Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghiên cứu bệnh đốm đen (Phaeoisariopsis personata) hại lạc tại Nghệ An (Tóm tắt LA tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.8 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

NGÔ THỊ MAI VI

NGHIÊN CỨU BỆNH ĐỐM ĐEN
(Phaeoisariopsis personata) HẠI LẠC TẠI NGHỆ AN

CHUYÊN NGÀNH : BẢO VỆ THỰC VẬT
MÃ SỐ
: 62 62 01 12

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

HÀ NỘI, 2017


Công trình hoàn thành tại:
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Người hướng dẫn: PGS.TS. NGUYỄN VĂN VIÊN

Phản biện 1:

PGS.TS. Ngô Bích Hảo
Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Phản biện 2:

PGS.TS. Nguyễn Kim Vân
Hội Khoa học kỹ thuật Bảo vệ thực vật Việt Nam


Phản biện 3:

TS. Hà Minh Thanh
Viện Bảo vệ thực vật

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp Học viện họp tại:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Vào hồi giờ, ngày

tháng

năm 2017

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Nông nghiệp Việt Nam


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Bệnh đốm đen do nấm Phaeoisariopsis personata (giai đoạn vô tính) hay
Mycosphaerella berkeleyi (giai đoạn hữu tính) là một trong các bệnh hại lá nguy hiểm
nhất đối với cây lạc trên toàn thế giới. Thiệt hại năng suất do bệnh đốm đen trên toàn
cầu ước tính gần 3 triệu USD (CABI, 2006).
Mức độ thiệt hại năng suất của bệnh đốm đen hại lạc thay đổi từ 10 – 80%, tùy
theo khu vực và vụ trồng (CABI, 2006; Zhang, 2001; Dwivedi, 2003; Pensuk, 2003;
Khedikar, 2010).
Trên đồng ruộng, nấm tạo cả 2 giai đoạn sinh sản vô tính và hữu tính nhưng
bào tử phân sinh hình thành từ tàn dư tồn tại trong đất là nguồn bệnh quan trọng
nhất. Nhìn chung, nấm gây bệnh đốm đen không truyền qua hạt nhưng được xem là

tác nhân truyền qua đất. Khi bắt đầu vụ trồng, bào từ phân sinh nấm từ tàn dư trong
đất sẽ nhiễm các lá phía dưới và nhanh chóng phát tán lên các lá phía trên và có thể
gây tàn lụi bộ lá nếu điều kiện ngoại cảnh thuận lợi (McDonald et al., 1985).
Tác nhân gây bệnh đốm đen là một loài nấm túi thuộc nhóm sinh dưỡng
“biotrophe” và quan hệ của nấm với cây lạc tuân theo quan hệ gen đối gen điển hình.
Hiện nay đã có một số nghiên cứu trên thế giới về tính kháng của cây lạc đối với nấm
gây bệnh đốm đen ((Dwivedi et al., 2002; Mace et al., 2006; Mondal and
Badigannavar 2009; Mondal et al., 2009; Mallikarjuna et al., 2012).
Các chủng nấm khác nhau về nền di truyền có thể có phản ứng mẫn cảm khác
nhau đối với thuốc hóa học cũng như khác nhau về tính gây bệnh trên các giống cây
(Adiver et al., 2009). Vì vậy, mức độ đa dạng về các đặc điểm sinh học cũng như di
truyền của nấm gây bệnh đốm đen nói riêng và tác nhân gây bệnh nói chung cần phải
được nghiên cứu để áp dụng hiệu quả các biện pháp phòng chống nhưng có rất ít
nghiên cứu về mức độ đa dạng của nấm gây bệnh được thực hiện. Cho tới nay, mới
chỉ có 2 nghiên cứu về mức độ đa dạng phân tử của nấm gây bệnh đốm đen hại lạc tại
Ấn Độ dựa trên phân tích RAPD (Adiver et al., 2009) và phân tích phổ isozyme
(Adiver et al., 2008). Tương tự cũng chỉ có 2 nghiên cứu về mức độ biến động về
tính gây bệnh của nấm gây bệnh đốm đen (Hossain, 1997; Hossain and Ilag, 2000).
Tại Nghê ̣ An nói riêng và Việt Nam nói chung, bệnh đốm đen hại lạc xuất hiện
và gây hại phổ biến trên đồng ruộng. Tuy nhiên, cho tới nay, chưa có một công trình
nào nghiên cứu sâu và thực hiện một cách hệ thống về bệnh này ở Việt Nam. Bên
ca ̣nh đó, do bệnh hiếm khi làm chết cây nên người dân cũng như các cơ quan chuyên
môn chưa thâ ̣t sự ý thức đươ ̣c tác ha ̣i của nhóm bê ̣nh ha ̣i lá đế n năng suấ t và phẩ m
chấ t la ̣c. Chı́nh vı̀ vậy, công tác chı̉ đa ̣o trong phòng trừ bê ̣nh chưa phù hơ ̣p dẫn đế n
sự giảm sút nghiêm tro ̣ng về năng suất cũng như phẩ m chấ t la ̣c của vùng.
Xuất phát từ cơ sở khoa học và thực tiễn trên, việc nghiên cứu về bệnh đốm
đen hại lạc là cần thiết ở Việt Nam. Nghiên cứu này tập trung vào đánh giá thiệt hại,
mức độ đa dạng của nấm cũng như đánh giá một số biện pháp phòng trừ bệnh trong
điều kiện tỉnh Nghệ An.
1



Các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là cơ sở để nghiên cứu và ứng dụng các
biện pháp trừ bệnh đốm đen nhằm phòng chống hiệu quả sự phát triển, lây lan của
bệnh trên đồng ruộng, góp phần làm tăng năng suất và phẩm chất lạc.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đánh giá được thiệt hại, mức độ đa dạng và biện pháp phòng trừ nấm P.
personata gây bệnh đốm đen hại lạc tại Nghệ An.
1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Bệnh đốm đen hại lạc do nấm P. personata gây ra.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về đa dạng phân tử, đặc tính sinh học, tính gây
bệnh và một số biên pháp phòng chống nấm P. personata.
1.3.3. Địa điểm, thời gian nghiên cứu
Điều tra, đánh giá tác hại và nghiên cứu về bệnh đốm đen hại lạc tại Nghệ An.
Mẫu bệnh đốm đen được thu thập tại Nghệ An và một số tỉnh khác như Lào Cai,
Thanh Hóa, Hà Tĩnh và Đồng Nai.
Đề tài được thực hiện từ năm 2012 đến năm 2015.
1.4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài đã đánh giá được thiệt hại năng suất do bệnh đốm đen gây ra đối với cây
lạc ngoài đồng ruộng tại Nghệ An. Trên giống lạc L14, bệnh đốm đen có thể làm
giảm năng suất tới 30,24% trong vụ xuân và tới 49,90% trong vụ thu.
Bổ sung thông tin về phân loại nấm đốm đen hại lạc tại Nghệ An. Trình tự vùng
gen ITS của 11 mẫu nấm thu thập đã cho thấy chúng thuộc loài Phaeoisariopsis
personata (giai đoạn vô tính) hay Mycosphaerella berkeleyi (giai đoạn hữu tính).
Dựa trên phân tích Rep - PCR cũng đã chứng tỏ quần thể nấm ở Nghệ An có
mức độ đa dạng thấp và không có mối quan hệ giữa các nhóm phả hệ với đặc điểm
hình thái, nguồn gốc của câc mẫu nấm thu thập.
Xác định được các đặc điểm sinh học và dịch tễ đặc trưng của nấm P. personata

tại Nghệ An. Trong đó, khám phá khoa học quan trọng nhất là xác định được dạng
sinh sản hữu tính của nấm chưa phát hiện thấy trong điều kiện tự nhiên tại Nghệ An.
Kết quả nghiên cứu của luận án đã chứng tỏ thuốc hoạt chất Carbendazime, dịch
chiết thực vật từ cây cà độc được (Datura metel) và cây trầu không (Piper betel) có
khả năng phòng chống hiệu quả nấm P. personata trong điều kiện phòng thí nghiệm,
trong nhà lưới cũng như ngoài đồng ruộng. Ở ngoài đồng ruộng, có hai thời điểm xử
lý bệnh đốm đen hiệu quả nhất, bao gồm phun khi cây mọc 5 tuần, 6 tuần hoặc khi
cây mọc 8 tuần và 9 tuần.
1.5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.5.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài đã bổ sung, đóng góp mới những dữ liệu khoa
học về định danh nấm đốm đen bằng giải trình tự vùng ITS. Đặc biệt, dựa trên phân
tích Rep - PCR đã chứng tỏ quần thể nấm ở Nghệ An có mức độ đa dạng thấp và
2


không có mối quan hệ giữa các nhóm phả hệ với đặc điểm hình thái, nguồn gốc của
câc mẫu nấm thu thập. Kết quả nghiên cứu này gợi ý đối với nấm gây bệnh đốm đen
hại lạc ở Nghệ An, các biện pháp quản lý bệnh có thể được áp dụng đồng loạt trên
toàn tỉnh và tạo hiệu quả phòng chống giống nhau.
1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài đã xác định được các đặc điểm sinh học, dịch tễ đặc trưng của nấm, đánh
giá được thiệt hại năng suất do bệnh đốm đen gây ra đối với cây lạc và nghiên cứu biện
pháp phòng trừ bệnh một cách hệ thống. Kết quả nghiên cứu của đề tài đã khẳng định
được tầm quan trọng của bệnh đồng thời giải thích được sự gây bệnh của nấm P.
personata hại lạc trên đồng ruộng, tìm ra thời điểm xử lý bệnh hiệu quả, từ đó làm cơ
sở cho việc đề xuất và áp dụng các biện pháp phòng trừ nhằm giảm thiểu thiệt hại của
bệnh một cách hiệu quả, góp phần nâng cao năng suất và phẩm chất lạc.
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT LẠC TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM

