Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.37 KB, 6 trang )

[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Đề 18.5. Phân tích Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm ''Chí
Phèo'' của nhà văn Nam Cao.
Nam Cao (1917-1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri, là một trong những
nhà văn tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán thế kỷ XX. Nhà văn Nam
Cao là người có tấm lòng thật đôn hậu, chan chứa yêu thương. Ông gắn bó sâu
nặng, giàu ân tình với quê hương và những người nghèo khổ bị áp bức, khinh miệt
trong xã hội cũ. Ông quan niệm, không có tình thương đồng loại thì không đáng
gọi là người (''Đời thừa''). Đó chính là một trong những lí do dẫn Nam Cao đến
với con đường nghệ thuật hiện thực ''vị nhân sinh'' và tạo nên những tác phẩm
thấm đượm tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Truyện ngắn ''Chí Phèo'' của ông là tác
phẩm như vậy và là một kiệt tác của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Truyện ngắn
đem lại cho người đọc những ấn tượng mạnh mẽ, không thể quên về bức tranh đen
tối ngột ngạt, bế tắc của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, đồng
thời thức tỉnh cái phần lương tri tốt đẹp nhất của con người, khơi dậy lòng căm
ghét cái xã hội vạn ác đã chà đạp lên nhân phẩm con người, thương xót, cảm
thông với những thân phận cùng đinh bị giày vò, tha hóa trong chế độ cũ.
Truyện ngắn "Chí Phèo" phản ánh những mâu thuẫn, xung đột trong lòng xã
hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, có thể nói rằng làng Vũ Đại
như một bức tranh thu nhỏ, điển hình cho xã hội nông thôn Việt Nam đương thời.
Ở đó có hai mâu thuẫn nổi bật, đó là mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp thống trị, giai
cấp thống trị chia bè chia cánh, đấu đá lẫn nhau để bóc lột người dân lương thiện,
nổi bật là phe cánh của Bá Kiến và đội Tảo. Và mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị
và người dân lương thiện bị áp bức, đây là mâu thuẫn chủ yếu và cơ bản nhất, tiêu
biểu là Bá Kiến và Chí Phèo.
Nhân vật Bá Kiến trong truyện đại diện cho giai cấp thống trị với bản chất
tàn ác nhưng quỷ quyệt. Ở nhân vật này có dòng dõi thống trị lọc lõi trong nghề
cai trị người, với giọng quát rất sang, điệu cười Tào Tháo. Bá Kiến được nhà văn
miêu tả là một con cáo già “khôn róc đời”, “ném đá giấu tay”, “già đời trong nghề
đục khoét”, biết thế nào là “mềm nắn rắn buông”, “Hay ngấm ngầm đẩy người ta


xuống sông, nhưng lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hay đập bàn đập ghế đòi cho được
5 đồng, nhưng được rồi lại vứt trả lại 5 hào vì thương anh túng quá!”. Chính hắn
đã lập mưu đẩy Chí Phèo vào chỗ tù tội oan uổng và sau đó sử dụng Chí Phèo như
một tay sai đắc lực phục vụ cho lợi ích và mưu đồ đen tối của mình. Không có Bá
Kiến thì không có Chí Phèo, nhưng Chí Phèo không chỉ là sản phẩm của sự thống
trị mà thậm chí là phương tiện tối ưu để thống trị: “không có những thằng đầu bò
thì lấy ai mà trị mấy thằng đầu bò”. Chính Bá Kiến đã rút ra cái kết luận mà theo
hắn rất chí lí ấy. Là một tội nhân, nham hiểm, nhẫn tâm, nhưng Bá Kiến lại hiện ra
bề ngoài như một kẻ ôn hòa, xởi lởi, biết điều, khiến người đời phải nhìn bằng cặp
mắt “kính cẩn”… Vì thế mà hắn đã lường gạt được bao nhiêu dân chất phác lương
thiện. Chí Phèo trở thành tay chân đắc lực của hắn; thật sự biến thành công cụ,
phương tiện thống trị cho kẻ thù của mình mà không tự biết. Bá Kiến hiện ra trong
tác phẩm "Chí Phèo" như một nhân vật điển hình, sống động và cá biệt, tiêu biểu

