Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.22 KB, 12 trang )

[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

PHẦN 9. BÀI THƠ “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” CỦA HÀN MẶC TỬ
Đề 9.1. Khái quát tác giả, tác phẩm: bài thờ “Đây thôn vĩ dạ” của Hàn
Mặc Tử.
Đề 9.2. Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn
Mặc Tử:
''Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?''
Đề 9.3. Phân tích bài thơ ''Đây thôn Vĩ Dạ'' của Hàn Mặc tử để làm rõ vẻ
đẹp và nét buồn của bức tranh thôn Vĩ trong bài thơ.
Đề 9.4. Hình ảnh thiên nhiên trong các bài thơ ''Tràng Giang'' (Huy Cận),
''Đây mùa thu tới'' (Xuân Diệu), ''Đây thôn Vĩ Dạ'' (Hàn Mặc Tử). Phân tích
những nét chung của thiên nhiên trong ba bài thơ và chỉ ra đặc điểm riêng của
thiên nhiên trong từng bài thơ.
***
Đề 9.1. Khái quát tác giả, tác phẩm: bài thờ “Đây thôn vĩ dạ” của
Hàn Mặc Tử.
Hàn Mặc Tử (1912-1940) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng
Lệ Mĩ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là tỉnh Quảng Bình)
trong một gia đình viên chức nghèo theo đạo Thiên Chúa. Cha mất sớm, ông
sống với mẹ ở Quy Nhơn và có hai năm học trung học tại trường Pe-lơ-ranh
(Pellerin) ở Huế. Sau đó ông làm công chức ở Sở Đạc điền Bình Định rồi vào
Sài Gòn làm báo. Đến năm 1936, mắc bệnh phong, ông về ở hẳn Quy Nhơn
chữa bệnh và mất tại trại phong Quy Hoà.
Tuy cuộc đời nhiều bi thương nhưng Hàn Mặc Tử là một trong những nhà
thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Ông làm thơ từ
năm 14,15 tuổi với các bút danh: Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh...; Băt'
đầu bằng thơ cổ điển Đường luật, sau chuyển sang sáng tác theo khuynh hướng


thơ mới lãng mạn. Qua diện mạo hết sức phức tạp và đầy bí ẩn của thơ Hàn Mặc
Tử, người ta vẫn thấy rõ một tình yêu đến đau đớn hướng về cuộc đời trần thế.
Tác phẩm chính: Gái quê (1936), Thơ Điên (1938), Xuân như ý, Thượng
thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kì ngộ (kịch thơ-1939), Quần tiên hội (kịch
thơ), Chơi giữa mùa trăng (thơ văn xuôi- 1940).Ngoài tập ''Gái quê'' in lúc sinh
thời, còn toàn bộ thơ Hàn Mặc Tử chỉ được in thành tập sau khi ông mất.
1


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

''Đây thôn Vĩ Dạ'' (lúc đầu có tên ''Ở đây thôn Vĩ Dạ'') sáng tác năm 1938,
in trong tập ''Thơ Điên'' (về sau đổi thành ''Đau thương''). Theo một số tài liệu,
bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn quê
ở Vĩ Dạ, một thôn nhỏ bên dòng sông Hương nơi xứ Huế thơ mộng và trữ tình.
Với hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên
tưởng, bài thơ ''Đây thôn Vĩ Dạ'' là bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, là
tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời yêu nguời.
***
Đề 9.2. Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài "Đây thôn Vĩ Dạ" của
Hàn Mặc Tử:
''Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?''
Cảm nhận thơ trữ tình xét cho cùng là cảm nhận "cái tình" trong thơ và
tâm trạng của nhân vật trữ tình trước thiên nhiên, vũ trụ, đất trời. Đến với thơ ca
lãng mạn Việt Nam, giai đoạn 1932 -1945 "ta thoát lên trên cùng Thế Lữ, ta
phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng cùng Hàn Mặc
Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu" (Hoài Thanh - Thi nhân Việt

Nam). Đúng thế, bạn đọc đương thời và hôm nay yêu thơ của Hàn Mặc Từ bởi
chất "điên cuồng" của nó. Chính "chất điên" ấy đã làm nên phong cách nghệ
thuật độc đáo, riêng biệt, mới mẻ của Hàn Mặc Tử. "Chất điên" trong thơ ông
chính là sự thay đổi của tâm trạng khó lường trước được. Nét phong cách đặc
sắc ấy đã hội tụ và phát sáng trong cả bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của nhà thơ rất
tài hoa và cũng rất đỗi bất hạnh này. "Đây thôn Vĩ Dạ" trích từ tập Thơ Điên của
Hàn Mặc Tử. Chất điên cuồng ấy thể hiên cụ thể và rõ nét trong khổ thơ:
"Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Với lời trách cứ nhẹ nhàng dịu ngọt vừa như một lời mời, Hàn Mặc Tử trở
về với thôn Vĩ Dạ trong mộng tưởng:
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cây nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền"
2