Cây lạc đứng hàng thứ hai sau cây đậu tương trong số các cây trồng ngắn ngày
lấy dầu thực vật (cả về diện tích và sản lượng) và được trồng rộng rãi ở hơn 100 quốc
gia trên thế giới.
Theo số liệu của Tổ chức Nông Lương Thế giới (2013), từ năm 2000 đến
2012, cùng với sự gia tăng về năng suất, sản lượng lạc thế giới cũng tăng lên, đạt
cao nhất là 38,4 triệu tấn (năm 2008), sau đó giảm xuống cùng với sự tụt giảm
diện tích trồng, do đó sản lượng lạc năm 2010 chỉ đạt 35,9 triệu tấn (FAO, 2013).
Các nước có sản lượng lạc lớn nhất trong niên vụ 2011/2012 là Trung Quốc, Ấn Độ,
Nigeria và Mỹ. Trung Quốc là nước đứng đầu với 16,8 triệu tấn, tiếp theo là Ấn Độ với
5,78 triệu tấn và Việt Nam là nước đứng thứ 12 với sản lượng 0,47 triệu tấn (FAO, 2013).
Sản xuất lạc tại Việt Nam được phân bố ở hầu hết các vùng sinh thái nông
nghiệp với diện tích trồng lạc chiếm khoảng 28% tổng diện tích cây công nghiệp
hàng năm, tập trung chủ yếu ở các vùng như Duyên hải Nam Trung Bộ, Đồng bằng
sông Hồng, Trung du và miền núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam (2013), trong vòng 10 năm từ
2002-2012, mặc dù diện tích giảm từ 246,7 nghìn ha (năm 2002) xuống còn 220,5
nghìn ha (năm 2012) nhưng sản xuất lạc ở Việt Nam đã có những bước chuyển biến
tích cực về năng suất, tăng từ 1,62 tấn/ha (năm 2002) lên 2,13 tấn/ha (năm 2012). Sản
lượng tăng từ 400,4 nghìn tấn (năm 2002) lên 470,6 nghìn tấn (năm 2012). Năm 2012,
năng suất lạc bình quân cả nước đạt cao nhất là 2,13 tấn/ha. Sản lượng lạc của cả nước
đạt cao nhất vào năm 2008 với 530,2 nghìn tấn (bảng 2.2).
2.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ BỆNH ĐỐM ĐEN HẠI LẠC
Năm 1985, Ellis và Everhad khi kiểm tra mẫu bệnh ở Alabama và Nam
Carolina đã có kết luận rằng nấm bệnh thuộc loại Cercospora sp. và đặt tên là
Cercospora personatum. Hiện nay, tên nấm này được đổi thành Phaeoisariopsis
personata (giai đoạn vô tính) hay Mycosphaerella berkeleyi (giai đoạn hữu tính).
3


Theo số liệu của Trung tâm Sinh học Nông nghiệp Quốc tế (CABI, 2006), tính

trên toàn thế giới, bệnh đốm nâu và đốm đen có thể làm giảm năng suất lạc từ 10 - 80%,
con số này thay đổi tùy theo từng khu vực và mùa vụ khác nhau. Theo Khedikar et al.
(2010), khi cây lạc vừa bị ảnh hưởng của bệnh rỉ sắt và bệnh đốm đen thì năng suất có
thể giảm 50 - 70%. Ở Pakistan, khi tỷ lệ cây nhiễm bệnh đốm đen lên đến 87,2% thì thiệt
hại năng suất lên đến 70% (Ijaz et al., 2011). Ở Bangladesh, bệnh đốm lá lạc do nấm C.
arachidicola và C. personatum làm giảm năng suất lạc từ 30 - 48% (Hasan et al., 2016).
Ở Việt Nam, theo Mehan and Hong (1994), bệnh rỉ sắt Puccinia arachidis và
bệnh đốm đen hại lạc Phaeoisariopsis personata là hại bệnh hại lá chính trên lạc,
phân bố ở khắp các vùng trồng trong cả nước. Hai bệnh này kết hợp với nhau làm
giảm 30 - 70% năng suất lạc
Bệnh đốm đen có thể gây hại ở tất cả các bộ phận trên mặt đất của cây lạc như
thân, cành nhưng lá là bộ phận bị hại nặng nhất. Nấm sản sinh ra độc tố Cercosporin
kìm hãm sự hoạt động của lá gây hiện tượng rụng lá sớm.
Bệnh có thể phát sinh gây hại ở ngưỡng nhiệt độ 18 - 35oC và nhiệt độ tối thích
là 18 - 23oC (Pande et al., 2004). Trên đồng ruộng, nấm tạo cả 2 giai đoạn sinh sản vô
tính và hữu tính nhưng bào tử phân sinh hình thành từ tàn dư tồn tại trong đất là
nguồn bệnh quan trọng nhất (CABI, 2006). Các cây ký chủ của bệnh đốm đen mới
được ghi nhận ở các loài thực vật thuộc chi Arachis mà chưa ghi nhận ở các loài thực
vật nào khác ngoài chi Arachis này (Arsule and Pande, 2012).
Theo Abdou and Cooper (1974) và Butler et al. (1994), nấm C. personatum
sinh trưởng và sinh bào tử tốt nhất trên môi trường WA + PLX và OMA + PLX ở
ngưỡng nhiệt độ 25°C. Kết quả nghiên cứu của Abdou and Cooper (1974) cũng cho
thấy, nấm C. personatum sinh bào tử tốt nhất khi nuôi cấy ở điều kiện chiếu sáng
hoàn toàn nhưng khi nuôi cấy ở điều kiện tối hoàn toàn thì nấm không sinh bào tử..
Tác giả Zhang et al. (2001) đã tiến hành thí nghiệm lây nhiễm nhân tạo nấm
gây bệnh đốm đen hại lạc C. personatum lên giống lạc Florunner trong nhà lưới, ở
điều kiện nhiệt độ 25 - 28oC, cường độ chiếu sáng 14h/ngày, sau đó đánh giá mức độ
bệnh ở 3, 4, 5, 6, 7 và 8 tuần tuổi. Kết quả cho thấy, chỉ số bệnh trên cây 5 tuần tuổi
đạt cao nhất. Khi lây nhiễm với nồng độ 1,6 × 105 bào tử/ml thì chỉ số bệnh cao hơn
so với công thức lây nhiễm với mật độ độ 1,6 × 103 bào tử/ml và 1,6 × 104 bào tử/ml.

2.3. NHỮNG NGHIEN CỨU VỀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ BỆNH ĐỐM ĐEN
* Biện pháp canh tác
Biện pháp canh tác như vệ sinh đồng ruộng, thu dọn tàn dư cây bệnh và nhổ bỏ cỏ dại
có tác dụng phòng chống hiệu quả bệnh đốm đen (CABI, 2006; Gaddamwad et al., 2014).
* Sử dụng giống kháng
Sử dụng giống kháng bệnh được coi là ưu tiên hàng đầu trong phòng chống
bệnh đốm đen hại lạc. Nhiều tác giả trên thế giới đã chỉ ra rằng, sử dụng giống kháng
bệnh có hiệu quả nhất. Nhiều dòng/giống lạc kháng bệnh đã được nghiên cứu và đưa
vào trong sản xuất như LGN123, LGN184, LGN117, GPBD4, VG9816, RHRGS
06083, RHRGS 06092, ICG 5286, ICG 2273, ICG 111426 và ICG 6022 (Kukanur et
al., 2014; Kahate et al., 2015).
4


Ở Việt Nam, Lưu Minh Cúc (2009) đã nghiên cứu chỉ thị vi vệ tinh trong lập
bản đồ gen kháng bệnh đốm đen ở cây lạc. Phân tích đa dạng di truyền 32 giống lạc
cho kết quả 46/104 chỉ thị cho đa hình giữa các giống. Sử dụng phương pháp chọn
giống truyền thống kết hợp chỉ thị phân tử rút ngắn được thời gian chọn giống và
chọn ra 17 dòng mang gen kháng bệnh.
* Sử dụng nấm đối kháng
Trong số các nấm đối kháng có khả năng ứng dụng trong phòng chống bệnh cây,
nấm Chaetomium có tiềm năng lớn. Nấm Chaetomium là một trong những loại nấm túi
hoại sinh lớn nhất với trên 300 loài đã được mô tả (von Arx, Guarro et al. 1986).
Một số loài Chaetomium, chủ yếu là các chủng thuộc 2 loài C. Globosum và C.
cupreum đã được chứng tỏ có hoạt tính ức chế nhiều loài nấm gây bệnh cây truyền
qua đất như Phytophthora spp., Pythium ultimum, Sclerotium rolfsii, Rhizoctonia
solani, Fusarium oxysporum f. sp. lycopersici và một số nấm hại phần trên mặt đất
như Venturia inequalis, Pyricularia oryzae, Botritis cinera, Phomopsis,
Colletotrichum (Soytong et al., 2001; Aggarwall et al., 2004). Tuy nhiên, chưa có bất
cứ nghiên cứu nào về sử dụng nấm Chaetomium trong phòng chống bệnh đốm đen

hại lạc do nấm P. personata gây ra đã được công bố.
* Sử dụng dịch chiết thực vật
Theo Singburaudom (2015), hoạt chất hydroxychavicol trong dịch chiết thô từ lá
trầu không là thành phần có hoạt tính chống nấm gây bệnh thực vật. Tác giả đã đánh
giá tính kháng của dịch chiết đối với một số loại nấm như Colletotrichum
gloeosporioides, Rhizoctonia solani, Fusarium oxysporum f. sp. cubense, Sphaceloma
ampelinum, v.v... Kết quả cho thấy, dịch chiết xuất thô từ lá trầu không ức chế sự hình
thành sợi nấm và sự nảy mầm của bào tử. Ở nồng độ 1% và 10%, dịch chiết lá trầu
không có khả năng ức chế 100% các loại nấm thử nghiệm trong điều kiện in vitro.
Theo Kishore et al. (2001), dịch chiết từ lá cà độc dược (Datura metel L.) có tác
dụng tốt trong việc ức chế khả năng nảy mầm của nấm gây bệnh đốm đen hại lạc. Khi
thử nghiệm với các nồng độ từ 0,01 - 10%, sau 24h, khả năng ức chế sự nảy mầm của
nấm gây bệnh đốm đen đều đạt kết quả tốt, từ 93,9 - 100%. Nồng độ dịch chiết 2% có
khả năng ức chế hơn 60% sự hình bào tử của nấm P. personata gây bệnh đốm đen hại
lạc trong điều kiện nhà lưới. Ở ngoài đồng ruộng, sử dụng dịch chiết từ lá cà độc dược
(D. metel L.) có khả năng ức chế tỷ lệ bệnh và chỉ số bệnh đối với nấm P. personata
gây bệnh đốm đen hại lạc đến khi thu hoạch (115 ngày sau trồng).
Theo Kishore and Pande (2005), ở ngoài đồng ruộng, sử dụng dịch chiết cà độc
dược (D. metel L.) phun lên cây lạc ở các thời điểm 45, 60, 75 và 90 ngày sau trồng
đều có hiệu quả phòng trừ bệnh đốm đen do nấm P. personata đến 95 ngày sau trồng.
* Phòng chống bằng chất kích kháng
Theo Zhang et al. (2001), lây nhiễm nấm gây bệnh đốm đen hại lạc C.
personatum trong điều kiện nhà lưới, sau đó xử lý bằng các chất kích kháng như
salicylic acid, sodium salicylate, isonicotinic acid, or benzo [1,2,3]thiadiazole-7carbothioc acid S-methyl ester (Actigard) khi cây được 4 tuần tuổi. Các chất kích
5


kháng SA, NaSA, BABA và INA được xử lý với nồng độ 0,5; 1,0; 1,5 và 2,0 mg/ml;
trong khi đó Actigard được xử lý với nồng độ 0,05; 0,10; 0,15 và 0,20 mg/ml. Kết
quả thí nghiệm cho thấy, mức giảm chỉ số bệnh đốm đen hại lạc không có sự sai khác

