Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.61 KB, 19 trang )

[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

PHẦN 8. BÀ THƠ “ĐẤT NƯỚC” CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Đề 8.1. Khái quát tác giả, tác phẩm: Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn
Khoa Điềm.
Đề 8.2. Trong bài thơ ''Đất nước'' (trích trong ''Mặt đường khát vọng''),
Nguyễn Khoa Điềm đã dùng một ''đất nước của ca dao thần thoại'' để thể hiện tư
tuởng ''đất nước của nhân dân''. Hãy phân tích bài thơ để chứng minh điều đó.
Đề 8.3. Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ ''Đất Nước'' của Nguyễn
Khoa Điềm:
''Đất là nơi em đến trường
...
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng''
Đề 8.4. Hình ảnh đất nước trong hai bài thơ mang tên ''Đất nước'' của
Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm có gì giống và khác nhau.
Đề 8.5. Lòng yêu nước được thể hiện như thế nài qua hai bài thơ ''Đất
nước'' của Nguyễn Đình Thi và ''Đất Nước'' (trích ''Mặt đường khát vọng'') của
Nguyễn Khoa Điềm.
***
Đề 8.1. Khái quát tác giả, tác phẩm: Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn
Khoa Điềm.
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hoà,
huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên- Huế (quê gốc làng An Cựu, xã Thủy An,
Thành phố Huế) trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách
mạng. Năm 1955, Nguyễn Khoa Điềm ra Bắc học tại trường học sinh miền
Nam. Sau khi tốt nghiệp khoa Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964,
ông về Nam hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên thành phố Huế; xây
dựng cơ sở cách mạng, viết báo, làm thơ...cho đến năm 1975. Sau ngày thống
nhất đất nước, ông tiếp tục hoạt động chính trị và văn nghệ ở Thừa thiên- Huế.
Ông tham gia Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá III, là Tổng thư kí
Hội Nhà văn Việt Nam khoá V, Bộ trưởng bộ Văn hoá- thông tin, từng là Uỷ


viên Bộ chính trị Đảng Cộng sản VN, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tư
tưởng- Văn hoá Trung ương. Sau đại hội X của Đảng, ông về nghỉ hưu ở Huế,
tiếp tục làm thơ. Tác phẩm chính: ''Đất ngoại ô'' (thơ, 1972), ''Mặt đường khát
vọng'' (trường ca, 1974), ''Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (thơ, 1986), ''Thơ Nguyễn
Khoa Điềm'' (Tuyển chọn, 1990), ''Cõi lặng'' (thơ, 2007). Nguyễn Khoa Điềm
thuộc thế hệ nhà thơ thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp
1


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

giữa xúc xảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con
người VN. Năm 2000, ông được nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ
thuật.
Trường ca ''Mặt đường khát vọng'' được tác giả hoàn thành ở chiến khu
Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô
thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ
mình, xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ
xâm lược. Đoạn trích ''Đất nước'' (phần đầu chương V của trường ca) là một
trong những đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại.. Đoạn
trích thể hiện cảm nghĩa mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được
phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hoá,... Đóng góp
riêng của đoạn trích là ở sự nhấn mạnh tư tưởng ''Đất nước của Nhân dân'' bằng
hình thức biểu đạt giàu suy tư, qua giọng thơ trữ tình- chính trị sâu lắng, thiết
tha. Các chất liệu của văn hoá dân gian được sử dụng nhuần nhị, sáng tạo, đem
lại sức hấp dẫn cho đoạn trích.
***
Đề 8.2. Trong bài thơ ''Đất nước'' (trích trong ''Mặt đường khát
vọng''), Nguyễn Khoa Điềm đã dùng một ''đất nước của ca dao thần thoại''
để thể hiện tư tuởng ''đất nước của nhân dân''. Hãy phân tích bài thơ để

chứng minh điều đó.
Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ nhà thơ thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ
ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa xúc xảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người
trí thức về đất nước, con người VN. Trường ca ''Mặt đường khát vọng'' được
Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, viết về sự
thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về
sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc chiến đấu
chống đế quốc Mĩ xâm lược. Đoạn trích ''Đất nước'' (phần đầu chương V của
trường ca) là một trong những đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ Việt
Nam hiện đại.. Đoạn trích thể hiện cảm nghĩa mới mẻ của tác giả về đất nước
qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí,
văn hoá,... Đóng góp riêng của đoạn trích là ở sự nhấn mạnh tư tưởng ''Đất nước
của Nhân dân'' bằng hình thức biểu đạt giàu suy tư, qua giọng thơ trữ tình- chính
trị sâu lắng, thiết tha. Các chất liệu của văn hoá dân gian được sử dụng nhuần
nhị, sáng tạo, đem lại sức hấp dẫn cho đoạn trích.
Giản dị như một lẽ tự nhiên, một vầng trăng cổ tích huyền ảo gợi lên
trong thế giới ''ngày xửa ngày xưa'',, một điệu hồn mền mại trong sáng vút ngân
tự trái tim nồng nàn yêu thương của mẹ trong những lời du đong đầy vành nôi...,
tất cả thấm vào tâm hồn mỗi con người tự bao giờ. Dòng nước ngọt ngào của
tình mẹ tắm mát hồn ta, ươm lên mảnh đất tâm hồn ta những hạt giống tốt lành
đầu tiên để từ đó nảy mầm xanh tươi vươn lên đón nhận nắng gió cuộc đời. Thế
2


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

giới tuổi thơ- thế giới của trí tưởng tượng bay bổng ấy, thật kì diệu, gắn bó sâu
xa, tựa như trở thành hơi thở, thành máu thịt nuôi dưỡng tâm hồn. Và cũng
chẳng biết tự bao giờ, tình yêu quê hương đất nước đậm đà, từ vành nôi của mẹ,
thành hình trong ta tự trong tiềm thức... Văn học dân gian nói chung, ca giao

