Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tiểu luận Thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.59 KB, 27 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI:

“Thương mại quốc tế”

Giảng viên hướng dẫn
Nhóm thực hiện
Môn
Mã học phần

: Hồ Nhật Hưng
: Nhóm 7
: Kinh tế vĩ mô
: 210700901

TP.Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 2 năm 2017


DANH SÁCH NHÓM
1. Lê Thị Hồng Cẩm
...........................................................
14016741
2. Phạm Hải
...........................................................
14084901
3. Nguyễn Thị Thu Hà
...........................................................


14043081
4. Trảo Mộng Thúy
...........................................................
13050941
5. Đặng Tuấn Duy
...........................................................
15089491
6. Trần Lê Phương Trinh
...........................................................
14063821

Trang 2


Mục lục
Lời mở đầu..................................................................................................................4
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ....................5
1.1. Khái niệm, nội dung và chức năng của thương mại quốc tế ...............5
1.1.1. Khái niệm thương mại quốc tế......................................................................5
1.1.2. Nội dung của thương mại quốc tế..............................................................5
1.1.3. Chức năng của thương mại quốc tế..........................................................6
1.1.4. Các hình thức Thương mại quốc tế...........................................................6
1.1.5.Lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế.................................................7
1.2. Đặc điểm của thương mại quốc tế và thị trường thế giới hiện nay ..9
1.3. Lợi ích của thương mại quốc tế.........................................................................10
1.4. Thương mại tự do và chính sách bảo hộ......................................................11
...................................................................................................... 1.4.1.Chính sách bảo hộ
.........................................................................................................................................................11
........................................................................................................................ 1.4.2.Thuế quan
.........................................................................................................................................................12

............................................................................................. 1.4.3.Hạn ngạch thương mại
.........................................................................................................................................................12

Trang 3


............................................................................................................................... 1.4.4.Trợ cấp
.........................................................................................................................................................12
............................................................................. 1.4.5.Hạn chế xuất khẩu tự nguyện
.........................................................................................................................................................12
............................................................................................ 1.4.6.Hàng rào phi thuế quan
.........................................................................................................................................................13
...................................................................................................... 1.4.7.Chống bán phá giá
.........................................................................................................................................................13

1.5.Rủi ro trong thương mại quốc tế ........................................................................13
.................................................................................................. 1.5.1.Rủi ro trong kinh tế
.....................................................................................................................................................13
............................................................................................... 1.5.2.Rủi ro trong chính trị
.....................................................................................................................................................14

Chương 2: THỰC TRẠNG THƯƠNG MAI QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM ....15
2.1.Thực trạng hoạt động thương mại quốc tế...................................................15
2.2.Đánh giá hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam trong thời
gian qua ....................................................................................................................................17
...................2.2.1.Đánh giá lợi thế so sánh của hàng xuất khẩu Việt Nam
.....................................................................................................................................................18
.......................2.2.2.Giải pháp chiến lược đối với xuất khẩu của Việt Nam
.....................................................................................................................................................20


Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM.............................................23
Kết luận.......................................................................................................................25

LỜI MỞ ĐẦU
Trong tiến trình toàn cầu hóa như hiện nay, hội nhập quốc tế là một
xu thế tất yếu của mọi nền kinh tế đặc biệt là hoạt động thương mại
quốc tế. Thương mại quốc tế là một hình thái phổ biến nhất của quan hệ
kinh tế, phản ánh quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế thế
giới trong nhiều thế kỷ qua. Trong những năm qua dưới tác động của
phân công lao động quốc tế, sự phát triển của khoa học kỹ thuật,
thương mại quốc tế đã mang lại nhiều lợi ích to lớn cho mọi quốc gia.
Thương mại quốc tế đồng thời mang lại nhiều lợi ích nhưng cũng có những
tác động đối với hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài theo nhiều chiều hướng
tích cực và tiêu cực. Từ đó để phân tích cụ thể những tác động của thương mại
Trang 4


quốc tế đối với việc thu hút đầu tư tại Việt Nam hiện nay như thế nào; thực
trạng phát triển thương mại quốc tế cũng như hoạt động thu hút đầu tư nước
ngoài và những giải pháp phát triển thương mại nhằm đẩy mạnh hoạt động thu
hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Thương mại quốc tế đã trở thành một lĩnh vực quan trọng tạo điều
kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển
kinh tế và làm giàu cho đất nước. Thương mại quốc tế ngày nay đã
không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán mà thể hiện sự phụ
thuộc tất yếu của các quốc gia vào phân công lao động quốc tế. Vì vậy
thương mại quốc tế được coi như là một tiền đề, một nhân tố để phát
triển kinh tế trong nước trên cơ sở lựa chọn một cách tối ưu sự phân
công lao động và chuyên môn hóa quốc tế. Trong những năm qua, Việt

Nam có những bước tiến đáng kể trong hoạt động thương mại quốc tế.
Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu thực trạng hoạt động thương mại quốc tế
Việt Nam trong thời gian qua để thấy được điều này.

CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1.

Khái niệm, nội dung và chức năng của thương mại quốc tế
1.1.1. Khái niệm thương mại quốc tế

Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc
gia, thông qua mua bán và trao đổi, lấy tiền tệ làm mối giới, tuân theo
quy tắc trao đổi ngang giá. Thương mại quốc tế có từ hàng ngàn năm
nay, nó ra đời sớm nhất và hiện nay vẫn giữ vị trí trung tâm trong các
quan hệ kinh tế quốc tế.
Trang 5


1.1.2. Nội dung của thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế thường được nghiên cứu dưới ba góc độ:
- Quan điểm toàn cầu: tìm ra những quy luật, xu hướng, vấn đề
mang tính chất chung nhất trên thế giới, không phụ thuộc vào lợi ích của
từng quốc gia.
- Đứng trên lợi ích và quan điểm của từng quốc gia để xem xét
hoạt động buôn bán chủ yếu của quốc gia đó đối với phần còn lại của
thế giới.
- Gắn với hoạt động kinh doanh quốc tế của các công ty nhằm
mục đích thu lợi nhuận cao nhất cho công ty.
Thương mại quốc tế bao gồm nhiều nội dung khác nhau:

- Xuất và nhập khẩu hàng hóa hữu hình (nguyên vật liệu, máy móc
thiết bị, lương thực thực phẩm, các loại hàng tiêu dùng...)
- Xuất nhập khẩu hàng hóa vô hình (các bí quyết công nghệ, bằng
phát minh sáng chế, phần mềm máy tính, các bảng thiết kế kỹ thuật, các
dịch vụ lắp ráp thiết bị máy móc, dịch vụ du lịch và nhiều loại dịch vụ
khác....)
- Gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công. Khi
trình độ phát triển còn thấp, thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu thị trường
thì cần phải chú trọng các hoạt động gia công thuê cho nước ngoài,
nhưng khi trình độ ngày càng phát triển cao thì nên chuyển qua hình
thức thuê nước ngoài gia công cho mình. Hoạt động gia công mang tính
chất công nghiệp nhưng chu kỳ gia công thường rất ngắn, đầu vào và
đầu ra của nó gắn liền với thị trường nước ngoài nên nó được coi là một
bộ phận của hoạt động ngoại thương.
- Tái xuất và chuyển khẩu. Trong hoạt động tái xuất, người ta tiến
hành nhập khẩu tạm thời hàng hóa từ bên ngoài vào, sau đó lại tiến
hành xuất khẩu sang nước thứ ba. Như vậy, ở đây có hành động mua
và hành động bán nên mức rủi ro có thể lớn và lợi nhuận có thể cao.
Còn trong hoạt động chuyển khẩu không có hành vi mua bán mà ở đây
chỉ thực hiện các dịch vụ như vận tải, quá cảnh, lưu kho lưu bãi, bảo
quản... Bởi vậy, mức độ rủi ro trong hoạt động chuyển khẩu nói chung là
thấp và lợi nhuận cũng không cao.
- Xuất khẩu tại chỗ. Trong trường hợp này hàng hóa và dịch vụ có
thể chưa vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó
tương tự như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hóa và
dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế.... Hoạt động
xuất khẩu tại chổ có thể đạt được hiệu quả cao do giảm bớt chi phí đóng
gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh.
Trang 6



