Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.33 KB, 7 trang )

[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Đề 24.3. Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy phân tích giá trị hiện thực
và giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
Tô Hoài (sinh năm 1920) là một nhà văn lớn, sau hơn 60 năm lao động nghệ
thuật, ông đã có gần 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn,
tiểu thuyết, kí, tự truyện, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Ông có vốn hiểu biết
phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước
ta. Ông cũng là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh
động của người từng trải, vốn từ vựng giàu có- nhiều khi rất bình dân và thông
tục, nhưng nhờ cách sử dụng đắc địa và tài ba nên có sức lôi cuốn, lay động nguời
đọc. Tiêu biểu trong sáng tác của ông là "Truyện Tây Bắc". Đó là kết quả của
chuyến đi dài tám tháng với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc của Tô Hoài(1952), là
một trong những tác phẩm văn xuôi tiêu biểu của văn học thời kí kháng chiến
chống thực dân Pháp. Tập truyện đă thể hiện một cách xúc động cuộc sống tủi
nhục của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách phong kiến thực dân và ánh sáng
cách mạng đã đến với họ giúp họ hồi sinh. "Vợ chồng A Phủ" là truyện ngắn đặc
sắc hơn cả trong ba tác phẩm của tập "Truyện Tây Bắc". Tác phẩm được trao Giải
Nhất Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1954-1955, viết về chặng đường
đời của Mị và A Phủ những ngày sống ở Hồng Ngài, nhà thống lí Pá Tra, sang
Phiềng Sa nên vợ nên chồng và đến với cách mạng. Qua hai nhân vật này, Tô Hoài
đã làm nên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" đã nói lên một cách đau xót nỗi thống khổ bao
đời của các dân tộc anh em ở Tây Bắc dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và bè lũ
tay sai là quan lang, quan châu, phìa (Thái), tạo (Mường), thống lí (H’Mông). Cha
con thống lý Pá Tra là hiện thân của tội ác giai cấp thống trị miền núi. Chúng duy
trì chế độ lang đạo thổ ty chế độ chúa đất từ thời trung cổ vô cùng tàn bạo. Trong
chế độ ấy giai cấp thống trị có quyền chiếm đoạt ruộng đất bóc lột sức lao động,
đánh đập hành hạ, thậm chí giết những người bị chúng biến thành nô lệ. Chỉ cần
nhìn vào cảnh xử kiện, đánh đòn phạt vạ A Phủ cũng đủ thấy sự tham lam tàn bạo
của những tên chúa đất miền núi. Và cũng chỉ cần nhìn vào cảnh A Sử trói Mị một


cách lạnh lùng tàn nhẫn cũng đủ thấy sự vô lương tâm đến mất hết tính người của
giai cấp thống trị. Khi A Sử biết Mị định đi chơi hắn đã lấy cả một thúng sợi đay
trói đứng Mị vào cột. Trói xong Mị, A Sử thản nhiên lấy chiếc thắt lưng xanh thắt
ra ngoài áo, thản nhiên tắt đèn, thản nhiên khép cửa lại thật lạnh lùng không suy
nghĩ. Tính mạng con người trong nhà thống lý Pá Tra rẻ mạt đến thế là cùng.
Bên cạnh sự tàn bạo về cường quyền giai cấp thống trị còn duy trì sự tàn
bạo của thần quyền, hủ tục trình ma đã tước đi cả sự sống những khát vọng giải
thoát ở những con người lao động bị áp bức. Người đàn bà khi bị cướp về trình ma
thì vô hình người đàn bà (mà Mị là điển hình) đã trói cả đời mình vào nhà ấy. Nếu
chẳng may chồng chết thì người ấy phải làm vợ người khác trong nhà, có khi là
một người anh chồng già lụ khụ, có khi là một người em chồng còn ở tuổi trẻ con,
và nếu chồng lại chết, lại vẫn phải ở với một người đàn ông khác vẫn trong nhà
ấy…Phải suốt đời ở trong nhà ấy. Bằng cái ma vô hình giai cấp thống trị cột chặt
chế độ nô lệ của những người lao động trong ngục tù của cường quyền và thần
1