thần thoại nói riêng chính là linh hồn dân tộc. Có thể nói đây là bộ phận văn học
trong sáng, giàu sức sống nhất và cũng biểu hiện rõ nét nhất điệu hồn dân tộcmột điệu hồn hồn hậu, tươi duyên và đằm thắm. Và không ai khác, chính nhân
dân- tập thể những người lao động- trong quá trình lao động cải tạo thiên nhiên,
là tác giả của nền văn học dân gian dồi dào sáng tạo ấy. Với những xúc động
chân thành mãnh liệt của một hồn thơ nảy nở từ nguồn sữa dân gian dạt dào, với
sự cảm hiểu sâu sắc của một thanh niên trí thức có vốn văn hoá sâu rộng, phong
phú đang trực tiếp trải nghiệm trong cuộc đấu tranh, quyết liệt, quyết liệt của
nhân dân dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, Nguyễn Khoa Điềm tìm về cội
nguồn ''ca dao, thần thoại'' để bật lên ánh sáng tư tưởng ''Đất nước của nhân
dân'', vừa độc đáo mới mẻ, vừa thể hiện cái nhìn chính xác toàn diện, có chiều
sâu của nhà thơ về đất nước, về nhân dân. Tư tưởng chủ đạo ấy thấm nhuần từ
cảm xúc đến việc sử dụng chi tiết nghệ thuật bài thơ. Đi suốt đoạn trích, ta bắt
gặp một thế giới vừa gần gũi, thân quen, vừa kì diệu sâu xa khơi dậy hồn đất
nước. Và chương V của bản trường ca ''Mặt đường khát vọng'' được tắm đẫm,
được bao bọc bởi bầu không khí văn hoá dân gian gắn bó máu thịt với mỗi tâm
hồn, trong đó âm hưởng ''đất nước của nhân dân'' là nốt nhạc chủ đạo ngân vang
suốt bản đàn ''Đất nước''.
"Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột đã thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó."
Những câu thơ mở đầu đoạn trích, thật tự nhiên và sâu lắng, nói với ta bao
điều giản dị mà cũng thật thiêng liêng, thật thấm thía. Một thế giới cổ tích,
truyền thuyết xưa như ùa về, sống dậy trong tâm hồn người đọc: câu chuyện ''Sự
tích trầu cau'' với tình người nồng hậu, thuỷ chung, biểu tượng đạo lí sáng đẹp

yêu thương của dân tộc; ''Sự tích Thánh Gióng'' như khúc anh hùng ca tráng lệ
tự hào, biểu tượng sức mạnh thần kì của nhân dân Việt Nam từ buổi bình minh
non trẻ dựng nước và giữ nước. Hơi thơ trải dài, trầm lắng ngân nga như tiếng
lòng đất nước dội về tự thủa nào, gợi dậy quá trình sinh thành và tồn tại của đất
nước. Nếu như trong cổ tích, truyền thuyết xưa, nhân dân là những cô Tấm,
những chàng Thạch Sanh...hay hoá thân trong vẻ đẹp Thánh Gióng, Sọ Dừa...thì
3


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

trên trang thơ Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân hiện lên thân thương, gần gũi qua
dánh hình của bà, của mẹ, của ''dân mình''. Còn đất nước, không phải là một
hình người khổng lồ xa lạ, hay là một khái niệm trừu tượng mà là những gì giản
dị, thân thiết trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Đất nước hiện hình từ
câu chuyện cổ tích của mẹ, miếng trầu bà ăn đến cái kèo, cái cột trong nhà, hạt
gạo ta ăn hàng ngày. Tất cả những vật quen thuộc bình dị ấy trong đời sống vật
chất, cùng với những phong tục tập quán trong đời sống tinh thần của nhân dân:
ăn trầu, trồng tre, búi tóc sau đầu, cách đặt tên người..., cả đến tình yêu của con
người (''cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn'') đều làm nên khuôn mặt
dân tộc- một dân tộc nghĩa tình, đằm thắm như trong câu ca giao gợi lên trong
ta:
''Tay nâng chén mối, đĩa gừng
Gừng cay, muối mặn xin đừng quen nhau.''
Chất dân gian, hồn dân tộc như thấm vào từng câu chữ. Đất nước bắt
nguồn từ những cái hàng ngầy gần gũi, lại là những cái bền vững sâu xa, đã hình
thành và tồn tại từ ngàn xưa trong đời sống dân tộc; từ những phong tục tập
quán xa xưa như không có tuổi, lại là sự tiếp nối thiêng liêng, ấm đượm qua
nhiều thế hệ. Đó chính là chiều sâu văn hoá- lịch sử của đất nước thể hiện ngay
trong cuộc sống gần gũi hàng ngày của nhân dân. Có thể nói, bằng những hình

tượng cụ thể, sinh động giàu sức khơi gợi, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra định
nghĩa mới mẻ, độc đáo về đất nước. Những câu thơ mở đầu như khúc dạo thiết
tha đưa người đọc vào thế giới nghệ thuật của đoạn thơ, vừa gần gũi, thân quen,
vừa huyền ảo diệu kì tự xa xưa.
Không những thế, đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm còn gắn với kỉ
niệm riêng tư của mỗi con người, biến thành máu thịt của mỗi người. Tách ''đất''
và ''nước'' thành hai yếu tố, nhà thơ soi chiếu mối quan hệ Đất Nước với không
gian và thời gian, với lsử và hiện tại. Đất nước là mảnh đất quen thuộc, gắn bó
với mỗi con người:
''Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm''
Đất nước còn là núi sông rừng bể bao la, là không gian sinh tồn và phát
triển của bao thế hệ người Việt. Và thật thiêng liêng, Đất Nước là chứng nhân
ghi dấu kỉ niệm tình yêu:
''Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm''
Câu thơ thể hiện ngòi bút tài hoa, tinh tế của thi nhân. Ta như lắng nghe
âm điệu bài ca dao ''Khăn thương nhớ ai'' dìu dặt trong bài thơ. Kỉ niệm đẹp đẽ,
xúc động của tình yêu như khơi dậy xôn xao, lấp lánh mỗi dòng thơ, ẩn đằng sau
đó là biết bao xao xuyến, bâng khuâng của ''cái thuở ban đầu lưu luyến ấy''. Vì
thế, ấn tượng về sự gắn bó thân thiết với mỗi cá nhân của đất nước càng khắc
ghi sâu đậm.
4


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Những câu thơ sau lại thấm nhuần chất dân gian nhờ cách sử dụng linh
hoạt, chọn lọc chất liệu văn hoá dân gian:
''Đất là nơi 'con chim phượng hoà bay về hòn núi bạc'

Nước là nơi 'con cá ngư ông mong nước biển khơi' ''
Theo mạch suy tưởng, tác giả tiếp tục cảm nhận đất nước ở trong bình
diện lịch sử với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ ''đẻ ra đồng bào ta trong
bọc trứng'', truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ. Nhưng câu thơ gợi cảm
xúc trang trọng, thiêng liêng khi hướng về nguồn cội cha ông. Những giá trị
truyền thống, phong tục, văn hoá bền vững ấy tạo nên mạch ngầm chảy từ quá
khứ, nối liền hiện tại và tương lai:
''Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ.''
Cảm nhận đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện mối quan hệ biện
chứng giữa con người và đất nước, tạo nên sự ''hài hoà, nồng thắm'':
''Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước''
Một ''đất nước của ca dao thần thoại'' đi vào tâm hồn con người từ thuở
trong nôi, một ''đất nước của nhân dân'' gắn bó gần gũi, thiêng liêng trong cuộc
sống hàng ngày, đất nước đã quấn quyện trong hơi thở, máu thịt mỗi người.
Những câu thơ đang từ tính chất độc thoại, hướng nội chuyển sang đối thoại, đặt
ra trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước:
''Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làn nên Đất nước muôn đời''.
Câu thơ dù là hình thức mệnh lệnh, nhưng với giọng điệu thiết tha, với
cảm xúc mãnh liệt bật lên tự trái tim, từ sự cảm hiểu sâu sắc về đất nước, điệu
thơ có sức cuốn hút, thôi thúc mạnh mẽ, tác động đến tâm hồn và trí tuệ người

