BÀI TẬP HỌC KỲ | Nhóm 4
BÀI THU HOẠCH
Vấn đề 1: HẬU QUẢ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU
1.1. Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Tòa Giám đốc thẩm xác định như thế
nào?
Trong Quyết định số 319, Tòa Giám đốc thẩm xác định lỗi của các bên như sau: Ngày
17/7/2006, hai bên lập hợp đồng lại với nội dung: vợ chồng ông Lộc chuyển nhượng cho vợ
chồng ông Vinh diện tích đất 953 m2 với giá 100.000.000 đồng, ông Vinh đã trả 45.000.000 đồng,
sau 8 tháng ông Vinh phải trả tiếp 45 triệu đồng, nếu sai hẹn bên chuyển nhượng có quyền hủy
hợp đồng, số tiền 10 triệu đồng còn lại trả đợt 3, ông Lộc cam kết sau khi nhận tiền đợt 2 sẽ giao
“sổ đỏ” cho ông Vinh. Tuy nhiên, sau đó ông Vinh cũng không giao tiếp cho ông Lộc và ông Lộc
cũng không giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Vinh. Cả hai hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 9/9/2005 và 17/7/2006 đều chưa được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền công chứng hoặc chứng thực. Tòa án đã xác định lỗi đều thuộc về hai bên.
1.2. Trong Quyết định số 319, Tòa dân sự cho biết ông Vinh sẽ được bồi thường như thế
nào?
Trong Quyết định trên, Tòa dân sự cho biết ông Vinh mới trả được 45 triệu đồng trên tổng
giá trị thửa đất 100 triệu đồng, tức là mới trả được 45% giá trị thửa đất, cả hai bên cùng có lỗi thì
khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu ông Vinh chỉ được bồi thường thiệt hại là 1/2 chênh
lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường.
1.3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự.
- Đối với hướng giải quyết của Tòa sơ thẩm và phúc thẩm: hướng giải quyết trên là không
phù hợp. Vì Tòa sơ thẩm chưa xác minh xác định chính xác mức độ lỗi của của các đương sự làm
cho hợp đồng vô hiệu. Ở đây, Tòa sơ thẩm chỉ xác định vợ chồng anh Lộc đã thanh toán cho vợ
chồng ông Vinh là 45 triệu đồng/100 triệu đồng giá trị thửa đất. Theo định giá thửa đất hiện nay là
333.550.000 đồng, nên mức chênh lệch là 233.550.000 đồng, và việc xác định tiền bồi thường
thiệt hại cũng chưa chính xác, buộc mỗi bên chịu 1/2 mức bồi thường theo chênh lệch giá của toàn
bộ thửa đất là 116.775.000 đồng là không phù hợp. Tương tự, Tòa phúc thẩm cũng xác định
không đúng mức bồi thường thiệt hại tương ứng với lỗi của các bên. Ở đây, Tòa phúc thẩm không
nêu rõ lí do tại sao buộc ông Đào Văn Lộc, bà Hoàng Thị Lan phải bồi thường thiệt hại cho ông
Vinh là 81.712.500 đồng và không giải thích số tiền này là ở đâu ra, có phải là mức chênh lệch
giữa giá trị cũ của hợp đồng với giá trị định giá hiện tại do Hội đồng định giá xác định mà mỗi
bên phải chịu tương ứng với mức độ lỗi của mình hay không. Mặt khác, khi ký hợp đồng chuyển
1
BÀI TẬP HỌC KỲ | Nhóm 4
nhượng quyền sử dụng đất thì bà Thơm- vợ ông Vinh có tham gia ký hợp đồng, nhưng quá trình
giải quyết Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm không đưa bà Thơm tham gia tố tụng với tư cách là
người có quyền và nghĩa vụ liên quan là thiếu sót.
- Đối với hướng giải quyết của Tòa Giám đốc thẩm: hướng giải quyết trên là phù hợp. Vì
ở đây, Tòa Giám đốc thẩm đã xác định ông Vinh mới trả được 45.000.000 đồng (tương ứng với
45% giá trị thửa đất mà hai bên đã thỏa thuận là 100.000.000 đồng). Và Tòa án xác định rằng cả
hai bên cùng có lỗi, do đó khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu ông Vinh chỉ được bồi
thường thiệt hại là 1/2 chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường là phù hợp. Tuy
nhiên, Tòa vẫn chưa xác minh Hội đồng định giá đã định giá thửa đất đó theo đúng giá thị trường
hay chưa, có mâu thuẫn với khung giá đất của UBND tỉnh Bình Thuận quy định cho đất nông
nghiệp tại thị xã LaGi như anh Lộc đã khiếu nại hay không.
1.4. Với các thông tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường khoản tiền cụ
thể là bao nhiêu? Vì sao?
