nghĩa là, dù nước ta không qua giai đoạn phát triển
TBCN với tư cách là một HTKTXH thống trị, nhưng về phương diện kinh tế phải
tôn trọng quá trình phát triển tự nhiên của nền kinh tế, không thể bỏ qua việc phát
triển sức sản xuất xã hội, xã hội hóa sản xuất trong thực tế. Song, những thành tựu
của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, sự hợp tác kinh tế quốc tế đa
phương, đa dạng cho phép chúng ta tận dụng đại công nghiệp của cả thế giới để có
thể “rút ngắn” quá trình phát triển kinh tế đất nước. Sự phát triển “rút ngắn” chỉ có
nghĩa là đẩy nhanh tương đối quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, bằng những khâu
trung gian, những hình thức, bước đi quá độ - được coi là cực kỳ cần thiết và có tác
dụng sắc bén đối với những nước mà sản xuất nhỏ là phổ biến đi lên CNXH. Hình
thức kinh tế trung gian, quá độ điển hình - đó là CNTB nhà nước. Đồng thời, phải
tôn trọng và vận dụng sáng tạo những tính quy luật của quá trình phát triển từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN.
22

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr 21.


19


Thực tiễn những thành tựu của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới đã chứng minh, khẳng định con đường đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN
là hoàn toàn đúng đắn. Sau 30 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ XII khẳng
định: “đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” 23.
Nhờ có đường lối cách mạng đúng đắn, được xây dựng trên cơ sở khoa học là
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng Cộng sản, với sự nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân, “đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát
triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá,
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bưóc hình thành, phát
triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn
hoá - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đòi sống của nhân dân có
nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở
rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây
dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy
mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên quyết, kiên trì
đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ
xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị
thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao” 24.
Như vậy, cả từ phương diện lý luận, thực tiễn vận động của lịch sử nhân
loại suốt thế kỷ XX, thập niên đầu thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử đấu
tranh giải phóng, xây dựng đất nước ở Việt Nam, việc nước ta quá độ lên CNXH
bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu khách quan, là hoàn toàn phù hợp với xu thế
của thời đại, với đặc điểm lịch sử - cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng

khát vọng của nhân dân ta.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng TW Đảng, Hà Nội, 2016,
Tr.65.
24
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng TW Đảng, Hà Nội, 2016,
Tr.65-66.
23

20


2. Một số giải pháp cơ bản vận dụng HTKTXH vào việc giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
HTKTXH đã chỉ rõ cơ cấu cơ bản của bất kỳ một xã hội cụ thể nào cũng
bao hàm các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, QHSX, cơ sở hạ tầng và KTTT, các
mặt cơ bản đó luôn tồn tại trong thể thống nhất biện chứng tác động ảnh hưởng lẫn
nhau và sự vận động của chúng tạo nên sự vận động phát triển của toàn bộ xã hội.
Trong các mặt cơ bản đó, xét cho tới cùng các nhân tố kinh tế bao giờ cũng giữ vai
trò quyết định. Các nhân tố chính trị tư tưởng, xã hội lại có sự tác động trở lại rất
quan trọng tới sự vận động phát triển của kinh tế. Do vậy, vận dụng học thuyết nhằm
tìm ra các giải pháp giữ vững và thực hiện con đường phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta, thực chất là trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng đắn các
quy luật khách quan về lực lượng sản xuất với QHSX, cơ sở hạ tầng với KTTT để
tìm giải pháp phát triển của các mặt cơ bản đó.
2.1. Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
Đảng Cộng sản là hạt nhân trong hệ thống chính trị XHCN, phát huy vai
trò của chính trị đối với kinh tế, trước hết phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với xã hội là
nhân tố hàng đầu giữ vững định hướng XHCN ở Việt Nam. Thực tiễn của cách

mạng Việt Nam từ khi có Đảng chứng minh rằng vị trí lãnh đạo của Đảng là không
thể thay thế (cả trong cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa).
Bởi vì Đảng cộng sản Việt Nam là đại biểu cho lợi ích của toàn thể quốc gia, dân
tộc. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chỉ có giữ vững sự lãnh đạo
của Đảng mới bảo đảm các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của đất nước
phát triển theo đúng quỹ đạo của CNXH. Bài học lịch sử từ sự đổ vỡ của CNXH ở
Liên Xô và Đông Âu trước đây cho thấy nếu hạ thấp vai trò, hoặc coi thường, hay
phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng thì sớm hay muộn đất nước sẽ rối loạn, và sự
đổ vỡ của chế độ XHCN là không thể tránh khỏi.
Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải
kết hợp biện chứng giữa hai mặt “xây” và “chống”. Trong đó, tập trung thực hiện