đọc. Mỗi con người gắn bó máu thịt với đất nước nên phải biết bảo vệ, giữ gìn
đất nước, hơn thế nữa phải hi sinh vì đất nước khi vận mệnh dân tộc lâm nguy
để mảnh đất mãi màu mỡ, xanh tươi những khúc hát tự do như người con gái
trong bài thơ ''Quê hương'' của Giang Nam:
5


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

''Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi''.
Trong hoàn cảnh đất nước đang gồng mình dưới mưa bom bão đạn của kẻ
thù, những vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm càng có sức lay động sâu sa lòng
người, khơi dậy trong mỗi người ngọ lửa yêu thương, chiến đấu, hy sinh bởi
trách nhiệm với đất nước chính là trách nhiệm với chính bản thân mình, với
truyền thống văn hoá ngàn xưa của nhân dân. Những câu thơ viết về chính trị
mà không khô khan chính vì ''phát khởi tự trong lòng'' thi nhân, thấm nhuần cảm
xúc dạt dào hứng khởi và nói với ta biết bao nhiêu điều thiêng liêng về đất nước,
về trách nhiệm bản thân đối với đất nước.
Đi suốt đoạn thơ và nhập sâu vào cảm xúc nhà thơ, tư tưởng ''đất nước
của nhân dân'' càng sáng lên rạng rỡ. Đất nước được nhìn từ phương diện địa lí,
lịch sử, văn hoá trở nên trang trọng, đẹp đẽ lạ thường. Những câu thơ như trải
rộng mãi cùng cái nhìn, toàn cảnh thiên nhiên đất nước từ Bắc xuống Nam, từ
biển lên rừng. Đôi mắt thi nhân tưởng như muốn ôm trọn những cảnh quan mĩ
lệ, kì thú non sông:
''Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương.
Những con rồng nằm im góp cho dòng sông xanh thẳm,

Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà
Điểm.''
Vốn văn hoá dân gian sâu rộng trải ra trên mỗi trang thơ với những phát
hiện mới mẻ, sâu sắc và tinh tế của nhà thơ. Những chất liệu dân gian như cổ
tích, truyền thuyết..., từ sự tích núi Vọng Phu đến hòn Trống Mái, từ truyện
Thánh Gióng đến sự tích chín muơi chín con voi quây quần thuần phục nơi đất
Tổ Hùng Vương, từ những sự tích về núi Bút, non Ngiên, thắng cảnh Hạ Long
hay những địa danh Nam Bộ,...mỗi danh lam thắng cảnh tươi đẹp của đất nước
gắn với truyền thuyết riêng tạo nên một thế giới cổ tích huyền diệu. Nhưng có lẽ
nét sâu sắc hơn, tài hoa hơn cả chính ở cái nhìn ''đất nước của nhân dân'' nên
mỗi cảnh quan đất nước đều in dấu hình dáng con người: những người vợ nhớ
chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, người học trò nghèo, những người dân nào..., cả
đến những con vật gần gũi thân quen của cuộc sống con người (''con cóc, con gà
quê hương'') cũng góp phần tô điểm vẻ đẹp dáng hình đất nước, nhân dân không
chỉ bằng những sinh hoạt của mình, cắt nghĩa các truyền thuyết mà còn sáng tạo
ra danh lam thắng cảnh đẹp đẽ, mang hồn thiêng sông núi, dân tộc. Thiên nhiên

6


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

đất nước hiện lên chính là một phần máu thịt, tâm hồn của nhân dân. Từ đó, tác
giả khái quát, nâng lên như một suy tư giàu chất triết luận:
''Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau 4 nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.''

Vượt qua thời gian đằng đẵng, nhìn xa vào bốn ngàn năm đất nước, cả bề
dày lsử hào hùng của đất nước như sống dậy. Ca dao xưa nói về nỗi nhớ quê
hương qua những chi tiết thật bình dị của bữa cơm đạm bạc và bóng dáng người
thương dầm sương dãi nắng:
''Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.''
Nhìn lại lsử dài lâu của đất nước, ta thường khắc ghi các triều đại, ngợi ca
những anh hùng ghi danh trong trang sử vàng của dân tộc. Nhưng cảm quan ''đất
nước của nhân dân'' như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, chi phối cái nhìn lsử của nhà thơ.
Nhân dân là người sáng tạo ra đất nước, chiến đấu bảo vệ đất nước. Những cụm
từ lấy ra trong ca giao, tục ngữ: ''nuôi cái cùng con'', ''giặc đến nhà đàn bà cũng
đánh'' tạo cho lời thơ sự nhuần nhuỵ hoà quyện rất gợi cảm. Nốt nhấn của khúc
ca ca ngợi nhân dân chính là bật lên điểm sáng ngời trong phẩm chất nhân dân:
''Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước''
Nhân dân, trong quan niệm Nguyễn Khoa Điềm, là tập thể những người
anh hùng vô danh. Họ sống giản dị, chết bình tâm, chiến đấu không phải để lại
dòng tên cho lịch sử mà vì một lẽ thiêng liêng, bình dị và cao cả: bảo vệ đất
nước. Câu thơ ngắn, cô đúc nhưng lại chính là sự dồn nén của cảm xúc tác giả,
ẩn chứa biết bao xúc động chân thành trước những hi sinh thầm lặng, nhưng
đóng góp lớn lao của những người vô danh, hiền lành và giản dị.
Với cái nhìn đầy tính phát hiện, tác giả nhấn mạnh vai trò của nhân dân.
Nhân dân, bằng máu xương của mình đã chiến đấu bảo vệ gìn giữ đất nước, họ
là những anh hùng chiến trận. Nhân dân, bằng lao động sáng tạo đã dựng xây
đất nước, giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ Việt Nam mọi giá trị văn hoá, vật
chất tinh thần: từ hạt lúa với nền văn minh lúa nước, ngọn lửa tạo nên bước tiến

của loài người đến những của cải tinh thần quý báu như phong tục tập quán,
giọng nói cha ông, tên xã, tên làng...họ là những anh hùng văn hoá. Nhân dân đã
ấp iu qua nhiều thế hệ nhưng phẩm chất cao đẹp đúc kết trong những câu ca dao,
7


