Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

ĐỀ CƯƠNG MÔN TRIẾT CAO HỌC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.7 KB, 41 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP
MÔN: TRIẾT HỌC
K4: Tháng 3 năm 2015
Câu 1: Trình bày khái niệm và các hình thức cơ bản của thế giới quan,
khái quát lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật.

-

-

I.

1.
-

Gợi ý trả lời:
Khái niệm Thế giới quan Là toàn bộ những quan điểm, quan niệm
của con người về thế giới. Con người sống trên thế giới dù muốn hay
không, họ vẫn phải tìm hiểu về những thứ xung quanh mình. Bao hàm cả
những cái thuộc về thế giới tự nhiên, trong xã hội loài người,
Nguồn gốc của thế giới quan: TGQ ra đời từ cuộc sống; nó là kết
quả trực tiếp của quá trình nhận thức; song, suy cho đến cùng nó là kết
quả của cả những yếu tố khách quan và chủ quan, của cả hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn, những cài thuộc về con người, thuộc xã hội
loài người.
Nội dung của TGQ : cực kỳ phức tạp, nhưng khái quát lại có 3
mảng nội dung chính :
Những cái bên ngoài con người : TGQ là TGQ của con người, là kết quả
nhận thức của con người, khi con người nhận thức những cái bên ngoài
bản thân mình sẽ hình thành những mảng nội dung riêng
Những cái bên trong - chính bản thân con người : con người hiểu về


mình, nhận thức về mình, có những quan điểm, quan niệm của riêng mình
Mối quan hệ của con người và cái bên ngoài con người : con người có sự
hiểu biết những cái bên ngoài mình, những cái bên trong mình và hiểu
mối quan hệ giữa cái bên trong con người về thế giới bên ngoài con
người.
Cấu trúc của TGQ: hết sức phức tạp nhưng hai yếu tố cơ bản là
Tri thức và Niềm tin. Một TGQ coi là nhất quán, hoàn chỉnh khi tri thức
và niềm tin thống nhất với nhau và con người hành động theo niềm tin
đó.
Những hình thức cơ bản của TGQ: Sự phát triển của TGQ đã là TGQ
thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: TGQ huyền thoại, TGQ tôn giáo, TGQ
triết học.
TGQ Huyền thoại hình thành và phát triển trong giai đoạn đầu của XH
loài người. Đặc trưng cơ bản về TGQ huyền thoại:
Về hình thức thể hiện: TGQ huyền thoại thể hiện chủ yếu qua các câu
chuyện thần thoại.
Về tính chất: Nội cung của truyền thần thoại có sự pha trộn giữa thần và
người, giữa thật và ảo, trật tự không gian và thời gian bị đảo lộn không tự
giác. Bời vì Công Xã Nguyên Thủy chưa có chữ viết, câu chuyện thông


-

2.
-

3.

-


-

-

qua truyền miện nên khi truyền miện thì không chính xác, bản thân người
dẫn chuyện đưa tình cảm của mình vào đó và càng ngày độ chính xác
càng ít. Nội dung câu chuyện càng ngày càng nhiều hơn. Trong tất cả
những câu chuyện thần thoại thì thần thoại Hy Lạp thể hiện rõ nét nhất
đặc điểm của TGQ. TGQ huyền thoại thể hiện nổi bật nhất trong thần
thoại Hy Lạp. Yếu tố thần và người có sự hòa trộn, đan xen.Thần nhưng
lại rất người, người nhưng lại rất thần.
Về trình độ nhận thức: TGQ huyền thoại thể hiện trình độ nhận thức
thấp, chủ yếu ở cấp độ nhận thức cảm tính nên những gì trừu trượng
thường được con người hình dung dưới những sự vật hữu hình, cụ thể.
TGQ tôn giáo: yếu tố niềm tin là yếu tố giữa vai trò tuyệt đối. sức mạnh
của thế lực siêu nhiên.
Về hình thức thể hiện: TGQ tôn giáo thể hiện qua giáo lý của các tôn
giáo.
Về tính chất: Niềm tin cao hơn lý trí, nặng tính hư ảo, tuyệt đối hóa yếu
tố thần thánh, vai trò con người bị hạ thấp.
Về trình độ nhận thức: TGQ tôn giáo ra đời khi trình độ nhận thức và
khả năng hoạt động thực tiễn của con người còn rất thấp nên con người
bất lực, sợ hãi trước những lực lượng tự nhiên cũng như những lực lượng
xã hội dẫn đến việc họ thần thánh hoá chúng, quy chúng về sức mạnh
siêu tự nhiên và tôn thờ chúng. Trong tất cả các tôn giáo chỉ có tôn giáo
phật giáo là nói đến sức mạnh của con người. con người có thể giải thoát
cho mình bằng cách tích nghiệp thiện, tạo nghiệp thiện. do vậy nó không
thể tồn tại với tư cách là một TGQ KH
TGQ triết học
TGQ triết học là TGQ có hạt nhân lý luận là các học thuyết triết học.

TGQ triết học, các học thuyết triết học là bộ phận quan trọng nhất vì nó
chi phối tất cả những quan điểm, quan niệm khác của TGQ con người.
Về hình thức thể hiện: TGQ triết học thể hiện chủ yếu qua các học
thuyết triết học. TGQ triết học không chỉ thể hiện quan điểm, quan niệm
của con người về thế giới mà nó còn chứng minh các quan điểm, quan
niệm ấy bằng lý luận.
Về tính chất: đề cao vai trò trí tuệ. Cụ thể hơn tính chất của TGQ triết
học bị tính chất của các học thuyết triết học qui định và tất cả các học
thuyết triết học điều thể hiện cấp độ nhận thức cao.
Về trình độ nhận thức: TGQ triết học ra đời khi nhận thức của con
người đã đạt đến trình độ cao của sự khái quát hoá, trừu tượng hoá và khi
các lực lượng xã hội đã ý thức được sự cần thiết phải có định hướng về tư
tưởng để chỉ đạo cuộc sống.
Lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật:
Biểu hiện qua ba hình thức cơ bản:


Giai đoạn 1: thế giới quan duy vật thời cổ đại có các tính chất: duy
vật trực quan và thể hiện tính phỏng đoán và biện chứng. Thể hiện rõ nét
ở thời cổ đại, con người đã thoát khỏi tình trạng mông muội nhưng mọi
mặt của đời sống xh còn rất thấp, lao động đã từng bước được phân thành
lao động chân tay, trí óc song hoạt động sx vẫn còn là hoạt động cơ bắp,
những người lao động trí óc mới là phôi thai cho khoa học, các nhà duy
vật cho rằng vật chất là một hay một số chất đầu tiên sinh ra vũ trụ. Nhận
thức của các nhà khoa học mang nặng tính trực quan, phỏng đoán. Đồng
nhất thế giới vật chất với vật thể dẫn tới ko hiểu được các hiện tượng tinh
thần. Thế giới quan cổ đại chỉ dừng lại ở việc giải thích chưa có vai trò
cải tạo thế giới
Tuy còn nhiều hạn chế nhưng … đã có những đóng góp lớn lao vào
quá trình phát triển nhận thức, đánh dấu bước chuyển hóa từ giải thích thế

giới dực trên thần linh sang giải thích dựa vào thế giới tư nhiên
Thế giới quan duy vật siêu hình: phát triển mạnh ở Châu Âu vào các
thế kỉ XVI - XVIII. Thời kì này, triết học gắn liền với khoa học tự nhiên,
các nhà triết học đồng thời là những nhà khoa học tự nhiên.
Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa duy vật siêu hình:
a) Xem xét sự vật một cách hoàn toàn cô lập, tách rời với các sự vật
khác;
b) Xem xét sự vật trong trạng thái tĩnh tại không vận động, không
biến đổi, vĩnh viễn cố định;
c) Quá trình phát triển được xem như là sự tăng trưởng đơn thuần về
mặt số lượng chứ không có sự thay đổi về chất lượng;
d) Tìm nguồn gốc của sự vận động và phát triển ở bên ngoài sự vật
(ở Thượng đế, ở cái hích đầu tiên, vv.), chứ không tìm trong sự đấu tranh
giữa các mặt đối lập ở ngay trong lòng sự vật;
e) Có quan điểm cứng nhắc chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối
không thể dung hợp được; nói có là có, không là không, cái gì vượt ra
ngoài phạm vi đó chẳng có giá trị gì hết.
Giai đoạn 2: thế giới quan duy vật thời cận đại: siêu hình. Chủ nghĩa
duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII do ảnh hưởng của cơ học cổ điển
nên chủ nghĩa duy vật thời kỳ này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương
pháp tư duy siêu hình, máy móc - phương pháp nhìn nhận thế giới trong
trạng thái biệt lập, tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực, nhưng
chủ nghĩa duy vật siêu hình vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu
tranh chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo
Giai đoạn 3: thế giới quan duy vật thời hiện đại: Thế giới quan duy
vât biện chứng: do Mác – Anghen xây dựng vào những năm 40 của thế
kỷ XIX, sau đó được Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các
học thuyết triết học trước đó và vận dụng triệt để thành tựu của khoa học
đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc
phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại, chủ



nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII – XVIII và nó đã thể hiện được sự
thống nhất giữa thế giới quan duy vật khoa học và phương pháp nhận
thức khoa học. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh đúng
đắn hiện thực mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp các lực lượng tiến bộ
trong xã hội cải tạo hiện thực đó.
Thế giới quan duy vật biện chứng ko chi là một bức tranh chân thực
về thế giới mà còn đem lại cho con người định hướng phương pháp tư
duy khoa học để con người tiếp tục nhận thức và cải tạo thế giới
Câu 2: Nội dung cơ bản và bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng?
Tại sao nói chủ nghĩa duy vật biện chứng là hạt nhân lý luận của thế giới
quan khoa học?
Gợi ý trả lời
1.

Nội dung: của CNDVBC với tính cách là hạt nhân lý luận của Thế
giới quan khoa học bao gồm 2 nhóm quan niệm. Đó là nhóm quan niệm
duy vật về thế giới nói chung và nhóm duy vật vầ xã hội nói riêng:
a)Quan điểm duy vật về thế giới:

o

Tồn tại của thế giới là tiền đề thống nhất thế giới: Trước khi thế giới có
thể là một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại. Tính thống
nhất thật sự của thế giới là ở tính vật chất của nó, tính vật chất này được
chứng minh bằng một sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và
khoa học tự nhiên.

o


Nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới, có nội dung như sau:



Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô hạn, vô tận.



Trong thế giới vật chất chỉ tồn tại các quá trình vật chất cụ thể, có mức độ
tổ chức nhất định; đang biến đổi chuyển hóa lẫn nhau là nguồn gốc,
nguyên nhân của nhau; cùng chịu sự chi phối bởi các quy luật khách quan
của TGVC.



Ý thức, tư duy con người chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ
chức cao; thế giới thống nhất và duy nhất.

o

Phạm trù vật chất: vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào
cảm giác.


o

Phạm trù ý thức, quan hệ giữa ý thức và vật chất: Ý thức của con người

tồn tại trước hết trong bộ óc con người, sau đó thông qua thực tiễn lao
động nó tồn tại trong các vật phẩm do con người sáng tạo ra. Ý thức gồm
nhiều yếu tố: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí… trong đó tri thức và tình
cảm có vai trò rất quan trọng. Thông qua hoạt động thực tiễn, ý thức con
người xâm nhập vào hiện thực vật chất tạo nên sức mạnh tinh thần tác
động lên thế giới góp phần biến đổi thế giới.
Quan điểm duy vật về xã hội:

o

Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên, nó là kết quả phát triển lâu
dài của tự nhiên, có quy luật vận động, phát triển riêng, sự vận động, phát
triển của xã hội phải thông qua hoạt động thực tiễn.

o

Sản xuất vật chất là cơ sở đời sống xã hội: Nền sản xuất vật chất trong
từng giai đoạn lịch sử gắn liền với một phương tiện sản xuất nhất định, sự
thay đổi PTSX sẽ làm thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội.

o

Sự phát triển của xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, là lịch sử phát triển
các hình thái kinh tế xã hội một cách đa dạng nhưng thống nhất từ thấp
đến cao, mà thực chất là lịch sử phát triển của xã hội.
LLSX   QHSX   PTSX   (CSHT+KTTT)   HTKT
XH 

o


2.
o

Quần chúng nhân dân (QCND) là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử:
QCND là lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, sáng tạo ra mọi
giá trị tinh thần, quyết định thành bại của mọi cuộc cách mạng. Vai trò
chủ thể QCND biểu hiện khác nhau ở những điều kiện lịch sử khác nhau
và ngày càng lớn dần; sức mạnh của họ chỉ được phát huy khi họ được
hướng dẫn, tổ chức, lãnh đạo.
Bản chất của CNDVBC:
CNDVBC đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực
tiễn:
CNDV cũ thiếu quan điểm thực tiễn, máy móc  không thấy được
tính năng động của ý thức; riêng CNDVBC khẳng định vật chất có trước
và quyết định ý thức; trong hoạt động thực tiễn ý thức tác động tích cực
làm biến đổi hiện thực vật chất theo nhu cầu của con người.

o

CNDVBC đã thống nhất TGQDV với phép biện chứng: CNDV cũ mang
nặng tính siêu hình, PBC được nghiên cứu trong hệ thống triết học duy


tâm  Mác cải tạo CNDV cũ, giải thoát PBC ra khỏi tính thần bí, tư
biện  xây dựng nên CNDVBC; thống nhất giữa TGQDV với PBC.
o

CNDVBC là CNDV triệt để; nó không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự
nhiên mà còn trong lĩnh vực xã hội. CNDVLS là cống hiến vĩ đại của
C.Mác cho kho tàng tư tưởng của loài người: CNDV cũ không triệt để;

CNDV lịch sử ra đời là kết quả vận dụng CNDV vào nghiên cứu lĩnh vực
xã hội, tổng kết lịch sử, kế thừa có phê phán toàn bộ tư tưởng xã hội trên
cơ sở khái quát thực tiễn mới của giai cấp vô sản. Với CNDVLS nhân
loại tiến bộ có được một công cụ vĩ đại trong nhận thức, cải tạo thế giới.

o

CNDVBC mang tính thực tiễn - cách mạng, nó hướng dẫn con người
trong hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới:



CNDVBC là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản: Lợi ích giai cấp vô sản
phù hợp lợi ích nhân loại tiến bộ, được luận chứng bằng những cơ sở lý
luận khoa học CNDVBC trở thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản có
sự thống nhất tính khoa học và tính cách mạng.