Ông Vinh sẽ được bồi thường khoản tiền cụ thể là 52.548.750 đồng. Bởi vì theo Tòa Giám
đốc thẩm, ông Vinh mới trả được 45.000.000 đồng trên tổng giá trị thửa đất 100.000.000 đồng tức
là mới trả được 45% giá trị thửa đất, cả hai bên cùng có lỗi thì khi giải quyết hậu quả của hợp
đồng vô hiệu ông Vinh chỉ được bồi thường thiệt hại là 1/2 chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất
theo giá thị trường. Mà khoản tiền chênh lệch giá theo biên bản định giá là 233.550.000 đồng.
Do đó, mức giá chênh lệch 45% của giá trị thửa đất theo giá thị trường là:
45% x 233.550.000 đồng / 100% = 105.097.500 đồng.
Vậy, khoản tiền được bồi thường cụ thể của ông Vinh là:
1/2 x 105.097.500 đồng = 52.548.750 đồng.
1.5. Trong Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy sau khi nhận chuyển nhượng của ông Khải,
bà Linh và bà Ngẫu (giao dịch thứ nhất), anh Long đã chuyển nhượng đất (giao dịch thứ
hai) Doanh nghiệp Tấn Hưng?
Trong Quyết định số 58, đoạn cho thấy sau khi nhận chuyển nhượng của ông Khải, bà Linh
và bà Ngẫu (giao dịch thứ nhất), anh Long đã chuyển nhượng đất (giao dịch thứ hai) Doanh
nghiệp Tấn Hưng là “Ngày 09-4-1991, mặc dù không có mặt ông Nhơn, nhưng ông Khải, bà
Linh, bà Ngẫu làm giấy sang nhượng phần đất thổ cư… đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất
nêu trên (trong đó có diện tích của ông Long) cho Doanh nghiệp tư nhân Tuấn Hưng.” -tr.4
1.6. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy anh Long đã được cấp giấy chứng nhận chuyển
nhượng từ ông Khải, bà Linh và bà Ngẫu?
2
BÀI TẬP HỌC KỲ | Nhóm 4
Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy anh Long đã được cấp giấy chứng nhận chuyển nhượng
từ ông Khải, bà Linh và bà Ngẫu là “Bị đơn là anh Lê Thanh Long và bà Lê Thị Phải…đến năm
1997 thì được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở.”-tr.2
1.7. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy giao dịch thứ nhất vô hiệu?
Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy giao dịch thứ nhất vô hiệu là “ Ngày 09-4-1991, ông
Khải, bà Linh, bà Ngẫu lập giấy sang nhượng phần đất nêu trên… nên bị vô hiệu theo Điều 128,
Điều 134 BLDS.” – tr.5
1.8. Trong Quyết định số 58 Tòa dân sự có cho biết giao dịch thứ hai vô hiệu không?
Trong Quyết định số 58 Tòa dân sự không cho biết giao dịch thứ hai có vô hiệu hay không
mà chỉ nói “Tuy nhiên, do anh Long đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích nên trên cho Doanh
nghiệp Tư nhân Tấn Hưng nên khi giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu theo Điều 137
thì cần xác định lỗi của ông Khải, bà Linh, bà Ngẫu, anh Long để bồi thường thiệt hại theo quy
định của pháp luật”. Ở đây Quyết định chỉ khẳng định rằng anh Long đã chuyển nhượng toàn bộ
diện tích nên trên cho Doanh nghiệp Tư nhân Tấn Hưng.
1.9. Theo anh/chị, giao dịch thứ hai có vô hiệu không? Vì sao?
Giao dịch thứ 2 không bị vô hiệu. Căn cứ theo khoản 2 Điều 138 BLDS, trong trường hợp
tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao
bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu, trừ
trường hợp người thứ ba ngay tình (Doanh nghiệp Tư nhân Tuấn Hưng) nhận được tài sản (quyền
sử dụng đất) thông qua giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản (anh Long) nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài
sản đó do quyết định bị hủy (giao dịch dân sự thứ nhất vô hiệu). Vậy giao dịch thứ hai không bị
vô hiệu.
1.10. Suy nghĩ của anh/chị về Điều 138 Bộ luật dân sự (giữ nguyên hay cần thay đổi? Vì
sao?)
Trong Điều 138 Bộ luật dân sự cần thay đổi một số vấn đề sau:
-
Trong khoản 2 điều luật trên còn đề cập đến “trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản
hoặc là động sản phải đăng ký quyền sở hữu”. Cách quy định trên còn mập mờ khiến
người đọc hình thành 2 cách hiểu:
+ Một là, tài sản “phải đăng ký quyền sở hữu” ở đây chỉ là động sản vì cụm từ
“phải đăng ký quyền sở hữu” đi liền với “động sản”, không liên quan đến “bất
động sản”. Với cách hiểu này, đối tượng điều chỉnh của khoản 2 Điều 138 sẽ bao
3
BÀI TẬP HỌC KỲ | Nhóm 4
gồm: “động sản phải đăng ký quyền sở hữu” và tất cả bất động sản.