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Cảnh vật ở thôn Vĩ Dạ - một làng kề sát thành phố Huế bên bờ Hương
Giang với những vườn cây trái, hoa lá sum suê hiện lên thật nên thơ, tươi mát
làm sao. Đó là một hàng cau thẳng tắp đang tắm mình dưới ánh "nắng mới lên"
trong lành. Chưa hết, rất xa là hình ảnh "nắng hàng cau nắng mới lên" còn rất
gần lại là "vườn ai mướt quá xanh như ngọc". "Mướt quá" gợi cả cây nhung non
tràn trề sức sống xanh tốt. Màu "mướt quá" làm cho lòng người như trẻ hơn và
vui tươi hơn. Lời thơ khen cây cối xanh tốt nhưng lại nhu huyền ảo, lấp lánh
mới thấy hết cẻ đẹp của "vườn ai". Trong không gian ấy hiện lên khuôn "mặt

chữ điền" phúc hậu, hiền lành vừa quen vừa lạ, vừa gần, vừa xa, vừa thực vừa ảo
bởi "lá trúc che ngang". Câu thơ đẹp vì sự hài hòa giữa cảnh vật và con người.
"Trúc xinh" và "ai xinh" bên nhau làm tôn lên vẻ đẹp của con người. Như vậy
tâm trạng của nhân vật trữ tình ở đoạn thơ này là niềm vui, vui đến say mê như
lạc vào cõi tiên, cõi mộng khi được trở về với cảnh và người thôn Vĩ.
Thế nhưng cũng cùng không gian là thôn Vĩ Dạ nhưng thời gian có sự
biến đổi từ "nắng mới lên" sang chiều tà. Tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng
có sự biến đổi lớn. Trong mắt thi nhân, bầu trời hiện lên "Gió theo lối gió mây
đường mây" trong cảnh chia li, uất hận. Biện pháp nhân hóa cho chúng ta thấy
điều đó. "Gió theo lối gió" theo không gian riêng của mình và mây cũng thế.
Câu thơ tách thành hai vế đối nhau; mở đầu vế thứ nhất là hình ảnh "gió", khép
lại cũng bằng gió; mở đầu vế thứ hai là "mây", kết thúc cũng là "mây". Từ đó
cho ta thấy "mây" và "gió" như những kẻ xa lạ, quay lưng đối với nhau. Đây
thực sự là một điều nghịch lí bởi lẽ có gió thổi thì mây mới bay theo, thế mà lại
nói "gió theo lối gió, mây đường mây". Thế nhưng trong văn chương chấp nhận
cách nói phi lí ấy. Tại sao tâm trạng của nhân vật trữ tình vốn rất vui sướng khi
về với thôn Vĩ Dạ trong buổi ban mai đột nhiên lại thay đổi đột biến và trở nên
buồn như vậy?.
Trong mộng tưởng, Hàn Mặc Tử đã trở về với thôn Vĩ nhưng lòng lại
buồn chắc có lẽ bởi mối tình đơn phương và những kỉ niệm đẹp với cảnh và
người con gái xứ Huế mộng mơ làm nên tâm trạng ấy. Quả thật "Người buồn
cảnh có vui đâu bao giờ" nên cảnh vật xứ Huế vốn thơ mộng, trữ tình lại bị nhà
thơ miêu tả vô tình, xa lạ đến như vậy. Bầu trời buồn, mặt đất cũng chẳng vui gì
hơn khi "Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay". Dòng Hương Giang vốn đẹp, thơ
mộng đã bao đời đi vào thơ ca Việt nam thế mà bây giờ lại "buồn thiu" – một
nỗi buồn sâm thẳm, không nói nên lời. Mặt nước buồn hay chính là con sóng
lòng "buồn thiu" của thi nhân đang dâng lên không sao giấu nổi. Lòng sông
buồn, bãi bờ của nó còn sầu hơn. "Hoa bắp lay" gợi tả những hoa bắp xám khô
héo, úa tàn đang "lay" rất khẽ trong gió.
Cảnh vật trong thơ buồn đến thế là cùng. Thế nhưng đêm xuống, trăng

lên, tâm trạng của nhân vật trữ tình lại thay đổi:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay"
Sông Hương "buồn thiu" lúc chiều dưới ánh trăng đã trở thành "sông
trăng" thơ mộng. Cắm xào đậu bên trên con sông đó là "thuyền ai đậu bến", là
3


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

bức tranh càng trữ tình, lãng mạn. Hình ảnh "thuyền" và "sông trăng" đẹp, hài
hòa biết bao. Khách đến thôn Vĩ cất tiếng hỏi xa xăm "Có chở trăng về kịp tối
nay?". Liệu "thuyền ai" đó có chở trăng về kịp nơi bến hẹn, bến đợi hay không?
Câu hỏi tu từ vang lên như một nỗi lòng khắc khoải, chờ đợi, ngóng trông được
gặp gương mặt sáng như "trăng’ của người thôn Vĩ trong lòng thi nhân. Như thế
mới biết nỗi lòng của nhà thơ giành cho cô em gái xứ Huế tha thiết biết nhường
nào. Tình cảm ấy quả thật là tình cảm của "Cái thưở ban đầu lưu luyến ấy. Ngàn
năm nào dễ mấy ai quên" (Thế Lữ).
Đến đây ta hiểu thêm về lòng "buồn thiu" của nhân vật trữ tình trong buổi
chiều. Như vậy diễn biến tâm lí của thi nhân hết sức phức tạp, khó lường trước
được. Chất "điên" của một tâm trạng vui với cảnh, buồn với cảnh, trông ngoáng,
chờ đợi vẫn được thể hiện ở khổ thơ kết thúc bài thơ này:
"Mơ khách đường xa khách dường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"
Vẫn là một tâm trạng vui sướng được đón "khách đường xa" - người thôn
Vĩ đến với mình, tâm trạng nhân vật trữ tình lại khép lại trong một nỗi đau đớn,
hoài nghi "Ai biết tình ai có đậm đà?". "Ai" ở đây vừa chỉ người thôn Vĩ vừa chỉ
chính tác giả. Chẳng biết người thôn Vĩ có còn nặng tình với mình không? Và