CNDVBC không chỉ giải thích thế giới mà còn góp phần cải tạo thế giới.



CNDVBC khẳng định sự tất thắng của cái mới: nó xóa bỏ cái cũ lỗi thời,
xây dựng cái mới tiến bộ.



CNDVBC là một hệ thống mở, là kim chỉ nam cho mọi hành động.
Câu 3: Phân tích nội dung, ý nghĩa phương pháp luận của các quy luật cơ

bản của phép biến chứng duy vật và sự vận dụng nó trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn.
Gợi ý trả lời
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và
phương pháp. Hệ thống các quy luật, phạm trù của nó không chỉ phản ánh
đúng đắn thế giới quan mà còn chỉ ra những cách thức định hướng cho
con người trong nhận thức và cải tạo thế giới
Phép biện chứng duy vật bao gồm 2 nguyên lý cơ bản, 3 quy luật
và 6 cặp phạm trù, vừa là lý luận duy vật biện chứng, vừa là lý luận nhận
thức khoa học, vừa là logic của chủ nghĩa Mác.
- Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật :
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: khái quát bức tranh toàn cảnh những


mối liên hệ của thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy). PBCDV khẳng định
rằng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, không có sự vật, hiện tượng nào tồn
tại một cách riêng lẻ, cô lập tuyệt đối, mà trái lại chúng tồn tại trong sự
liên hệ, ràng buộc, phụ thuộc, tác động, chuyển hóa lẫn nhau.
*Ý nghĩa :
+ Phải xem xét toàn diện các mối liên hệ
+ Trong tổng số các mối liên hệ phải rút ra được những mối liên hệ
bản chất, chủ yếu để thấu hiểu bản chất của sự vật.
+ Từ bản chất của sự vật quay lại hiểu rõ toàn bộ sự vật trên cơ sở
liên kết các mối liên hệ bản chất, chủ yếu với tất cả các mối liên hệ khác
của sự vật để đảm bảo tính đồng bộ khi giải quyết mọi vấn đề trong đời
sống. Quan điểm toàn diện đối lập với mọi suy nghĩ và hành động phiến
diện, chiết trung, siêu hình.
Nguyên lý về phát triển: phản ánh đặc trưng biện chứng phổ quát
nhất của thế giới. Phát triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.

PBCDV khẳng định rằng mọi lĩnh vực trong thế giới (vô cơ và hữu cơ; tự
nhiên, xã hội và tư duy) đều nằm trong quá trình phát triển không ngừng
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn
thiện.
Mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động, biến đổi không ngừng và về
phương diện bản chất của mọi sự vận động, biến đổi của thế giới có xu
hướng phát triển.
Phát triển được coi là khuynh hướng chung, là khuynh hướng chủ
đạo của thế giới.
* Ý nghĩa :
Yêu cầu của nguyên tắc này đòi hỏi phải xem xét sự vật trong sự
vận động, biến đổi và phát triển của nó, phải tư duy năng động, linh hoạt,
mềm dẻo, phải nhận thức được cái mới và ủng hộ cái mới. Phát triển
không loại trừ sự thụt lùi, tức sự thoái hóa, sự diệt vong của cái cũ, cái lạc
hậu, cái lỗi thời. Thậm chí cái mới cũng phải trải qua những thất bại tạm
thời. Tuy nhiên, thụt lùi là khuynh hướng không chủ đạo, chẳng những
không ngăn cản sự phát triển, mà trái lại là tiền đề, là điều kiện cho sự
phát
triển
- Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật:


Quy luật là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ
biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mối sự
vật hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Trong thế giới tồn tại nhiều laọi quy luật; chúng khác nhau về mức
độ phổ biến, về phạm vi bao quát, về tính chất, về vai trò của chúng đối
với quá trình vận động và phát triển của sự vật trong giới tự nhiên, xã hội
và tư duy.
Việc phân loại quy luật là cần thiết để nhận thức và vận dụng có

hiệu quả các quy luật vào hoạt động thực tiễn của con người.
Căn cứ vào mức độ của tính phổ biến thì các quy luật được chia
thành:
Quy luật riêng: là những quy luật chỉ tác động trong phạm vi nhất
định của các sự vật, hiện tượng cùng loại. Ví dụ như quy luật vận động
sinh học, quy luật vận động hóa học, quy luật vận động cơ học...
Quy luật chung: là những quy luật tác động trong phạm vi rộng
hơn, trong nhiều loại sự vật, hiện tượng khác nhau. Ví dụ như quy luật
bảo toàn khối lượng, bảo toàn năng lượng...
Quy luật phổ biến: là những quy luật tác động trong tất cả các lĩnh
vực trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Đây là quy luật của phép biện chứng
duy vật.
Căn cứ vào lĩnh vực tác động, các quy luật được chia thành:
Quy luật tự nhiên: là quy luật nảy sinh và tác động trong giới tự
nhiên, kể cả cơ thể con người.
Quy luật xã hội: là quy luật hoạt động của chính con người trong
các quan hệ xã hội.
Quy luật của tư duy: là những quy luật thuộc mối liên hệ nội tại
của những khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy luận và của quá trình phát
triển nhận thức lý tính ở con người.
3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương
pháp luận chỉ đạo mọi hoạt động của con người để thực hiện quan
điểm toàn diện, quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử - cụ thể
về phương diện vạch ra nguồn gốc, động lực, cách thức và xu


hướng phát triển tiến lên của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Đó là 3 quy luật:
1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những
sự thay đổi về chất và ngược lại

Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại là quy luật cơ bản, phổ biến thể hiện hình
thức và cách thức của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên,
xã hội và tư duy.
a. Khái niệm chất, lượng
- Khái niệm “chất” dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có
của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành
nó, phân biệt nó với cái khác.
Chất của sự vật là các thuộc tính khách quan vốn có của sự vật
nhưng không đồng nhất với khái niệm thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tượng
đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc tính
cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Khi các thuộc tính cơ
bản thay đổi thì chất của sự vật thay đổi.
Chất của sự vật, hiện tượng không những được xác định bởi chất
của các yếu tố cấu thành mà còn bởi cấu trúc và phương thức liên kết
giữa chúng, thông qua các mối liên hệ cụ thể do đó việc phân biệt thuộc
tính cơ bản và không cơ bản, chất và thuộc tính chỉ có ý nghĩa tương đối.
Mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất, mà có nhiều chất,
tùy thuộc vào các mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác. Chất
không tồn tại thuần túy tách rời sự vật, biểu hiện tính ổn định tương đối
của nó.
- Khái niệm “lượng” dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có
của sự vật về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô
của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của
sự vật.
Một sự vật có thể tồn tại nhiều loại lượng khác nhau, được xác
định bằng các phương thức khác nhau phù hợp với từng loại lượng cụ thể
của sự vật.
Chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật,
hiện tượng. Hai phương diện đó tồn tại một cách khách quan, tuy nhiên



sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối: có cái trong
mối quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là
lượng.
Quy luật này phản ánh cách thức, cơ chế của quá trình phát triển, là
cơ sở phương pháp luận chung để nhận thức và thúc đẩy quá trình phát
triển của sự vật với 3 yêu cầu cơ bản là:
> Thường xuyên và tăng cường tích luỹ về lượng để tạo điều kiện
cho sự thay đổi về chất. Chống chủ nghĩa duy ý chí muốn đốt cháy giai
đoạn.
> Khi lượng được tích luỹ đến giới hạn độ, phải mạnh dạn thực
hiện bước nhảy vọt cách mạng, chống thái độ bảo thủ, trì trệ.
> Vận dụng linh hoạt các hình thức nhảy vọt để đẩy nhanh quá
trình phát triển.
b. Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
- Tính thống nhất giữa chất và lượng trong một sự vật
Sự vật, hiện tượng nào cũng là thể thống nhất giữa hai mặt chất và
lượng.
Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách
biện chứng.
Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn tới sự thay đổi về chất nhưng
không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đến sự thay đổi về
chất. Ở một giới hạn nhất định sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay
đổi về chất.
Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được gọi
là độ.
Khái niệm độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất
và lượng, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm
thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Trong giới hạn của độ, sự

vật, hiện tượng vẫn còn là nó mà chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện
tượng khác.
- Quá trình chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những
sựthay đổi về chất.


Sự vận động, biến đổicủa sự vật, hiện tượng bắt đầu từ sự thay đổi
về lượng. Lượng biến đổi trong phạm vi “độ” chưa làm chất thay đổi
nhưng khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn tới sự
thay đổi về chất.
Giới hạn đó chính là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới
điểm nút, với những điều kiện xác định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của
chất mới. Sự thay đổi về chất gọi là bước nhảy. Bước nhảy là sự chuyển
hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng; là sự kết thúc
một giai đoạn vận động, phát triển đồng thời là điểm khởi đầu cho một
giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên
tục của sự vật.
- Quá trình chuyển hóa từ những sự thay đổi về chất thành những
sự thay đổi về lượng: Khi chất mới ra đời, sẽ tác động trở lại lượng mới.
Chất mới tác động tới lượng mới làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ,
nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật.
Như vậy, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện
chứng giữa hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi về lượng tới điểm nút sẽ
dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác
động trởlại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo
thành phương thức phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng
tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau

do đó trong thức tiễn và nhận thức phải coi trọng cả hai phương diện chất
và lượng. - Những sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất
trong điều kiện nhất định và ngược lại do đó cần coi trọng quá trình tích
lũy về lượng để làm thay đổi chất của sự vật đồng thời phát huy tác động
của chất mới để thúc đẩy sự thay đổi về lượng của sự vật. - Sự thay đổi về
lượng chỉ làm thay đổi chất khi lượng được tích lũy đến giới hạn điểm nút
do đó trong thực tiễn cần khắc phục bệnh nôn nóng tả khuynh, bảo thủ trì
trệ. - Bước nhảy của sự vật, hiện tượng là hết sức đa dạng, phong phú do
vậy cần vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với
điều kiện cụ thể. Đặc biệt trong đời sống xã hội, quá trình phát triển
không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào
nhân tố chủ quan của con người. Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực
chủ động của các chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến
chất một cách hiệu quả nhất.


2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật ở
vị trí “hạt nhân” của phép biện chứng duy vật; quy luật này vạch ra nguồn
gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển.
a. Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn
Khái niệm mâu thuẫn
Quan điểm siêu hình: coi mâu thuẫn là cái đối lập phản lôgic,
không có sự thống nhất, không có sự chuyển hóa biện chứng giữa các mặt
đối lập.
Ngược lại, phép biện chứng quan niệm, mâu thuẫn để chỉ mối liên
hệthống nhất và đấu tranh, chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự
vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập.
Mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính,

những khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng là điều kiện, tiền
đề tồn tại của nhau. Ví dụ: điện tích âm và điện tích dương trong một
nguyên tử, đồng hóa và dị hóa của một cơ thể sống, sản xuất và tiêu dùng
trong hoạt động kinh tế...
Tính chất chung của mâu thuẫn
Tính khách quan và phổ biến: bất kỳ sự vật, hiện tượng nào trong
tự nhiên, xã hội và tư duy cũng tồn tại, vận động trên cơ sở các mâu thuẫn
nội tại của các mặt đối lập của nó hoặc giữa nó với các sự vật, hiện tượng
khác.
Tính đa dạng, phong phú của mâu thuẫn: mỗi sự vật, hiện tượng,
quá trình đều có thể bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện
khác nhau trong những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau; giữ vị trí vai
trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật. Đó là
mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài, cơ bản và không cơ bản, chủ
yếu và thứ yếu, đối kháng và không đối kháng...Trong các lĩnh vực khác
nhau cũng tồn tại những mâu thuẫn với những tính chất khác nhau tạo
nên tính phong phú trong sự biểu hiện của mâu thuẫn.
Quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng, Nó vạch ra nguồn
gốc, động lực của sự phát triển, phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết


mâu thuẫn bên trong sự vật. Từ đó, phải vận dụng nguyên tắc mâu thuẫn
mà yêu cầu cơ bản của nó là phải nhận thức đúng đắn mâu thuẫn của sự
vật, trước hết là mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu, phải phân tích
mâu thuẫn và quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn. Đấu tranh là
phương thức giải quyết mâu thuẫn. Tuy nhiên, hình thức đấu tranh rất đa
dạng. linh hoạt, tuỳ thuộc mâu thuẫn cụ thể và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
b. Quá trình vận động của mâu thuẫn
Sự thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập Khái
niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc,

không tách rời nhau, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy
mặt kia làm tiền đề tồn tại. Xét về phương diện nào đó giữa các mặt đối
lập bao giờ cũng có một số yếu tố giống nhau. Sự thống nhất của các mặt
đối lập bao hàm sự đồng nhất của nó.
Khái niệm sự đấu tranh giữa các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh
hướng tác động qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập. Hình
thức đấu tranh của các mặt đối lập rất phong phú tùy thuộc vào tính chất,
mối quan hệ và điều kiện cụ thể của sự vật, hiện tượng.
Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn
đến sự chuyển hóa giữa chúng. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập diễn ra
hết sức phong phú, đa dạng tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập
cũng như tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể.
Trong sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, sự đấu
tranh giữa chúng là tuyệt đối, sự thống nhất giữa chúng là tương đối, có
điều kiện, tạm thời; trong sự thống nhất đã có sự đấu tranh, đấu tranh
trong tính thống nhất của chúng.
Vai trò của mâu thuẫn đối với quá trình vận động và phát triển của
sự vật: Sự liên hệ, tác động và chuyển hóa giữa các mặt đối lập là nguồn
gốc, động lực của sự vận động và phát triển trong thế giới. “Sự phát triển
là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc,
động lực của sự vận động, phát triển do vậy trong nhận thức và thực tiễn
cần phải tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các
mặt đối lập, nắm được nguồn gốc, bản chất, khuynh hướng của sự vận
động phát triển.


Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú do đó trong việc nhận
thức và giải quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể tức là

biết phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn và phương pháp giải quyết phù
hợp. Trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phân biệt
đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện
nhất định; những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải
quyết từng loại mâu thuẫn một cách đúng đắn nhất
3. Quy luật phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định, thể hiện khuynh hướng cơ bản
phổ biến của mọi vận động, phát triển diễn ra trong các lĩnh vực tự nhiên,
xã hội và tư duy; đó là khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật
thông qua những lần phủ định biện chứng, tạo thành hình thức mạng tính
chu kỳ “phủ định của phủ định”.
a. Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng
Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng:
Phủ định là khái niệm chỉ sự mất đi của sự vật này, sự ra đời của sự
vật khác.
Phủ định biện chứng là sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho
quá trình phát triển của sự vật.
Với tư cách không chỉ là học thuyết về sự biến đổi nói chung mà
căn bản là học thuyết về sự phát triển, phép biện chứng duy vật chú trọng
phân tích không phải sự phủ định nói chung mà căn bản là sự phủ định
biện chứng.
Hai đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng là tính khách quan
và tính kế thừa.
Tính khách quan: Phủ định biện chứng có tính khách quan vì
nguyên nhân của sự phủ định nằm trong chính bản thân sự vật, hiện
tượng; là kết quả tất yếu của của quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn
bên trong bản thân sự vật. Phủ định biện chứng là sự phủ định tự thân.
Tính kế thừa: Phủ định biện chứng có tính kế thừa những nhân tố
hợp quy luật và loại bỏ các nhân tố phản quy luật. Phủ định biện chứng
không phải là phủ định sạch trơn cái cũ mà trái lại cái mới ra đời trên cơ

sở nhứng hạt nhân hợp lý của cái cũ để phát triển thành cái mới, tạo nên
tính liên tục của sự phát triển.


b. Phủ định của phủ định
Phủ định biện chứng có vai trò to lớn đối với các quá trình vận
động, phát triển:
Phủ định biện chứng là dây chuyền vô tận. Trong quá trình vận
động, phát triển, không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại vĩnh viễn. Sự vật
ra đời, trải qua những giai đoạn nhất định rồi trở thành lỗi thời và bị thay
thế bởi sự vật mới tiến bộ hơn. Sự vật mới này đến lượt nó cũng sẽ trở
thành lỗi thời và bị thay thế bởi sự vật mới khác. Sự phát triển là quá
trình vô tận không có sự phủ định cuối cùng.
Qua mỗi lần phủ định, sự vật loại bỏ được những yếu tố lạc hậu, lỗi
thời, tích lũy những yếu tố mới, tiến bộ hơn. Do đó, sự phát triển thông
qua phủ định biện chứng là quá trình đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Hình thức “phủ định của phủ định” của các quá trình vận động,
phát triển:
Tính chất chu kỳ của các quá trình phát triẻn thường diễn ra theo
hình thức “xoáy ốc”, đó cũng là tính chất phủ định của phủ định. Theo
tính chất này, mỗi chu kỳ phát triển của sự vật thường trải qua hai lần phủ
định cơ bản với ba hình thái tồn tại chủ yếu của nó, trong đó hình thái
cuối mỗi chu kỳ lặp lại những đặc trưng cơ bản của hình thái ban đầu
nhưng trên cơ sở cao hơn vềtrình độ phát triển nhờ kế thừa được những
nhân tố tích cực và loại bỏ được những nhân tố tiêu cực qua hai lần phủ
định.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất chung, phổ biến
của sự phát triển: đó không phải là sự phát triển theo đường thẳng mà
theo hình thức “xoáy ốc”, thể hiện tính chất biện chứng của sự phát triển,

đó là tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên.
Tóm lại, nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định trong
phép biện chứng duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái phủ
định và cái khẳng định trong quá trình phát triển của sự vật. Phủ định
biện chứng là điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự
kế thừa những nội dung tích cực từ trong sự vật cũ, phát huy nó trong sự
vật mới và tạo nên tính chu kỳ của sự phát triển. Nhận xét về vai trò của
quy luật này,Ph.Ăngghen khẳng định: “Phủ định cái phủ định là gì? Là
một quy luật vô cùng phổ biến và chính vì vậy mà có một tầm quan trọng
và có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, của lịch sử và
tư duy


c. Ý nghĩa phương pháp luận
Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để nhận thức một cách
đúng đắn về xu hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Quá
trình đó diễn ra không phải theo đường thẳng mà là con đường quanh co,
phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, nhiều quá trình khác nhau. Tuy nhiên,
tính đa dạng và phức tạp của quá trình phát triển chỉ là sự biểu hiện của
khuynh hướng chung, khuynh hướng tiến lên theo quy luật. Do đó, cần
phải nắm được bản chất, đặc điểm, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng
để xác định phương thức, biện pháp tác động thích hợp thúc đẩy sự phát
triển.
Trong thế giới khách quan, cái cũ tất yếu sẽ bị thay thế bởi cái mới,
đó là sự vận động có tính quy luật nhưng cũng cần phát huy vai trò của
nhân tốchủ quan để thúc đẩy sự thay thế đó, khắc phục tư tưởng trông
chờ, ỷ lại, bảo thủ, kìm hãm sự ra đời của cái mới.
Cần phải có quan điểm biện chứng trong quá trình kế thừa sự phát
triển. Quan điểm đó đòi hỏi không được phủ định hoàn toàn cái cũ tức
phủ định sạch trơn nhưng cũng không được kế thừa toàn bộ cái cũ mà

phải kế thừa các yếu tố hợp lý của cái cũ cho sự phát triển của cái mới,
tức là kế thừa một cách khoa học.
-

Các cặp phạm trù không cơ bản
Bên cạnh 3 quy luật cơ bản, nội dung của phép biện
chứng duy vật còn bao gồm các cặp phạm trù không cơ
bản:
+ cặp phạm trù cái riêng - cái chung

-

+ tất nhiên - ngẫu nhiên

-

+ nguyên nhân - kết quả

-

+ bản chất - hiện tượng

-

+ khả năng - hiện thực

-

+ nội dung - hình thức.