rõ ràng giữa các công thức thí nghiệm. Khi xử lý các chất kích kháng đối với bệnh
đốm đen hại lạc C. personatum thì cây lạc không tạo cảm ứng hệ thống giống như
một số loại cây trồng khác.
* Phòng chống bằng thuốc hoá học
Thuốc hóa học có hiệu quả cao trong phòng chống bệnh đốm đen và được sử
dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Theo Johnson and Subrahmanyam (2003),
sử dụng hexaconazole (nồng độ 0,2%) phun vào thời điểm cây được 60 ngày và 75
ngày tuổi, chỉ số bệnh đốm lá lạc là 18,8% và năng suất tăng lên 43%. Theo
Pappachan et al. (2015), phun thuốc BVTV thuộc nhóm carbendazim (0,1%),
carbendazim + mancozeb (0,2%), difenconazole (0,1%) và tebuconazole (0,1%) có
hiệu quả cao trong phòng trừ bệnh đốm đen hại lạc, trong đó phun thuốc
carbendazime (0,1%) có năng suất lạc cao nhất và có hiệu quả kinh tế cao nhất.
PHẦN 3. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. VẬT LIỆU, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
3.1.1. Vật liệu, thiết bị và hóa chất nghiên cứu
- Vật liệu nghiên cứu: Giống lạc trồng phổ biến tại Nghệ An (giống L14 và
giống Sen Lai) và 33 mẫu lá lạc bị bệnh đốm đen được thu thập tại Nghệ An và một
số tỉnh khác như Lào Cai, Thanh Hóa, Hà Tĩnh và Đồng Nai.
- Thiết bị nghiên cứu: Máy PCR, tủ lạnh bảo quản mẫu, nồi hấp khử trùng môi
trường, buồng nuôi cấy nấm, kính hiển vi, bể ổn nhiệt, v.v...
- Hoá chất dùng trong kỹ thuật PCR và các hóa chất khác như thuốc bảo vệ thực
vật (Topsin M 70WP, Anvil 5SC, Daconil 75WP, Carbenvil 50SC), chất kích kháng:
Salicylic acid, Bion 50WG, Oligochitosan, Aliette 800WG (Aliette 800WG là thuốc
trừ bệnh nhưng cơ chế tác động của thuốc có khả năng kích kháng nên trong nội dung
nghiên cứu của luận án đã sử dụng Aliette 800WP như chất kích kháng).
- Chế phẩm sinh học: Chế phẩm Ketomium và chế phẩm EMINA
- Dịch chiết thực vật: Dịch chiết lá cà độc được (Datura metel L.) và lá trầu
không (Piper betle L.).
- Môi trường nuôi cấy: WA, PDA, OMA, v.v...
3.1.2. Địa điểm nghiên cứu

+ Điều tra đồng ruộng, đánh giá thiệt hại của bệnh và các thí nghiệm phòng trừ
ngoài đồng ruộng được thực hiện tại tỉnh Nghệ An.
+ Các nghiên cứu liên quan đặc điểm sinh học, tính gây bệnh và mức độ đa dạng
phân tử được thực hiện tại:
- Bộ môn bệnh cây, Khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
- Trung tâm Bệnh cây nhiệt đới, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
- Trung tâm Thực hành thí nghiệm và Trại thực nghiệm Nông học, Khoa Nông
Lâm Ngư, Trường Đại học Vinh.
6


3.1.3. Thời gian nghiên cứu
Đề tài được thực hiện tử năm 2012 đến năm 2015.
3.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Đánh giá mức đô ̣ phổ biế n và tác ha ̣i của bệnh đốm đen hại lạc tại Nghệ An
- Xác đinh
̣ loài nấ m gây bê ̣nh đố m đen và đánh giá mức độ đa dạng phân tử
của các mẫu nấm thu thập được
- Nghiên cứ u mô ̣t số đặc điểm sinh học của nấ m gây bê ̣nh đố m đen ha ̣i la ̣c
- Nghiên cứu biện pháp phòng trừ bê ̣nh đố m đen hại lạc do nấm
P. personata gây ra
3.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp điều tra theo QCVN 01- 38: 2010/BNNPTNT.
- Phương pháp đánh giá thiệt hại của bệnh đốm đen hại lạc đến sinh trưởng
và năng suất lạc được thực hiện theo Das and Roy (1995).
- Phương pháp phân lập đơn bào tử được thực hiện theo Urashima et al. (1993).
- Các mẫu nấm thuần được chiết DNA tổng số theo phương pháp của Doyle and
Doyle (1987).
- Hai mồi ITS4 và ITS5 (White et al., 1990) đã được sử dụng để nhân toàn bộ
vùng ITS của các mẫu nấm.

- Tìm kiếm trên cơ sở dữ liệu Genbank bằng phần mềm trực tuyến BLAST tại
NCBI ( />Mức độ đa dạng di truyền của nấm gây bệnh đốm đen lạc được đánh giá bằng
kỹ thuật Rep-PCR theo Versalovic et al. (1991, 1994).
+ Phương pháp nghiên cứu ảnh hưởng của ánh sáng và môi trường nuôi cấy
đến sinh trưởng và sinh bào tử của nấm P.personata được thực hiện theo Stenglein et
al. (2006).
+ Phương pháp nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ bào tử và tuổi lá đến khả
năng gây bệnh của nấm P. personata bằng phương pháp lá tách được thực hiện theo
Mallikarjuna (2012).
- Đánh giá tính gây bệnh trong điều kiện chậu vại/ô nhỏ được thực hiện theo
Aquino et al. (1995).
- Phương pháp đánh giá khả năng phòng chống bệnh đốm đen hại lạc bằng
thuốc hóa học được thực hiện theo Labrinos and Nutter (1993).
- Phương pháp đánh giá khả năng phòng chống bệnh đốm đen hại lạc bằng chất
kích kháng được thực hiện theo Zhang et al. (2001).
- Phương pháp đánh giá khả năng phòng chống bệnh bằng dịch chiết thực vật
được thực hiện theo Kishore et al (2001).
- Phương pháp đánh giá khả năng phòng chống bệnh bằng phẩm sinh học
được thực hiện theo Zhang et al. (2001).
- Tính hiệu lực của thuốc, chát kích kháng, dịch chiết thực vật, chế phẩm sinh
học theo công thức Abbott (1925).
- Số liệu phân tích đa dạng di truyền của nấm được xử lý bằng phần mềm MEGA
7


6.0 và NTSys 2.0. Hệ số tương đồng cho từng cặp mẫu được tính toán theo công thức:
S = (a+d)/(a+b+c+d). Trong đó. S là hệ số tương đồng, a là số băng giống nhau của 2
mẫu, b là số băng chỉ xuất hiện ở mẫu thứ i, c là số băng chỉ xuất hiện ở mẫu thứ j, d
là số băng không xuất hiện ở cả 2 mẫu (nhưng xuất hiện ở các mẫu khác).
- Số liệu điều tra được xử lý trong Microsoft Office Excel. Số liệu thí nghiệm

được tính toán, xử lý thống kê theo phương pháp phân tích phương sai bằng chương
trình IRRISTAT 4.0.
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. MỨC ĐỘ PHỔ BIẾN VÀ TÁC HẠI CỦA BỆNH ĐỐM ĐEN HẠI LẠC TẠI
NGHỆ AN
4.1.1 Mức độ phổ biến của bệnh đốm đen hại lạc tại Nghệ An
Bệnh đốm đen xuất hiện và gây hại phổ biến hàng năm trên các ruộng lạc tại Nghệ
An trong cả vụ thu và vụ xuân. Trong vụ xuân và vụ thu từ năm 2012 đến năm 2014, từ
vùng đồng bằng, đồng bằng ven biển đến vùng trung du và miền núi của tỉnh Nghệ An,
Mức độ phổ biến của bệnh tại các điểm điều tra đều đạt mức tối đa là 100%, tất cả các
ruộng điều tra đều bị nấm gây bệnh đốm đen P. personata gây hại.
4.1.2. Diễn biến bệnh đốm đen hại lạc tại Nghệ An
Qua quá trình điều tra trong 3 vụ liên tiếp (vụ xuân 2013, vụ thu 2013, vụ xuân
2014) cho thấy, sự xuất hiện của bệnh phụ thuộc vào giai đoạn sinh trưởng của cây.
Bệnh bắt đầu xâm nhập khi cây bắt đàu ra hoa, đến khi cây bắt đầu đầm tia thì triệu
chứng bệnh bắt đầu biều hiện. Bệnh phát triển ổn định và bắt đầu tăng nhanh khi quả
lạc vào chắc và tiếp tục gây hại đến khi quả chín. Tuy nhiên, sự phát triển của bệnh
phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết, đặc biệt là độ ẩm và lượng mưa. Chính vì vậy,
các huyện thuộc vùng đồng bằng ven biển như Diễn Châu, Nghi Lộc do lượng mưa
nhiều và ảnh hưởng của gió biển nên bệnh phát triển mạnh và lây lan nhanh. Ở Nam
Đàn, lượng mưa hàng năm ít hơn nên bệnh có xu hướng gây hại nhẹ hơn. Ở cả 3
huyện điều tra, điều kiện thời tiết mưa gió nhiều trong vụ thu thuận lợi cho bệnh phát
triển nên mức độ gây hại của bệnh cao hơn và cây tàn lụi sớm hơn so với vụ xuân.
4.1.3. Ảnh hưởng của bệnh đốm đen đến sinh trưởng và các yếu tố cấu thành năng
suất của cây lạc
Mức độ thiệt hại của bệnh đến sinh trưởng và năng suất được đánh giá trong 2
vụ liên tiếp gồm vụ xuân vụ thu năm 2014. Kết quả cho thấy, bệnh đốm đen ảnh
hưởng nghiêm trọng đên năng suất lạc, khi mức độ gây hại của bệnh càng cao thì năng
suất càng giảm.
Trong vụ xuân 2014, khi cây không bị bệnh (cấp 0) thì năng suất khi thu hoạch