+ Hai là, các quy định này chỉ liên quan đến “bất động sản hay động sản” khi các
tài sản này phải đăng ký quyền sở hữu.
-
Cũng trong khoản 2, bộ luật chỉ nêu “thông qua bán đấu giá” nên câu hỏi đặt ra là quy định
này có được áp dụng đối với mọi trường hợp bán đấu giá hay chỉ áp dụng đối với việc bán
đấu giá được tiến hành đúng quy định? Thực tiễn xét xử thì công nhận kết quả đấu giá nếu
“việc bán đấu giá đó đúng quy định của pháp luật”
-
Theo Điều 138, người thứ ba được bảo vệ trong trường hợp có tài sản “thông qua giao
dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở
hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản đó do bản án, quyết
định bị hủy, sửa.” Theo phần in nghiêng, người đọc hiểu rằng, để người thứ ba được bảo
vệ, việc chứng minh có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền xác định người giao
dịch với người thứ ba là chủ sở hữu chưa đủ mà còn phải chứng minh được rằng bản án,
quyết định này sau đó “bị hủy, sửa”. Thực ra, việc bản án hay quyết định có bị hủy, sửa
hay không không ảnh hưởng tới việc công nhận giao dịch của người thứ ba ngay tình.
Điều kiện trên nên được hiểu là “cho dù” sau đó người này (người được coi là chủ sở hữu)
không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy sửa.
4
BÀI TẬP HỌC KỲ | Nhóm 4
Vấn đề 2: BỒI THƯỜNG TỔN THẤT VỀ TINH THẦN DO TÍNH MẠNG BỊ
XÂM HẠI
2.1. Trong BLDS, trong trường hợp nào tổn thất về tinh thần được bồi thường? Nêu rõ quy
định liên quan.
Theo BLDS trong các trường hợp sau đây được bồi thường tổn thất tinh thần khi:
- Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm (Khoản 2 – Điều 609);
- Thiệt hại do tính mạng bị xâm hại ( Khoản 2 – Điều 610);
- Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại (Khoản 2 – Điều 611);
- Thiệt hại do xâm phạm thi thể (Khoản 3 – Điều 628).
2.2. Theo pháp luật hiện hành, bồi thường tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm và
khi mồ mả bị xâm phạm có được bồi thường không? Vì sao?
Theo pháp luật hiện hành, bồi thường tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm và khi
mồ mả bị xâm phạm chưa được bồi thường.
Theo điểm b, tiểu mục 1.1, mục 1, phần I của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP thì
“thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy
tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích gần
gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút
hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm,... và cần phải được bồi thường một khoản tiền
bù đắp tổn thất mà họ phải chịu.”
Theo hướng liệt kê trên thì không có trường hợp tài sản và mồ mả bị xâm phạm nên không
thuộc trường hợp bồi thường tổn thất tinh thần.
2.3. Suy nghĩ của anh/chị về khả năng được bồi thường tổn thất về tinh thần, mồ mả bị xâm
phạm.
Vấn đề bồi thường tổn thất về tinh thần rất phức tạp. Việc xác định sự tồn tại tổn thất và quy
đổi ra thành tiền hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể. Mỗi vụ việc có đặc thù riêng, tổn thất cũng
khác nhau, do vậy tùy thuộc vào từng vụ việc cụ thể, từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể mà xem xét
khả năng bồi thường cao hay thấp, quyết định mức bồi thường sao cho phù hợp, thỏa đáng.
Còn về vấn đề mồ mả bị xâm phạm, Điều 629 BLDS quy định khá mơ hồ về việc bồi thường:
“cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác gây thiệt hại đến mồ mả của người khác phải bồi thường thiệt
hại. Thiệt hại do xâm phạm mồ mả gồm chi phí hợp lý để hạn chế khắc phục thiệt hại”.Vấn đề đặt
ra là khi mồ mả bị xâm phạm thì người được hưởng bồi thường trong trường hợp này là ai; mức chi
phí hợp lý để hạn chế khăc phục thiệt hại được xác định như thế nào? Những điều này đều chưa
5
BÀI TẬP HỌC KỲ | Nhóm 4
được giải thích cụ thể. Trách nhiệm bồi thường thiệt hai, các khoản bồi thường, mức độ bồi thường
thiệt hại của người có hành vi xâm phạm mồ mả phải được dựa trên cơ sở pháp lí để toàn án có căn
cứ buộc người có hành vi xâm phạm mồ mả phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
2.4. Theo HĐTP, ai được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần do tính mạng của anh Nam
bị xâm phạm? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Theo HĐTP, người được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần do tính mạng của anh Nam bị
xâm hại là mẹ, vợ và con mới sinh của anh Nam. Trong Quyết định có đoạn: “Tòa án cấp phúc
thẩm đã không khắc phục được sai lầm nêu trên mà còn ghi sai họ của bị đơn dân sự, đồng thời
buộc bị đơn dân sự (bà Nguyễn Thị Thoại) bồi thường tổn thất tinh thần cho vợ anh Nam là không
đúng vì những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của Nam gồm mẹ, vợ và con mới sinh
cũng được hưởng khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do anh Nam bị thiệt hại về tính mạng...”tr3. Đoạn này của Quyết định đã cho ta câu trả lời về vấn đề đang bàn.