1


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

cho một bộ phận của giai cấp thống trị, được miêu tả, khám phá dưới một ngòi bút
bậc thầy.
Đại diện của giai cấp thống trị trong xã hội cũ, cùng với Bá Kiến là thằng
con lí Cường, là chánh tổng, là đội Tảo… Lí Cường là con trai của Bá Kiến, theo
chân Bá Kiếm làm quan lại thời phong kiến. Tuy được nhắc đến ít, còn non tay
trong việc cai trị người, nhưng lí Cường hiện lên cũng là một kẻ độc ác khiến mọi
người nể sợ. Tuy hắn còn trẻ nhưng mọi người phải kính cẩn gọi hắn là "ông lí",
hắn nổi tiếng là hách dịch, coi người như rơm như rác. Khi Chí Phèo đến nhà hắn
gây sự thì hắn sang sảng quát: "Mày muốn lôi thôi gì… cái thằng không cha
không mẹ này! Mày muốn lôi thôi gì?...". Khi Chí Phèo nằm ăn vạ trước cổng, lí
Cường hơi tái mặt, đứng nhing mà cười nhạt khinh bỉ… Còn các thế lực phong

kiến khác, tuy cũng không được nói đến nhiều nhưng chỉ qua vài chi tiết, bọn
chúng cũng hiện lên không kém phần gian ác. Khi Bá Kiến chết "Mừng nhất là
bọn kì hào ở trong làng. Họ luôn đến để hỏi thăm, nhưng chính là để nhìn lí
Cường bằng những con mắt thỏa mãn và khiêu khích". Đội Tảo, không cần kín
đáo, nói toang toang ngay ngoài chợ, trước mặt bao nhiêu người: "Thằng bố chết,
thằng con lớp này không khỏi người ta cho ăn bùn", từ "người ta" ở đây chính là
đội Tảo. Bọn đàn em thì bàn nhỏ: "Thằng mọt già ấy chết, anh em mình nên ăn
mừng."… Chính bọn chúng đem lại không khí ngột ngạt khó thở cho nông thôn
Việt Nam thành cái thế “quần ngư tranh thực”. Có người nói khi chứng kiến cảnh
cụ Bá chết: "Tre già măng mọc, thằng ấy chết còn thằng khác, chúng mình cũng
chẳng lợi tí gì đâu". Như vậy, Bá Kiến chết còn có lí Cường, còn có các thể lực
khác của bọn kì hào, chúng bóp nghẹt quyền sống của con người từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Chính chúng là thủ phạm gây ra bi kịch của những người lao
động lương thiện, mà đại diện là Chí Phèo.
Bao trùm lên tất cả, tác phẩm ám ảnh ta một không khí ngột ngạt, bế tắc đến
khủng khiếp, đầy những mâu thuẫn không thể dung hòa của một làng quê Việt
Nam trước Cách mạng, với bao cảnh cướp bóc, dọa nạt, giết chóc, ăn vạ, gây gổ…
trong đó Chí Phèo hiện lên là một sự cụ thể hóa, như một biếm họa tiêu biểu. Chí
Phèo xuất hiện lần đầu tiên trước mắt người đọc không phải bằng xương bằng thịt
mà là bằng tiếng chửi "hắn vừa đi vừa chửi":
''Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu
hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hăn chửi đời. Thế cũng
chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ
Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: ''Chắc nó trừ mình ra!''. Không ai lên
tiếng cả. Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải
chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ
kiếp! Thế có phí rượu không? Thế có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào
lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà
chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn
nghiến răng vào mà chửi cái đứa đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra

Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết...''
Đó là một tiếng chửi vật vã, đau đớn của một thân phận con người ít nhiều
nhận thức được bi kịch của chính mình. Chí "chửi đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ
2