-

Tóm lại, mỗi nguyên lý, phạm trù, quy luật của phép biện
chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng.
Vì vậy, chúng phải được vận dụng tổng hợp trong nhận
thức khoa học thực tiễn cách mạng.


2.

Sự vận dụng các quy luật cơ bản trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển
của PBCDV là cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc
lịch
sử-cụ
thể

nguyên
tắc
phát
triển.
- Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta phải xem xét sự vật, hiện
tượng với tất cả các mặt, các mối liên hệ; đồng thời phải đánh giá
đúng vai trò, vị trí của từng mặt, từng mối liên hệ; nắm được mối
liên
hệ
chủ
yếu

có
vai
trò
quyết
định.
Sự vận dụng quan điểm toàn diện trong sự nghiệp cách mạng:
- Trong Cách mạng dân tộc dân chủ: Đảng ta vận dụng quan điểm
toàn diện trong phân tích mâu thuẫn xã hội, đánh giá so sánh lực
lượng giữa ta với địch, tạo ra và sử dụng sức mạnh tổng hợp.
- Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta tiến hành đổi mới toàn diện,
triệt để; đồng thời phải xác định khâu then chốt. Nắm vững mối
quan hệ giữa đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị và đổi mới tư duy.
Đối lập với nguyên tắc toàn diện của PBC, quan điểm siêu hình
xem xét sự vật, hiện tượng một cách phiến diện. Nó không xem xét
tất cả các mặt, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng; hoặc xem
mặt này tách rời mặt kia, sự vật này tách rời sự vật khác.
Chủ nghĩa chiết trung thì kết hợp các mặt một cách vô nguyên tắc,
kết hợp những mặt vốn không có mối liên hệ với nhau hoặc không
thể dung hợp được với nhau. Thuật nguỵ biện thì cường điệu một
mặt, một mối liên hệ; hoặc lấy mặt thứ yếu làm mặt chủ yếu.
- Nguyên tắc lịch sử-cụ thể trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc lịch sử-cụ thể đòi hỏi phải xem xét sự vật hiện tượng
trong quá trình vận động phát triển: nó ra đời trong điều kiện như
thế nào? trải qua những giai đoạn phát triển như thế nào? mỗi giai
đoạn có tính tất yếu và đặc điểm như thế nào?
Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi khi xem xét sự vật, hiện tượng phải
nhìn thấy khuynh hướng biến đổi trong tương lai của chúng: cái cũ,
cái lạc hậu sẽ mất đi; cái mới, cái tiến bộ sẻ ra đời thay thế cái cũ,
cái lạc hậu.


Câu 4: Khái niệm phương pháp và phương pháp luận. Trình bày nội
dung những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng
duy vật đối với quá trình nhận thức khoa học ?


Gợi ý trả lời
Phương pháp là:hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ tri thức
về các quy luật khách quan, để điều chỉnh hđ nhận thức và thực tiễn
nhằm thực hiện mục tiêu nhất định.
Phương pháp luận là; hệ thống những quan điểm những nguyên tắc
xuât phát, những cách thức chung nhằm lựa chọn được những phương
pháp thích hợp để thực hiện hoạt đông nhận thức và thực tiễn đạt kết quả
cao
Sự khác biêt:
Phương pháp là những nguyên tắc dc rút ra từ những quy luật của
một đối tượng cụ thế
Phương pháp luận là quan điểm quan niệm chung nhất của nhiều đối
tương cụ thế
Một số nguyên tắc:
Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
- Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng
của phép biện chứng duy vật. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi, muốn
nhận thức được bản chất của sự vật hiện tượng chúng ta phải xem xét sự
tồn tại củ nó trong mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố, bộ phận, thuộc tính
khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên
hệ qua lại giữa sự vật hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác, tránh
xem xét phiến diện một chiều.

- Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi để nhận thức được sự vật, hiện tượng
chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con
người. Mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng với nhu cầu của con người rất
đa dạng.
- Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét, đánh giá từng mặt, từng
mối liên hệ, và phải nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy
định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Trong nhận thức,
nguyên tắc toàn diện là yêu cầu tất yếu của phương pháp tiếp cận khoa
học, cho phép tính đến mọi khả năng của vận động, phát triển có thể có
của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu, nghĩa là cần xem xét sự vật, hiện


tượng trong một chỉnh thể thống nhất với tất cả các mặt, các yếu tố, các
bộ phận, các thuộc tính, cùng các mối quan hệ của chúng.
- Nguyên tắc toàn diện đối lập với cách nhìn phiến diện, một chiều; đối
lập với chủ nghĩa chiết trung và thuật ngữ nguỵ biện.
Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và nhận thức
- Nguyên tắc phát triển cũng là một trong những nguyên tắc phương
pháp luận cơ bản, quan trọng của hoạt động nhận thức thực tiễn. Cơ sở lý
luận của nguyên tắc phát triển là nguyên lý về sự phát triển của phép biện
chựng duy vật. Theo đó, sự phát triển là vận động tiến lên từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Phát triển là trường hợp đặc biệt của sự đặc biệt của sự vận động và trong
sự phát triển sẽ nảy sinh những tính quy định quy định mới, cao hơn về
chất, nhờ đó, làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động
của sự việc, hiện tượng cùng chức năng của nó ngày càng hoàn thiện hơn.
Do vậy, để nhận thức được sự tự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng chúng ta phải thấy được sự thống nhất giữa sự biến đổi về lượng
với sự biến đổi về chất trong quá trình phát triển, phải chỉ ra được nguồn
gốc và động lực bên trong, nghĩa là tìm ra và biết cách giải quyết mâu

thuẫn, phải xác định xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng do sự phủ
định biện chứng quy định; coi phủ định là tiền đề cho sự ra đời của sự vật
hiện tượng mới.
- Nguyên tắc phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển là quá
trình trải qua nhiều giai đoạn từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp,
từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có
những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau.
- Nguyên tắc phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng phải
đặt nó trong trạng thái vận động, biến đổi chuyển hoá để không chỉ nhận
thức sự vật, hiện tượng trong trạng thái hiện tại mà còn thấy được khuynh
hướng phát triển của nó trong tương lai, nghĩa là phải phân tích để làm rõ
những biến đổi của sự vật, hiện tượng.
- Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn phải nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng
hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển thay thế
cái cũ, phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ …Sự thay thế cái cũ bằng
cái mới diễn ra rất phức tạp bởi cái mới phải đấu tranh chống lại cái cũ,
chiến thắng cái cũ.
- Vận dụng nguyên tắc phát triển vào việc nhận thức về con đường tiến


lên chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ở nước ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể:đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật
và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể,
môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra tồn tại và phát triển. Một luận
điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này nhưng sẽ không
phải là luận điểm khoa học trong điều kiện khác. Chẳng hạn, thường
thường trong các định luật của hoá học bao giờ cũng có hai điều kiện:
nhiệt độ và áp suất xác định. Nếu vượt khỏi những điều kiện đó định luật
sẽ không còn đúng nữa. Trong lịch sử triết học khi xem xét các hệ thống