2.5. Theo HĐTP, ai được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần do tính mạng của cháu Hà
và Quảng bị xâm phạm? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Theo HĐTP, người được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần do tính mạng của cháu Hà và
Quảng bị xâm phạm là chị Phin - mẹ của hai cháu. Trong Quyết định có đoạn: “Riêng khoản tiền bù
đắp tổn thất về tinh thần cho cháu Vũ Thu Hà và Vũ Văn Quảng bị thiệt hại về tính mạng thì chỉ có
chị Phin (là mẹ của hai cháu) được hưởng...”.
2.6. Việc xác định người được bồi thường tổn thất về tinh thần trên có phù hợp với các quy
định hiện hành không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Việc xác định người được bồi thường tổn thất về tinh thần trên phù hợp với các quy định hiện
hành. Theo khoản 2 Điều 610 BLDS thì “Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi
thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một số khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về
tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại...” và theo
điểm a, tiểu mục 2.4, mục 2, phần II Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP thì “người được nhận
khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp này là những người thân thích thuộc hàng
thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người bị thiệt hại”. Do đó, việc HĐTP xác định người được hưởng bồi thường tổn
thất về tinh thần do tính mạng của anh Nam là những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất
là mẹ, vợ và con mới sinh của anh Nam; người được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần do tính
mạng của cháu Hà và cháu Quảng bị xâm phạm là chị Phin - mẹ của hai cháu là hoàn toàn phù hợp
với các quy định hiện hành.
2.7. Theo HĐTP, anh Đông có được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần do tính mạng của
6
BÀI TẬP HỌC KỲ | Nhóm 4
anh Nam bị xâm hại không? Đoạn nào của quyết định cho câu trả lời?
Theo HĐTP, anh Đông không được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần do tính mạng của
anh Nam bị xâm hại. Người được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần do tính mạng của anh Nam
bị xâm hại chỉ có mẹ, vợ và con mới sinh của anh Nam.
Đoạn trong quyết định cho câu trả lời là: “Tòa án cấp phúc thẩm đã không khắc phục được
sai lầm nêu trên, mà con ghi sai họ của bị đơn dân sự, đồng thời buộc bị đơn dân sự (bà Nguyễn
Thị Thoại) bồi thường tổn thất tinh thần cho vợ anh Nam là không đúng, vì những người thân thích
thuộc hàng thừa kế thứ nhất của anh Nam gồm mẹ, vợ và con mới sinh cùng được hưởng khoản tiền
bù đắp tinh thần do anh Nam bị thiệt hại về tính mạng.” -tr.3
2.8. Theo HĐTP, mẹ anh Nam có được hưởng bồi thường tổn thất về mặt tinh thần do tính
mạng của cháu Hà và Quảng bị xâm hại? Đoạn nào của quyết định cho câu trả lời?
Theo HĐTP, mẹ anh Nam không được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần do tính mạng
của cháu Hà và cháu Quảng bị xâm hại. Người được hưởng bồi thường tổn thất về mặt tinh thần
trong trường hợp này chỉ có chị Phin – mẹ của hai cháu.
Đoạn trong Quyết định cho câu trả lời là: “Riêng khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do
cháu Vũ Thu Hà và cháu Vũ Văn Quảng bị thiệt hại về tính mạng thì chỉ có chị Phin (là mẹ của hai
cháu) được hưởng, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm tính luôn cả ba trường hợp
để buộc bị đơn dân sự bồi thường cho chị Phin là không đúng.” -tr.3
2.9. Suy nghĩ của anh/chị về qui định hiện hành và hướng giải quyết trên của HĐTP liên quan
đến tổn thất về tinh thần của anh Đông (đối với cái chết của anh Nam) và của mẹ anh Nam
(đối với cái chết của cháu Hà và Quảng).
Theo khoản 2 Điều 610 BLDS thì người được bồi thường tổn thất về tinh thần là “người
thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị hại”. Theo BLDS năm 2005 thì người được bồi
thường tổn thất về tinh thần phải là “người thân thích” thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Ở đây, BLDS
đã kết hợp cả hai yếu ố đó là “hàng thừa kế thứ nhất” và “người thân thích”.
Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP thì người được bồi thường tổn thất về tinh thần bao
gồm: “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người bị hại.”. Theo Nghị
quyết này thì người được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần là những người thuộc hàng thừa kế
thứ nhất và đã bỏ đi yếu tố là “người thân thích”.