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn". Chửi cũng là một cách để giao
tiếp nhưng đớn đau thay đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo là một sự im lặng đến rợn
người. Chí đã bị đánh bật ra khỏi cái xã hội loài người. Xã hội mà dù sống trong
nó Chí cũng không còn được xem là con người nữa.
Lật lại trang đời của Chí, người đọc không sao cầm được nước mắt trước
một hoàn cảnh đáng thương. Ngay từ khi sinh ra, Chí Phèo đã không có quyền làm
người: không cha, không mẹ, bị bỏ rơi, bị biến thành vật người ta đem cho đem
bán. Khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ giữa một cánh đồng
mùa đông sương trắng. Một người đi thả ống lươn nhặt được Chí Phèo ''trần
truồng và xám ngắt trong một váy đụp để bên cái lò gạch bỏ không'', sau đó,
truyền tay cho người làng nuôi lớn. Tuổi thơ của anh sống trong bất hạnh, tủi cực
"hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm 20 tuổi
thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến". Đây là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc
đời của Chí, bởi đó là quãng đời lương thiện, quãng đời tuổi trẻ nhiều mộng đẹp.
Chí giàu lòng tự trọng, biết ghét những gì mà người ta cho là đáng khinh. Bị con
mụ chủ bắt làm điều không chính đáng, Chí vừa làm vừa run, thấy nhục hơn là
thích. Chí cũng như bao con người khác, anh cũng có ước mơ giản dị: "có một gia
đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn
nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Đó chính là một
ước mơ lương thiện. Nhưng đớn đau thay, cái xã hội bất lương ấy đã bóp chết cái
ước mơ đó của Chí khi còn trứng nước. Một cơn ghen vu vơ của lão cáo già Bá
Kiến đã đẩy anh vào cảnh tội tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già

biến Chí Phèo từ một anh canh điền khỏe mạnh thành một kẻ lưu manh hóa, một
kẻ tội đồ. Khi về ở nhà Bá Kiến, cột mốc này đánh dấu sự tha hóa của Chí Phèo,
việc Chí đi tù bề ngoài đó là cơn ghen của cụ Bá, ẩn sau đó là một âm mưu sảo
quyệt "dùng thằng đầu bò để trị thằng đầu bò".
Nhà tù thực dân đã vằm nát bộ mặt người của Chí, phá hủy cả nhân tính đẹp
đẽ, Chí bị tha hóa hoàn toàn, bị mất cả nhân hình lẫn nhân tính. Sau bảy tám năm
ra tù Chí không còn là anh canh điền hiền lành như đất nữa. Trước mắt người đọc
là một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc "cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì
đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần nái
đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với
một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế". Cả cái nhân tính cũng bị xã
hội tàn hại. Giờ đây là Chí Phèo say, Chí Phèo với những tội ác trời không dung
thứ khi hắn bỗng dưng trở thành tay sai đắc lực cho lão cáo già Bá Kiến, quay
ngược lại lợi ích của dân làng Vũ Đại, đối lập với nhân dân lao động cần lao. Từ
một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh "con quỷ
dữ của làng Vũ Đại". Đáng buồn thay, mới ngày nào chính dân làng Vũ Đại nuôi
Chí lớn lên trong vòng tay yêu thương vậy mà nay Chí đã quay lưng lại với chính
cái nơi mà hắn được yêu thương và chở che. Từ đây, Chí sống bằng rượu và máu
và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện: "Hắn đã đập nát biết bao
nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân
lương thiện". Hắn làm những việc ấy trong lúc say " ăn trong lúc say, ngủ trong
lúc say, thức dậy vẫn còn say... đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi
3


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

say nữa say vô tận". Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì
"những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh
mang". Chí Phèo từ một người lương thiện bị lưu manh hóa, bị đẩy tới đường