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

tục ngữ đi vào lòng người, dễ thuộc dễ nhớ. Đó là cái gốc của mọi tình cảm đẹp,
tình yêu thương, thể hiện trong câu ca dao hóm hỉnh:
''Yêu em từ thủa trong nôi
Em nằng em khóc, anh ngồi anh ru''
Đó là sự quý trọng công sức lao động:
''Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng''.
Đó còn là tinh thần bất khuất quật cường và lòng căm thù giặc sâu sắc:
''Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què.''
Sử dụng linh hoạt, sáng tạo chất liệu ca dao của văn học dân gian, dường
như có một số sự đồng điệu và gặp nhau trong tâm hồn cha ông ngàn xưa và thế
hệ hiện tại. Phải thấu hiểu, trân trọng giá trị văn hoá dân tộc thì tác giả mới có
cái nhìn sâu sắc, mới mẻ ấy trong quan niệm ''đất nước của nhân dân''.
Cảm hứng thơ dồn dập dâng trào đến đỉnh điểm từ đó bật lên điểm sáng
cốt lõi trong quan niệm đất nước của Nguyễn Khoa Điềm:
''Để Đất nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất nước của ca giao thần thoại''.
Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh dòng sông đưa nước từ những phương
trời xa tắm mát tâm hồn ta và vẻ đẹp của thiên nhiên, con người đất Việt ''gợi
trăm màu trên trăm dáng sông xuôi''. Phải chăng đó cũng chính là dòng sông của
truyền thống lịch sử chảy về tự ngàn xưa, từ đó bồi đắp phù sa cho tâm hồn

muôn thế hệ? Và lời thơ kết rung động lòng người bởi nó bật lên từ sự xúc động
chân thành của trái tim thi sĩ: ''Ta nghẹn ngào đất nước Việt Nam ơi!''. Cái
''nghẹn ngào'' của nhà thơ thật đáng qúy, đáng trân trọng, đó là kết tinh của
những xúc cảm mãnh liệt và suy tư, chiêm nghiệm sâu sắc về đất nước, về vai
trò to lớn và vẻ đẹp cao cả của nhân dân, là tiếng lòng chân thành của cả thế hệ
hướng tới nguồn cội dân tộc, tới truyền thống văn hoá, lịch sử vững bền mà
nhân dân là người sáng tạo, bảo tồn và truyền lại cho con cháu mai sau.
Có thể gọi ''Đất nước'' là một tuỳ bút thơ của Nguyễn Khoa Điềm, trong
đó tác giả không đơn thuần viết theo dòng chảy cảm xúc mà còn huy động vào
thơ kho hiểu biết dồi dào trong tính tổng hợp về địa lí, lsử, văn hoá dân gian mà
tâm điểm là văn học dân gian. Đoạ trích được xây dựng theo phương thức luận
đề, chất tư duy lôgic'' dễ làm thơ mất đi chất ''tươi xanh nhựa sống'', khô khan,
chỉ tác động vào lí trí. Hơn nữa với vốn kiến thức phong phú tổng hợp khiến thơ
dễ sa vào ước lệ, khô cứng như một bài diễn ca xã hội học. Nhưng không! Viết
về đất nước, về một nguồn mạch cảm hứng lớn của thi ca nói chung và thơ ca
cách mạng nói riêng, Nguyễn Khoa Điềm đã chiết xuất chất liệu dân gian, đưa
vào ngôn ngữ thơ những chi tiết hiện thực gần gũi, phổ biến, không chỉ quen
thuộc trong nhận thức mà còn có sức lay động tình cảm sâu sa đối với mọi tâm
8


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

hồn Việt Nam. Việc sử dụng khá dày, đậm nhưng cũng rất linh hoạt sáng tạo
nguồn văn học dân gian tạo nên thế giới thơ bình dị, gắn bó máu thịt với tâm
hồn người đọc và dễ đi vào lòng người bởi ngôn ngữ dân gian hồn hậu, trong
sáng. Chính cách sử dụng ngôn ngữ này tạo sắc điệu thẩm mĩ và không khí riêng
cho đoạn thơ, đồng thời thể hiện rõ nét tư tưởng ''đất nước của nhân dân'' bới
nhân dân đã sáng tạo ra nên văn học dân gian giàu sức sống, thân quen gần gũi
với mỗi người dân đất Việt. Mặt khác, chính cảm xúc chân thành mãnh liệt của

thi nhân mang lại cho đoạn thơ âm hưởng tha thiết, ngân vang, với nhiều giọng
điệu: lúc thì nồng nhiệt say mê, khi lại trầm lắng như trò chuyện, tâm tình về
những nhận thức, cảm xúc về đất nước, nhân dân. Mỗi chi tiết, hình ảnh đưa ra
đều thấm nhuần tâm hồn nhà thơ, khi thì là cảm nhận riêng tư, lúc lại chứa chan
cảm xúc như một hồi ức, một kỉ niệm. Sự kết hợp hài hoà chất trữ tình và giọng
chính luận tạo cho đoạn thơ vẻ đẹp riêng độc đáo, thơ không xa lạ mà đi vào
lòng người bằng tiếng nói tình cảm xúc động chân thành mà vẫn thể hiện chất trí
tuệ. Những trải nghiệm bản thân của một nhà thơ- chiến sĩ lăn mình trong khói
lửa chiến tranh cùng với vốn văn hoá sâu rộng và tình cảm yêu thương đất nước,
trân trọng ca ngợi nhân dân đã toả sáng tư tưởng, tâm hồn thi nhân.
Bằng những khám phá, phát hiện về chiều sâu văn hoá- lịch sử đất nước,
về sự gắn bó giữa truyền thống quá khứ và hiện tại, với con đường đi riêng: con
đường của văn học dân gian gần gũi, kì diệu, tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm
thấm vào từng hình tượng, ngôn ngữ với mối liên tưởng, tưởng tượng phong
phú, độc đáo và thông minh. Có thể nói đây là phần tinh tuý nhất, sâu sắc nhất
trong trường ca ''Mặt đườn khát vọng'' của Nguyễn Khoa Điềm. Có lẽ ''Đất
Nước'' của Nguyễn Khoa Điềm với nhạc điệu ''đất nước của ca dao thần thoại''
để sáng lên tư tưởng ''đất nước của nhân dân'' rất độc đáo là nòng cốt nhạc ngân
vang trong bản goà điệu của thơ ca kháng chiến, thể hiện tâm hồn cảm xúc thi
nhân trước vẻ đẹp của văn hoá dân tộc, tư tưởng ấy đến nay còn tươi nguyên giá
trị của nó bởi trách nhiệm ''hoá thân cho dáng hình xứ sở'' là vấn đề muôn đời
của thơ ca và cuộc sống.
***
Đề 8.3. Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ ''Đất Nước'' của
Nguyễn Khoa Điềm:
''Đất là nơi em đến trường
...
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng''
''Đất Nước'' là chương năm của trường ca ''Mặt đường khát vọng'' mà
Nguyễn Khoa Điềm đã viết ở chiến khu Trị Thiên trong những năm kháng chiến

chống Mỹ. Qua phần thơ này có thể thấy được những cảm nhận tinh tế của nhà
thơ về đất nước trong chiều sâu cảm xúc suy nghĩ và trong sự gắn bó thân thiết
với cuộc đời mỗi người. Đặc biệt là đoạn trích:
9