21


mục tiêu “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và
đạo đức”25 là nhiệm vụ hàng đầu. Đảng phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới để theo kịp
sự vận động của tình hình. Chống âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch muốn
phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận CNXH. Chống những yếu kém tiêu
cực, sự suy thoái về phẩm chất đạo đức làm suy giảm sức chiến đấu của Đảng.
Trong tình hình hiện nay, Nghị quyết Đại hội XII xác định cần “Đẩy mạnh hơn
nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI” 26. Và để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, bên cạnh thực hiện tốt các giải pháp mà Đại hội XI đã đề ra,
cần thực hiện tốt hai giải pháp mới mà Đại hội XII bổ sung đó là: 1) Tiếp tục đổi
mới nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng
với nhân dân (với tư tưởng đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thực sự tin dân, trọng
dân, gần dân, hiểu dân, hiểu dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với nhân dân). 2)
Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí (với tư tưởng kiên quyết,
kiên trì xây dựng cơ chế phòng ngừa để không thể tham nhũng, cơ chế răng đe,

trừng trị để không dám tham nhũng).
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân do dân, vì
dân vững mạnh. Cùng với không ngừng củng cố đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
việc xây dựng và tăng cường sức mạnh của Nhà nước pháp quyền XHCN có vị trí
quan trọng trong giữ vững định hướng XHCN và thực hiện mục tiêu CNXH. Nhà
nước là một bộ phận quan trọng nhất trong KTTT của xã hội, có tác động đến mọi
mặt của đời sống xã hội, nếu không xây dựng được Nhà nước ta vững mạnh thì
không thể giữ vững ổn định chính trị, thậm chí là nguy cơ cho sự sụp đổ của cả chế
độ. Bài học kinh nghiệm xương máu từ sự đổ vỡ của Liên Xô và Đông âu trước
đây đã cho thấy rõ điều đó. Xây dựng Nhà nước ta vững mạnh, hoạt động hiệu quả
chính là một nhân tố cực kỳ quan trọng bảo đảm sự phát triển kinh tế - xã hội và sự
hoàn thiện của chế độ dân chủ XHCN trên thực tế. Để xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân cần:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế
vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Phân định rõ hơn vai trò và hoàn thiện cơ chế giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà
nước và thị trường.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng TW Đảng, Hà Nội, 2016,
Tr.202.
26
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng TW Đảng, Hà Nội, 2016,
Tr.198-199.
25

22


Thứ hai, xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà
nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực trên cơ sở quyền lực nhà nước là
thống nhất.

Thứ ba, đẩy mạnh chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước theo
hướng xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, năng động,
phục vụ nhân dân, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh Chiến lược
cải cách tư pháp theo hướng xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân
chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại.
Thứ tư, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước. Thực
hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện; mở rộng
đối tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản lý. Xây dựng cơ chế, chính sách đãi
ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài.
2.2. Phát triển kinh tế là trung tâm, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền
kinh tế gắn với phát triển kinh tế tri thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để,
toàn diện xã hội cũ thành xã hội mới. Để thực hiện mục tiêu tiến lên CNXH trong
TKQĐ thì phải hoàn thành tốt những nhiệm vụ cơ bản. Một trong những nhiệm vụ
đó là: Phát triển LLSX, coi CNH, HĐH đất nước là nhiệm vụ trung tâm của cả
TKQĐ vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đại hội IX (năm 2001) Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế
tổng quát trong suốt TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam. Đại hội XII của Đảng tiếp tục
làm rõ: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”27.
Quan điểm trên là một tất yếu lịch sử, phù hợp với quy luật khách quan của
TKQĐ lên CNXH. Bởi vì trong TKQĐ những điều kiện ra đời, tồn tại của kinh tế
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng TW Đảng, Hà Nội, 2016,
Tr.102-103.
27