Thiết nghĩ, chúng ta nên theo qui định của BLDS. Bởi vì, để xác định yếu tố “thân thích” cần
căn cứ và mối quan hệ tình cảm giữa người bị hại và người liên quan. Theo qui định này của BLDS
thì người được bồi thường là cha, mẹ đẻ hay con đẻ nhưng trong thực tế thì không hiếm trường hợp
7
BÀI TẬP HỌC KỲ | Nhóm 4
con đẻ không xem cha, mẹ đẻ là gì, không quan tâm đến họ nên khi cha, mẹ chết thì có thể họ không
có tổn thất về tinh thần. Nói cách khác, họ tuy thuộc “hàng thừa kế thứ nhất” nhưng lại không phải
là “người thân thích” với nạn nhân và do đó họ không có tổn thất về tinh thần nếu cho họ được phép
hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần thì sẽ không thuyết phục.
Trong quyết định trên, đối với cái chết của cháu Hà và cháu Quảng thì theo HĐTP khoản tiền
bù đắp tổn thất về tinh thần do cháu Hà và cháu Quảng bị thiệt hại về tính mạng thì chỉ có chị Phin
(là mẹ của hai cháu) được hưởng. Ở đây, Tòa án chỉ giới hạn chị Phin vì hàng thừa kế thứ nhất của
hai cháu chỉ còn chị Phin. Với hướng này thì tòa án đã loại trừ khả năng mẹ anh Nam – tức bà của
hai cháu được bồi thường tổn thất về tinh thần. Theo nhóm tôi, thì bà của hai cháu hoàn toàn có thể
bị tổn thất về tinh thần khi tính mạng của hai cháu bị xâm phạm nhưng pháp luật hiện hành của
chúng ta không liệt kê người này vào danh sách người được hưởng bồi thường (trừ khi người này đã
nuôi dưỡng hai cháu) nên việc HĐTP loại trừ khả năng bà của hai cháu được hưởng bồi thường tuy
phù hợp với qui định hiện hành nhưng giải pháp này hoàn toàn không phù hợp về mặt “tình”; bởi
không hiếm những phụ nữ thể hiện sự đau đớn khi cháu mình bị xâm phạm về sức khỏe hay tính
mạng nên pháp luật cần cho phép họ được bồi thường tổn thất về tinh thần cho dù người này không
thuộc hàng thừa kế thứ nhất đối với người bị hại.
Tương tự, anh Đông là em trai của anh Nam và theo HĐTP thì anh Đông cũng hoàn toàn
không có quyền được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần do tính mạng của anh Nam bị xâm
phạm. HĐTP xác định những người được bồi thường tổn thất trong trường hợp này chỉ có mẹ, vợ và
con mới sinh của anh Nam. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với qui định hiện hành. Tuy nhiên, về
mặt “tình” nó cũng chưa hoàn toàn thuyết phục. Bởi có thể có trường hợp khi còn sống anh Nam là
người có nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh Đông dù người này đã trưởng thành và không mất khả năng
lao động thì khi đó sẽ không đảm bảo được quyền lợi cho anh Đông trong trường hợp này. Hoặc là
anh Đông tuy không thuộc hàng thừa kế thứ nhất của anh Nam nhưng khi tính mạnh anh Nam bị
xâm phạm thì có thể anh Đông cũng bị tổn thất về tinh thần. Do đó, trong những trường hợp này thì
pháp luật cũng cần cho phép họ được bồi thường tổn thất về tinh thần.
2.10. Theo pháp luật hiện hành, mức bồi thường tổn thất về tinh thần là bao nhiêu khi tính
mạng bị xâm phạm? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo pháp luật hiện hành thì mức bồi thường tổn thất về tinh thần là do các bên tự thỏa thuận;
nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiếu do Nhà nước
qui định.
Khoản 2 Điều 610 BLDS: “2. Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường
thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần
8
BÀI TẬP HỌC KỲ | Nhóm 4
cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những
người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng
người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các
bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối
thiểu do Nhà nước quy định.”
Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP: “Mức bồi thường chung khoản tiền bù đắp tổn thất về
tinh thần trước hết do các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được, thì mức bồi thường khoản
tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho tất cả những người thân thích của người bị thiệt hại phải căn
cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, số lượng người thân thích của họ, nhưng tối đa không quá 60
tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.”