1.1.3. Chức năng của thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế có hai chức năng cơ bản sau đây:
Một là, làm biến đổi cơ cấu giá trị sử dụng của sản phẩm xã hội và
thu nhập quốc dân được sản xuất trong nước thông qua việc xuất khẩu
và nhập khẩu nhằm đạt tới cơ cấu có lợi cho nền kinh tế trong nước.
Chức năng này thể hiện việc thương mại quốc tế làm lợi cho nền kinh tế
quốc dân về mặt giá trị sử dụng.
Hai là, thương mại quốc tế góp phần nâng cao hiệu quả của nền
kinh tế quốc dân, do việc mở rộng trao đổi mà khai thác được triệt để lợi
thế của nền kinh tế trong nước trên cơ sở sự phân công lao động quốc
tế, nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm. Các chức
năng của thương mại quốc tế có sự liên quan chặt chẽ với các nhân tố
thúc đẩy sự hình thành và phát triển của nó. Căn cứ vào các nhân tố
này người ta phân biệt thương mại quốc tế thành thương mại bù đắp và
thương mại thay thế. Thương mại bù đắp diễn ra do sự khác nhau về
điều kiện điều kiện tự nhiên và do trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Thương mại thay thế diễn ra trên cơ sở sự phân công lao động
quốc tế đã đạt tới trình độ phát triển cao, chuyên môn hoá vào những
mặt hàng có ưu thế. Thương mại bù đắp và thương mại thay thế có liên
quan chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau và thúc đẩy lẫn nhau phát
triển.

1.1.4. Các hình thức Thương mại quốc tế.
− Thương mại hàng hóa quốc tế.

Là hình thức thương mại trong đó diễn ra việc mua bán trao đổi các
sản phẩm, hàng hóa thể hiện dưới dạng vật chất hữu hình. Ví dụ: Trao
đổi hàng nông sản (gạo, cà phê) nguyên liệu, nhiên liệu, thiết bị máy
móc là những lĩnh vực quan trọng trong thương mại hàng hóa quốc tế.

− Thương mại dịch vụ quốc tế.

Là hình thức thương mại trong đó diễn ra các hoạt động trao đổi mua
bán các sản phẩm vô hình, phi vật chất được thể hiện thông qua các
hoạt động của con người. Đặc biệt nổi bật là thương mại dịch vụ rất đa
dạng như viễn thông, ngân hàng, tài chính.
Trang 7


− Thương mại quốc tế liên quan đến sở hữu trí tuệ.

Đó là sự trao đổi quốc tế về một số hàng hóa vô hình như các bí
quyết công nghệ, bằng phát minh sang chế, quyền sở hữu công nghiệp,
chỉ dấu địa lý, thương hiệu. . .Đây cũng chính là những hợp đồng kinh tế
mang tính thời đoạn, hiệu quả kinh tế phụ thuộc vào sự phát huy và
mức độ bản quyền của công nghệ đó. Tính chất này tạo sự khác biệt
giữa hình thức này với tính chất mua bán đứt đoạn của các hình thức
thương mại quốc tế khác.
− Thương mại quốc tế liên quan đến đầu tư.

Sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ gắn liền với hoạt động đầu tư quốc tế.
Hình thức này ngày càng phổ biến với sự tăng trưởng mạnh mẽ của
dòng vốn đầu tư quốc tế và đặc biệt là sự phát triển của các công ty
xuyên quốc gia như hiện nay.
1.1.5. Lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế.
-

Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith.

Lợi thế tuyệt đối là lợi thế đạt được trong trao đổi thương mại quốc tế

khi mỗi quốc gia tập trung chuyên môn hoá vào sản xuất và trao đổi
những sản phẩm có mức chi phí sản xuất thấp hơn hẳn so với các quốc
gia khác và thấp hơn mức chi phí trung bình của quốc tế thì tất cả các
quốc gia đều cùng có lợi.
Bàn tay vô hình (invisible hand) của sự cạnh tranh quốc tế sẽ khiến
cho một quốc gia đi theo hướng chuyên môn hóa nếu như không có sự
can thiệp của chính phủ.
Ưu điểm:
Khắc phục hạn chế của lý thuyết trọng thương đó là khẳng định cơ
sở tạo ra giá trị là sản xuất chứ không phải là lưu thông; Chứng minh
thương mại đem lại lợi ích cho cả hai quốc gia.
Nhược điểm:
Không giải thích được hiện tượng chỗ đứng trong phân công lao
động quốc tế và TMQT sẽ xảy ra như thế nào đối với những nước
không có lợi thế tuyệt đối nào; Coi lao động là yếu tố sản xuất duy nhất
Trang 8


tạo ra giá trị, là đồng nhất và được sử dụng với tỷ lệ như nhau trong tất
cả các loại hàng hóa.
-

Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo.