chẳng biết chính mình còn mặn mà với "áo em trắng quá" hay không? Nỗi đau
đớn trong tình yêu chính là sự hoài nghi, không tin tưởng về nhau. Nhân vật trữ
tình rơi vào tình trạng ấy và đã bộc bạch lòng mình để mọi người hiểu và thông
cảm. Cái mới của thơ ca lãng mạn giai đoạn 1932 - 1945 cũng ở đó.
Đọc xong bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử, nhất là khổ thơ:
"Gió theo lối gió mây đường mây….Có chở trăng về kịp tối nay" để lại trong
lòng người đọc những tình cảm đẹp. Đoạn thơ giúp ta hiểu thêm tâm tư của một
nhà thơ sắp phải giã từ cuộc đời. Lời thơ vì thế trầm buồn, sâu lắng, đầy suy tư.
Bạn đọc đương thời yêu thơ của Hàn Mặc Tử bởi thi nhân đã nói hộ họ những
tình cảm sâu lắng nhất, thầm kín nhất của mình trong thời đại cái "tôi", cái bản
ngã đang tự đấu tranh để khẳng định. Tình cảm trong thơ Hàn Mặc tử là tình
cảm thực do đó nó sẽ ở mãi trong trái tim bạn đọc. Ấn tượng về một nhà thơ của
đất Quảng Bình đầy nắng và gió sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí người
Việt Nam.
***
Đề 9.3. Phân tích bài thơ ''Đây thôn Vĩ Dạ'' của Hàn Mặc tử để làm
rõ vẻ đẹp và nét buồn của bức tranh thôn Vĩ trong bài thơ.

4


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Tôi đã trót yêu cái buồn của thơ Hàn Mặc Tử- người thi sĩ tài hoa bạc
mệnh. Dường nhu cái khoảng thời gian ngắn ngủi Tử hiện hữu trên đời này là để
yêu. Yêu điên cuồng thế giới... cho dù bị bệnh tật hành hạ. Nỗi buồn trong thơ
Hàn Mặc Tử có nhiều cung bậc khác nhau, lúc thê thảm thiết tha, khi chở nặng
một chút lòng man mác...nhưng tất cả đều đội lên một niềm khát khao sống tột
độ. Có những câu thơ, bài thơ đọc lên, ta cảm thấy day dứt, thiết tha; nhưng có
những bài nhà thơ truyền cho ta cảm giác buồn vô cùng tinh tế. ''Đây thôn Vĩ

Dạ'' là một bài thơ như thế với cảnh, với hồn người xứ Huế đẹp, thấm đượm một
nỗi buồn da diết bâng khuâng:
'' Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mơí lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?''
Hàn Mặc Tử (1912-1940) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng
Lệ Mĩ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là tỉnh Quảng Bình)
trong một gia đình viên chức nghèo theo đạo Thiên Chúa. Cha mất sớm, ông
sống với mẹ ở Quy Nhơn và có hai năm học trung học tại trường Pe-lơ-ranh
(Pellerin) ở Huế. Sau đó ông làm công chức ở Sở Đạc điền Bình Định rồi vào
Sài Gòn làm báo. Đến năm 1936, mắc bệnh phong, ông về ở hẳn Quy Nhơn
chữa bệnh và mất tại trại phong Quy Hoà. Tuy cuộc đời nhiều bi thương nhưng
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong
phong trào Thơ mới. Ông làm thơ từ năm 14,15 tuổi với các bút danh: Minh Duệ
Thị, Phong Trần, Lệ Thanh...; Băt' đầu bằng thơ cổ điển Đường luật, sau chuyển
sang sáng tác theo khuynh hướng thơ mới lãng mạn. Qua diện mạo hết sức phức
tạp và đầy bí ẩn của thơ Hàn Mặc Tử, người ta vẫn thấy rõ một tình yêu đến đau
đớn hướng về cuộc đời trần thế.
Tác phẩm chính của Hà Mặc Tử: Gái quê (1936), Thơ Điên (1938), Xuân
như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kì ngộ (kịch thơ-1939), Quần
tiên hội (kịch thơ), Chơi giữa mùa trăng (thơ văn xuôi- 1940).Ngoài tập ''Gái

quê'' in lúc sinh thời, còn toàn bộ thơ Hàn Mặc Tử chỉ được in thành tập sau khi
ông mất. ''Đây thôn Vĩ Dạ'' (lúc đầu có tên ''Ở đây thôn Vĩ Dạ'') sáng tác năm
1938, in trong tập ''Thơ Điên'' (về sau đổi thành ''Đau thương''). Theo một số tài
5