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

quyền. Chỉ trong một truyện ngắn mà tác giả đã mô tả được bức tranh toàn cảnh
về giai cấp thống trị Tây Bắc, giá trị hiện thực của tác phẩm thật là sâu sắc.
Bức tranh về đời sống tăm tối đến nghẹt thở của người dân lao động được
phản ánh qua số phận Mị và A Phủ trong thời gian ở Hồng Ngài. Trước khi về nhà
của thống lí, Mị đẹp như một bông hoa rừng. Cô là một người con gái trẻ đẹp,
chăm chỉ công việc, giàu lòng hiếu thảo, tự tin, thông minh... Người con gái ấy là
niềm khao khát ước mơ của bao nhiêu chàng trai ''Có biết bao nhiêu người, ngày
đêm thổi sáo đi theo Mị''. Một người như Mị lẽ ra phải được sống cuộc đời hạnh
phúc, nhưng trái lại, cô đã khổ từ trong trứng nước. Ngày xưa khi cưới nhau đã
không có tiền, bố mẹ Mị đã phải vay của bố thống lí Pá Tra- tức ông của A Sử 10
đồng bạc trắng, mỗi năm phải trả lãi một nương ngô. Cho đến nay bố Mị đã già,

mẹ Mị đã chết vậy mà món nợ ấy vẫn chưa trả được. Thống lí Pá Tra đến gạ bố
Mị gả Mị cho A Sử con trai hắn làm con dâu gạt nợ. Mặc dù Mị phản ứng quyết
liệt, Mị không chấp nhận vào nhà thống lí Pá Tra thế nhưng Mị đang sống trong
xã hội tiền quyền và thần quyền. Đó là xã hội phong kiến ở miền xuôi, thế nên
những người hiền lành nết na như Mị không thoát được. Những đêm tình mùa
xuân, con trai đến thổi sáo đứng ''chật cả chân vách đầu buồng Mị''. Và Mị đã có
một tình yêu, có hiệu gõ vách hẹn hò. Tâm hồn cô gái xinh đẹp và tài hoa ấy luôn
luôn mở rộng để đón nhận mọi hương hoa của cuộc đời. Nhưng rồi tất cả đều
chấm dứt trong cái đêm Mị bị bắt cóc về nhà thống lí Pá Tra. ''Sáng hôm sau, Mị
mới biết mình đang ngồi trong nhà thống lí Pá Tra. Họ nhốt Mị vào buồng. Ngoài
vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa''. Mị bị bắt cóc để
rồi trở thành con dâu thống lí là trả cho cái món nợ hôn nhân từ đời cha mẹ Mị.
Những ngày đầu làm dâu nhà thống lí, Mị thấm thía nỗi đau của một cuộc
đời bị cướp đoạt, ''đêm nào Mị cũng khóc''. Mị không chấp nhận cuộc sống ở nhà
thống lí Pá Tra, ý định tự tử đã đến với Mị. Mị cầm nắm lá ngón trên tay về lạy
chào cha để định quyên sinh. Vì chữ "hiếu" Mị đành vứt nắm lá ngón, gạt nước
mắt quay trở lại nhà thống lí. Nhà thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài chả khác nào thiên
la địa võng, dấn thân vào đó là dấn thân vào chỗ chết, vào địa ngục trần gian. Biết
được điều này nhưng Mị vẫn chấp nhận vì thương cha. Bđầu từ đây Mị sống khác
hẳn, Mị không khóc như trước nữa. Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa (ngay cả
khi cha cô không còn). Mị tưởng mình cũng chỉ là con trâu, con ngựa nhà thống lí.
Sống trong nhà thống lí, ách áp bức của giai cấp thống trị, thần quyền, sự mê tín
đã biến Mị trở thành con người hoàn toàn khác: ''Ở lâu trong cái khổ, Mị quen
rồi''. Dường như mối giao cảm giữa Mị với cuộc sống bên ngoài chỉ còn thu hẹp
của ''căn buồng âm u, kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay.
Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăn trắng, không biết là sương hay là nắng''. Ý
thức làm người vốn có của Mị đã bị giai cấp phong kiến làm tê liệt. Càng ngày cô
càng không nói, chỉ ''lùi lũi như con rùa nuôi xó cửa''. Con người nô lệ trong Mị
vẫn còn sống, còn con người thực vốn có của cô thì dường như đã chết. Mị chỉ là
cái bóng vô cảm, vô hồn, lãng quên dĩ vãng, không gắn bó với hiện tại, không