cùng, bị biến thành quỷ dữ, bị loại ra khỏi đời sống xã hội loài người. Nam Cao đã
cho người đọc thấy một thực tế đau lòng về cuộc sống của nhân dân ta trước cách
mạng tháng Tám. Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt ước mơ và khát vọng, người
nông dân bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa. Một cuộc sống tối tăm không ánh
sáng. Nhà văn xót thương cho nhân vật, cay đắng và đau đớn cùng nhân vật. Đây
chính là vẻ đẹp của tấm lòng nhân đạo và yêu thương của nhà văn dành cho những
kiếp người như Chí Phèo.
Số phận của Năm Thọ, Binh Chức, tuy chỉ được nhắc qua tác phẩm, nhưng
cũng góp phần chỉ ra tính hệ thống và phổ biến của phương cách tha hóa người
dân trong sự thống trị của chúng. Đằng sau những Bá Kiến, lí Cường, chánh
tổng… như một sự hỗ trợ gián tiếp nhưng tích cực là hệ thống nhà tù dã man, bẩn
thỉu - cả một điều kiện môi trường bất hảo. Quá trình Chí Phèo ở tù không được
miêu tả trực tiếp, chỉ biết rằng khi vào tù Chí Phèo là người hiền lành lương thiện.
Ra khỏi tù, hắn trở về với cái vẻ hung đồ, cái thói du côn ương ngạnh học được từ
đấy. Nhà văn chỉ nói có thế. Nhưng như thế với bạn đọc thông minh cũng đã quá
đủ, tác phẩm đã tố cáo lên án giai cấp thống trị đẩy người lao động đến con đường
tha hóa, bế tắc, bi kịch tiêu diệt đến tận cùng quyền sống của con người! Bằng bút
pháp độc đáo, tài hoa linh hoạt, giàu biến hóa, Nam Cao khi tả, khi kể theo một
kết cấu tâm lý và mạch dẫn dắt của câu chuyện với một cách thức bề ngoài tưởng
chừng như khách quan, lạnh lùng và tàn nhẫn, nhưng chất chứa bên trong biết bao
nỗi niềm quằn quại, đau đớn trước thân phận đau đớn của kiếp người. Lồng vào
bức tranh hiện thực trên kia là thái độ yêu ghét, là cách phân tích và đánh giá
những vấn đề về hiện thực mà nhà văn đặt ra. Ngay việc lựa chọn một nhân vật
cùng đinh thống khổ nhất của xã hội làm đối tượng miêu tả và gởi gắm biết bao
thông cảm, suy tư, thương xót… tự nó đã mang nội dung nhân đạo.
Nhưng giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện tập trung nhất ở cách nhìn
nhận của nhà văn đối với nhân vật bị tha hóa đến tận cùng. Nam Cao vẫn phát
hiện trong chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn dĩ, chỉ cần chút tình thương
chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật thị
Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu đến “ma chê quỉ

hờn”, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm
hồn Chí Phèo thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái
tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hất hủi. Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi
với thị Nở, Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao,
nghe ra một tiếng chim vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng
lao xao của người đi chợ bán vải… Những âm thanh ấy bao giờ chả có. Nhưng
hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn, trong cái phút tỉnh táo ấy, Chí Phèo
như đã thấy tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói
rét và ốm đau. Cũng may thị Nở mang bát cháo hành tới. Nếu không, hắn đến
khóc được mất trong tâm trạng như thế… Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí
Phèo xao xuyến bâng khuâng: Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm
4


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

nũng với thị như làm nũng với mẹ… Ôi sao mà hắn hiền! “Hắn thèm lương thiện –
Hắn khát khao làm hòa với mọi người”… Từ một con quỉ dữ, nhờ thị Nở, đúng
hơn nhờ tình thương của thị Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả
những năng lực vốn có. Một chút tình thương, dù là tình thương của một con
người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí,… cũng đủ để làm sống dậy cả một bản
tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết
nhường nào! Bằng chi tiết này, Nam Cao đã soi vào tác phẩm một ánh sáng nhân
đạo thật đẹp đẽ – Nhà văn như muốn hòa vào nhân vật để cảm thông, chia sẻ
những giây phút hạnh phúc thật hiếm hoi của Chí Phèo…
Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay thị Nở cũng không thể
gắn bó với Chí Phèo. Khi bà cô thị Nở biết chuyện thị Nở có ý định lấy Chí Phèo,
trong lòng bà cô nghĩ: "Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy
một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ…", và
bà ta nói với thị Nở: "Đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn; ai lại đi lấy

