Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Phân tích khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang của Huy Cận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.63 KB, 4 trang )

[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Đề 12.3. Phân tích khổ thơ cuối bài thơ '' Tràng giang'' của Huy Cận:
''Lớp lớp mâu cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà''.
Thơ mới xuất hiện như một giàn đồng ca đa sầu, đa cảm nhưng ''ảo não''
nhất là hồn thơ Huy Cận. Bình về thơ của con người này, Xuân Diệu viết: ''Trong
thơ Việt Nam nghe bay dậy một tiếng địch buồn. Không phải sáo thiên thai,
không phải điệu ái tình, không phải lời li tao kể chuyện một cái ''tôi'', mà ấy là một
bản ngậm ngùi dài: có phải tiếng đìu hiu của khóm trúc, bông lau; có phải niềm
than vãn của bờ sông bãi cát; có phải chăng một mình đang cảm thương cùng các
vì sao?... Thơ Huy Cận đó ư? Ai nhắc làm chi những nỗi thê thiết ngàn đời, ai
động đến cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế, những lời muôn năm than thầm trong
lòng vạn vật, ai thuật lại mà não nuột lắm sao?''. Chẳng cần với tập ''Lửa thiêng'',
chỉ riêng bài thơ ''Tràng giang'' cũng đủ làm nên hồn thơ ''ảo não''- Huy Cận.
Và đây là khổ thơ sầu lắng, thê thiết nhất trong trường buồn "Tràng giang":
'' Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nưóc
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.''.
Nếu như ba khổ thơ đầu, tâm trạng buồn- ''nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không
tìm được lối ra nên như kéo dài triền miên'' (Huy Cận) của thi nhân dàn trải theo
cái mênh mông, vô định của sông nước, thì tới khổ thơ cuối, tâm trạng ấy đã được
mở lên chiều cao, lan toả trong không gian hoàng hôn chiều tàn:
''Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhơ bóng chiều sa''
''Thiên nhiên, tạo vật buồn nhưng đôi lúc bộc lộ vẻ đẹp kì vĩ lạ lùng'', đó là
lời tự bình của tác giả về hai câu thơ này. Thật vậy, không gì vui và rạo rự bằng
lúc bình minh, nhưng cũng không gì buồn tan tác bằng buổi ngày tàn, khi ''bóng


chiều sa''. Nhưng chính lúc ấy, trong thơ Huy Cận, nơi ''Tràng giang'' lại rạng lên
vẻ đẹp tráng lệ với "lớp lớp" những tầng mây hợp thành ''núi mây'' khổng lồ được
những vạt nắng chiếu rọi thành ''núi bạc''. Đó là cảnh thực, song cũng là một hình
ảnh nghệ thuật đẹp tuyệt diệu. Viết được hình tượng ''núi bạc'', thi nhân phải có
một sự cảm nhận vẻ đẹp rất tinh tế, và đó phải là một hồn thơ yêu quê hương đất
nước, đất nước đằm thắm. Hình ảnh ''núi bạc'' ấy sinh động hơn, hùng vĩ hơn qua
động từ ''đùn'': ''Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng nở
ra trên trời cao, ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp'' (Huy Cận). Nhà thơ
tâm sự: Ông học được chữ ''đùn'' trong bài dịch thơ của Đỗ Phủ: ''Lưng trời gợn
lòng sông thẳm- Mặt đất mây đùn cửa ải xa''.
Ta thấy trong suốc hành trình ''Tràng giang'', hình ảnh thi nhân cô đơn
trong từng cảnh vật đổi thay nhưng cùng chung dáng vẻ: trôi nổi, mông lung, lạc
loài, vô định: một cành củi khô bập bềnh trôi trên sóng (''Củi một cành khô lạc
mấy dòng''), một đám bèo xanh trôi nổi trên sông ('' bèo dạp về đâu hàng nối
1