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

''Đất là nơi em đến trường.
...
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng.''
đã thể hiện tập trung những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ khi
thể hiện những khám phá mới mẻ về đất nước mình.
Tiếp nối những suy nghĩ về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã táo bạo khi
đưa ra định nghĩa về Đất Nước được tạo thành bởi hai yếu tố thời gian và không
gian. Đó chính là đất và nước. Khi đi vào tìm hiểu, chính tư duy nghệ thuật của
nhà thơ đã dẫn đến những liên tưởng bất ngờ khi ông định nghĩa về đất nước:
''Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm''
Đất gắn liền với những kỉ niệm thời thơ ấu của anh, gắn liền với con
đường hàng ngày đến trường với bao trò chơi, bao lần đùa nghịch cùng bạn bè.
Còn nước ''là nơi em tắm''. Nó cũng gắn với kỉ niệm tuổi thơ em, một kỉ niệm
êm dịu và nhẹ nhàng như những dòng sông em thường tắm mát. Những kỉ niệm
ấy, tất cả hợp lại thành đất nước, thành ''nơi ta hò hẹn''. Khi cả anh và em cùng
trưởng thành, tình yêu kết dính giữa anh và em thành một mối khăng khít, không
tách rời. Và đến đây, đất nước không còn tách riêng mà hoà hợp với nhau. Và
điểm hẹn hò giữa anh và em cũng chính là ở bắt đấu của tình yêu đất nước. Tình
yêu cá nhân, tình yêu thiêng liêng giữa anh và em đã to lớn và nó hoà vào tình
yêu đất nước. Hay đất nước bắt nguồn từ tình yêu nam nữa. Tiếp tục mạch thơ
ấy, Nguyễn Khoa Điềm đi đến khẳng định ''Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc

khăn trong nỗi nhớ thầm''. Nỗi nhớ thầm kín, da diết của em, nỗi nhớ ấy đã gắn
kết tình yêu anh và em, nỗi nhớ cũng nuôi lớn tình yêu hai chúng ta và nỗi nhớ
ấy cũng hoà vào đất nước, gắn kết đất nước lại thành một mối khăng khít, bền
chặt. Có nỗi nhớ tình yêu, có nỗi nhớ đất nước.
Nguyễn Khoa Điềm đã đưa khái niệm đất nước từ sự kết hợp của tình cảm
cá nhân nam nữ riêng tư, từ sự tách riêng để đi đến cái khái quát, nâng lên rộng
hơn:
''Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi''
Từ tình cảm riêng tư, tác giả đi đến định nghĩa đất nước là nơi dân mình
đoàn tụ, sinh sống. Từ cá thể anh, em đã đi đến cái chung, cái lớn hơn là dân
mình, là đồng bào.
Tác giả đã mở ra một không gian, một thời gian theo chiều dài quá khứ
nghìn xưa:
''Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông''

10


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Và kết lại ''Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ''. Tác giả còn ngầm chỉ rõ
yếu tố tạo nên sự gắn kết giữa các cá nhân, từ những con người đơn lẻ gắn kết
lại thành nhân dân. Sự gắn kết ấy, sợi dây vô hình ấy chính là tinh thần đoàn kết
của nhân dân ta. Nó tạo nên sức mạnh kì diệu, liên kết mọi người lại, từ cái tôi
đã hoà vào thành cái ''ta'' chung, cái ''ta'' của dân tộc, của đất nước trên cả hai
phương diện địa lý và lịch sử.
Và nó trở lại kết cấu:
''Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng''
Tách riêng từng yếu tố để chứa đựng một huyền thoại xưa. Hình ảnh
''chim về'' chính là nơi sinh sống của người mẹ Âu Cơ với 50 người con trên
rừng. Còn nước lại chính là nơi Lạc Long Quân sinh sống cùng với 50 người
con. Nó kết lại thành câu chuyện truyền thuyết ''Lạc Long Quân và Âu Cơ'' đẻ ra
đồng bào ta trong bọc trứng. Hay nói cách khác là nguồn gốc của dân tộc ta là
con Rồng cháu Tiên. Tất cả các anh em dân tộc sinh sống trên mảnh đất Việt
Nam đều là anh em với nhau, đều do một mẹ sinh ra.
Đoạn trích ngắn gọn chỉ 13 câu nhưng đã đưa ra được ba khái niệm khác
nhau về đất nước với ba lần cảm xúc khác nhau nhưng đều thống nhất trong sự
chuyển hoá từ cái riêng đến cái chung, từ bộ phận đến khái quát, nêng lên để
chúng hoà quyện, kết dính lại với nhau làm nên đất nước trong chiều dài và
chiều sâu của lịch sử, của truyền thống văn hoá. Đoạn trích ngắn gọn, lời thơ
khúc chiết đã nói lên một cách nhìn mới, nhận định mới của Nguyễn Khoa Điềm
về đất nước. Sự kết hợp hài hoà giữa cảm xúc sâu lắng cùng với nhìn nhận mới
mẻ, đúng đắn đã làm nên giá trị của đoạn thơ.
***
Đề 8.4. Hình ảnh đất nước trong hai bài thơ mang tên ''Đất nước''
của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm có gì giống và khác nhau.
Đất nước luôn luôn là hành trang- tinh thần trên bước đường đi tới của thế
hệ trẻ, và hai bài thơ sẽ khơi dậy trong họ tình yêu Tổ quốc và những dự định tốt
đẹp để góp phần dựng xây Đất nước. Hai bài thơ đã đem đến cho họ hai hình
ảnh đẹp về Tổ quốc: ''Đất nước'' của Nguyễn Đình Thi mang nhiều sắc thái hiện
đại, còn ''Đất nước'' của Nguyễn Khoa Điềm lại đậm đà phong vị dân gian. Vì
thế cả hai gương mặt này gộp lại, có thể làm cho thế hệ trẻ cảm nhận đầy đủ,
trọn vẹn hơn mà cũng phong phú, sâu sắc hơn về Tổ Quốc.
Trong ''Đất nước'' của Nguyễn Đình Thi, không phải không có những nét
dân tộc (Gió thổi mùa thu hương cốm mới), những hình ảnh Việt Nam (Những

11


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

cánh đồng thơm mát- Những ngả đường bát ngát- Những dòng sông đỏ nặng
phù sa) nhưng nhìn toàn bài thơ thì cái sắc thái hiện đại vẫn hiện lên khá đậm.
Vẫn có những mạch ngầm ''rì rầm trong tiếng đất'' nối với truyền thống ông cha,
nhưng đã hiện lên một Đất nước hiện đại của thế kỉ XX, từ sau Cách mạng tháng
Tám. Đó là hình ảnh Đất nước đã được Nguyễn Đình Thi ấp ủ, trải nghiệm và
đúc kết trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Ta bắt gặp trong bài thơ nhiều hình
ảnh hiện đại, nhiều cách nói hiện đại. Khi anh nói về Đất nước đau thương:
''Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều''
Khi anh ca ngợi Đất nước anh hùng bất khuất:
''Xiềng xích chúng bay không khoá được
Trời đầy chim và đất đầy hoaáúng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước, thương nhà''
Và cả khi anh miêu tả Đất nước của tình nghĩa, tình yêu:
''Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu''
Những hình ảnh ''cánh đồng quê chảy máu'', ''dây thép gai'', ''xiềng xích'',
''súng đạn'', ''nhớ mắt người yêu'' làm ta liên tưởng đến thơ nước ngoài với tư
duy hiện đại, sắc màu hiện đại. Nhưng rõ nhất là ở khổ thơ ''tổng kết'' cuối bài:
''một tượng đài Đất nước bằng thơ'' của thời kì hiện đại:
''Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa''
Hai muơi tư chữ thơ dồn nén cảm xúc, tích tụ năng lượng, với những hình