2.11. Tòa sơ thẩm và Tòa phúc thẩm đã quyết định cho gia đình chị Phin được hưởng mức bồi
thường là bao nhiêu? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Trong phần nhận thấy của Quyết định đã chỉ ra cho ta mức bồi thường mà Tòa sơ thẩm và Tòa
phúc thẩm đã quyết định cho gia đình chị Phin. Cụ thể:
•
“Tại bản án hình sự sơ thẩm số 1711/2005/HSST ngày 8/12/2005…. Áp dụng các Điều
613,614 và 627 BLDS , buộc bà Nguyễn Thị Hoài tiếp tục bồi thường số tiền 12.600.000đ và bị cáo
Nguyễn Quốc Sang bồi thường số tiền 2.000.000đ cho gia đình anh Vũ Hoài Nam; bà Nguyễn Thi
Thoại cấp sưỡng nuôi con anh Vũ Hoài Nam mỗi tháng 200.000đ đến khi cháu tròn 18 tuổi”
•
“Tại bản án hình sự phúc thẩm số 550/2006/HSPT ngày 8/5/2006, Tòa án phúc thẩm Tòa
án nhân dân tối caotaij thành phố Hồ Chí Minh, sửa bản án sơ thẩm về dân sự, buộc bà Nguyễn Thị
Thoại bồi thường tổn thất tinh thần cho vợ anh Nam số tiền 63.000.000đ (350.000đ/tháng x 180
tháng) và tiền mất thu nhập của anh Nam 1.500.000đ/1 tháng x 6 tháng là 9.000.000đ; tổng cộng là
72.000.000đ; ghi nhận sự tự nguyện của bà Thoại trợ cấp để nuôi con của anh Nam là cháu Vũ Anh
Tuyết sinh tháng 9/2005 mỗi tháng 200.000đ, cho đến khi cháu Tuyết trưởng thành…”
2.12. Hướng giải quyết của HĐTP liên quan đến mức tối đa gia đình chị Phin được hưởng bồi
thường tổn thất về tinh thần.
Đối với khoản tiền bồi thường tổn thất tinh thần cho gia đình chị Phin (vợ của anh Vũ Hoài
Nam), HĐTP không nhất trí với hai mức mà Tòa sơ thẩm và Tòa phúc thẩm đã đưa ra. Theo HĐTP,
ở quyết định của Tòa sơ thẩm, mức bồi thường như vậy là quá thấp. Xét thực tế ở đây, chị Phin mất
chồng và mất cả 2 con, mẹ của anh Vũ Hoài Nam cũng tương tự, mất cả con và 2 cháu, tổn thất tinh
thần là vô cùng to lớn cho nên không thể đưa ra khoản tiền quá thâp như thế. Còn đối với quyết định
của Tòa Phúc thẩm, HĐTP lại cho rằng là quá cao với lí lẽ: “khi giải quyết khoản tiền bù đắp tổn
thất về tinh thần đối với gia đình anh Nam, ngoài việc xác định vị thế của người bị hại trong gia
9
BÀI TẬP HỌC KỲ | Nhóm 4
đình, thì Tòa án cần xem xét, quyết định cho phù hợp với thực tế để đảm bảo khả năng thi hành
án”. Như vậy, hướng của HĐTP là một mức bồi thường không được quá thấp nhưng phải trong khả
năng, bởi xét trong vụ việc này, bên gây thiệt hại còn bồi thường cho những nạn nhân khác nữa, nên
cần đặt ra một mức bồi thường khả thi, tránh rủi ro cho người bị thiệt hại.
2.13. Suy nghĩ của anh/chị về mức bồi thường tổn thất về tinh thần trong pháp luật hiện hành
và hướng giải quyết của các Tòa trong vụ việc trên?
Trong vụ việc, giữa các Tòa có sự khác nhau về hướng giải quyết mức bồi thường cho gia
đình chi Phin. Tại Quyết định của Tòa sợ thẩm, Tòa chỉ buộc bà Thoại bồi thường 12.600.000đ (36
tháng x 350.000đ). Đối một gia đình, cùng một lúc mất đi ba người thân, có lẽ không một khoản
tiền nào bù được nỗi đau của họ, tuy nhiên, nếu để bù đắp phần nào thì khoản tiền đó phải tương
xứng. Mức bồi thường mà Tòa sơ thẩm đưa ra là quá thấp, và không hề tương xứng với thiệt hại ở
đây. Tòa sơ thẩm thì lại đưa ra một mức bồi thường quá cao, theo đó buộc bà Thoại phải bồi thường
cho người chết là 180 tháng lương (60 tháng x 3 người) với tổng số tiền là 63.000.000đ là mức cao
nhất cho mỗi người. Dường như ở đây, Tòa đã áp dụng một cách cứng nhắc quy định của BLDS về
bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm. Khoản tiền này, xét về tương xứng có lẽ là phù hợp
hơn Tòa sơ thẩm, tuy nhiên, xét về khả năng gai đình chị Phin được bồi thường đầy đủ là rất khó, vì
bà Thoại còn bồi thường cho rất nhiều nạn nhân khác. Từ việc xem xét vấn đề này, HĐTP Tòa án
nhân dân tối cao đã theo hướng thuyết phục hơn, đó là bồi thường một mức vùa khả thi vừa tương
xứng, xác định vị thế của người bị hại trong giai đình để có mức bồi thường thich hợp. Đây là
hướng giải quyết thuyết phục và có sự vận dụng linh động quy định của văn bản. Để bảo vệ được
người bị thiệt hại, chúng ta không chỉ xác định một mức bồi thường phù hợp mà còn phải xem xét
khả năng thực tế của người gây thiệt hại, xem xét vị thế tức là mối quan hệ của người được bồi
thường với nạn nhân. Việc làm này sẽ góp phần bảo vệ người gây thiệt hại khỏi tình huống phải bồi
thường cho những người mà hầu như không có quan hệ thân thiết với nạn nhân, điều này là không
công bằng cho người gây thiệt hại, cho dù ở đây họ đã gây ra tổn thất rất to lớn. Ngoài ra, với sự
xem xét này, ta cũng bảo vệ hơn người bị thiệt hại, tránh trường hợp họ không được đền bù kịp thời,
thích hợp. Với chừng đó ý nghĩa, thiết nghĩ, hướng giải quyết trên cần được thiết lập thành án lệ để
thuận tiện hơn cho việc áp dụng.