23



hàng hoá vẫn còn. Mặt khác, phát triển kinh tế thị trường sẽ có tác dụng phá vỡ
tính chất tự cấp, tự túc của nền kinh tế, đẩy mạnh phân công lao động xã hội, thúc
đẩy LLSX phát triển mạnh mẽ. Đây là nấc thang tất yếu của sự phát triển từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn, là bước quá độ để đi lên CNXH, đó thực sự là một
nhiệm vụ kinh tế cấp bách ở nước ta.
Điều quan trọng ở đây cần có nhận thức đúng đắn nhằm bác bỏ quan điểm
đồng nhất kinh tế thị trường với CNTB, phát triển kinh tế thị trường là đi theo
CNTB là xa rời mục tiêu của CNXH. Bởi thực chất, kinh tế thị trường và CNTB là
hai thực thể, hai động lực kinh tế hoàn toàn khác nhau, không đồng nhất với nhau
và càng không thể coi kinh tế thị trường là sản phẩm riêng có của CNTB.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là quá trình diễn ra một
cách rộng lớn, phức tạp và toàn diện. Có sự kết hợp giữa bước đi tuần tự với bước
đi nhảy vọt, kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng với phát triển theo chiều sâu,
kết hợp giữa biến đổi về lượng với biến đổi về chất.
Khi khẳng định vai trò của sản xuất vật chất đối với đời sống xã hội Mác đã
đưa ra luận điểm: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản
xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao
động nào”28. V.I. Lênin cũng đã khẳng định: Thời kỳ quá độ là thời kỳ đấu tranh
giữa CNXH mới ra đời nhưng còn non yếu với CNTB đã bị đánh bại nhưng chưa
bị tiêu diệt hoàn toàn, vì vậy cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa CNXH và CNTB
diễn ra rất phức tạp, gay go và quyết liệt. Tính chất, mức độ đấu tranh để giải quyết
mâu thuẫn tuỳ thuộc vào so sánh lực lượng kinh tế - giai cấp trong điều kiện lịch
sử cụ thể của mỗi nước trong từng giai đoạn. Theo Lênin, để giành thắng lợi hoàn
toàn và triệt để thì CNXH phải tạo ra cho mình một NSLĐ cao hơn CNTB. Chính
vì vậy, đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay, tiến hành CNH, HĐH gắn với
phát triển kinh tế tri thức để phát triển LLSX, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
CNXH là một tất yếu khách quan. Trong khi khẳng định vai trò của LLSX, lý luận
HTKTXH còn chỉ ra sự phát triển của LLSX phải gắn liền với việc xác lập QHSX

phù hợp. Trong văn kiện Đại hội XI Đảng ta khẳng định: “Phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất, với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn
thiện QHSX trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”29 .
28
29

C.Mác, Ph.Ăng ghen, Toàn tập, Tập 1, NXB Sự Thật, H.1973, tr.338.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.101.

24


Công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá như một quá trình thống nhất.
Một mặt, đó là quá trình xây dựng nền công nghiệp hiện đại, tức là tạo nền tảng vật
chất, kỹ thuật (LLSX) của nền kinh tế; mặt khác đó là quá trình cải cách thể chế và
cơ chế kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, sang kinh tế thị trường và mở
cửa hội nhập.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta cần và có thể được “rút ngắn”.
Việc cần được “rút ngắn” ở đây là đòi hỏi khách quan để đất nước thoát khỏi tình
trạng tụt hậu, kém phát triển. Điều kiện trong nước và quốc tế tạo cơ hội cho ta
phát triển rút ngắn, quá trình đó bao gồm hai mặt: một mặt, chúng ta có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao hơn các nước đi trước liên tục trong một thời gian dài để rút
ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ so với các nước đó; mặt khác có điều
kiện lựa chọn và áp dụng một phương thức CNH, HĐH cho phép rút ngắn thời
gian (bỏ qua một số bước đi tuần tự), để đạt tới một nền kinh tế có trình độ phát
triển cao hơn.
Quá trình CNH, HĐH có quan hệ chặt chẽ với quá trình phát triển kinh tế
tri thức. Đó là nền kinh tế có trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội
đòi hỏi lao động giảm bớt hao phí cơ bắp và tăng hàm lượng tri thức, hao phí lao
động trí óc tăng lên vô cùng lớn. Tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là

vốn quý nhất, là nguồn lực quan trọng hàng đầu quyết định sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Vì vậy, phải phát triển kinh tế tri thức, tạo điều kiện cho việc thực
hiện mô hình CNH, HĐH “rút ngắn” ở nước ta.
2.3. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh
Tổng kết 15 năm thực hiện nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII, sự nghiệp
xây dựng, phát triển văn hoá, con người Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả to
lớn. Tư duy về văn hoá có bước phát triển, nhận thức về văn hoá của các cấp, các
ngành và toàn dân được nâng lên. Đời sống văn hoá của nhân dân ngày càng phong
phú. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn
mực văn hoá, đạo đức mới được hình thành. Công tác quản lý nhà nước về văn hoá
được tăng cường, thể chế văn hoá từng bước được hoàn thiện. Giao lưu và hợp tác
quốc tế về văn hoá có nhiều khởi sắc.

25


×