ảnh hiện đại (Súng nổ rung trời giận dữ), những cách nói hiện đại cùng với ngôn
ngữ cô đúc, kết tinh (rũ bùn/đứng dậy/ sáng loà) đã dựng lên- như chạm khắc
vào thế kỉ XX- một gương mặt ''Đất nước sáng loà'' trong những ngày chiến
thắng giặc Pháp.
Phải nhắc lại rằng: không phải là trong hồn thơ Nguyễn Đình Thi không
có chất dân gian- dân tộc (anh đã viết đoạn ''Quê hương Việt Nam'' rất đập đà
phong vị ca dao trong ''Bài thơ Hắc Hải), nhưng vì sao ở bài thơ này, hình ảnh
Đất nước lại được chiếu rọi và toả sáng từ những sắc màu hiện đại? Ta thấy, bài
thơ đã được ''thai nghén'' trong 8 năm (1947- 1955), cảm hứng về Đất nước đã
được anh ấp ủ, trải nghiệm, tích lũy trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp,
giờ đây đã ''chín'' để anh có thể dựng lên một gương mặt Đất nước tổng hợp, cô
đúc, kết tinh. Và anh viết bài thơ khi Đất nước đã ''rũ bùn đứng dậy sáng lòa'',
hình ảnh ''Đất nước'' được toả sáng bằng vẻ đẹp ''Thời đại''. Hai điều trên đây
buộc anh phải tìm đến một cách thể hiện thích hợp và anh đã chọn cái cấu tứ
12


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

tổng hợp, cái giọng điệu trầm hùng chứa chất nhiều suy nghĩ, cách nói cô đúchiện đại và những hình ảnh kết tinh- hiện đại. Chỉ có điều là tính hiện đại ở đây
không hề mâu thuẫn với tính dân tộc, một phẩm chất mới trong thơ anh: tính dân
tộc- hiện đại. Đó cũng là lí do khiến cho bài thơ ''Đất nước'' đứng vững trong
''sóng gió ban đầu'' và nhanh chóng đi vào lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
Khác với bài thơ trên, ''Đất nước'' của Nguyễn Khoa Điềm là Đất nước
của ca dao thần thoại. ''Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần loại'',
đó là câu thơ đã qui tụ mọi vấn đền của bài thơ: tư tưởng cốt lõi của bài thơ là
''Đất nước của nhân dân'' và Nguyễn Khoa Điềm đã dùng một ''Đất nước của ca
dao thần thoại'' để thể hiện tư tưởng đó. Dùng cao dao, thần thoại... tức là sử
dụng các chất liệu dân gian để nói lên tư tưởng ''Đất nước của nhân dân'' là
đúng, là sáng tạo, là nghệ thuật. Bởi dân gian cũng đồng nghĩa với nhân dân, dân

gian chính là nhân dân ở cái phần cơ bản nhất, đậm đà nhất và cũng dễ thấy
nhất. Nhờ phương hướng đúng ấy mà ông đã thành công. Nhưng có lẽ không chỉ
là vấn đề nghệ thuật đơn thuần, mà chắc rằng cái chất dân gian ấy đã thấm vào
máu thịt, tâm hồn anh, để khi dựng lên gương mặt ''Đất nước'' này, thì nó cứ tự
nhiên chảy ra theo ngòi bút:
''Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ''ngày xửa ngày xưa''...mẹ thường hay kể...''
Lời thơ nghe như lời bà kể chuyện cổ tích dân gian bên bếp lửa. Có miếng
trầu, có gừng cay muối mặn, có cái kèo cái cột, hạt gạo một nắng hai sương,
chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm, lại có cả ''trồng tre mà đánh giặc''. Không chỉ
những cái gần gũi thân quen trong cuộc sống, mà còn có những điều tôn kính,
thiêng liêng:
''Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng''
Vì vậy mà ''hằng năm ăn đâu làm đâu- cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ
Tổ''
Nguyễn Khoa Điềm đã tìm về với cội nguồn, tìm về với văn hoá dân gian
để hiểu sâu thêm gương mặt ''Đất nước''. Và từ kho tàng văn hoá dân gian phong
phú và đẹp đẽ ấy, anh đã có những phát hiện về Đất nước đầy thi vị lại giàu chất
trí tuệ:
''Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những ngọn núi Vọng
Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăn ao đầm để lại,
Chín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
13



[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Những con rồng nằm im góp dòng sống xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
....
Ôi Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...''
Và cả những phát hiện cho mỗi người, cho anh và cho em, thật sâu sắc,
bất ngờ:
''Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước.
Để rồi một khái quát- lịch sử cho Đất- Nước- Bốn- Ngàn- Năm:
''Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước.''
Những phát hiện này đã nêu bật tư tưởng cốt lõi của đoạn thơ là ''Đất
Nước của Nhân dân''. ''Nhưng Đất Nước của Nhân dân cũng chính là Đất Nước
của ca dao thần thoại. Đất nước ấy đã:
''Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý ông cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu..''
Sử dụng đậm đặc chất liệu dân gian mà bài thơ vẫn thoáng là do Nguyễn
Khoa Điềm đã biết chọn lọc những cái tiêu biểu nhất, có ý nghĩa nhất và quan
trọng hơn, là anh đã biết ''chế biến'' nó, vận dụng nó một cách sáng tạo vào lời
thơ của mình. Vì vậy, những yếu tố của văn hoá, văn học dân gian ở đây đã hoà
nhập khá tự nhiên với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mĩ

vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ của thơ anh. Và đó mới chính là điều đóng góp
quan trọng của giọng thơ Nguyễn Khoa Điềm trong nền thơ ca hiện đại Việt
Nam.
Một hình ảnh ''Đất nước'' mang sắc thái hiện đại và một hình ảnh ''Đất
nước'' đậm đà phong vị dân gian đã đem đến cho thế hệ trẻ trong nhà trường
những rung động thẩm mĩ và những cảm nhận đầy đủ, trọn vẹn về Tổ quốc, chắc
chắn sẽ khơi dậy trong các em những tình cảm tốt đẹp và những dự định lớn lao
để góp phần dựng xây đất nước. Vui sướng hơn khi những bài thơ đó đã đến với
thế hệ tương lai của Đất nước.
14