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

liệu, bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn
quê ở Vĩ Dạ, một thôn nhỏ bên dòng sông Hương nơi xứ Huế thơ mộng và trữ
tình. Với hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên
tưởng, bài thơ ''Đây thôn Vĩ Dạ'' là bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, là
tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời yêu nguời.
Đoạn thơ đầu cho ta thấy vẻ đẹp tinh khôi, mơ mộng của thôn vĩ, của xứ
Huế:
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mơí lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền."
Mở đầu là một lời chào mời tha thiết, nửa như trách móc dỗi hờn: ''Sao
anh không về chơi thôn Vĩ?''. Hình như ta cảm thấy có hai nhân vật chữ tình
trong bài thơ một người đang trách móc sự vô tình của người kia đối với một kỉ
niệm đẹp. Còn nhân vật trữ tình thứ hai thì bàng hoàng tiếc nuối, anh bị lời trách
cứ lôi kéo:''cảnh đẹp đến nhường ấy sao anh chẳng về chơi''. Có thể thấy những
cảnh đẹp của vườn Vĩ Dạ chỉ là một lớp vỏ ngoài của một nỗi lòng đang khắc
khoải, rõ dàng bài thơ không chỉ đơn thuần để thể hiện cái tình đối với Huế, mà
đối với một bóng hình giai nhân nhà thơ đã từng nặng lòng thương nhớ. Bài thơ
được làm ơ Quy Nhơn, nên những cảnh Huế chỉ là trong mộng tưởng. Thi nhân
là một người đa cảm, lại đang phải sống cách biệt với những người thân yêu của
mình nên hơn bao giờ hết thèm được sống lại những ngày tháng cũ, những kỉ

niệm êm đềm. ''Sao anh không về chơi thôn Vĩ?'' hay chăng đó chính là lời của
thi nhân, người đã nhập vai một người khác để thể hiện lòng mình, nói một lời
chào.
Vườn Huế mộng mơ và đẹp nhưng là vẻ đẹp của một bức tranh nhạy cảm.
Cái nắng trinh nguyên của sớm mai nơi thôn Vĩ như rải những vệt sáng lấp loá
trên những cành lá còn ướt đẫm sương đêm. Buổi mai vàng, khi ùa lòng mình
vào Vĩ Dạ, hoà vào cỏ cây, ngước mắt lên nhìn là thẳng tắp những hàng cau
đang hứng đầy buồng nắng, ''Nắng hàng cau'' có lẽ chỉ có thôn Vĩ mới có cái
nắng tinh khôi ấy, ta như cảm được cả hương thơm của nắng toả xuống không
gian, cái hương rất nhẹ của hoa cau mới nở. ''Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên'',
câu thơ có bảy chữ nhưng có đến hai chữ ''nắng'' tạo trong ta cái cảm giác về cấp
độ của ánh sáng. Đầu tiên là ''nhìn nắng'' đó là một thứ ánh sáng của sự chủ
động, ta định hướng được rất tự nhiên và từ đó vươn lên một góc nhìn tập chung
''nắng hàng cau'' để rồi đón nhận một cảm giác tươi mới trinh nguyên ''nắng mới
lên''. Sắc nắng, vị nắng trộn hoà vào cảnh vật vừa như vút lên trong cái tầm
thanh thoát của hàng cau xứ Huế, lại vừa chợt như ùa xuống, toả rộng tràn lên
tất cả ''Vườn ai mướt quá xanh như ngọc''. Câu thơ cứ như là buột miệng, như
không kìm nổi lòng mình phải reo lên khi bắt gặp cái sắc màu biếc xanh như
ngọc ấy. Vườn ai đó chợt sáng bừng lên, làm rạng rỡ cả một khoảng không gian
của trời đất, mượt mà tươi non. Ngắm nhìn cảnh nơi thôn Vĩ buổi sớm mai, ta cứ
6


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

tưởng như đêm qua cảnh vật được tắm mình bằng một trận mưa rào, cây cối như
được rửa trôi, sạch sẽ và tinh khôi, chỉ còn những giọt sương mai rất nhỏ bám
vào cành lá đợi chờ từng tia nắng xuyên qua. Có lẽ chỉ cần từ ''mướt'' là đủ, song
thêm từ ''xanh'' sau càng làm tôn thêm, nổi bật thêm cái tuơi mát, xum xê của Vĩ
Dạ. Người dân Huế, thường đồng nghĩa hai từ ''vườn'' và từ ''nhà'', bởi ở nơi đây

mỗi ngôi nhà đều được bao quanh bởi vườn cây. Mỗi nhà là một khoảng khá
rộng, ngôi nhà nhỏ được đặt ở giữa, xung quanh là cây côi' tạo nên một cấu trúc
thẩm mĩ rất gắn kết, hài hoà. Đang cái mạch của sự ngỡ ngàng, câu thơ tiếp theo
là một sự phát hiện mới, hoà. Đang cái mạch của sự ngỡ ngàng, câu thơ tiếp theo
là một sự phát hiện mới, hoà vào trong cái không gian tinh khiết ấy là thấp
thoáng một dáng nét của con người: '' Lá trúc che ngang mặt chữ điền''. Câu thơ
đã biểu hiện được thần thái tâm hồn thôn Vĩ. Có sự xuất hiện của con người,
thiên nhiên như càng được thổi thêm một luồng sinh khí tạo nên nét đẹp hài hoà
trong giá trị tạo hình, một vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng, đôn hậu và thanh khiết của
con người nơi miệt vườn.
Thôn Vĩ chỉ còn là hoài niện, chỉ còn là sự đi về trong tâm tưởng nhớ
thương của một con người đang cần lắm một tình yêu, một tâm hồn để sưởi ấm
lòng mình. Cho nên cảnh hiện lên thật đẹp nhưng lại vẫn thấm đẫn một nỗi buồn
sâu lắng. và chính bởi cái buồn da diết ấy nên nguồn mạch của những kỉ niện
vẫn không bị phá vỡ, nhưng đây không phải là cảnh sớm mai của thôn Vĩ nữa
mà là cảnh sông nước của dòng sông Hương với mây và gió: ''Gió theo lối gió
mây đường mây''. Ở khổ thơ thứ 2, mỗi câu thơ như trải ra thật chậm thật nhẹ
nhàng và cũng thanh thoát như hồn người xứ Huế. Vẫn là hình thức tả cảnh
thiên nhiên, nhưng ở đây dù có lấp liếm che giấu khéo đến đâu, thi nhân vẫn để
lộ ra cái tình thật của lòng mình, vẫn chưa thoát ra được cái mộng ảo của tâm
hồn. Gió và mây đều gợi nên sự chia li ''lối gió'', ''đường mây'' cái ranh giới mỗi
lúc như được nới rộng thêm ra, càng làm tăng thêm cái khoảng phân cách. ''mây''
và ''gió'' mỗi từ được nhắc lại hai lần trong một câu thơ cách lặp lại ấy như càng
bị đẩy ra một khoảng xa hơn. Sự li tán đó có phải chăng cũng chính là sự li tán
của lòng người. Câu thơ như bị đứt ra, đẩy ra xa chứ không gãy đôi, càng tạo
thêm cái da diết đến nao lòng người, như rạch vào nỗi đau của thân phận kẻ bị
chia lìa. Đến đây không còn là cái tươi mới rạo rực ở khổ thơ đầu nữa mà
chuyển sang cái gam màu của sự trầm lắng: ''dòng nước buồn thiu hoa bắp lay''.
Cảnh đẹp nhưng buồn quá, hay bởi thi nhân đang trải cả hồn mình lên cảnh vật.
Xưa nay ''người buồn cảnh có vui đâu bao giơ'' (trích ''Truyện Kiều''- Nguyễn