nghĩ đến tương lai. Mị sống chẳng qua là kéo dài những ngày chưa chết được, điều
này đã được Tô Hoài thể hiện ngay ở mươi dòng đầu câu chuyện với những câu
văn đầy tính tạo hình, nhà văn đã dựng lên trước mắt chúng ta với sức sống tàn
2


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

phai, mai một: "Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra…cô ấy cũng cúi mặt,
mặt buồn rười rượi".
Ngày qua ngày, nỗi khổ cực đã dồn nén dần cái sức sống tiềm tàng trong
con người Mị. Mùa xuân là mùa của sức sống, mùa của sự sinh sôi nảy nở, mùa
đẹp nhất trong năm.Tất cả những gì tưởng đã chết trong lòng Mị cũng dường như
được hồi sinh, hồi sinh một cách chóng vánh khi mùa xuân đến. Mị thấy mình trẻ
đẹp, Mị muốn đi chơi hội như bao người đàn bà có chồng khác ở Hồng Ngài. Mị
chuẩn bị, sửa soạn đi chơi. Mị tìm cái váy hoa đẹp nhất của mình vắt tít trên vách.
Đó là lúc sức sống tiềm tàng trỗi dậy mạnh mẽ nhất trong lòng Mị. Thế nhưng sức
sống ấy đã bị dập tắt ngay lập tức, A Sử đã vùi dập nó một cách phũ phàng, hắn
trói Mị bằng một thúng dây đay từ chân lên đầu. Chưa bao giờ Mị lại cảm thấy
nhục nhã như thế, sự so sánh đã bắt đầu xuất hiện trong Mị, Mị thấy mình không
bằng con trâu, con ngựa trong nhà thống lí Pá Tra, khi mỏi còn được đổi tàu, còn
được gãi chân, nhai cỏ, còn Mị khóc không tự lau được nước mắt.
Cũng giống như Mị, A Phủ mang số phận của một nông nô miền núi. Từ
khi còn bé, chú bé A Phủ từ tuổi thơ đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, không còn người
thân thích trên đời vì cả làng A Phủ không mấy ai qua được trận dịch. A Phủ sống
sót không phải nhờ sự ngẫu nhiên mà vì chú là một mầm sống khoẻ, đã vượt qua
được sự sàng lọc nghiệt ngã của tự nhiên. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ trở thành
chàng trai Mông khoẻ mạnh chạy nhanh như ngựa, biết đúc lưỡi cày, biết đúc
cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo. Con gái trong làng nhiều người mê,
nhiều người nói: "Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà,

chẳng mấy lúc mà giàu". Người ta ao ước đùa thế thôi, chứ A Phủ vẫn rất nghèo.
A Phủ không có cha, không có mẹ, không có ruộng, không có bạc, suốt đời làm
thuê, làm mướn, phép làng và tục lệ cười xin ngặt đến nỗi A Phủ không thể nào
lấy nổi vợ.
Ngày Tết, A Phủ rủ bạn đi chơi đánh pao, A Sử đến phá đám bị A Phủ
đánh. Ở vùng núi cao, bọn chúa đất như thống lí Pá Tra là một thứ trời con, con
trai thống lí là con trời, không ai dám đụng tới. Nhưng A Phủ không sợ. Với A
Phủ, A Sử chỉ là đứa phá đám cuộc chơi, cần phải đánh. nhưng A Phủ đâu biết
rằng anh phải trả một cái giá rất đắt cho hành động táo tợn ấy. Thống lí Pá Tra bắt
A Phủ đánh đập, hành hạ, phạt vạ một trăm đồng bạc trắng. A Phủ phải ở cho
thống lí trừ nợ. Thế là trong nhà thống lí có thêm một con người bất hạnh nữa làm
nô lệ. Mị thì làm tôi tớ trong nhà, còn A Phủ thì làm tôi tớ ngoài rừng. "Đời mày,
đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi". A Phủ quanh
năm một thân một mình "đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ,
chăn bò, chăn ngựa...", "bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng" làm phăng phăng
mọi thứ, không khác với những năm tháng trước kia. Khi rừng đôi, vì mải bẫy
nhím, để hổ bắt mất bò. Thống lí đã bắt A Phủ trói đứng suốt ngày đêm ngoài trời.
Cũng như Mị, A Phủ bị cường quyền, thần quyền tước đoạt đi cả sức sống. Một
chàng trai như A Phủ mà tự đi đào lỗ chôn cọc, tự đi lấy dây trói, lấy cọc về để
thống lí Pá Tra trói mình để đời ngày chết khô chết héo, thật đúng tính mạng con
người vô cùng rẻ mạt, A Phủ trở thành vật thế mạng cho con bò đã bị hổ ăn thịt.