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

***
Đề 8.5. Lòng yêu nước được thể hiện như thế nài qua hai bài thơ ''Đất
nước'' của Nguyễn Đình Thi và ''Đất Nước'' (trích ''Mặt đường khát
vọng'') của Nguyễn Khoa Điềm.
Cách mạng tháng Tám 1945 là một dấu ấn lịch sử vĩ đại đưa nước Việt
Nam từ trong đêm dài của chế độ thực dân nửa phong kiến bước sang buổi bình
minh của một thời đại mới. Nhưng chẳng bao lâu sau đó, cả dân tộc ta lại tiến
hành liên tiếp hai cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược, để giữ gìn nền độc lập và thống nhất Tổ quốc. Trong suốt hơn ba
mươi năm ấy, vận mệnh của đất nước luôn là vấn đề nóng bỏng, lớn lao và bức
thiết nhất chi phối mọi lĩnh vực của đời sống dân tộc và mỗi con người Việt
Nam. Vì thế, rất tự nhiên là tình cảm yêu nước đã thành cảm hứng chủ đạo trong
thơ ca hiện đại Việt Nam, tiếp nối một truyền thống sâu đậm của văn học dân
tộc từ ngàn xưa. Thơ ca đã tô đậm và làm sáng đẹp thêm tình cảm yêu nước của
nhân dân ta. Tình cảm yêu quý ấy được biểu hiện trong thơ rất thống nhất nhưng
cũng hết sức đa dạng, phong phú, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, tâm trạng và xúc

cảm cụ thể của từng bài thơ. Qua bài thơ ''Đất nước'' của Nguyễn Đình Thi và
trích đoạn ''Đất Nước'' (Trong trường ca ''Mặt đường khát vọng'') của Nguyễn
Khoa Điềm chúng ta sẽ thấy một phần những biểu hiện phong phú của tình cảm
yêu nước ấy trong thơ.
''Đất nước'' của Nguyễn Đình Thi được hình thành từ 1948- 1949, những
năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, và hoàn thành năm 1955, sau khi
cuộc kháng chiến thắng lợi. Bài thơ chứa đựng những rung cảm tinh tế và những
suy tư sâu sắc của tác giả về đất nước được tích tụ qua gần suốt cả cuộc kháng
chiến. Hai cảm hứng lớn trong bào thơ hoà quyện với nhau là niềm yêu mến
thiết tha và lòng tự hào, cảm phục về đất nước và những con người ''áo vải''những người anh hùng mới của thời đại.
Tình cảm đất nước được gợi lên từ những xúc cảm trước một sáng mùa
thu trong mắt, gợi hoài niệm về mùa thu Hà Nội:
''Sáng mắt trong như sáng năm xưa
Gió thổi, mùa thu, hương cốm mới.''
Từ hương cốm mới mà gợi nhớ về mùa thu Hà Nội, Nguyễn Đình Thi
phải có sự gắn bó sâu sắc và mến yêu tha thiết với Hà Nội lắm: hương cốm và
gió heo may, những thứ hết sức đặc trưng cho mùa thu của Xứ Bắc của Hà Nội.
Trong cái không khí chớm lạnh của thời tiết đầu thu, những làn gió heo may làm
những hàng cây xao xác và những đường phố như dài thêm trong không gian
trong trẻo của dáng thu. Những câu thơ hoài niệm về mùa thu Hà Nội là những
câu thơ đẹp nhất của bài thơ ''Đất nước''. Phải từ giã một Hà Nội đẹp và thân
thiết như thế, làm sao không khỏi lưu luyến, bâng khuâng? ''Người ra đi'' dù có
cái dứt khoát của một sự lựa chọn cuộc ra đi vì nghĩa lớn (người ra đi đầu không
15


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

ngoảnh lại), nhưng sự lưu luyến lại chưa đầy trong âm điệu bâng khuâng và hình
ảnh đẹp và buồn của câu thơ tiếp sau.

Đất nước đã bước sang một thời kì mới. Cái nhìn cảnh vật và thi cảm về
mùa thu của nhà thơ cũng không thay đổi. Mùa thu mới của đất nước được nhìn
từ chiến khu Việt Bắc với những không gian bao la của núi đồi, cánh đồng, bầu
trời cả những cảnh sắc trong trẻo sinh động, tươi sáng, hoà với niềm vui của nhà
thơ:
''Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha''
Cảm xúc về mùa thu của đất nước, tác giả trực tiếp biểu hiện tình cảm yêu
mếm và lòng tự hào về quyền làm chủ đất nước. Cái ''tôi'' của nhà thơ đã hoà
vào cái chung, thành tiếng nói đầy tự hào của ''chúng ta''. Tình cảm yêu nước
gắn liền với ý thức về quyền làm chủ đất nước của cả cộng đồng dân tộc mà
Nguyễn Đình Thi thể hiện chính là tư tưởng yêu nước mang tính dân chủ của
thời đại:
''Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa''
Có lẽ đây là những dòng thơ sảng khoái nhất trong bài thơ này. Điệp từ
''đây'', điệp ngữ ''của chúng ta'' cứ nhấn đi nhấn lại cái tiếng hát tự hào làm chủ
của con người Việt Nam sau bao năm hi sinh gian khổ để hôm nay thực sự làm
chủ đất nước thân yêu của mình. Đất nước thể hiện với những hình hài cụ thể,
tươi đẹp lạ thường: trời xanh, núi rừng, cánh đồng thơm mát, ngả đường, dòng
sông đỏ nặng phù sa, tất cả đều bát ngát thân thương. Và không chỉ có vậy, đất
nước ấy còn là những âm vang của truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc,
là sức mạnh bất diệt của bao thế hệ Việt Nam vẫn ''rì rầm trong tiếng đất...''. Nếu
ở phần trên bài thơ tập trung làm nổi bật một đất nước tươi đẹp, hiền hoà, thì
phần sau của bài là hình ảnh đất nước đau thương căm hờn và bất khuất, hình

ảnh đất nước trong chiến tranh:
''... Những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều''
Nỗi lòng của nhà thơ cũng quặn thắt, rỉ máu với những nỗi đau thương,
tang tóc của quê hương đất nước. Những câu thơ viết về nỗi đau cũng dấy lên
niềm căm hờn, uất hận với tội ác của kẻ thù:
''Bát cơm chan đầy nước mắt
16