Du), hơn lúc nào hết, thi nhân bây giờ cảm nhận thật sâu sắc lòng mình, nhìn
dòng nước trôi lững lờ, sự chuyển động của thiên nhiên như chậm lại, nhưng các
chiều không gian vẫn mở và sâu hum hút càng làm tăng thêm sự đơn độc. Hai
chữ ''buồn thiu'' được đặt giữa dòng thơ là một sự lan toả cuả cái buồn lặng lẽ rủ
lên dòng nước đang chảy trôi lại vừa như ngấm vào toả sang để khẽ lay hoa bắp
bên sông, rung nhẹ lên một chút đủ để diễn tả một nỗi buồn hiu hắt. Trong cái
tâm trạng buồn trĩu nặng của cảnh chia lìa ấy, lại đang đắm mình trong ảo mộng
của ánh trăng, nhà thơ như chợt bừng lên cuống quýt một lời nhắn gửi:
''Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
7


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Có chở trăng về kịp tối nay?''
Mộng ảo quá, thiên nhiên như thấm đẫm một màu trăng. Mới ở khổ thơ
đầu còn đang là một bức tranh thiên nhiên ngợp ánh nắng ban mai, đến bây giưò
là nhốm ánh trang. Câu thơ nào cũng đều toả lên một sắc màu, đều có nét ánh
lên, càng làm cho hồn người đa cảm nhận rõ hơn sự trống trải, đơn lạnh của
chính mình. Nên chợt nhìn thấy thấp thoáng con thuyền, lòng thi nhân như chợt
rung lên mãnh liệt nhưng vẫn ơ trong trạng thái rất đỗi mơ hồ không xác định.
Thơ Hàn Mặc Tử dường như có sự thâm nhập quá lớn của ánh trăng, nên bao
giờ cũng tạo ra một vẻ đẹp kì ảo của mộng và chất thơ. Giữa cái mênh mang hư
ảo, trăng như thấm vào từng kẽ lá, trộn hoà vào từng dòng nước nhỏ. Dòng sông
chở đầy ánh trăng, ''sông trăng'' chỉ có Hàn Mặc Tử mới có thể tưởng tượng ra
được cái sông trăng ấy của dòng sông Hương, ánh trăng huyền ảo tràn đầy vũ trụ
tạo nên một không khí hư ảo, và chỉ trong cái mộng ảo đó mới có thể cảm nhận
được sông trăng, bến trăng va thuyền mới có thê ''chở trăng về'' như một du
khácj trên sông Hương. Người thơ ở đây đang rất đơn côi, đang khao khát được
ai đó chia sẻ tâm sự: ''có chở trăng về kịp tối nay'' là cả một nỗi lòng mong đợi,

một câu hỏi gần như là sự khắc khoải bồn chồn. Con thuyền ngây ngô trên bến
vắng tạo nên trong lòng người một niêm phấp phỏng, hi vọng, đợi chờ một cái
gì đang dời đi, biết có thể nào, có khi nào quay trở lại. Cái nỗi niềm ấy đang
ngập dâng lên trong lòng thi sĩ. Bốn câu thơ là sự ảo hoá của bút pháp tài tình
lên cho cảnh thêm huyền ảo và tình càng dâng lên vời vợi say đắm.
Bài thơ mang một niềm bâng khuâng, một sự tiếc nuối vẫn trong cái mạch
hư ảo ấy:
''Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra''.
Ở khổ thơ cuối niềm bâng khuâng, sự quyến riết trước cảnh trời mây sông
nước như trải rộng ra cái cảm giác mông lung của hư thực. Nhưng dù mông
lung, dù huyền ảo ''nhìn không ra'' vẫn thấy rõ, cảm nhân rất rõ một bóng hình
người con gái của Huế thơ song lại không thể nào nắm bắt được, lại vẫn là mộng
ảo. Cái hình bóng chập chờn ấy càng làm tăng thêm sự khắc khoải bồn chồn của
lòng người đa cảm, cảm giác gần mà lại như hút xa bởi nhà thơ chỉ có thê cảm
nhân được cái màu áo trắng thoắt ẩn thoắt hiện mà không thể nhìn bằng thị giác
của mình. Màu sắc trắng chỉ còn là một ấn tượng càng làm cho sự hẫng hụt lên
tới cao độ, muốn bấu víu, cầm nắm mà cảnh đầy màu hư ảo quá, nó lại bị chìm
trong màu của sương khói:
''Ở đây sương khói mờ nhân ảnh.
Ai biết tình ai có đậm đà?''.
Bóng hình giai nhân mờ ảo trong sương, cảnh vật phủ bởi một màu sương
khói, nhưng cũng có thể đó là một ẩn ý của người thơ, sương khói ấy phải chăng
là khoảng cách của thời gian, là màu của một mối tình vô vọng. Thi nhân đã cảm
mến một người con gái Huế, đang sống trong đợi chờ và ảo mộng. '' Ai biết tình
8