10
BÀI TẬP HỌC KỲ | Nhóm 4
Vấn đề 3: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO
NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA
3.1. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?
Trong Quyết định giám đốc thẩm số 30/210/DS-GĐT ngày 22-01-2010 về vụ án đòi bồi
thường thiệt hại tính mạng, Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra, thể hiện trong phần Xét thấy: “ …. Khi giải quyết vụ án, Tòa các cấp cần xác định
rõ đường dây đó do ai quản lý, sử dụng, từ đó căn cứ vào Điều 623 BLDS và Nghị định
45/2010/NĐCP ngày 2-8-2001 của Chính phủ quy định về hoạt động điện lực và sử dụng điện để
giải quyết.”-tr. 4
3.2 Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra?
Khoản 1 Điều 623 quy định: “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông
vận tải cơ giới, hệ thống tải điện (…)”. Trong tình huống này, thiệt hại là do đường dây điện hạ
thế gây ra, đây là hệ thống điện, vậy Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra là đúng.
3.3 Tòa dân sự có cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại không?
Tòa dân sự không cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại. Nhưng theo
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và đại diện Viện kiểm sát thì “chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao
độ là Công ty điện lực 2”
3.4. Theo anh/chị, ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại?
Điều 164 BLDS năm 2005 quy định: “Quyền sở hữu gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng
và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật”. Vậy có thể hiểu, chủ sở
hữu là chủ thể có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản.
Xét trong Quyết định số 30, Công ty điện lực 2 và Chi nhánh điện Cái Bè có ký kết hợp
đồng mua bán điện, nhưng trong hợp đồng có quy định rõ trách nhiệm của bên mua là “sử dụng
điện an toàn, chịu trách nhiệm quản lý”. Vì vậy, quyền hạn của bên mua là Chi nhánh điện Cái
Bè bị giới hạn, không có quyền định đoạt đối với tài sản. Vậy, Chi nhánh điện Cái Bè không thể là
chủ sở hữu đường dây điện hạ thế. Ta thấy Công ty điện lực 2 có đủ 3 quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt đối với đường dây điện hạ thế, vì vậy Công ty điện lực 2 chính là chủ sở hữu của đường
dây điện hạ thế.
3.5. Theo Tòa dân sự, chủ thể nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn
nhân?
11
BÀI TẬP HỌC KỲ | Nhóm 4
Tòa sơ thẩm và Tòa phúc thẩm bác yêu cầu khởi kiện của anh Công về việc đòi Chi nhánh
điện Cái Bè bồi thường nhưng không cho biết chủ thể nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
cho gia đình nạn nhân.
Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, “cần xác định rõ đường dây điện đó do ai quản lý, sử
dụng” để giải quyết. Như vây, theo Tòa tối cao, chủ thể quản lý, sử dụng là chủ thể chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân.
3.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao liên
quan đến xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân.
Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, “cần xác định rõ đường dây điện đó do ai quản lý,
sử dụng; từ đó căn cứ vào Điều 623 BLDS và Nghị định số 45/2001/NĐCP ngày 02-08-2001 của
Chính phủ quy định về hoạt động điện lực và sử dụng điện để giải quyết”. Hướng giải quyết trên
là hợp lý vì theo khoản 2 Điều 623 BLDS, “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu,
sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Tuy nhiên,
theo hợp đồng, ông Nguyễn Văn Sua là người đứng tên ký hợp đồng mua điện nhưng ông Sua chỉ
làm 1 tháng thì nghỉ, sau đó anh Trần Văn Ri thay ông Sua làm tổ trưởng. Cần áp dụng theo điểm
d, mục 2, phần III Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8-7-2006: “Nếu chủ sở hữu nguồn
nguy hiểm cao độ đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác mà gây thiệt hại thì phải xác
định trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm
hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại” để xác định chính xác hơn chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
12
BÀI TẬP HỌC KỲ | Nhóm 4
Vấn đề 4: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HAY NGOÀI HỢP ĐỒNG
4.1. Những điểm khác nhau cơ bản giữa bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng.
Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
- Là trách nhiệm dân sự phát sinh do không - Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hại là “hành vi trái pháp luật”.
theo hợp đồng.