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc tây thằng chúa đất
Đứa đè cổ, đứa lột da''
Nhưng đất nước Việt Nam, như bao lần trong lịch sử anh hùng: ''Chìm
trong máu lửa lại vùng đứng lên'', đã vượt qua mọi đau thương, gian khổ, hi sinh
để vụt lớn dậy ngời sáng trong chiến đấu và chiến thắng. Những khổ thơ cuối
của bài thơ ''Đất nước'', với nhịp điệu dồn dập, với những hình ảnh trùng điệp và
hàng loạt những từ ngữ, những so sánh, ẩn dụ (rung trời, giận dữ, người lên như
nước vỡ bờ, rũ bùn, đứng dậy, sáng loà) chỉ sự vận động mạnh mẽ đã dựng lên
hình tượng khái quát mang tính sử thi của cả nước đã đứng lên hào hùng, bất
khuất. Âm hưởng sôi nổi, dồn dập của những khổ thơ cuối như một bản hùng ca
đi tới cao trào là khổ thơ cuối cùng:
''Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà''
Một bức tranh hoành tráng hào hùng, một biểu tượng rất đặc sắc về nước
Việt Nam mới được sinh thành từ trong máu lửa của cuộc kháng chiến anh

hùng. Hình ảnh thơ này cũng bừng sáng lên lòng tự hào, kiêu hãnh chân chính
và niềm tin vào tương lai của Tổ quốc.
Thơ chống Mỹ đã tiếp nối cảm hứng yêu nước trong thơ kháng chiến
chống Pháp, với những tiếng thơ đa dạng, nhất là thơ của thế hệ thơ trẻ, làm
phong phú và sâu sắc thêm tình cảm quê hương đất nước bằng sự phát hiện về
dân tộc trong mối quan hệ hiện tạo với quá khứ và dân tộc với thời đại. Đoạn
thơ ''Đất Nước'' (Trong trường ca ''Mặt đường khát vọng'') của Nguyễn Khoa
Điềm là một trong những thành công theo hướng đó.
Bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm là sự cảm nhận về đất nước trong một cái
nhìn tổng hợp từ chiều sâu văn hoá lịch sử và đời sống hàng ngày của con người
Việt Nam, làm nổi bật tình cảm yêu nước của các thế hệ người Việt và tư tưởng
''Đất Nước của Nhân dân''. Đoạn thơ về đất nước bắt đầu bằng những cái hết sức
gần gũi trong cuộc sống của mỗi gia đình chúng ta:
''Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn''
Đó là một tình yêu rất cụ thể, không trừu tượng chung chung. Tất cả
những cái gì làm nên cuộc sống hàng ngày của con người Việt Nam, làm nên
khuôn mặt dân tộc đều khơi nguồn cảm hứng thiết tha: yêu những gì gần gũi,
thân thiết trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người, từ câu chuyện cổ tích
của mẹ, miếng trầu của bà, cái kèo cái cột trong nhà, đến hạt gạo ta ăn hàng
ngày, cho đến những phong tục sinh hoạt có từ xa xưa (''tóc mẹ thì bới sau
đầu'')... Những cái hàng ngày gần gũi với chúng ta lại là những cái bền vững sâu
17


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

xa, đã hình thành và tồn tại từ ngàn xưa trong đời sống dân tộc. Những câu thơ
mở đầu đã gợi nhớ đến các truyền thuyết, truyện cổ tích vào loại xa xưa nhất
như truyện ''Trầu cau'', sự tích ''Thánh Gióng''... Đó chính là chiều sâu văn hoálịch sử của đất nước thể hiện ngay trong cuộc sống gần gũi hàng ngày.

Theo mạch suy tưởng, tác giả tiếp tục cảm nhận đất nước ở bình diện lịch
sử với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết Hùng Vương với
ngày giỗ Tổ. Đất nước là núi sông rừng biển bao la, là không gian sinh tồn và
phát triển của bao nhiêu thế hệ người Việt, nhưng còn là từng mảnh đất quen
thuộc gắn bó với cuộc sống của mỗi người:
''Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hẹn hò...''
Ca dao xưa nói về nỗi nhơ quê hương qua những chi tiết thật bình dị của
bữa cơm đạm bạc và bóng dáng người thương dầm mưa dãi nắng:
''Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.''
Nhớ về lịch sử lâu đời của đất nước, ta nhớ đến những người anh hùng, vĩ
nhân, nhưng Nguyễn Khoa Điềm còn muốn nhấn mạnh đến những hi sinh thầm
lặng, những đóng góp lớn lao của những con người vô danh, hiền lành, giản dị.
Chính họ bằng máu xương và lao động đã sáng tạo, giữ gìn, và truyền lại cho
các thế hệ Việt Nam mọi giá trị văn hoá, vật chất tinh thần; họ là nhân dân:
''Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ lại và truyền lại cho ta hạt lúa ta trồng
Họ đã truyền lửa cho mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến đi dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân.''
18


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Lòng yêu nước, vì thế cũng chính là tình yêu và sự gắn bó với nhân dân,
với những con người bình dị và vô danh nhưng đã khiến cho tác giả có cái nhìn
sâu sắc và mới mẻ về thiên nhiên đất nước, về những cảnh quan mỹ lệ và kỳ thú
của non sông:
''Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chống yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
...
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh''
Và tình yêu phải dẫn tới ý thức trách nhiệm với đất nước. Sự sống của
mỗi con người cũng không chỉ của riêng cá nhân mình mà còn thuộc về đất
nước, bởi vì ''trong anh và em hôm nay, đều có một phần Đất Nước'', mỗi con
người đã được thừa hưởng những di sản vật chất và tinh thần quý báu của đất
nước, của nhân dân, của biết bao thế hệ đi trước. Do đó, mỗi cá nhân phải có
trách nhiệm giữ gìn và phát triển những giá trị quý báu, làm đẹp thêm cho đất
nước muôn đời.
Không chỉ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm mà trong thơ của hầu hết các
nhà thơ từ thời chống Mỹ đều có những cảm nhận sâu sắc về nhân dân và đó
chính là nền tảng của lòng yêu nước. Nguyễn Duy suy nghĩ về nhân dân và dân
tộc qua ''Hơi ấm ổ rơm'', một hình tượng ''Tre Việt Nam''. Còn Thanh Thảo,
trong trường ca ''Những người đi tới biển đã khắc hoạ chân dung của nhiều con
người bình dị trong nhân dân vô tận của cuộc kháng chiến chống Mỹ, và dùng
những lời ngợi ca xúc động nhất để nói về nhân dân:

''Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vời vợi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời''.
Qua hai bài thơ ''Đất nước'' của Nguyễn Đình Thi và ''Đất Nước'' của
Nguyễn Khoa Điềm, chúng ta thấy được những biểu hiện phong phú, đa dạng
của một nguồn cảm hứng lớn: tình yêu quê hương đất nước trong thơ Việt Nam
1945- 1975. Đồng thời cũng chứng tỏ thơ ca chống Mỹ đã kế tục truyền thống
yêu nước của thơ ca kháng chiến chống Pháp và có những đóng góp làm phong
phú và sâu sắc thêm nguồn cảm hứng lớn này, đặc biệt là bằng những khám phá,
phát hiện về chiều sâu văn hoá- lịch sử đất nước, về sự gắn bó với giữa truyền
thống quá khứ và hiện tại, và nhất là bởi thấm sâu tư tưởng Đất Nước của Nhân
dân.
***

19



×