3


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Bên cạnh giá trị hiện thực truyện ''Vợ chồng A Phủ'' còn mang giá trị nhân
đạo sâu sắc. Những nội dung cơ bản nhất làm nên giá trị nhân đạo của tác phẩm
văn học đều có trong ''Vợ chồng A Phủ''. Niềm thương cảm sâu sắc đối với con

người, sự lên án tố cáo nhiều thế lực tàn bạo, đặc biệt là sự khẳng định ngợi ca sức
sống tiềm tàng sức mạnh vùng lên giải phóng và những khát vọng chân chính của
con người, sự hướng tới những giải pháp mang tinh thần nhân đạo.
Ở ''Vợ chồng A Phủ'' ta bắt gặp sự đồng cảm thương cảm đến sâu sắc của
nhà văn giành cho những con người bị áp bức, những con người đau khổ. Nếu
không có niềm thương cảm sâu sắc thì nhà văn không thể hoá thân vào nhân vật
để hiểu thấu những đường nét quanh co đầy bí ẩn những tâm trạng tinh tế phức tạp
của Mị. Đoạn văn tả tâm trạng Mị trong đêm mùa xuân nghe tiếng sáo gọi bạn
thấm đượm một niềm xót thương vô hạn cho số phận người con dâu gạt nợ và
nâng niu trân trọng những giấc mơ tinh tứ, đẹp đẽ của một con người. Bằng hình
thức ngôn ngữ nửa trực tiếp ngòi bút của tác giả đã thâm nhập vào thế giới nội tâm
của nhân vật biểu hiện một tấm lòng nhân đạo tha thiết. Truyện ''Vợ chồng A Phủ''
còn là bản cáo trạng đanh thép tội ác giai cấp thống trị miền núi. Sống trong cái
địa ngục trần gian của nhà thống lý Pá Tra, người thì thân phận dâu gạt nợ kẻ thì
thành nông nô đi ở không công, Mị như một bông hoa rừng xinh đẹp bỗng bị
quăng quật dập vùi, sẽ chết khô chết héo nếu không có ánh sáng của cách mạng.
Một chàng trai khoẻ mạnh, con người của núi rừng tự do như A Phủ mà bị biến
thành vật thế mạng cho con bò bị hổ ăn thịt thì quả tình thân phận con người bị rẻ
rúng đến thế là cùng.
Tuy nhiên giá trị nhân đạo của tác phẩm là ở chỗ nhà văn đã phát hiện
khẳng định ngợi ca sức sống tiềm tàng và sức mạnh vùng lên giải phóng của
những người lao động bị áp bức. Mị và A Phủ là hiện thân của sức sống tiềm tàng
không gì dập tắt nổi. Ở Mị thường có hai mặt tưởng chừng như đối lập nhưng lại
thống nhất trong một tính cách, một mặt bị áp bức nặng nề, một mặt bị áp lực nặng
nề Mị trở nên cam chịu mặt khác ở Mị vẫn tưng bừng một khát vọng sống. Mị
không phải là cây nến leo lét đợi ngày tàn lụi mà như bếp than hồng âm ỉ dưới lớp
tro tàn chỉ đợi bùng lên thành ngọn lửa. Cô không chấp nhận cuộc sống nô lệ nên
đã định tìm đến cái chết để giải thoát. Khi bị bắt cóc về làm vợ A Sử, Mị không
chấp nhận cuộc sống ở nhà thống lí Pá Tra, ý định tự tử đã đến với Mị. Mị cầm
nắm lá ngón trên tay về lạy chào cha để định quyên sinh. Nhưng khi về đến gia