đạt 58,41 tạ/ha. Khi mức độ gây hại trung bình trên ruộng ở mức cấp 1 thì năng suất
giảm 5,02% so với cấp 0. Khi mức độ gây hại trung bình trên ruộng ở mức cấp 3 thì
năng suất giảm 17,0%. Khi mức độ gây hại trung bình trên ruộng ở mức cấp 5 thì năng
suất giảm 30,24%. Khi mức độ gây hại trung bình trên ruộng ở mức cấp 7 thì năng suất
giảm 43,28%. Thực tế điều tra cho thấy, cấp bệnh trung bình trên ruộng trong vụ lạc
8


xuân thường dao động từ cấp 3 đến cấp 5, do đó năng suất khi thu hoạch giảm tương
ứng tử 17% đến 30,24%.
Tương tự, trong vụ thu 2014, khi cây không bị bệnh (cấp 0) thì năng suất thu được
là 35,09 tạ/ha. Khi mức độ gây hại trung bình trên ruộng ở mức cấp 1 năng suất giảm
7,24%. Khi mức độ gây hại trung bình trên ruộng ở mức cấp 3 thì năng suất giảm 18,02%.
Khi mức độ gây hại trung bình trên ruộng ở mức cấp 5 thì năng suất giảm 34,23%. Khi
mức độ gây hại trung bình trên ruộng ở mức cấp 7 thì năng suất giảm 49,90%. Khi mức
độ gây hại trung bình trên ruộng ở mức cấp 9 thì năng suất giảm 64,38%. Thực tế điều tra
cho thấy, cấp bệnh trung bình trên ruộng trong vụ lạc thu thường dao động từ cấp 5 đến
cấp 7, do đó năng suất khi thu hoạch giảm tương ứng tử 34,23% đến 49,90%.
Các số liệu trên cung cấp thông tin ban đầu về thiệt hại năng suất do bệnh đốm
đen gây ra trên cây lạc tại Việt Nam.
4.2. XÁC ĐỊNH LOÀI NẤM GÂY BỆNH ĐỐM ĐEN VÀ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ
ĐA DẠNG PHÂN TỬ CỦA CÁC MẪU NẤM THU THẬP ĐƯỢC
4.2.1. Xác định các mẫu nấm gây bệnh đốm đen hại lạc thu tại Nghệ An bằng giải
trình tự vùng ITS
Trong nghiên cứu này, 8 mẫu nấm gây bệnh đốm đen lạc phân lập từ bốn vùng
sinh thái của tỉnh Nghệ An (Đồng bằng ven biển, Đồng bằng, Trung du và miền núi)
cũng như 3 mẫu nấm gây bệnh đốm đen hại lạc thu tại Lào Cai, Hà Tĩnh và Đồng Nai đã
được giải trình tự trình tự trực tiếp vùng ITS từ sản phẩm PCR. Sau khi lắp ráp và loại
bỏ các đoạn nhiễu ở 2 đầu, các mẫu nấm đều có kích thước đoạn đọc được từ 441 – 496
bp. Trình tự các đoạn đọc được bao phủ vùng ITS1, 5.8S và ITS2 của chuỗi ITS, cho

phép xác định chính xác nấm gây bệnh đốm đen tới mức loài (Goodwin et al., 2001).
Đầu tiên, trình tự đọc được của 11 mẫu được sử dụng để tìm kiếm các chuỗi
gần gũi trên GenBank. Kết quả tìm kiếm (BLAST SERCH) cho thấy tất cả 11 mẫu
đều trùng khớp với 2 mẫu M. berkeleyi duy nhất trên GenBank (mã GenBank
AB435066 và AY266147). Đáng chú ý, kết quả tìm kiếm cũng cho thấy hiện nay mới
chỉ có 2 trình tự vùng ITS của nấm gây bệnh đốm đen hại lạc trên GenBank.
Tiếp theo, trình tự vùng ITS của 11 mẫu nấm được so sánh với nhau và với 30
trình tự vùng ITS của các mẫu nấm Mycosphaerella đại diện sẵn có trên GenBank, kể cả
2 mẫu M. berkeikeyi (AY266147 và AB435066). Các mẫu nấm trên Genbank này là các
mẫu chuẩn đã được công bố (Goodwin et al., 2001) (Bảng 4.1).
Kết quả so sánh trình tự cho thấy trình tự vùng ITS của 11 mẫu nấm đều đồng
nhất 100% với nhau chứng tỏ chúng đều là thành viên của cùng 1 loài.
Khi so sánh trình tự của 11 mẫu nấm trong nghiên cứu này với trình tự của 30
mẫu nấm GenBank thấy chúng có mức đồng nhất rất cao, 99,7% và 100%, tương ứng
với 2 mẫu nấm M. berkeleyi, AY266147 và AB435066, sẵn có trên GenBank. Tất cả 11
mẫu nấm trong nghiên cứu này đều có mức đồng nhất trình tự thấp hơn nhiều, từ 69,2%
đến 94,2% đối với 28 mẫu nấm GenBank còn lại (Bảng 4.1).
Phân tích phả hệ dựa trên trình tự vùng ITS cũng cho thấy 11 mẫu nấm trong
nghiên cứu và 2 mẫu nấm M. berkeleyi sẵn có trên GenBank ở trên hình thành một
9


cụm loài rõ rệt, với giá trị thống kê boostrap 100% và tách biệt hẳn các nấm
Mycosphaerrella khác (Hình 4.1).
Bảng 4.1. So sánh trình tự vùng ITS của 11 mẫu nấm gây bệnh đốm đen hại lạc
với các nấm Mycosphaerella
STT

Tên giai đoạn vô tính


1
2
3
4
5
6

Phaeoisariopsis personata
Phaeoisariopsis personata
Dothistroma septospora
Cercospora arachidicola
Chưa xác định
Chưa xác định
Cercospora sorghi var.
maydis
Cercospora nicotianae
Cercospora zeae-maydis
Cercospora asparagi
Cercospora beticola
Cercospora kikuchii
Cercospora sorghif
Paracercospora fijiensis
Mycovellosiella
tasmaniensis
Asteromella brassicae
Cercospora kalmiae
Pseudocercospora musae
Ramularia brunnea
Ramularia brunnea
Uwebraunia ellipsoidea

Chưa xác định
Paracercospora fijiensis
Colletogloeopsis
molleriana
Septoria tritici
Lecanosticta acicola
Uwebraunia juvenis
Cladosporium iridis
Cladosporium allii-cepae
Cladosporium herbarum

7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25

26
27
28
29
30

Mycosphaerella berkeleyi
Mycosphaerella berkeleyi
Mycosphaerella pini
Mycosphaerella arachidis
Mycosphaerella africana
Mycosphaerella keniensis

AB435066
AY266147
AF013227
AF297224
AF173314
AF173300

Mức đồng
nhất trình tự
(%)
100.0
99.7
94.2
93.5
93.3
93.3


Chưa xác định

AF297233

83.4

Chưa xác định
Chưa xác định
Chưa xác định
Chưa xác định
Chưa xác định
Chưa xác định
Mycosphaerella fijiensis

AF297230
AF291709
AF297229
AF297222
AF291708
AF291707
AF181705

83.3
83.1
83.1
82.9
82.9
82.9
82.6


Mycosphaerella tasmaniensis

AF173307

82.6

Mycosphaerella brassicicola
Chưa xác định
Mycosphaerella musicola
Mycosphaerella fragariae
Mycosphaerella fragariae
Mycosphaerella ellipsoidea
Mycosphaerella marksii
Mycosphaerella fijiensis

AF297227
AF297226
AF181706
AF173312
AF297235
AF173302
AF173316
AF297234

82.5
82.2
82.1
81.0
79.9
78.4

77.7
77.4

Mycosphaerella molleriana

AF173301

75.2

Mycosphaerella graminicola
Mycosphaerella dearnessii
Mycosphaerella juvenis
Mycosphaerella macrospora
Mycosphaerella allii-cepae
Mycosphaerella tassiana

AF181694
AF260818
AF173299
AF297231
AB026160
AJ238469

74.8
74.5
74.4
70.0
69.6
69.2


Tên giai đoạn hữu tính

10


GenBank


Hình 4.1. Phân tích phả hệ dựa trên trình tự toàn bộ vùng ITS của 11 mẫu nấm gây
bệnh hại đốm đen lạc thu tại Việt Nam (đánh dấu bằng chấm đen) và các mẫu nấm
sẵn có trên GenBank.
Cây được xây dựng bằng phương pháp NJ. Thanh bar trình bày khoảng cách di
truyền. Giá trị ở các nốt là giá trị thống kê boostrap dưới dạng % (1000 lần lặp) và
chỉ trình bày các giá trị >50% (Ngưỡng tin cậy nhìn chung là 75% có nghĩa trong
1000 lần lặp thì 750 lần các taxa phân nhóm với nhau).
Kết quả so sánh trình tự và phân tích phả hệ vùng ITS đã chứng tỏ tất cả 11 mẫu
nấm gây bệnh đốm đen hại lạc thu thập tại Nghệ An, Hà Tĩnh, Lào Cai và Đồng Nai
là thành viên của loài M. berkeleyi. Nghiên cứu này cũng chứng minh trình tự vùng
ITS rất bảo thủ trong loài M. berkeleyi và do đó không thể sử dụng trong phân tích đa
dạng nhưng lại là chỉ thị phân tử rất tốt để định danh nấm gây bệnh đốm đen hại lạc
M. berkeleyi.
11


4.2.2. Phân tích đa dạng di truyền của nấm gây bệnh đốm đen hại lạc dựa trên
phân tích Rep - PCR
4.2.2.1. Phân tích Rep - PCR các mẫu nấm gây bệnh đốm đen hại lạc thu thập tại

Việt Nam
Kết quả phân tích Rep-PCR của 33 mẫu nấm gây bệnh đốm đen thu thập trên 4

giống gồm L14, L26, Sen Lai và Sen Nghệ An (Sen NA), trồng vụ xuân 2013 tại 4
tỉnh gồm Đồng Nai (2 mẫu), Nghệ An (29 mẫu), Thanh Hóa (1 mẫu), Lào Cai (1
mẫu) cho thấy, số băng sản phẩm của phản ứng PCR với bộ mồi BOX là 17 với kích
thước từ ~ 0,15 kb tới ~ 2 kb (Bảng 4.2, Hình 4.2). Bộ mồi ERIC và REP không tạo
các băng sản phẩm.
Kiểm tra các băng sản phẩm trên gel agarose cho thấy bộ mồi BOX tạo tới 7
băng đa hình nằm gữa vị trí 0,3 kb và 2 kb (Hình 4.2).
Bảng 4.2. Sản phẩm của phân tích Rep-PCR đối với 33 mẫu nấm gây bệnh đốm
đen hại lạc
Rep-PCR
ERIC-PCR
BOX-PCR
REP-PCR

Số băng hình thành
0
17
0
17

Số băng đa hình Kích thước băng tối đa (kb)
0
0
7
2.0
0
0
7

Hình 4.2. Box-PCR trên 33 mẫu nấm dốm đen hại lạc M. berkeleyi thu thập ở 4 tỉnh

năm 2013. Số thứ tự mẫu tương ứng với số thứ tự trong Bảng 4.8. M1 và M2 lần lượt
là thang DNA 1 kb và 100 bp (GeneRuler 1 kb, GenRuler 100 bp, Thermo
Scientific) với các băng tham khảo 250 bp và 1500 bp (M1), 100 bp và 500 bp (M2)
được chỉ rõ bằng mũi tên.
4.2.2.2. Phân tích cụm sản phẩm Rep - PCR
Các băng sản phẩm PCR của bộ mồi BOX đã được chuyển sang số liệu nhị
phân để tạo dữ liệu đầu vào cho phân tích cụm dùng phần mềm NTSYS nhằm tìm
hiểu mức độ đa dạng và quan hệ của các mẫu nấm gây bệnh đốm đen. Kết quả phân
tích cụm cho bộ mồi BOX đã tạo ra 3 cụm mẫu nấm (ký hiệu là I, II, III) với ngưỡng
phân chia dựa trên hệ số tương đồng là 83 %. Cụm III gồm 03 mẫu là NA 3.4,
NA9.5, NA20.3, cụm II gồm 5 mẫu TH1, LC2, NA12.1, NA14.1, NA24.1, cụm I
gồm 25 mẫu còn lại (Hình 4.3).
Mặc dù chia thành 3 cụm nhưng do (i) PCR không tạo ra các sản phẩm khi
dùng mồi Rep cũng như ERIC (chứng tỏ bộ gen của chúng giống nhau và không chứa
các vị trí để gắn mồi) và (ii) mức tương đồng di truyền khá cao (83-99%) trong phân
12


tích dùng mồi BOX nên phân tích Rep - PCR đã chứng tỏ quần thể nấm gây bệnh
đốm đen tại Nghệ An khá đồng nhất. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của chúng
tôi là trong điều kiện thí nghiệm tại Nghệ An, qua 2 năm điều tra từ 2013 đến 2014,
chưa phát hiện thấy hình thức sinh sản hữu tính của nấm đốm đen. Quan sát này cũng
phù hợp với công bố của McDonald et al. (1985) rằng nấm đốm đen hại lạc khó hình
thành giai đoạn sinh sản hữu tính ngoài tự nhiên.