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

hàng'')... Và tới khổ thơ cuối hình ảnh thi nhân, nỗi buồn thi nhân lại thấp thoáng
ẩn hiện trong một hình ảnh cô đơn, lạc loài nữa, một hình ảnh rất tội nghiệp. Đó là
một cánh chim nhỏ nhoi, canh chim đang chở nặng bóng chiều, nghiêng cánh cố
bay về nơi chân trời xa vắng. Trong thơ ca cổ điển cũng như hiện đại, chỉ riêng
việc khắc hoạ hình ảnh một cánh chim lẻ loi đã gợi lên một cái gì cô đơn, tội
nghiệp, gợi lên cái buồn vắng, trống trải trong tâm hồn, huống chi trong thơ Huy
Cận, đó lại là một cánh chim ''nghiêng cánh nhỏ'' và đang chở nặng ''bóng chiều
sa'' cứ xa mờ dần đối lập vơi' hình ảnh ''núi bạc'' hùng vĩ trong trời nước bao la. Sự
tương phản ấy khiến cảnh ''Tràng giang'' đã mênh mông, xa vắng lại càng mênh
mông hơn, xa vắng hơn và ''Tràng giang'' đã buồn lại càng buồn hơn. Hãy nghe
thêm lời tự bình của tác giả: ''Cánh chim bay liệng tuy gợi lên chút ấm cũng cho

cảnh vật nhưng mông lung quá và nỗi buồn đến đây lại càng thêm da diết trong
nhớ thương. Nó không đóng khung trong cảnh sông nước ở trước mặt mà mở ra
đến chân trời của miền quê xa''. Hình ảnh cánh chim bay liệng trong buổi hoàng
hôn là hình ảnh ước lệ, tượng trưng trong thơ ca cổ điển. Không gian ấy, cánh
chim ấy đã từng là nơi bao thi nhân xưa thả những tâm tình tha thiết, thấm thía vào
đó. Và có lẽ nó sẽ còn là nơi để thi nhân muôn đời gửi gắm những nỗi niềm sâu
kín. Trong dòng suy nghĩ ấy, một lần nữa, cánh chim lẻ loi, cô đơn, lạc đàn
''nghiêng cánh nhỏ'' trong ''Tràng giang'' lại gợi cho ta nhớ tới tâm tưởng, nỗi buồn
bơ vơ, trống trải của một người lữ thứ xa quê đang cô đơn thả những mảnh hồn
theo ''cánh chim mỏi'' cố bay về nơi chân trời xa vắng để tìm một điểm dừng chân:
''Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi'' (Bà Huyện Thanh Quan). Đó là sự đồng điệu,
giao cảm giữa cái hiện đại và cái cổ điển trong thơ Huy Cận. Cánh chim ấy, ''bóng
chiều sa'' ấy ngoài Huy Cận thật khó tìm trong làng Thơ mới. Và đúng như Hoài
Thanh nhận xét: ''Trong nền văn học mới, Huy Cận đã làm một việc táo bạo: tìm
về cảnh xưa, nơi bao người sa lầy- tôi muốn nói sa vào khuôn. Người nói cùng ta
nỗi buồn nơi quán chật, đèo cao, nỗi buồn của sông dài, trời rộng, nỗi buồn của lữ
thứ...''.
Hai câu thơ đầu của khổ thơ cuối rất hay. Nếu như câu thơ ''Lớp lớp mây
cao đùn núi bạc'' gợi lên cái cao, cái bồng bềnh của cảnh mây trời thì câu thơ tiếp
theo lại trĩu xuống theo hình ảnh ''bóng chiều sa''. Chữ ''sa'' rất hay. Có lẽ bóng
chiều ấy đang chở nặng những tâm tình buồn nhớ của thi nhân nên mới có chữ
''sa'' ấy, chứ không phải là ''xa'', bởi nếu đó là ''bóng chiều xa'' thì nỗi buồn của thi
nhân chỉ đơn giản là một nỗi buồn man mác trước cảnh vật lúc giao thời, chứ đâu
còn là ''nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên như kéo dài triền
miên'' của thi nhân. Tâm trạng cô đơn của nỗi ''sầu nhân thế'' như ngưng đọng và
không thể giải toả trong không gian của ''bóng chiều sa'' ấy, và nó còn thể hiện sâu
đậm trong hình ảnh thi nhân một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm
nhận cái vĩnh hằng, cái vô cùng, vô tận của không gian đối lập với kiếp người hữu
hạn:
''Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà''.
Trong suốt hành trình ''Tràng giang'', ta luôn gặp những từ láy: ''điệp điệp'',
''song song'', ''đìu hiu'', ''lớp lớp''...tựa như một bản nhạc buồn với những âm điệu
2