đình, Mị mới nhìn thấy rõ bi kịch gia đình mình, bố Mị nói như van xin trong làn
nước mắt: "Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nợ tao vẫn còn,
quan lại bắt tao trả nợ. Mày mà chết rồi không lấy ai làm nương ngô giả được nợ
người ta. Tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi!" .Sau khi Mị nghe những
lời nói như van xin của cha, cô đứng trước một hoàn cảnh éo le, oái oăm, cay cực.
Mị sống không muốn, Mị chết không xong. Tuy nhiên việc Mị đã đến ý định tự tử
lại thể hiện sức sống tiềm tàng, điều đó phải chăng là nghịch lý? Mới nghe qua
tưởng là nghịch lí nhưng ngẫm nghĩ lại trong hoàn cảnh của Mị đó lại là một điều
hợp lí sâu sắc bởi vì Mị muốn chết như một con người còn hơn fải sống như một
con vật. Mị muốn chết ngay một lần để được làm người còn hơn phải sống cuộc
sống chết dần, chết mòn, chết khô, chết héo, chết cả thể xác lẫn tâm hồn.
4


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

Mùa xuân năm ấy, khi sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy, nhà văn Tô Hoài
rất khéo léo khi đưa bất cứ một hình ảnh nào đến với Mị thì hình ảnh ấy đều là chỗ
dựa cho sức sống của Mị trỗi dậy. Nhất là bữa cơm tất niên trong gđ nhà thồng lí
Pá Tra với hình ảnh của những người ốp đồng nhảy múa vui vẻ trong tiếng nhạc
sinh tiền càng làm cho lòng Mị trở nên rộn ràng, náo nức. Niềm rộn ràng, náo nức
ấy thực sự là nỗi thúc bách khi những người trong nhà thống lí mặc váy áo mới đi
chơi. Như vậy, sức sống tiềm tàng của Mị đã trỗi dậy, nó trở thành đòi hỏi bên
trong muốn cất cánh ra bên ngoài. Rồi Mị lén lấy hũ rượu, Mị uống ừng ực từng
bát, Mị uống như nuốt những tủi hờn, cay đắng vào trong lồng ngực. Mị uống như
nuốt hiện tại khổ đau để trước mắt Mị giờ đây chỉ còn là quá khứ hp. Thế là Mị
đang sống lại ngày trước với quãng đời thiếu nữ tự do, với hp trong mối tình đầu.
Việc làm tiếp theo của Mị khi cô bước vào căn buồng tăm tối ấy là Mị xắn một
miếng mỡ để vào trong đèn cho đèn sáng hơn. Đây không còn là chi tiết sinh hoạt
nữa mà nó trở thành một chi tiết có chiều sâu nghệ thuật bởi trước đây không thiết