Hình 4.3. Phân tích cụm dựa trên số liệu BOX-PCR của các mẫu nấm gây bệnh đốm
đen thu thập tại Việt Nam. Hệ số tương đồng được tính theo công thức tính hệ số
phù hợp đơn giản (Simple Matching Coeficient). Các cây được vẽ theo phương pháp
ghép cặp mẫu dùng khoảng cách trung bình số học ngang bằng (UPGMA)
Phân tích χ2 đã được thực hiện nhằm tìm hiểu liệu có mối quan hệ giữa các cụm

phả hệ với các nguồn gốc cũng như đặc điểm hình thái mẫu nấm. Phân tích χ2 đã cho
thấy không có mối quan hệ giữa các nhóm nấm được phân biệt dựa trên phân tích
Box-PCR với nguồn gốc của chúng (4 vùng sinh thái, 4 giống lạc), đặc điểm hình thái
trên môi trường nuôi cấy nhân tạo (4 màu tản nấm, 4 nhóm kích thước tản nấm).
Bảng 4.3. Quan hệ của các nhóm phả hệ với nguồn gốc địa lý, giống, đặc điểm
hình thái
Quan hê giữa nhóm phả hệ
(I, II, III) với
Giống (L14, L26, Sen Lai, Sen NA)
Vùng sinh thái (Đồng bằng ven biển,
Đồng bằng, Trung du, Miền núi)
Màu tản nấm (Xám nhạt, Xám đậm, Xám
hồng, Đen)
Kích thước tản nấm (mm) (0-3,4; >3,46,8; >6,8-10,1; >10,1)

Độ tự
do df
6

χ2

p

Kết luận*

1,63

0,951

Không quan hệ


6

10,7

0,148

Không quan hệ

6

3,02

0,807

Không quan hệ

6

6,1

0,412

Không quan hệ

* Kết luận được dựa trên ngưỡng tin cậy chung là α = 0.05
13


Kết quả nghiên cứu trên gợi ý đối với nấm gây bệnh đốm đen ở Nghệ An, các

biện pháp quản lý bệnh (giống kháng, thuốc hóa học, chế phẩm sinh học) có thể được
áp dụng đồng loạt trên toàn tỉnh và tạo hiệu quả phòng chống giống nhau.
4.3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA NẤM P. PERSONATA GÂY BỆNH
ĐỐM ĐEN HẠI LẠC
4.3.1. Ảnh hưởng của môi trường nuôi cấy và điều kiện ánh sáng đến sinh trưởng
và sinh bào tử của nấm P. personata
Nấm được nuôi cấy trên các môi trưởng khác nhau và được đặt ở ngưỡng nhiệt
0
độ 25 C, ủ trong bóng tối liên tục (24h tối) hoặc 12 giờ chiếu sáng xen kẽ 12 giờ ủ
trong bóng tối (12h sáng 12h tối).
Kết quả cho thấy, nấm sinh trưởng và sinh bào tử thuận lợi khi nuôi cấy ở điều
kiện 12 giờ sáng xen kẽ 12 giờ tối. Trong 10 loại môi trường sử dụng trong thí
nghiệm, môi trường PDA bổ sung dịch chiết lá lạc thuận lợi nhất cho sự sinh trưởng
của nấm, đường kính tản nấm đo được sau 10 tuần có giá trị lớn nhất là 6,65 mm.
Trên tất cả các môi trường nuôi cấy đều có sự hình thành bào tử. Trong đó, môi
trường OMA và môi trường WA + dịch chiết lá lạc có lượng bào tử hình thành trên
tản nấm nhiều nhất, lần lượt là 11,67.104 bào tử và 12,22.104 bào tử. Kết quả nghiên
cứu này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Abdou and Cooper (1974) là các môi
trường như WA + PLX, OMA phù hợp nhất cho sự sinh trưởng của nấm, kích thước
tản nấm đạt mức lớn nhất là 1- 3 mm.
Ngược lại, khi nuôi cấy ở điều kiện ủ trong bóng tối liên tục (24h tối) nấm nấm P.
personata sinh trưởng rất chậm và không sinh bào tử trên tất cả môi trường nuôi cấy.
4.3.2. Đánh giá ảnh hưởng của nồng độ bào tử và tuổi lá đên khả năng gây bệnh
của nấm P. personata bằng phương pháp lá tách
Kết quả thí nghiệm cho thấy, nồng độ bào tử sử dụng để lây nhiễm không ảnh
hưởng đến thời gian ủ bệnh, vòng đời và đường kính vết bệnh của nấm P. personata
nhưng lại ảnh hưởng lớn đến số vết bệnh trên lá, do đó ảnh hưởng đến diện tích lá
nhiễm bệnh và tần số nhiễm của lá. Trong đó, khả năng gây bệnh của nấm khi lây
nhiễm với nồng độ 5.105 bào tử/ml đạt mức cao nhất với số vết bệnh là 44,33 vết/lá
kép, tỷ lệ diện tích lá nhiễm bệnh là 11,61% và tần số nhiễm đạt 1,29 vết/cm2.

Tuổi lá ảnh hướng lớn đến khả năng gây bệnh của nấm P. personata. Bệnh
biểu hiện triệu chứng nhanh nhất và hình thành bào tử sớm nhất trên lá 5 tuần tuổi,
với thời gian ủ bệnh và vòng đời ngắn nhất là 13,33 ngày và 16,50 ngày. Như vậy, lá
5 tuần tuổi mẫn cảm nhất với nấm P. personata.
Thực tế điều tra trên đồng ruộng cho thấy, bệnh đốm đen bắt đầu xuất hiện
trên cây khi cây lạc bắt đầu đâm tia hình thành quả (tức khoảng 7 tuần sau khi cây
mọc đối với vụ xuân và khoảng 6 tuần sau khi cây mọc đối với vụ thu), với thời gian
tiềm dục khoảng 14 ngày thì bào tử nấm phải tiếp xúc khả nhiễm với lá khi cây lạc
bắt đầu ra hoa (tức khi cây được 5 tuần tuổi đối với vụ xuân và 4 tuần tuổi đối với vụ
thu). Như vậy giai đoạn cây lạc ra hoa là giai đoạn nẫm cảm nhất của cây lạc đối với
bệnh đốm đen.
14


Kết quả nghiên cứu trên phù hợp với kết quả nghiên cứu của Zhang et al.
(2001) là khi lây nhiễm nhân tạo nấm C. personatum lên giống lạc Florunner trong
nhà lưới thì chỉ số bệnh trên cây 5 tuần tuổi đạt cao nhất. Kết quả này là cơ sở khoa
học để đưa ra khuyến cáo cho công tác phòng trừ bệnh. Để nâng cao hiệu quả của các
biện pháp phòng trừ cần tiến hành phun thuốc khi cây lạc bắt đầu ra hoa. Đây là thời
điểm bào tử nấm P. personata trong đất bắt đầu tiếp xúc với tầng lá phía dưới và thực
thiện quá trình xâm nhập, lây bệnh. Do đó khi xử lý vào thời điểm này sẽ làm giảm
mức độ gây hại của bệnh do việc ức chế sự nảy mầm của bào tử và sự phát triển của
sợi nấm khi mới bắt đầu xâm nhiễm.
4.4. NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ BỆNH ĐỐM ĐEN HẠI LẠC DO
NẤM P. PERSONATA GÂY RA
4.4.1.Nghiên cứu khả năng phòng trừ bệnh đốm đen hại lạc bằng biện pháp hóa
học
Một số loại thuốc hóa học đang sử dụng phổ biến trên thị trường Việt Nam được
tập trung nghiên cứu, bao gồm Topsin M 70WP, Anvil 5SC, Daconil 75WP,
Carbenvil 50SC nhằm mục đích tìm ra loại thuốc hóa học có khả năng phòng chống

hiệu quả bệnh đốm đen. Hiệu lực của từng loại thuốc được đánh giá từ trong phòng
thí nghiệm, đến nhà lưới và ra ngoài đồng ruộng trên giống lạc L14.
* Ảnh hưởng của môṭ số loa ̣i thuốc hoá học đến khả năng nảy mầm của bào
tử nấm Phaeoisariopsis personata trong điều kiện in vitro.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, Daconil 75WP và Carbenvil 50SC là hai loại thuốc
có hiệu quả cao nhất trong việc ức sự nảy mầm của bào tử P. personata. Tại thời
điểm 12 giờ, 24 giờ, 48 giờ sau khi cấy ở tất cả các nồng độ thử nghiệm đều có hiệu
lực đạt mức cao nhất là 100%.
* Ảnh hưởng của mô ̣t số loa ̣i thuốc hoá học đến khả năng gây bệnh của
nấm P. personata trên giống lạc L14 trong điều kiện in vivo
Mặc dù thuốc Daconil 75WP được đánh giá là có khả năng ức chế hiệu quả sự
nảy mầm của bào tử nấm P. personata trong điều kiện in vitro nhưng cũng không có tác
dụng trong việc kéo dài thời gian ủ bệnh, đồng thời cũng không có tác dụng làm giảm
đường kính vết bệnh. Tuy nhiên, do ức chế tốt sự nảy mầm của bào tử nên thuốc có tác
dụng làm giàm mạnh số vết bệnh trên cây và khi sử dụng thuốc Daconil 75WP ở nồng
0,19% có tác dụng làm giảm SVB trên cây xuống mức thấp nhất là 30,33 vết.
Carbenvil 50SC là thuốc có hiệu quả tốt nhất trong việc ức chế tính gây bệnh của
nấm P. personata. Ngoài khả năng khống chế hiệu quả số vết bệnh xuất hiện trên cây,
thuốc còn có khả năng ức chế sự phát triển của đường kính vết bệnh. Quan trọng hơn,
thuốc có tác dụng kéo dài thời gian ủ bệnh, từ đó làm giảm số lượng chu kỳ xâm nhiễm
trên đồng ruộng hay giảm số lần tái xâm nhiễm trong vụ trồng, do đó giảm được mức
độ gây hại của bệnh. Trong đó, Carbenvil 50SC nồng độ 0,25% có hiệu quả tối ưu nhất
với thời gian ủ bệnh đạt mức dài nhất là 26,78 ngày, số vết bệnh đạt mức thấp nhất là
27,78 vết và đường kính vết bệnh cũng ở mức thấp nhất là 1,53 mm.
15