thằng Chí Phèo". Nghe bà cô nói vậy thị Nở đã tìm đến gặp Chí Phèo, "Thị chống
tay vào háng, vênh vênh cái mặt, và dớn cái môi vĩ đại lên, trút vào mặt hắn tất cả
lời bà cô…Thị trút giận xong rồi… Thị ngoay ngoáy cái mông đít đi ra về.". Khi
mới gặp lại thị Nở và nghe thị cáu gắt, Chí vẫn sung sướng tưởng thị đùa như mọi
khi; nhưng khi nghe thị nói trút giận thì Chí dường như đã hiểu điều gì đó "Hắn cứ
ngồi ngẩn mặt không nói gì"; và khi thị Nở quay đi, hắn đuổi theo thị Nở, nắm lấy
tay nhưng bị "Thị gạt ra, lại dúi thêm cho một cái. Hắn lăn khoèo xuống sân…".
Bi kịch của Chí Phèo từ đây lại tiếp diễn, từ đây Chí đã mất hẳn thị Nở, mất hẳn
cái hạnh phúc khó khăn mới tìm lại được và Chí cũng ý thức rất rõ điều này. Suy
nghĩ, lời nói của bà cô, thái độ của thị Nở hay chính là suy nghĩ, thái độ vô cảm
của làng Vũ Đại, của xã hội lúc bấy giờ đã không cho Chí một cơ hộ để làm lại
cuộc đời. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo.
Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí
Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Cánh cửa trở về
với xã hội lương thiện, xã hội loài người vừa mở ra thì cũng là lúc đóng sầm lại
ngay trước mắt Chí Phèo. Thị Nở như tia chớp rạch ngang bầu trời đêm đen của
Chí Phèo vừa đủ để soi lên một niềm cảm thông, và đây cũng là lúc nó tắt ngấm
giữa đêm đen cuộc đời Chí. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã
cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Những vết dọc ngang
trên mặt, kết quả của bao nhiêu cơn say, bao nhiêu lần đâm chém, rạch mặt ăn
vạ… đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời. Và, như Đỗ Kim Hồi nói, “một khi
người được nếm trải chút ít hương vị làm người thì cái xúc cảm người sẽ không
thể mất… Đấy là mối bi thảm tột cùng mà cách giải quyết chỉ có thể là cái chết”.
(Tạp chí Văn học số 3-1990). Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh
thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng
gọi thảm thiết cấp bách: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!
Bên cạnh thành công về nghệ thuật xây dựng nhân vật, khắc họa tâm lý và
hành động của nhân vật, tác giả còn khá thành công trong kết cấu truyện - đầu
cuối tương ứng trong việc thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Tác phẩm mở
đầu bằng hình ảnh cái lò gạch cũ bỏ không, nơi Chí bị bỏ rơi khi mới sinh ra:

5


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

"Một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng tinh sương, đã thấy hắn trần truồng và
xám ngắt trong một váy đụp để bên cái lò gạch bỏ không, anh ta rước lấy và đem
cho một người đàn bà góa mù". Kết thúc câu chuyện cũng là hình ảnh chiếc lò
gạch cũ trong suy nghĩ của thị Nở: "Thị nhìn trộm bà cô, rồi nhìn nhanh xuống
bụng… Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa,
và vắng người lại qua…". Với hình ảnh chiếc lò gạch cũ, và kết cấu đầu cuối
tương ứng, nó như một dự báo: sẽ có một "Chí Phèo con" ra đời và bi kịch của
những con người lao động làng Vũ Đại chưa kết thúc. Tác phẩm cũng phản ánh
một hiện thực mang tính quy luật trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng
Tám: chừng nào còn xã hội vô nhân đạo, chừng ấy còn hình tượng Chí Phèo.
Thông qua tác phẩm, Nam Cao cũng đề ra những hướng, những giải pháp mang
tính xã hội, giải phóng cứu dỗi con người bằng tình thương, ngăn chặn tình trạng
xã hội vô nhân đạo để giải phóng con người. Đó là tư tưởng, tình cảm lớn mang
giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang sách
giàu tính nghệ thuật của Nam Cao.
Truyện ngắn ''Chí Phèo'' là niềm cảm thương sâu sắc đối với những số phận
bất hạnh như Chí Phèo, tác giả đã thể hiện niềm thương cảm ấy qua lời văn khách
quan, sắc lạnh, nhưng ẩn sâu trong đó là sự dõi theo, đau đớn, nỗi niềm thương
cảm của tác giả đối với nhân vật. Thông qua nhân vật Chí Phèo, truyện ngắn đã tố
cáo, lên án giai cấp thống trị đã đẩy người lao động đến con đường tha hóa, bế tắc,
bi kịch tiêu diệt đến tận cùng quyền sống của con người. Đồng thời tác phẩm cũng
là tiếng nói khẳng định đề cao con người, đề cao bản chất lương thiện của người
lao động nghèo, và sự thức tỉnh lương tâm mạnh mẽ của họ. Sự kết hợp giữa giá
trị hiện thực sắc bén và giá trị nhân đạo cao cả đã làm cho tác phẩm Chí Phèo bất
tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ trong

tâm hồn người đọc mọi thời đại.
***

6



×