sống nên căn buồng của Mị tăm tối, hôi hám, luộm thuộm, ẩm thấp, bẩn thỉu… Mị
cũng chẳng bận lòng. Hnay thì khác, lòng yêu đời vừa mới trở về với Mị. Mị
muốn đời mình phải sáng sủa hơn. Thế nên hành động Mị xắn miếng mỡ bỏ vào
đĩa đèn cho đèn sáng hơn cũng đồng nghĩa với việc Mị thắp lên ngọn lửa trong
lòng mình. Và trong đêm tình mùa xuân nghe tiếng sáo gọi bạn thì sức sống tiềm
tàng của Mị đã bùng lên dữ dội trong cả khát vọng hạnh phúc cũng như trong tình
huống bi thảm nhất. Mị thấy mình trẻ đẹp, Mị muốn đi chơi hội như bao người
đàn bà có chồng khác ở Hồng Ngài. Mị với chiếc váy hoa chẩn bị đi chơi, Mị thôi
làm con rùa lầm lũi nơi xó cửa, Mị muốn làm cánh chim tung bay giữa bầu trời tự
do để chào đón mùa xuân. Việc A Sử trói Mỵ chỉ làm dồn lại nhựa sống mùa xuân
trong Mị, mặc dù bị trói tâm hồn cô vẫn hướng theo tiếng sáo đến với cuộc chơi
xuân. Mị vùng bước đi mặc dù chân tay đau không cựa được. A Sử có thể giam
Mị giữa ngày xuân chứ không giam được sức sống mùa xuân trong Mị.
Ở A Phủ cũng tiềm tàng một sức sống, sức mạnh phản kháng khi bị đánh
phạt vạ trước những trận đòn dã man. A Phủ vẫn im lìm như cái tượng đá. Thái độ
ấy, tư thế ấy là sự chất chứa hờn căm, là sự bất phục bất tuân thầm lặng nhưng
quyết liệt. Khi bị trói A Phủ tìm cách thoát, không thoát được thì trong đôi mắt A
Phủ không chỉ có giọt lệ chảy xuống gò má xạm đen mà từ đôi mắt trừng trừng ấy
còn bập bùng hai ngọn lửa sống hay đốm sáng của khát vọng, hy vọng. A Phủ và
Mị và hiện thân của sức mạnh vùng lên giải phóng tháo cũi, sổ lồng. Sức mạnh ấy
kết tụ lại trong hành động Mị cắt dây trói cứu A Phủ trong một đêm mùa đông.
Lúc đầu là sự đồng cảm với người cùng cảnh ngộ sau đó là ý thức về sự giải thoát
Mị cứu A Phủ đồng thời là tự cứu bản thân mình. Cuộc đời của Mị sẽ cứ như thế
cho đến chết nếu như Tô Hoài không để cho Mị gặp được một người. Người ấy đã
tiếp cho Mị một sức mạnh vô cùng để một lần nữa sức sống tiềm tàng của Mị trỗi
dậy để giải thoát đời mình, giải thoát người cùng cảnh ngộ, đó là A Phủ. Vào cái
ngày A Phủ bị trói đứng vào cột nhà vi để mất con bò nhà thống lí, bị bỏ đói hàng
tuần lễ giữa những ngày mùa đông đầy sương muối ở vùng cao. Đêm nào Mị cũng
dậy thổi lửa để hơ tay, đêm nào cũng vậy khi ngọn lửa bùng lên, Mị nhìn sang biết


5


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

A Phủ còn sống nhưng Mị không hề nói năng gì. ''Nếu A Phủ là cái xác chết đứng
đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa''.
Dường như sức sống trong tâm hồn cô đã cạn dần? Không, ngược lại, sức
sống trong cô lâu nay bị dồn nén quá sức bây giờ nó đã vỡ tung ra khi ''Ngọn lửa
bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một
dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại'' của A Phủ. Dòng
nước mắt ấy đã làm trỗi dậy trong Mị tình thương những người cùng cảnh ngộ. Mị
chợt nhớ lại cái đêm mình cũng bị trói đứng vào cột nhà như thế kia, cũng ''nước
mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được''. Nhìn người Mị lại ngẫm
đến mình: "Trời ơi, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà
ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai
là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã
bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi…Người
kia việc gì phải chết thế”. Mị đã cắt dây trói cho A Phủ, và A Phủ chạy đi, “Mị
cũng vụt chạy ra” xin A Phủ cho đi theo để giải thoát cho chính mình. A Phủ bị
trói là hiện hình cái chết của Mị trong tương lai, Mị giải thoát cho A Phủ cũng có
nghĩa là cô đã xoá đi hình ảnh cái chết của mình trong tương lai. Với hành động
cứu A Phủ và tự cứu cùng một lúc Mị đã bước qua hai ngục tù cường quyền và
thần quyền. Sức sống tiềm tàng của Mị và A Phủ đã phát triển thành sức mạnh giải
phóng, bếp than hồng sau bao ngày âm ỉ dưới lớp tro tàn giờ đây đã bùng lên
thành ngọn lửa, ngọn lửa ấy không chỉ sưởi ấm cho cuộc đời Mị và A Phủ mà còn
soi rọi ánh sáng hạnh phúc trên con đường đi tới tương lai của họ.
Là tác phẩm của nền văn học cách mạng, giá trị nhân đạo của ''Vợ chồng A
Phủ'' được nâng lên một tầm cao so với văn học hiện thực phê phán trước đó. Nếu
văn học hiện thực phê phán trước cách mạng chủ yếu thể hiện nhu cầu khát vọng