* Đánh giá hiệu lực phòng trừ bệnh đốm đen hại lạc trên giống L14 của một
số thuốc hoá học trong trong điều kiện nhà lưới.
Thuốc Carbenvil 50SC ở nồng độ khuyến cáo (0,25%) có hiệu quả cao nhất, tại

thời điểm 9 tuần và 12 tuần sau khi cây mọc, hiệu lực phòng trừ đạt 65,9% và 78,59%.
Thuốc Daconil 75WP cũng có tác dụng phòng trừ bệnh đốm đen hại lạc tương
đối tốt. Tuy nhiên, để có hiệu quả tốt nhất cần sử dụng nồng độ 5/4 khuyến cáo
(0.19%). Tại thời điểm 9 tuần và 12 tuần sau khi cây mọc, hiệu lực phòng trừ bệnh
đạt mức 63,66% và 72,32%.
* Đánh giá hiệu lực phòng trừ bệnh đốm đen của một số thuốc hóa học trên
giống lạc L14 ngoài đồng ruộng vụ xuân 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An
Thuốc Carbenvil 50SC nồng độ 0,25% và Daconil 75WP nồng độ 0,19% được
phun vào 3 thời điểm gồm:
1) Phun khi cây mọc 5 tuần và 6 tuần, đây là thời điểm cây bắt đầu ra hoa, lúc này
bào tử trong đất bắt đầu tiếp xúc với tầng lá phía dưới để xâm nhập vào cây. Vì vậy phun
vào thời điểm này nhằm khống chế lượng bào tử nảy mầm xâm nhập vào cây và ức chế
sự phát triển của sợi nấm ngay từ ban đầu.
2) Phun khi cây mọc 7 tuần là thời điểm bệnh chớm xuất hiện trên đồng ruộng. Thời
điểm này được lựa chọn để phun như khuyến cáo của các thuốc trừ bệnh trên thị trường.
3) Phun khi cây mọc 8 tuần và 9 tuần, thời điểm này các vết bệnh xuất hiện
nhiều trên cây và bắt đầu hình thành bào tử để phát tán, lây lan. Vì vậy, phun thời
điềm này nhằm khống chế sự hình thành bào tử trên vết bệnh, đồng thời ức chế sự
nảy mầm, xâm nhập của những bào tử đã phát tán.
Ba thời điểm trên cũng được lựa chọn để tiến hành nghiên cứu về hiệu lực
phòng trừ của những sản phẩm khác như chất kích kháng, chế phẩm nấm đối kháng
và dịch chiết thực vật.
Kết quả thí nghiệm với thuốc Carbenvil 50SC được thể thể hiện ở bảng 4.4.
Bảng 4.4. Hiệu lực phòng trừ bệnh đốm đen của thuốc Carbenvil 50SC trên
giống lạc L14 ngoài đồng ruộng vụ xuân 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An
CT

Nồng
độ


Thời điểm
phun

CT2
Khuyến Cây mọc 5 tuần + 6 tuần
CT2
Cây mọc 7 tuần
cáo
(0,25%) Cây mọc 8 tuần + 9 tuần
CT3
CT4 (Đ/C)
Không phun
LSD0,05

TLB
(%)

CSB
(%)

HLPT
(%)

83,33
100,0
86,67
98,89

9,75
20,25

10,62
54,44

82,14a
62,84b
80,56a
7,00

Khối lượng
quả chắc/cây
(g)
14,65a
13,42b
14,74a
11,49c
1,19

Ghi chú: Giá trị trung bình trong cùng một cột mang các chữ cái khác nhau thì sai khác có ý
nghĩa ở mức α = 0,05.

Từ kết quả thí nghiệm (bảng 4.4) cho thấy, thuốc Carbenvil 50SC phát huy hiệu
quả nhất khi phun vào thời điểm cây mọc được 5 tuần và 6 tuần (CT1). Hiệu quả
phòng trừ bệnh đạt mức cao nhất là 82,14%, khối lượng quả chắc trên cây đạt 14,65
16


gam, tăng 27,5% so với đối chứng.
Ở CT3, khi phun vào thời điểm 8 tuần và 9 tuần sau khi cây mọc thì hiệu quả
phòng trừ tương đương với CT1, đạt mức 80,56% và khối lượng qua chắc đạt 14,74
gam/cây, tăng 28,29% so với đối chứng.

Ở CT2, khi phun vào thời điểm bệnh chớm xuất hiện như các loại thuốc hóa
học thường khuyến cáo thì hiệu quả phòng trừ bệnh kém nhất. Do lúc này các bào tử
đã xâm nhập và phát triển trong cây và chuẩn bị biểu hiện triệu chứng nên phun lúc
này không có tác dụng khống chế lượng nguồn bệnh xâm nhập vào trong cây ở giai
đoạn đầu. Mặt khác, thời điểm này hầu hết các vết bệnh chưa biểu hiện triệu chứng
nên cũng không khống chế được sự hình thành, phát tán, xâm nhiễm của bào tử trên
các vết bệnh. Chính vì vậy, hiệu lực phòng trừ bệnh đạt mức thấp nhất là 62,84% và
khối lượng quả chắc chỉ đạt mức 13,42 gam/cây, tăng 16,80% so với đối chứng.
Tiếp tục thử nghiệm với thuốc Daconil 75WP ở nồng độ 5/4 khuyến cáo
(0,19%), kết quả được thể hiện ở bảng 4.5.
Bảng 4.5. Hiệu lực phòng trừ bệnh đốm đen của thuốc hóa học Daconil 75WP
trên giống lạc L14 ngoài đồng ruộng vụ xuân 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh
Nghệ An
CT

Nồng độ

CT1
5/4 khuyến
CT2
cáo
(0,19%)
CT3
CT4 (Đ/C)
LSD0,05

Thời điểm
phun

TLB

(%)

CSB
(%)

Cây mọc 5 tuần + 6 tuần
Cây mọc 7 tuần
Cây mọc 8 tuần + 9 tuần
Không phun

97,78
96.67
100,0
96,67

15,06
31,97
15,80
53,70

Khối lượng
HLPT
quả chắc/cây
(%)
(g)
a
13,68a
72,05
40,40b
12,11b

70,69a
13,42a
11,23b
6,86
1,26

Ghi chú: Giá trị trung bình trong cùng một cột mang các chữ cái khác nhau thì sai khác có ý
nghĩa ở mức α = 0,05.

Từ kết quả thí nghiệm (bảng 4.5) cho thấy, khi phun thuốc vào thời điểm 5
tuần và 6 tuần sau khi cây mọc hoặc phun khi cây mọc 8 tuần và 9 tuần có hiệu quả
phòng trừ bệnh tương đương nhau và đạt mức cao nhất.
Khi tiến hành phun vào thời điểm 5 tuần và 6 tuần sau khi cây mọc thì hiệu lực
phòng trừ đạt 72,05% và khối lượng quả chắc đạt 13,68 gam/cây, tăng 21,82% so với
đối chứng.
Khi tiến hành phun vào thời điểm 8 tuần và 9 tuần sau khi cây mọc thì hiệu lực
phòng trừ bệnh đạt 70,69% và khối lượng quả chắc đạt 13,42%, tăng 19,5% so với
đối chứng.
Khi chỉ phun vào lúc bệnh chớm xuất hiện thì hiệu lực phòng trừ đạt mức thấp
nhất là 40,40% và khối lượng quả chắc chỉ đạt 12,11 g/cây và không sai khác so với
đối chứng.
Như vậy, Carbenvil 50SC có hiệu quả phòng trừ bệnh đốm đen cao nhất. Để
nâng cao hiệu lực phòng trừ bệnh, góp phần tăng năng suất lạc cần tiến hành phun
17


thuốc khi cây mọc được 5 tuần và 6 tuần hoặc phun khi cây mọc được 8 tuần và 9 tuần.
4.4.2. Nghiên cứu khả năng phòng trừ bệnh đốm đen hại lạc bằng chất kích kháng
Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm tìm hiểu xem tính kháng SAR có hình thành
trên cây lạc để chống lại bệnh đốm đen hay không. Bốn loại hóa chất gồm SA, Bion

50WG, Oligochitosan, Aliette 800WG sẽ được thử nghiệm trên giống lạc L14.
* Ảnh hưởng của một số chất kích kháng đến khả năng gây bệnh của nấm P.
personata trên giống lạc L14 trong điều kiện in vivo
Kết quả thí nghiệm cho thấy, hầu hết các chất kích kháng được thử nghiệm
không có tác dụng kéo dài thời gian ủ bệnh và đường kính vết bệnh ở các công thức
thí nghiệm giảm không đáng kể so với đối chứng. Trong đó, Aliette 800WG ở nồng
độ 0,4% có hiệu quả cao nhất với thời gian ủ bệnh là 15,33 ngày và số vết bệnh trên
cây là 48,22 vết, tiếp đến là Chitonsan, còn SA có hiệu quả kém hơn và kém nhất là
Bion 50WG.
* Đánh giá hiệu lực phòng trừ bệnh đốm đen của một số chất kích kháng trên
giống lạc L14 trong điều kiện nhà lưới.
Các chất kích kháng được tiếp tục đánh giá trong điều kiện nhà lưới nhằm xác
định chính xác hơn khả năng kích thích sự hình thành tính kháng SAR để phòng
chống bệnh đốm đen trên cây lạc.
Qua kết quả thí nghiệm cho thấy, Aliette 800WG và Chitosan là hai chất kích
kháng có hiệu quả phòng trừ bệnh đốm đen cao nhất. Tuy nhiên, Aliette 800WG
nồng độ 0,4% và Chitosan nồng độ 0,15% có hiệu quả cao nhất thì hiệu lực phòng trừ
cũng chỉ đạt 43,56% và 40,43% tại thời điểm 12 tuần sau khi cây mọc.
Nhìn chung, các chất kích kháng có hiệu quả phòng trừ bệnh đốm đen rất thấp,
khả năng kích thích sự hình thành tính kháng tập nhiễm (SAR) để phòng chống bệnh
đốm đen trên cây lạc của các hóa chất không cao. Kết quả này phù hợp với kết quả
nghiên cứu của Zhang and Reddy (2001).
* Đánh giá hiệu lực phòng trừ bệnh đốm đen của một số chất kích kháng trên
giống lạc L14 ngoài đồng ruộng vụ xuân 2014 tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
Các công thức hiệu quả nhất trong điều kiện nhà lưới được lựa chọn để tiếp tục
đánh giá ngoài đồng ruộng, bao gồm Bion 50WG nồng độ 0,15%, Alliet 800WG
nồng độ 0,40%, SA nồng độ 0,1% và Chitosan nồng độ 0,15%.
Từ kết quả thí nghiệm cho thấy, Aliette 800WG 0,4% và Chitosan 0,15% có
hiệu lực phòng trừ bệnh cao nhất, tuy nhiên chỉ đạt mức 45,68% và 41,82%, khối
lượng quả chắc đạt 12,25 gam/cây và 13,06 gam/cây, tăng 9,07% và 16,30% so với