triết học bao giờ chúng ta cũng xem xét hoàn cảnh ra đời và phát triển của
các hệ thống đó.
- TK: Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan
điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển góp phần
định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo
hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Song để thực hiện được chúng,
mỗi chúng ta cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng - nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một
cách sáng tạo trong hoạt động của mình. Đối với sinh viên, ngay từ khi
còn ngồi trên ghế nhà trường, vẫn có thể sử dụng các nguyên tắc phương
pháp luận đó vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình góp phần
xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, xã hội ta ngày càng tươi đẹp.
Câu 5: Khái niệm thực tiễn và lý luận? Những yêu cầu cơ bản và ý nghĩa
phương pháp luận của nguyên tắc thông nhất giữa lý luận và thực tiễn?
Sự vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thưc tiễn trong cách
mạng Việt Nam.
Gợi ý trả lời
Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích, có tính lịch sử
- xã hội của con người trực tiếp cải tạo tự nhiên và xã hội.
Thực tiễn là hoạt động vật chất. Tất cả những hoạt động bên ngoài
hoạt động tinh thần của con người đều là hoạt động thực tiễn.
- Là hoạt động có mục đích. Khác hoạt động bản năng của động
vật.
- Có tính lịch sử - xã hội: Là hoạt động của con người trong xã hội
và trong những giai đoạn lịch sử nhất định.


- Hoạt động thực tiễn rất đa dạng, cơ bản có 3 hình thức:
+ Hoạt động sản xuất vật chất
+ Hoạt động chính trị - xã hội.

+ Hoạt động thực nghiệm khoa học
- Trong 3 hoạt động trên, hoạt động sản xuất vật chất có vai trò
quan trọng nhất, là cơ sở cho các hoạt động khác của con người và cho sự
tồn tại và phát triển của xã hội loài người
Lí luận là sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, là sự tổng hợp
những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ trong quá trình lịch sử (theo
Hồ Chí Minh)
Xét về bản chất: Lý luận là hệ thống tri thức chặt chẽ mang tính
trừu tượng, khái quát, đúc kết từ thực tiễn, được diễn đạt thông qua các
khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật…phản ánh bản chất của sự vận
động, biến đổi, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới quan.
Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, được hình
thành trong mối quan hệ với thực tiễn
Mối quan hệ biện chứng giữa lí luận và thực tiễn (Nội dung
nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn)
Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận
Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lý luận
đồng thời là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức, lý luận. Thực tiễn là nguồn
gốc cơ sở sinh ra lý luận, nếu không có thực tiễn thì không có lý luận,
thực tiễn cao hơn lý luận không những ở tính phổ biến mà còn ở tính hiện
thực trực tiếp.
Sự phản ánh vượt trước của lý luận qua nỗ lực sáng tạo của những
thiên tài ở những giai đoạn lịch sử nhất định xét cho đến cùng thì cái làm
nên sự vượt trước ấy cũng được nảy mầm từ mảnh đất thực tiễn sinh
động, đều do thực tiễn gợi ý mach bảo
Chỉ có thông qua thực tiễn con người mới vật chất hóa được lý
luận vào đời sống hiện thực. Lý luận không có sức mạnh tự thân mà chỉ
có thông qua thực tiễn thì lý luận mới phát huy tác dụng, mới tham gia
vào quá trình biến đổi hiện thực



Đánh giá vai trò của thực tiễn với lý luận, Lenin viết: “Thực tiễn
cao hơn nhận thức, lý luận. Vì nó có ưu điểm không những của tính phổ
biến mà còn của tình hiện thực trực tiếp”
Vai trò tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn
Sự tác động của lý luận thể hiện qua vai trò xác định mục tiêu,
khuynh hướng cho hoạt động thực tiễn (lý luận là kim chỉ nam cho hoạt
động thực tiễn), vai trò điều chỉnh hoạt động thực tiễn, làm cho hoạt động
thực tiễn có hiệu quả hơn. Lý luận cách mạng có vai trò to lớn trong thực
tiễn cách mạng. Lênin viết “không có lý luận cách mạng thì không thể có
phong trào cách mạng”. Như vậy, giữa lý luận và thực tiễn có sự liên hệ,
tác động qua lại, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển và gắn bó hữu cơ
với nhau do đó sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên lý cao
nhất của triết học Mác Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ “Thực
tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng”, “Lý luận
mà không có thực tiễn là lý luận suông”
Lý luận có thể thúc đẩy tiến trình phát triển của thực tiễn nếu đó là
lý luận khoa học và ngược lại có thể kìm hãm sự phát triển của thực tiễn
nếu đó là lí luận phản khoa học, phản động, lạc hậu
Lý luận khoa học sẽ trở thành kim chỉ nam cho hoạt động thực
tiễn. Nó hướng dẫn, chỉ đạo, soi sáng cho thưc tiễn, vạch ra phương pháp
giúp hoạt động thực tiễn đi tới thành công. Hồ CHí Minh đã nói rănng
“Không có lí luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Lí luận mang lại
cho thực tiễn nhưng tri thức đúng đắn về quy luật vận động và phát triển
của thế giới quan, giúp con người xác định đúng mục tiêu để hành động
có hiệu quả hơn, tránh được những sai lầm, vấp váp.
Ý nghĩa phương pháp luận
Việc quán triệt nguyên tắc giữa lí luận và thực tiễn có ý nghĩa quan trọng,
giúp chúng ta tránh được bệnh kinh nghiệm cũng như bệnh giáo điều và
rút ra được những quan điểm đúng đắn trong cuộc sống.

Trước hết cần quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu
việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, tổ
chức hoạt động thực tiễn để triển khai lý luận, phải coi trọng công tác
tổng kết thực tiễn để bổ sung phát triển lý luận. nghiên cứu lý luận phải
liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành, tránh tình trạng quan liêu, sách
vở, xa rời thực tiễn.
Đồng thời phát huy vai trò của lý luận đôi với thực tiễn. yêu cầu nâng cao
trình độ tư duy lý luận, đổi mới phương pháp tư duy do toàn Đảng, toàn
dân nghĩa là chuyển từ tư duy kinh nghiệm sang tư duy lý luận, tư duy
siêu hình, duy tâm sang tư duy biện chứng duy vật; đổi mới công tác lý