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn


ai có đậm đà?''. Tự cắt nghĩa trong một câu hỏi bâng khuâng, nhà thơ như càng
trào lên một sự băn khoăn vừa da diết vừa xót xa.
Những câu hỏi tu từ trong bài thơ cứ xoáy lên mà không cần một sự trả
lời: những hình ảnh về mảnh vuờn xanh mướt, về bến sông trăng, về con thuyền
và cả mối tình sâu kín mà nhà thơ đã như là một sự vô tình làm nhoè đi để tạo ra
nét mênh mang ấy. Ba khổ thơ của bài, mỗi khổ thơ là một câu hỏi, một niềm
day dứt của lòng người: ''Sao anh không về chơi thôn Vi?'', ''Có chở trăng về kịp
tối nay'', và câu cuối cùng cũng là để kết thúc bài thơ:'' Ai biết tình ai có đậm
đà?''. Âm ''a'' như ngân dài, kéo dài ra, như nỗi niềm đau đớn, buồn tủi đang bị
cuộc sống kéo triền miên. Âm hưởng của bài thơ là buồn, nhưng không làm cho
người ta bi lụy yếu lòng, bởi đằng sau nỗi niềm ấy của thi nhân, ta thấy vút lên
một khát vọng về cuộc sống tình hơn, hoàn thiện hơn. Những chi tiết những thủ
pháp nghệ thuật, cách thức câu từ được Hàn Mặc Tử chuyên chở bằng chính tình
cảm của mình, của hồn mình, nên đọc cả bài thơ, ta không thấy có gì gượng ép,
mà ngược lại như đang cùng sống với nhà thơ trong thế giới của mình. Bài thơ là
sưh đan cài giao thoa của tình của cảnh, bộc lộ được những nét đẹp, cái trong
sáng gắn với một vùng quê xứ Huế- là thôn Vĩ Dạ, với những nét rất độc đáo
của miền Trung.
Cảnh đẹp nhưng đượm một nỗi buồn bâng khuâng, da diết, ''Đây thôn Vĩ
Dạ'' như một biện chứng tình cảm của một nghệ sĩ tài hoa đa tình đa cảm. Con
người luôn khao khát vươn tới sự thánh thiện của cuộc đời ấy, đã sống hết mình
trong sự đớn đau của tinh thần và thể xác. Cái buồn da diết của thi nhân còn là
tâm trạng của một lớp thanh niên lúc bấy giờ yêu cuồng nhiệt, thiết tha nhưng
không thoát khỏi nỗi buồn thời đại. ''Đâu thôn Vĩ Dạ'' là một bức tranh đẹp
nhưng rất khó vẽ. Bởi cái thần kì ảo quá, cái tình da diết và có lẽnh đó chính là
cái làm cho bài thơ sống mãi, như sự trường tồn của tâm hồn Hàn Mặc Tử.
***
Đề 9.4. Hình ảnh thiên nhiên trong các bài thơ ''Tràng Giang'' (Huy
Cận), ''Đây mùa thu tới'' (Xuân Diệu), ''Đây thôn Vĩ Dạ'' (Hàn Mặc Tử).
Phân tích những nét chung của thiên nhiên trong ba bài thơ và chỉ ra đặc

điểm riêng của thiên nhiên trong từng bài thơ.
Thiên nhiên la đề tài muôn thủa của thi ca và nhạc hoạ. Các thi sĩ đến với
thiên nhiên bằng tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và đầy mến yêu. Không ai có thể
quên thế giới Bồng Lai tiên cảnh trong thơ Lý Bạch, núi rừng hữu tình trong thơ
Nguyễn Trãi, làng quê mộc mạc đơn sơ trong thơ Nguyễn Khuyến. Và cũng
không ai co' thể quên trong phong trào thơ mới (1930-1945) từng co' một tiếng
reo ''Đây mùa thu tới'' của Xuân Diệu, một tình cảm mênh mang với ''Tràng
Giang'' của Huy Cận và một niềm hẫng hụt, chơi vơi với ''Đây thôn Vĩ Dạ'' của
Hàn Mặc Tử.