đối chứng.
Kết quả này một lần nữa khẳng định rằng, sử dụng chất kích kháng để phòng
trừ bệnh đốm đen hại lạc không hiệu quả.
4.4.3. Nghiên cứu khả năng phòng trừ bệnh đốm đen hại lạc bằng biện pháp sinh
học
Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm ra loại chế phẩm sinh học phòng trừ hiệu
quả bệnh đốm đen, góp phần tăng năng suất lạc đồng thời bảo vệ môi trường.
18


Hai loại chế phảm sinh học (Kaetomium và EM) và hai loài cây cà độc dược
(Datura metel L.) và trầu không (Betel pepper L.) được sử dụng trong nghiên cứu.
Các thí nghiệm được thực hiện trên giống lạc L14.
4.4.3.1. Nghiên cứu khả năng phòng trừ bệnh đốm đen hại lạc bằng dịch chiết
thực vật
Lá trầu không và cà độc dược được tách chiết theo 2 cách là đun sôi ở 1000C và
chiết tươi, các loại dịch chiết được thử nghiệm từ trong phòng thí nghiệm ra đồng ruộng.
a. Ảnh hưởng của một số dịch chiết thực vật đến khả năng nảy mầm của bào tử nấm
P. personata trong điều kiện in vitro.
Kết quả thí nghiệm cho thấy, dịch chiết cà độc dược dạng chiết tươi (CDD-CT)
có hiệu lực ức chế sự nảy mầm của bào tử nấm P. personata rất cao và khi sử dụng
nồng độ 0,5% thì hiệu lực ức chế sau 48 giờ đạt 95,56%. Các nồng độ từ 1 - 9% đều
có hiệu lực đạt mức tối đa là 100% sau 48 giờ.
Tương tự, dịch chiết cà độc dược dạng đun sôi ở 1000C (CDD-ĐS) ở nồng độ
0,5% có hiệu lực ức chế sự nảy mầm của bào tử nấm P. personata sau 48 giờ đạt
93,33%.. Các nồng độ từ 1 - 9% đều đạt hiệu lực cao nhất là 100% sau 48 giờ.
Dịch chiết lá trầu không dạng chiết tươi (Trau-CT) ở các nồng độ thấp (từ 1 4%) không hiệu quả trong việc ức chế sự nảy mầm của bào tử nấm P. personata. Còn
ở các nồng độ cao hơn (5 - 9%), hiệu lực ức chế sau 48 giờ đều đạt 100%.
Tiếp tục thử nghiệm với dịch chiết trầu dạng đun sôi ở 1000C (Trau-ĐS), kết
quả cho thấy dịch chiết Trau - ĐS có hiệu quả cao hơn dịch chiết Trau-CT. Ơ nồng

độ 1%, hiệu lực ức chế sau 48 giờ chỉ đạt 70% nhưng khi sử dụng nồng độ 2% thì
hiệu lực ức chế sau 48 giờ đạt 94,44%. Ở các nồng độ tiếp theo (3 - 9%), hiệu lực ức
chế sau 48 giờ đều đạt mức tối đa là 100%.
b Ảnh hưởng của một số dịch chiết thực vật đến khả năng gây bệnh của nấm P.
personata trên giống lạc L14 trong điều kiện in vivo
Từ kết quả đánh giá trong điều kiện in vitro, các loại dịch chiết có hiệu quả tốt
được lực chọn để tiếp tục thử nghiệm trong điều kiện in vivo nhằm đánh giá ảnh hưởng
của chúng đến khả năng gây bệnh của nấm P. personata trên cây lạc, đồng thời xác
định phương pháp phun và nồng độ hiệu quả để áp dụng cho các nghiên cứu tiếp theo
trong điều kiện nhà lưới.
* Thí nghiệm với dịch chiết lá trầu không cho thấy, dịch chiết Trau-CT và
Trau-ĐS đều không có tác dụng kéo dài thời gian ủ bệnh của nấm P. personata
nhưng có tác dụng làm giảm đáng kể đường kính vết bệnh và số vết bệnh trên cây.
Tuy nhiên, dịch chiết Trau-CT có hiệu quả kém hơn so với dịch chiết Trau-ĐS. Điều
này một lần nữa khẳng định rằng, dịch chiết Trau-ĐS có tác dụng tốt hơn trong việc
ức chế sự phát triển của nấm gây bệnh đốm đen hại lạc.
Mặt khác, khi phun dịch chiết lá trầu không lên cây trước khi lây nhiễm 24 giờ
có hiệu quả cao hơn so với phun dịch chiết sau khi lây nhiễm 24 giờ. Điều này chứng
tỏ dịch chiết lá trầu không phải tiếp xúc với bào tử trước khi bào tử nảy mầm, xâm
nhập vào cây thì mới có hiệu quả ức chế khả năng gây bệnh của nấm P. personata.
19


Vì vậy, sử dụng dịch chiết lá trầu không dạng đun sôi ở 1000C (Trau-ĐS) ở
nồng độ 3% để phun lên cây trước khi lây nhiễm có hiệu quả cao nhất, số vết bệnh
trên cây và đường kính vết bệnh giảm xuống đáng kể so với công thức đối chứng, lần
lượt là 20,89 vết và 2,27mm.
* Thí nghiệm với dịch chiết cà độc dược cho thấy, dịch chiết dạng chiết tươi
(CDD-CT) và dạng đun sôi (CDD-ĐS) đều có hiệu quả cao trong việc ức chế tính
gây bệnh của nấm P. personata. Điều này cho thấy, độc tính của dịch chiết lá cà độc

dược bền với nhiệt độ. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với kết quả nghiên cứu của
Zhang and Reddy (2001). Tuy nhiên, cũng tương tự như dịch chiết trầu không, dịch
chiết cà độc dược không có tác dụng kéo dài thời gian ủ bệnh và chỉ phát huy tác
dụng ức chế tính gây bệnh của nấm P. personata khi phun lên cây trước khi lây bệnh
24 giờ, nghĩa là dịch chiết phải tiếp xúc được với bào tử trước khi bào tử nảy mầm.
Sử dụng dịch chiết CDD-ĐS để phun lên cây trước khi lây nhiễm có hiệu quả
cao nhất, SVB trên cây và ĐKVB giảm xuống đáng kể so với đối chứng. Ở nồng độ
2%, SVB trên cây và ĐKVB đạt mức thấp nhất, lần lượt là 22,22 vết và 2,18 mm.
Tương tự, sử dụng dịch chiết CDD-CT để phun lên cây trước khi lây nhiễm có
hiệu quả cao, SVB trên cây và ĐKVB giảm xuống đáng kể so với đối chứng. ở nồng
độ 2%, SVB trên cây và ĐKVB đạt mức thấp nhất, lần lượt là 23,22 vết và 2,20 mm.
c. Đánh giá hiệu lực phòng trừ bệnh đốm đen của dịch thực vật trên giống lạc L14
trong điệu kiện nhà lưới
Dịch chiết lá trầu không dạng đun sôi ở 1000C (Trau-ĐS) và dịch chiết cà độc
dược dạng chiết tươi (CDD-CT) được lựa chọn để tiếp tục thí nghiệm trong điều kiện
nhà lưới. Do chúng chỉ phát huy tốt tác dụng khi phun lên cây trước khi lây nhiễm 24
giờ nên phương pháp này được lực chọn để thí nghiệm trong điều kiện nhà lưới.
Kết quả thí nghiệm cho thấy, khi sử dụng nồng độ dịch chiết trầu 3% có hiệu
quả tối ưu nhất với hiệu lực phòng trừ bệnh sau 9 tuần và 12 tuần lần lượt là 64,28%
và 70,28%.
Tương tự, dịch chiết cà độc dược ở nồng độ 2% có khả năng phòng trừ bệnh
đốm đen hiệu quả nhất. Tại thời điểm 9 tuần và 12 tuần sau khi cây mọc, hiệu lực
phòng trừ bệnh đạt 64,28% và 69,36%.
d. Đánh giá hiệu lực phòng trừ bệnh đốm đen trên giống lạc L14 của dịch chiết thực
vật ngoài đồng ruộng tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An vụ xuân 2014
Các công thức hiệu quả nhất trong điều kiện nhà lưới được sử dụng đề tiếp tục
đánh giá ngoài đồng ruộng, bao gồm dịch chiết trầu không dạng đun sôi ở 1000C ở
nồng độ 3% và dịch chiết cà độc dược dạng đun sôi ở 1000C nồng độ 2%. Tương tự
như đối với thuốc hóa học, dịch chiết thực vật được phun vào 3 thời điểm, bao gồm
lúc cây mọc 5 tuần và 6 tuần; lúc cây mọc 7 tuần; lúc cây mọc 8 tuần và 9 tuần.