- Việc bồi thường thiệt hại không giải phóng
người có nghĩa vụ khỏi trách nhiệm thực hiện
nghĩa vụ một cách thực tế.
-Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng sẽ làm
chấm dứt nghĩa vụ.
4.2. Trong hai vụ việc trên, có tồn tại quan hệ hợp đồng giữa bên bị thiệt hại và bên bị yêu
cầu bồi thường thiệt hại không? Vì sao?
Vụ việc thứ nhất: Có tồn tại quan hệ hợp đồng giữa bên bị thiệt hại và bên bị yêu cầu bồi
thường thiệt hại. Đây là hợp đồng vay tiền giữa Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Yên Đỗ và ông Đào Văn Nghinh.
Vụ việc thứ hai: Đây là hợp đồng. Vì thiết nghĩ, khi đưa bệnh nhân tới cứu chữa tại bệnh
viện thì cũng đã có sự thỏa thuận giữa bệnh nhân, gia đình bệnh nhân và bệnh viện, từ đó sẽ phát
sinh quyền và nghĩa vụ của đôi bên (ví dụ như bác sĩ phải có nghĩa vụ cứu chữa cho bệnh nhân,
ngược lại thì họ cũng phải tuân theo những quy định của bệnh viện cũng như bác sĩ).
4.3. Trong hai vụ việc trên, Tòa án đã theo hướng quan hệ giữa các bên là bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng hay trong hợp đồng? Vì sao?
Các căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng:
-
Thiệt hại xảy ra trong thực tế
-
Hành vi vi phạm các điều khoản trong hợp đồng
-
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm các điều khoản với thiệt hại
-
Lỗi
Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
13
BÀI TẬP HỌC KỲ | Nhóm 4
-
Hành vi trái pháp luật
-
Thiệt hại
-
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với thiệt hại
-
Lỗi
Vụ việc thứ nhất: Trong phần Xét thấy của bản án số 451/2011/DS-GĐT có đoạn: “Tòa án
cấp sơ thẩm đã xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”
là đúng.” Ở đây, việc Ngân hàng đã tự ý phát mãi căn nhà của ông Nghinh mà không thông báo
cho ông biết là hành vi trái pháp luật, hành vi này không thuộc phạm vi của hợp đồng nên đây là
tranh chấp ngoài hợp đồng. Trong bản án nêu rõ Tòa Giám đốc thẩm cũng có yêu cầu xem xét
việc phát mãi nhà đất nêu trên có đúng pháp luật hay không, và việc phát mãi đó thì gia đình của
ông Nghinh có biết hay không? Vì vậy, Tòa án đã theo hướng quan hệ giữa các bên là bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng.
Vụ việc thứ hai: Tóa án không theo hướng quan hệ giữa các bên là bồi thường. Do trong
bản án số 750/2008/DS-PT thì Tòa án đã dựa trên kết quả giám định của thanh tra Bộ y tế, xác
định Bệnh viện Đại học y dược không có lỗi cũng không có hành vi trái pháp luật nên không có
cơ sở để buộc Bệnh viện Đại học y dược Thành phố Hồ Chí Minh có trách nhiệm bồi thường theo
yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn. Vậy, trong vụ việc này, các yếu tố để xác định trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong và ngoài hợp đồng không thỏa mãn.
4.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong hai vụ việc trên về vấn đề
xác định bản chất pháp lý (trong hay ngoài hợp đồng) quan hệ bồi thường giữa các bên.
Hướng giải quyết của Tòa án trong hai vụ việc trên về vấn đề xác định bản chất pháp lý
(trong hay ngoài hợp đồng) quan hệ bồi thường giữa các bên là khá hợp lý.
- Vụ việc thứ nhất: tòa chỉ đưa ra nhận định nhưng chưa chứng minh được Tòa sơ thẩm
đúng chỗ nào (khi xác định đây là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là đúng), Tòa
phúc thẩm sai chỗ nào. Chỉ căn cứ vào việc ngân hàng phát mãi căn nhà của ông Nghinh là đúng
pháp luật hay không và việc phát mãi căn nhà đó gia đình ông Nghinh có biết không thì đã thỏa
mãn những điều kiện của "bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" hay chưa?
- Vụ việc thứ hai: Hướng giải quyết của Tòa án trong vụ việc này là hợp lý. Mặc dù Tòa
không đưa ra các điều luật để chứng minh hợp lý nhưng với các phân tích, kết quả của Thanh tra
Bộ y tế và Biên bản của Hội đồng chuyên môn xem xét quá trình chuẩn đoán, phẫu thuật và chăm
sóc Trương Hoàn Bá (số 16/BB-BYT ngày 18/5/2007) để Tòa xác định việc có lỗi hay không có
lỗi của Đại học Y dược.
14
BÀI TẬP HỌC KỲ | Nhóm 4
------------------------------------HẾT-------------------------------
15