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

thê thiết, và nối nhạc kết thúc là ''dờn dợn'', nó gợi lên muôn nhịp sóng: sóng
nước, sóng lòng. ''Dợn dợn'' diễn tả sự rợn ngợp của nhà thơ trước cảnh trời nước
mênh mông trong hkhôngảnh khắc hoàng hôn gắn liền với tình quê, cô hương:
''Dừng chân đứng lại, trời, non, nước
Một mảnh tình riêng: ta với ta''.
(Qua Đèo Ngang- Bà Huyện Thanh Quan)
hay:
''Quê hương khuất bóng hoàng hôn.
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai''.
(Hoàng Hạc Lâu- Tản Đà dịch).
Gợi lên từ tứ thơ ấy của Thôi Hiệu, hai câu thơ Đường: ''Lòng quê dợn dợn
vời con nước- Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà'', cũng là tấm ''tình quê'' của
Huy Cận. Nhưng đây là một tình quê tha thiết hơn, sâu nặng hơn và cũng mãnh
liệt hơn, bởi tấm ''tình quê'' ấy được toát lên trong một câu thơ vừa cổ điển, vừa
hiện đại. Cổ điển ở cảnh xưa: khói sóng, ở kết cấu thơ Đường; hiện đại ở cách nói
trái ngược với ý Thôi Hiệu- một sự cách tân mới mẻ, độc đáo của một hồn thơ đầy
''lãng mạn''. Xưa kia, đứng trên lầu Hoàng Hạc, Thôi Hiệu nhìn thấy khói sóng phủ
mờ trên sông mà tình quê thổn thức. Nhưng nay Huy Cận không cần cái mờ ảo
của khói sóng tác động vào thị giác, tri giác, cũng không cần cái se lạnh thấm vào
da thịt- không cần những thứ vốn đã gợi buồn (khói sóng) tác động, nhưng ''tình
quê'' Huy Cận vẫn trào dâng: ''Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà''. Rõ ràng tâm
tình của Huy Cận sâu lắng hơn, mãnh liệt hơn, có luôn thường trực trong tâm hồn

và luôn sẵn sàng toả ra, thấm vào vạn vật. Huy Cận có lần tâm sự: cái ''nhớ'' ở đây
không đơn thuần chỉ là nhớ quê hương Hà Tĩnh- nơi chôn nhau cắt rốn, mà ''nhớ
nhà'' nên hiểu theo nghĩa rộng là nhớ quê hương, đất nước Việt Nam. Ông còn kể:
Khi phát xít Đức xâm lược nước Pháp, chiếm đóng Pari, nhà thơ Aragon cảm thấy
lạc loài ngay trên chính quê hương của mình. Chính vì thế, Huy Cận đã nói ''Lúc
đó tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời nhà Đường''. Ân tình thi sĩ Huy Cận dành cho quê
hương, đât nước thật là sâu nặng. Khổ thơ đã khép lại về tứ thơ, nhưng cái tình
quê buồn tha thiết, sâu lắng thì như kéo dài, vang vọng mãi theo cái âm điệu ''dập
dềnh như sóng nước tràng giang'' của hai câu thơ cuối.
Đây là khổ thơ rất hay: hay ở sự kết hợp nhuần nhuyễn thơ ca truyền thốngnhững nét cổ điển của thơ Đường với những nét hiện đại; hay ở cảm xúc vũ trụ thể
hiện ở cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng nhưng thấm đượm nỗi buồn tâm
trạng của thi nhân- ''nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước'' (Huy Cận). Nỗi
buồn khơi nguồn từ tâm ra ngoại cảnh, rồi từ ngoại cảnh trở về tim- lạng lẽ thế
nhưng sâu nặng và mãnh liệt vô cùng: ''Một chiếc linh hồn nhỏ- mang mang thiên
cổ sầu''.
''Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài''. Cảm hứng của lời đề tựa ấy dàn trải
trong ba khổ thơ đầu, để rồi hội tụ và kết tinh trong khổ thơ cuối- khổ thơ có thể
xem như một bài thơ tứ tuyệt hay, bộc lộ chân thực nhất, sâu đậm nhất tình yêu
quê hương của tác giả. Và ở hoàn cảnh đất nước bị quân giặc giày xéo, càng yêu
quê hương thắm thiết bao nhiêu, thi nhân lại càng ''ảo não'', càng ''buồn'' bấy
nhiêu. Thơ đích thực nâng đỡ lòng người, khơi gợi những gì đẹp đẽ nhất tiềm ẩn
3


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

nơi đáy sâu tâm hồn để vươn tới cái cao cả. Bài thơ ''Tràng giang'', đặc biệt là khổ
thơ cuối đã thực sự khơi dậy trong tâm hồn bạn đọc một tình yêu thiêng liêng, cao
qúy- tình yêu đất nước.
***


4



×