hạnh phúc, khát vọng giải phóng con người thì văn học cách mạng còn khẳng định
khả năng con người có thể thực hiện những nhu cầu, những khát vọng ấy. Nếu
điểm mạnh của văn học hiện thực phê phán là ở sự mổ xẻ, phân tích, lí giải hiện
thực thì văn học cách mạng không chỉ lý giải mà còn góp phần cải tạo hiện thực.
Mị và A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài trong một đêm mùa đông giá lạnh của cuộc đời
để đến với một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc. Trốn khỏi Hồng Ngài tới
Phiềng Sa là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Mị và A Phủ từ thân phận nô lệ
họ đã trở thành chủ nhân của cuộc đời từ ''Thung lũng đau thương'' họ đã ra tới
''cánh đồng vui''. Câu chuyện đầy ắp những nỗi thống khổ sót sa nhưng cái kết của
nó thực sự là có hậu. Mị và A Phủ đã đi mệt một tháng đường rừng. Họ đến
Phiềng Sa và đã thành vợ chồng - vợ chồng A Phủ. Họ tự dựng nhà dựng cửa làm
ăn sinh sống ở Phiềng Sa. Họ mơ ước có một gia đình hạnh phúc. Nhưng giặc
Pháp lại tràn đến Phiềng Sa và gia đình A Phủ bị cướp bóc. A Phủ bị giặc Pháp bắt
hành hạ. Nhưng A Phủ vẫn chưa hiểu được vì sao anh lại bị giặc Pháp bắt, anh lại
"thù cán bộ" vì thằng Tây bảo anh nuôi cán bộ nên mới bắt lợn của anh, đánh đập
anh, cắt tóc anh. Được A Châu giác ngộ, vợ chồng A Phủ tham gia đội du kích
chống Pháp ở Phiềng Sa. Vợ chồng A Phủ đã từ đấu tranh tự phát vươn lên tự
giác, A Phu trở thành đội trưởng đội du kích Phiềng Sa, Mị đã giúp việc đắc lực
cho A Phủ. Từ đấu tranh giải thoát áp bức phong kiến, đến tham gia kháng chiến
6


[Lê Hiền] Bộ tài liệu 132 đề Ôn thi Đại học môn Ngữ Văn

chống Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng, đó cũng là hiện thực sâu sắc của quá trình
phát triển các dân tộc Tây Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" là bản cáo trạng đanh thép tội ác của các thế
lực phong kiến miền núi đã tước đoạt quyền sống của con người. Tác phẩm đã
phản ánh trung thực quá trình giác ngộ cách mạng và vùng dậy chống chế độ
phong kiến thực dân của Mị và A Phủ, qua đó phản ánh được sự trưởng thành của

các dân tộc Tây Bắc dưới ánh sáng của Đảng. Đồng thời tác phẩm cũng phản ánh
được chủ trương, chính sách của Đảng là giải phóng người lao động bị áp bức, bóc
lột, giải phóng mọi sức sống đang bị các thế lực thống trị kìm hãm, trói buộc. Tác
phẩm còn là là tấm lòng biết ơn, thủy chung, tình nghĩa của tác giả, của cách mạng
đối với các vùng du kích đã tiếp tế che chở cho cán bộ, bộ đội hoạt động ở vùng
địch hậu Tây Bắc. Với giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc mà truyện "Vợ chồng
A Phủ" có sức hấp dẫn và có giá trị bền lâu.
***

7



×