9


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Thiên nhiên chớm vào mùa thu trên đất Bắc trong ''Đây mùa thu tới'' thật
đẹp mà cũng thật buồn- một vẻ đẹp, một nét buồn rất mới, rất khác so với thơ ca
trung đại. Cảm quan nghệ thuật của thi ca trung đại là: lấy thiên nhiên làm
chuẩn mực cho vẻ đẹp con người, như Nguyễn Du đã từng tả Thúy Vân: ''Khuôn
trăng đầy đặn, nét ngài nở nang- Hoa cuời ngọc thốt đoan trang- Mây thua nước
tóc- Tuyết nhường màu da'' (Truyện Kiều). Nhưng với Xuân Diệu- ''nhà thơ
mới nhất trong các nhà thơ mới''- con người là vẻ đẹp chuẩn mực cho thiên
nhiên:
''Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.''
Chưa ai có một cáci so sánh lạ như Xuân Diệu. Cây liễu đẹp như người
thiếu nữ đứng xoã tóc ''chịu tang''. Mỗi sợi tóc là một sợi buồn, mỗi nhành liễu
là một sợi tóc. Từ cổ chí kim, không có nỗi buồn nào thấm thía đau đớn bằng
nỗi buồn chịu tang. Bao nhiêu nước mắt rơi xuống mà nỗi buồn chẳng vơi. Rặng
liễu với những sợi tơ liễu được kết bằng những lá liễu dài gối lên nhau ''hàng

hàng rủ xuống như ''lệ'' giăng mắc đầy một khoảng trời làm nỗi buồn chớm thu
như càng tắng thêm, thấm thía hơn. Và trong nỗi buồn ấy còn gợi lên một nỗi
đau mất mát:
''Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh''
Ngày lại ngày trôi qua, thu về, cảnh vật biến đổi, cây cối xác xơ trơ trụi,
khẳng khiu như đang run rẩy, khẽ rùng mình trong gió se lạnh: ''Đã nghe rét
mướt luồn trong gió''. Cảm nhận về cái rét đến trong gió của Xuân Diệu là một
cảm nhận mới. Thiên nhiên xôn xao, cựa mình- diều ấy thể hiện qua nghệ quật
sử dụng phụ âm '' r '' (rụng, rũa, run rẩy, rung rinh) và phụ âm '' m '' (mỏng
manh)- không giống thiên nhiên trong thơ cổ mang nét tĩnh lặng, ngay cả khi
''Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo'' (Mùa thu câu cá- Nguyễn Khuyến) thì cả
không gian thiên nhiên thu vẫn chủ yếu là tĩnh lặng... Cùng với ''lá vàng'' trong
thơ Nguyễn Khuyến, ai cũng biết bức tranh ''Mùa thu vàng'' của danh hoạ
Lêvitan, nhưng không đâu có một màu vàng mới và độc đáo như màu vàng của
đất trời vào trong bài thơ ''Đây mùa thu tới'' của Xuân Diệu. Đó không phải là
những đốm vàng nhỏ mà là cả một ''không gian vàng''- một màu vàng ''mơ phai''
rất riêng, rất khó lẫn. Đó là cái màu vàng của ''cái hồn thu qua sắc lá'' (Tạ Đức
Hiền) làm mùa thu bớt buồn và thêm thi vị, thêm đáng yêu. ''Mùa thu tới!''Xuân Diệu đã nhận được bức thông điệp của mùa thu và đã reo lên sung sướng
''Đây mùa thu tớ! Mùa thu tới!''. Giai điệu rộn rã của tiếng reo khiến ta cảm giác
hình như Xuân Diệu đang hát lên tiếng hát khát vọng giao cảm với cuộc đời.
Bước chân đến với trời thu của thi sĩ đầy ''giục giã'', ''vội vàng''.

10


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn


Cùng mang vẻ đẹp buồn truyền thống, nhưng nếu như thiên nhiên trong
''Đây mùa thu tơí'' đẹp thướt tha, thì thiên nhiên trong ''Tràng Giang'' lại mang vẻ
đẹp hùng vĩ rợn ngợp của ''trời rộng'', ''sông dài'':
''Sóng gợi trang giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
....Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu''
Thiên nhiên ở đây đậm sắc màu cổ điển. Dòng sống mênh mang, chảy dài
giữa không gian vắng lặng, bát ngát. Những con sóng gối lên nhau lớp lớp
không bao giờ dừng như nỗi buồn miên man không dứt. Song song với con
thuyền buồn trôi thụ động phó mặc cho cuộc đời, không một chút hi vọng là
biểu hiện của nỗi buồn chia lìa, li biệt. Bao nhiêu ngả nước, bấy nhiêu ngả sầu,
cảnh vật ở đây rất sầu: từ ''con thuyền'', ''cành củi khô'' đến ''nước'', ''sóng'' và cả
bờ xanh'', ''bãi vàng'', ''bến cô liêu'' đều mang nỗi sầu lớn. Nỗi buồn điệp điệp''
triền miên lan toả xuyên suốt bài thơ và cồn caò, day dứt nhất ở hình ảnh cuối
bài:
''Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà''.
Nỗi buồn của Huy Cận miên man không dứt như sóng nước mênh mông
bất tận, theo sóng nước lan toả rẩ xa, buồn hơn nhiều so vơi Thôi Hiệu (Đời
Đường- Trung Quốc): ''Yên ba giang thượng sử nhân sầu'' (trên sông khói sóng
cho buồn lòng ai?). Từ nỗi buồn dằng dặc ấy, vẻ đẹp hiện lên là vẻ đẹp mênh
mang đất trời. Không gian mở rộng ra mọi chiều cả về độ dài- rộng, cao- sâu.
Đó là cái đẹp lặng lẽ, rợn ngợp của không gian sông nước quen thuộc, gần gũi
được Huy Cận dựng lên bằng hình ảnh đơn sơ, thành những nét vẽ tinh tế, giàu
màu sắc cổ điển mà vẫn mới. Thấm đượm trong cảnh là một linh hồn ''mang
mang sầu thiên cổ'' và một cái gì như thể là linh hồn ngàn xưa của dân tộc vẫn
còn vương vấn nơi bãi rộng sông dài với ''bến cô liêu'', với ''bèo dạt'', ''mây'',''
cánh chim'', ''bóng chiều'', với ''khói hoàng hôn'', với tình quê đậm đà, da diết
cháy trong lòng thi nhân.