luận, hướng công tác lý luận vào vấn đề do cuộc sống đặt ra, làm rõ căn
cứ khách quan của đường lối chính sách của Đảng.
Nếu coi lý luận và thực tiễn tách rời sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh kinh
nghiệm và bệnh giáo điều.
- Bệnh kinh nghiệm: tuyệt đối hóa kinh nghiệm, nhận thức và hành
động chỉ dựa vào kinh nghiệm, đề cao vai trò thực tiễn, hạ thấp lý
luận, không chịu học hỏi để vươn lên, không coi trọng việc tổng
kết thực tiễn để khái quát thành lý luận. Thể hiện ở chỗ tuyệt đối
hóa kinh nghiệm, coi thường lý luận “chỉ biết tối ngày vùi đầu vào
công tác sự vụ”, ít đào sâu suy nghĩ, nhất là đối với những người
trình độ văn hóa kém, ít quen đọc sách và suy nghĩ, áp dụng kinh
nghiệm 1 cách thiếu sáng tạo.
- Bênh giáo điều: tuyệt đối hóa lý luận, nhận thức và hành động chỉ
dựa vào lý luận, coi lý luận là chìa khóa vạn năng cho tư duy và
hành động, bất chấp điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Coi trí thức là
chân lí tuyệt đối, là cứng nhắc, tách lý luận khỏi thực tiễn, rơi vào
bệnh lý luận suông, không cụ thể hóa lý luận cách mạng cho thích
hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng lúc, từng nơi, không bổ

sưng lý luận mới rút ra từ thực tiễn sinh động và vận dụng 1 cách
máy móc, rập khuôn, thiếu sáng tạo.
Để khắc phục 2 căn bệnh trên cần phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát
thực tiễn, thường xuyên tổng kết thực tiễn bổ sung, phát triển lý luận,
coi trọng lý luân, nâng cao trình độ tư duy lí luận.
Sự vân dụng của Đảng ta
Trước đổi mới:
Những sai lầm trong chính sách Đảng thời kỳ trước đổi mới xuất phát
từ căn bệnh giáo điều, sự lạc hậu, yếu kém về lý luận cách mạng xã
hội, làm cho chúng ta tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mac lenin đơn giản,
phiến diện, cắt xén sơ lược, không đến nơi đến chốn, CNXH được
hiểu đơn giản, ấu trĩ. Trong thời kỳ này, có lúc ta bắt chước rập khuôn
mô hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ
máy nhà nước. Áp dụng theo học thuyết của Mac về kinh tế là xóa bỏ
tư hữu, khi áp dụng vào nước ta, Đảng có biểu hiện nóng vội trong
việc tiến hành cải tạo XHCN nhằm xóa bỏ tất cả các thành phần kinh
tế mà không tháy đc vai trò quan trọng của tp kinh tế trong thời kỳ đi
lên CNXH ở nước ta. Đảng cũng vấp phải những sai lầm trong việc đề
ra chủ trương, đường lói chính sách phát triển của đất nước: Chủ
trương tập trung cho công nghiệp hóa đát nước mà chủ lực là phát
triển công nghiệp nặng không chú ý đến điều kiện vật chất và lực
lượng sản xuất của ta còn chưa tương xứng, xuất phát điểm thấp từ
nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nông nghiệp là chính, trình độ lực lượng
sản xuất không cao, sản xuất thủ công là chủ yếu. việc bố trí cơ cấu
kinh tế trước hết là sản xuất và đầu tư, chúng ta thường chỉ xuất phát


từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính đến điều kiện, khả năng thực
tế.
Thời kỳ đổi mới

Trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa
MacLenin, tổng kết kinh nghiệm thành công và chưa thành công trong
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và các nước khác, đặc
biệt là kinh nghiệm của những năm đổi mới, Đảng nêu ra những
phương hướng căn bản xây dựng CNXH ở nước ta gồm:
Một là: Xây dựng nhà nước xã hooijc chủ nghĩa, nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng cộng sản
lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nguyên
kỉ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phậm lợi ích
Tổ quốc của nhân dân.
Hai là: phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo
hướng hiện đại gắn liền với phát triển nền nông nghiệp toàn diện là
nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuat
của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất ld xã hội và cải
tiến đời sống nhân dân.
Ba là: Phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất, thiếp lập từng
bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng
về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
định hướng xẫ hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Bốn là: Tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn
hóa làm cho thế giới quan MacLennin và tư tưởng đạo đức HCM giữ
vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước,
tiếp thu những tinh hóa văn hóa nhân loại, xậy dựng xã hội dân chủ,
văn minh, vì lợi ích chân chính, phẩm giá con người với trình độ tri
thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao.
Năm là: Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở

rộng mặt trận đại đoàn kết dân tộc, thống nhất, tập hợp mọi lực lượng
phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối
ngoại hòa bình, hợp tác hữu nghị với tất cả các nước, trung thành với
chủ nghĩa đế quốc của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã
hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đầu tranh vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Sáu là: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc là hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng việt nam. Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây
dựng đất nước, nhân dân ta luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc


phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc
và các thành quả cách mạng.
Bảy là: Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách
nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hiện nay công cuộc đổi mới ở nước ta ngày càng đi vào chiều sâu,
những biến đổi trên thế giới nhanh chóng, phức tạp, khó lường thì
những vấn đề mới đặt ra ngày càng nhiều, những vấn đề liên quan đến
nhận thức CNXH và con đường xây dựng CNXH. Không ít vấn đề
nhận thức lí luận còn chưa đủ rõ, không ít vấn đề thực tiễn, nhất là vấn
đề bức xúc nảy sinh từ cuộc sống còn chưa được giải quyết kịp thời và
tốt nhất.
Câu 6: Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất? Sự vận dụng mối quan hệ này trong quá trình đổi mới ở Việt Nam?
Gợi ý trả lời
1.Khái niệm: Phương thức sản xuất là cách thức con người thực
hiện quá trình sản xuất vật chất ở một quá trình lịch sử nhất định. Phương
thức sản xuất bao gồm 2 mặt là LLSX và QHSX.
a. Lực lượng sản xuất: Là mối quan hệ giữa con người với giới tự

nhiên hay quá trình thực hiện sản xuất là phương thức kết hợp giữa người
lao động với tư liệu sản xuất tạo ra 1 sức sản xuất nhất định trong sản
xuất vật chất.
- Người lao động: Phải có sức khỏe, kinh nghiệm, kỹ năng và trình
độ tri thực khoa học.
- TLSX: bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động.
+ Đối tượng lao động: Công cụ lao động, phương tiễn sản xuất.
+ Trong tư liệu sản xuất thì công cụ lao động là yếu tố động nhất,
cách mạng nhất thường xuyên nhất vì trình độ sản xuất phát triển của thời
đại đều do trình độ của tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động
quyết định. Khi công cụ lao động thay đổi hoàn thiền và phát triển thì
kinh nghiệm kỹ năng lao động của người lao động thay đổi, phát triển và
hoàn thiện hơn.
↔ Công cụ lao động phản ánh trình độ phát triển của LLSX là yếu
tố cơ bản nhân sức mạnh của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên
nó là thước đo trình độ phát triển chinh phục tự nhiên của con người là
thước đo phân biệt các thời đại kinh tế kỹ thuật khác nhau trong lịch sử.
+ Trong các yếu tố cấu thành của LLSX thì người lao động là quan
trọng nhất, là chủ thể của nền sản xuất vật chất là nhân tố cơ bản giữ vị trí
hàng đầu và có tính quyết định vì chính người lao động đã chế tạo ra
công cụ lao động, cải tiến hoàn thiện và sử dụng nó để tiến hành ra của
cải vật chất cần thiết phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của con người.


×