* Thí nghiệm với dịch chiết lá trầu không: Tỷ lệ bệnh, chỉ số bệnh được theo
dõi để đánh giá hiệu lực phòng trừ ở 12 tuần sau khi mọc và khối lượng quả chắc/cây
khi thu hoạch. Kết quả nghiên cứu được thể hiện ở bảng 4.6.
Từ kết quả thí nghiệm cho thấy, phun dịch chiết Trau-ĐS khi cây mọc 5 tuần và 6
20


tuần có hiệu quả phòng trừ bệnh đạt mức cao nhất là 73,92% và khối lượng quả chắc
đạt 14,21 gam/cây, tăng 24,11% so với đối chứng (bảng 4.34).
Tương tự, khi phun vào thời điểm 8 tuần, 9 tuần sau khi cây mọc thì hiệu lực
phòng trừ bệnh đạt 71,6% và khối lượng quả chắc cũng đạt mức cao nhất là 13,95
gam/cây, tăng 21,83% so với đối chứng.
Khi phun dịch chiết vào thời điểm 7 tuần sau khi cây mọc thị hiệu lực phòng
trừ bệnh đạt được thấp (43,22%), khối lượng quả chắc chỉ đạt 12,71 gam/cây và
không có sự sai khác so với đối chứng (bảng 4.34).
Bảng 4.6. Hiệu lực phòng trừ bệnh đốm đen của dịch chiết lá trầu không
dạng đun sôi ở 1000C (Trau-ĐS) trên giống lạc L14 ngoài đồng ruộng
tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An vụ xuân 2014
CT
CT1
CT2
CT3
CT4 (Đ/C)
LSD0,05

Nồng độ
(%)
3,0

TLB

(%)
Cây mọc 5 tuần + 6 tuần 93,33
Cây mọc 7 tuần
100,0
Cây mọc 8 tuần + 9 tuần 97,78
Không phun
96,67
Thời điểm phun

CSB
(%)
13,83
30,12
15,06
52,96

HLPT Khối lượng quả
(%) chắc/cây (gam)
73,92a
14,21a
43,22b
12,71b
71,60a
13,95a
11,45b
6,57
1,27

Ghi chú: Giá trị trung bình trong cùng một cột mang các chữ cái khác nhau thì sai khác có ý
nghĩa ở mức α = 0,05


* Thí nghiệm với dịch chiết lá cà độc được:
Điều kiện và các bước thí nghiệm được thực hiện tương tự đối với dịch chiết lá
trầu không. Theo dõi tỷ lệ bệnh, chỉ số bệnh để đánh giá hiệu lực phòng trừ ở 12 tuần
sau khi mọc và khối lượng quả chắc/cây khi thu hoạch. Kết quả nghiên cứu được thể
hiện ở bảng 4.7.
Bảng 4.7. Hiệu lực phòng trừ bệnh đốm đen trên giống lạc L14 của dịch chiết cà
độc dược dạng chiết tươi ngoài đồng ruộng tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An
vụ xuân 2014
CT
CT1
CT2
CT3
CT4 (Đ/C)
LSD0,05

Nồng
độ (%)
2,0

Thời điểm phun

TLB
(%)

CSB
(%)

HLPT
(%)


Cây mọc 5 tuần + 6 tuần
Cây mọc 7 tuần
Cây mọc 8 tuần + 9 tuần
Không phun

91,11
97,78
95,55
97,78

14,81
31,85
15,55
54,07

72,66a
41,11b
71,26a
3,92

Khối lượng
quả chắc/cây
(gam)
13,68a
12,11b
13,51a
11,14b
1,32


Ghi chú: Giá trị trung bình trong cùng một cột mang các chữ cái khác nhau thì sai khác có ý
nghĩa ở mức α = 0,05.

Từ kết quả thí nghiệm (bảng 4.7) cho thấy, ở CT2, phun dịch chiết cà độc dược
2% khi bệnh chớm xuất hiện (phun khi cây 7 tuần tuổi) có hiệu quả phòng trừ bệnh
đốm đen kém nhất, với hiệu lực phòng trừ đạt 41,11%, đồng thời khối lượng quả
chắc/cây chỉ đạt 12,11 gam và không có sự sai khác so với đối chứng.
21


Ở CT1 và CT3, khi sử dụng dịch chiết cà độc dược 2% để phun phòng (phun khi
cây 5 tuần và 6 tuần tuổi) và phun trừ (phun khi cây 8 tuần và 9 tuần tuổi) có hiệu quả
tốt trong phòng trừ bệnh đốm đen, hiệu lực phòng trừ tương đương nhau, lần lượt là
72,66% và 71,26%, đồng thời khối lượng quả chắc/cây tăng lên đáng kể so với đối
chứng, lần lượt là 13,68 gam và 13,51 gam, tăng 22,80% và 21,28% so với đối chứng.
Như vậy, có thể khuyến cáo sử dụng dịch lá chiết trầu không nồng độ 3% hoặc
dịch chiết cà độc dược nồng độ 2% để phun trên đồng ruộng vào thời điểm cây mọc
được 5 tuần và 6 tuán hoặc 7 tuần và 8 tuần mang lại hiệu quả tốt, hạn chế được thiệt
hại do bệnh gây ra, góp phần tăng năng suất lạc.
4.4.3.2. Nghiên cứu khả năng phòng trừ bệnh đốm đen hại lạc bằng chế phẩm
sinh học.
Hai chế phẩm sinh học được sử dụng để đánh giá khả năng phòng chống bệnh
đốm đen gồm Ketomium và EMINA (EM).
a. Đánh giá hiệu lực ức chế của một số chế phẩm sinh học đến khả năng nảy mầm
của bào tử nấm P. personats trong điều kiện in vitro
Từ kết quả thí nghiệm cho thấy, chế phẩm Kaetomium và EM có hiệu lực ức
chế khả năng nảy mầm của bào tử nấm P. personata không cao. Chế phẩm EM nồng
độ 0,9% và chế phẩm Kaetomium 0,25% có hiệu lực ức chế sự nảy mầm của nấm P.
personata cao nhất, tuy nhiên cũng chỉ đạt 53,35% và 56,18%.
b. Ảnh hưởng của một số chế phẩm sinh học đến khả năng gây bệnh của nấm P.

personata trên giống lạc L14 trong điều kiện in vivo
Thí nghiệm trong điều kiện in vivo được thực hiện nhằm bước đầu khảo sát
hiệu lực phòng trừ bệnh đốm đen trên cây lạc của chế phẩm Kaetomium và EM thông
qua lây nhiễm nhân tạo.
Kết quả thí nghiệm cho thấy, cả 2 loại chế phẩm sinh học Kaetomium và EM
đều không có tác dụng kéo dài thời gian ủ bệnh của nấm P. personata. Mặt khác, khả
năng khống chế sự phát triển của đường kính vết bệnh và số vết bệnh ở các công thức
thí nghiệm của 2 loại chế phẩm này cũng không cao.
Đối với chế phẩm EM, nồng độ 0,75% có khả năng ức chế tính gây bệnh của
nấm gây bệnh đốm đen tốt nhất, số vết bệnh và đường kính vết bệnh giảm xuống
mức thấp nhất, lần lượt là 51,89 vết và 2,25 mm.
Đối với chế phẩm Kaetomium, nồng độ 0,2% có hiệu quả tối ưu đối trong việc
ức chế tính gây bệnh của nấm gây bệnh đốm đen, số vết bệnh đạt mức thấp nhất là
40,67 vết/cây và đường kính vết bệnh đạt mức thấp nhất là 2,17 mm.
c. Đánh giá hiệu lực phòng trừ bệnh đốm đen hại lạc của một số chế phẩm sinh học
trên giống lạc L14 trong điều kiện nhà lưới.
Các nồng độ tối ưu trong điều kiện in vivo được lựa chọn để tiếp tục thí
nghiệm trong điều kiện nhà lưới. Chế phẩm EM được thí nghiệm với các nồng độ
0,6%, 0,75% và 0,9%, Chế phẩm Kaetomium được thí nghiệm với các nồng độ
0,15%, 0,20% và 0,25%.
Kết quả thí nghiệm cho thấy, tuy hiệu quả không cao nhưng cả 2 chế phẩm
22


sinh học EM và Kaetomium đều có khả năng phòng chống bệnh đốm đen hại lạc.
Đối với chế phẩm EM, sử dụng nồng độ 0,75% có hiệu quả tối ưu nhất, hiệu
lực phòng trừ bệnh khi cây mọc 9 tuần và 12 tuần đạt mức cao nhất, lần lượt là
36,93% và 47,30%.
Đối với chế phẩm Kaetomium, sử dụng nồng độ 0,2% thì hiệu lực phòng trừ bệnh
khi cây mọc 9 tuần tăng lên mức 47,0% và sau 12 tuần đạt mức cao nhất là 56,76%.

d. Đánh giá ảnh hưởng của một số chế phẩm sinh học đến hiệu lực phòng trừ bệnh
đốm đen trên giống lạc L14 ngoài đồng ruộng tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An vụ
xuân 2014
Các nồng độ thử nghiệm trong nhà lưới tiếp tục được đánh giá ngoài đồng ruộng
với mong muốn thu được những kết quả sát thực hơn điều kiện canh tác ngoài tự nhiên.
Từ kết quả thí nghiệm cho thấy, chế phẩm EM có hiệu quả phòng trừ bệnh
đốm đen kém hơn so với chế phẩm Kaetomium, mặc dù EM được sử dụng với nồng
độ cao hơn.
Đối với chế phẩm EM, khi sử dụng nồng độ 5/4 khuyến cáo (0,75%) có hiệu
quả tối ưu nhất với hiệu lực phòng trừ đạt 49,57% và khối lượng quả chắc đạt 12,90
gam/cây, tăng 13,96% so với đối chứng.
Đối với chế phẩm Kaetomium, khi sử dụng nồng độ khuyến cáo thì hiệu lực
phòng trừ bệnh đạt mức cao nhất là 59,20% và khối lượng quả chắc đạt mức cao nhất
là 13,34 gam/cây, tăng 17,84% so với đối chứng.
Như vậy, sử dụng chế phẩm EM nồng độ 0,75% hoặc chế phẩm Kaetomium
nồng độ 0,2%) để phun cho cây lạc khi cây mọc được 2 tuần, 3 tuần và 4 tuần có khả
năng hạn chế sự phát triển của bệnh đốm đen, giúp cây sinh trưởng phát triển tốt, từ
đó góp phần tăng năng suát lạc. Tuy nhiên, hiệu quả phòng chống bệnh đôm đen của
hai loại chế phẩm này không cao.
PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1 KẾT LUẬN
1) Nấm P. personata gây hại trên tất cả các ruộng lạc được điều tra tại Nghệ
An. Mức độ phổ biến của bệnh trong cả vụ thu và vụ xuân từ năm 2012 đên 2014 đều
đạt mức cao nhất, 100% số ruộng điều tra đều bị bệnh. Đối với cả vụ thu và vụ xuân,
nấm bắt đầu xâm nhập khi cây bắt đầu ra hoa và biểu hiện triệu chứng khi cây lạc bắt
đầu đâm tia. Kết quả điều tra trong vụ suân 2013, vụ thu 2013 và vụ xuân 2014 cho
thấy, mức độ gây hại của bệnh trong vụ thu nặng hơn so với vụ xuân và bệnh gây hại
nặng nhất ở huyện Diễn Châu, tiếp đến là huyện Nghi Lộc và bệnh gây hại nhẹ nhất ở
huyện Nam Đàn.
2) Bệnh đốm đen gây thiệt hại nghiêm trọng đến năng suất lạc, đặc biệt là vụ

thu. Trong vụ thu 2014, khi cấp bệnh trên cây tương ứng từ cấp 5 đến cấp 7 thì năng
suất giảm tương ứng từ 34,23 - 49,90%. Trong vụ xuân 2014, khi cấp bệnh trên cây
tương ứng từ cấp 3 đến cấp 5 thì năng suất giảm tương ứng từ 17,0 - 30,24%.
3) Phân tích trình tự vùng ITS của 11 mẫu nấm gây bệnh đốm đen hại lạc tại
Việt Nam, chủ yếu tại Nghệ An đã chứng tỏ chúng thuộc loài Phaeoisariopsis
23


×