Thiên nhiên được khúc xạ qua tâm hồn thi sĩ, mang nỗi buồn của nhà thơ.
Cái đẹp thực, đẹp ảo của cảnh là cái đẹp trong sự thảng thốt của tác giả. Nỗi
buồn mênh mang từ hoàn cảnh của nhà thơ là nỗi buồn gắn với thiên nhiên.
Trong ''Tràng Giang'', ''nỗi buồn thấm trong từng câu chữ'', đầy như dòng sông
Hồng cuồn cuộn chảy.
Trong bài thơ ''Đây mùa thu tới' nỗi buồn toả ra từ niêm cô dơn, quạnh
vắng, còn trong bài thơ ''Đây thôn Vĩ Dạ'' nỗi buồn lại nhè nhẹ cất lên từ ý thức
bị lãnh quyên của nhà thơ. Nhưng khác với ''Đây mù thu tơi'' và '' Tràng Giang'',
bài thơ ''Đây thôn Vĩ Dạ'' là một bài thơ có ''bước nhảy cảm xúc'' (Vũ Quần
Phương), co sự chuyển đổi cảm xúc rất nhanh, rất nhuần nhị, tinh tế. Bài thơ có
ba khổ thì mỗi khổ là một câu hỏi ngắn với tâm trạng khác nhau của Hàn Mặc
11


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Từ, gắn với những vẻ đẹp khác nhau của thiên nhiên xứ Huế thơ mộng. Ở khổ
một, thi sĩ đang vui sướng ''nhìn nắng hàng cau nắg mới lên, ngắm vườn ai mướt
quá xanh như ngọc'' thât đẹp đẽ của thôn Vĩ Dạ. Đó là vẻ đẹp nguyên sơ- thánh
thiện, vẻ đẹp tươi tắn, rạng rỡ, tinh khôi của xứ Huế hiện lên rõ nét trong dòng
hoài niệm của Hàn Mặc Tử. Đến khổ thơ thứ 2, cảm xúc thi nhân chợt lắng
xuống thoáng buồn:
''Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?''
Bài thơ ''Đây mùa thu tới'' nói về nỗi buồn tàn lụi, chia lìa: ''Hơn một loài
hoa đã rụng cành, trong vuờn sắc đỏ rũa màu xanh'' với cách nói phiếm định:
''hơn một'' đậm màu sắc văn hoá phương Tây đầy mới mẻ. ''Tràng Giang'' nói về
nỗi buồn li biêtj của cảnh: ''Con thuyền xuôi mái nước song song'' mang dấu ấn

cổ điển. Và ''Đây thôn Vĩ Dạ'' cũng nói về nỗi buồn lẻ loi, tan tác: ''Gió theo lối
gió mây đường mây- Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay'' nhưng không đơn giản
chỉ có thế mà còn là nỗi buồn xa cách, bị lãng quên. Dòng sông Hương lững lờ
trôi là dòng ''sông trăng'' chất chở nỗi buồn nhẹ nhàng, man mác của lòng người.
Từ cái đẹp tinh khôi của xứ Huế mộng mơ thực tạo, dòng liên tưởng của Hàn
Mặc Tử hướng về một cái đẹp mờ ảo của cảnh vật trong sự chia cách. Cũng như
nỗi buồn của Xuân Diệu trong bài thơ ''Đây mùa thu tới'', nỗi buồn của Hàn Mặc
Tử ở đây cũng thật lặng lẽ, nhẹ nhàng chứ không phải triển miên, dữ dội như
sóng của Huy Cận trong bài thơ ''Tràn Giang''.
Với thể thơ thât' ngôn truyền thống, nhìn chung, nỗi buồn của thơ Xuân
Diệu là nỗi ''buồn không nói'', của Huy Cận là nỗi ''buồn điệp điệp'', của Hàn
Mặc Tử là nỗi ''buồn thiu''. Thiên nhiên trong cả ba bài thơ đều đẹp và buồn bởi
thiếu một tình người. Tình người mà ở mỗi bài thơ được thi nhân nhắc đến là để
xoa dịu nỗi buồn bị quyên lãng (''Đây thôn Vĩ Dạ''); xoá cô đơn, rợn ngợp trong
lòng, tìm đến một tình quê ấm áp (''Tràng Giang''); xoá cái lạnh của lòng người,
tìm đến một tình yêu, một khát vọng giao cảm với thiên nhiên, với cuộc đời
(''Đây mùa thu tới''). Các nhà thơ có sự cảm nhận tinh tế về thiên nhiên cũng như
đã biểu hiện một cách sâu sắc thế giới tâm trạng, cảm xúc của mình trước thiên
nhiên đó.
Thiên nhiên trong Thơ mới là một đóng góp về mặt tư tưởng, văn hoá của
các nhà thơ lãnh mạn trước cách mạng tháng Tám. Đó cũng là minh chứng cho
tình yêu quê hương, đất nước của các nhà Thơ mới nói chung và củ Xuân Diệu,
Huy Cận, Hàn Mặc Tử nói riêng.
***

12




×