Kế thừa và phát triển lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith,
Ricardo đã nhấn mạnh: Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn
hẳn các nước khác, hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối so với các nước khác
trong sản xuất mọi sản phẩm, thì vẫn có thể và vẫn có lợi khi tham gia
vào phân công lao động và thương mại quốc tế bởi vì mỗi nước có một
lợi thế so sánh nhất định về sản xuất một số sản phẩm và kém lợi thế so

sánh nhất định về sản xuất các sản phẩm khác. Bằng việc chuyên môn
hoá sản xuất và xuất khẩu sản phẩm mà nước đó có lợi thế so sánh,
tổng sản lượng về sản phẩm trên thế giới sẽ tăng lên, kết quả là mỗi
nước đều có lợi ích từ thương mại. Như vậy lợi thế so sánh là cơ sở để
các nước buôn bán với nhau và là cơ sở để thực hiện phân công lao
động quốc tế. Các giả thiết của Ricardo
− Mọi nước có lợi về một loại tài nguyên nhất định
− Các yếu tố sản xuất dịch chuyển trong phạm vi 1 quốc gia
− Các yếu tố sản xuất không được dịch chuyển ra bên ngoài
− Mô hình của Ricardo dựa trên học thuyết về giá trị lao động
− Công nghệ của hai quốc gia như nhau
− Chi phí sản xuất là cố định
− Sử dụng hết lao động (lao động được thuê mướn toàn bộ)
− Nền kinh tế cạnh tranh hoàn hảo
− Chính phủ không can thiệp vào nền kinh tế
− Chi phí vận chuyển bằng không
− Phân tích mô hình thương mại có hai quốc gia và hai hàng hoá

Mỹ có lợi thế tuyệt đối về cả 2 sản phẩm.
Nhưng Anh có lợi thế so sánh về sản xuất vải
Trang 9


-

Mô hình Hecksher-Ohlin.

Được xây dựng thay thế cho mô hình cơ bản về lợi thế so sánh của
Ricardo. Mặc dù nó phức tạp hơn và có khả năng dự đoán chính xác
hơn, nó vẫn có sự lý tưởng hóa. Đó là việc bỏ qua lý thuyết giá trị lao

động và việc gắn cơ chế giá tân cổ điển vào lý thuyết thương mại quốc
tế. Mô hình Hechscher-Ohlin lập luận rằng cơ cấu thương mại quốc tế
được quyết định bởi sự khác biệt giữa các yếu tố nguồn lực. Nó dự
đoán rằng một nước sẽ xuất khẩu những sản phẩm sử dụng nhiều yếu
tố nguồn lực mà nước đó có thế mạnh, và nhập khẩu những sản phẩm
sử dụng nhiều yếu tố nguồn lực mà nước đó khan hiếm.
Mô hình này cho thấy rằng lợi thế so sánh cuả một nước được quyết
định bởi: Sự dồi dào tương đối các yếu tố sản xuất cuả một nước. Sự
thâm dụng các yếu tố tương đối cuả một loại hàng hoá.
Ví dụ: Hai hàng hoá được sản xuất là bia và vải
• Bia là hàng hoá thâm dụng vốn tương đối.
• Vải là hàng hoá thâm dụng lao động tương đối

1.2. Đặc điểm của thương mại quốc tế và thị trường thế giới hiện
nay
Trang 10


Thương mại quốc tế trong những năm gần đây có một số đặc điểm như
sau:
Một là, thương mại quốc tế trong những năm gần đây có xu
hướng tăng với tốc độ cao hơn so với tốc độ tăng trưởng của nền sản
xuất thế giới, điều đó đưa đến tỷ trọng của kim ngạch ngoại thương
trong tổng sản phẩm quốc dân của mỗi quốc gia ngày càng lớn, thể hiện
mức độ mở cửa gia tăng của nền kinh tế mỗi quốc gia ra thị trường thế
giới.
Hai là, tốc độ tăng trưởng của thương mại vô hình tăng nhanh hơn
tốc độ tăng trưởng của thương mại hữu hình, thể hiện sự biến đổi sâu
sắc trong cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia.
Ba là, cơ cấu mặt hàng trong thương mại quốc tế có những thay

đổi sâu sắc với những hướng chính sau đây: - Giảm đáng kể tỷ trọng
của nhóm hàng lương thực và thực phẩm - Giảm mạnh tỷ trọng của
nhóm hàng nguyên liệu, tăng nhanh tỷ trọng của dầu mỏ và khí đốt. Tăng nhanh tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp chế biến, nhất là máy
móc thiết bị.
Bốn là, Sự phát triển của nền thương mại thế giới ngày càng mở
rộng phạm vi và phương thức cạnh tranh với nhiều công cụ khác nhau,
không những về mặt chất lượng, giá cả mà còn về điều kiện giao nhận,
bao bì, mẫu mã, thời hạn thanh toán, các dịch vụ sau bán hàng....
Năm là, Chu kỳ sống của từng loại sản phẩm ngày càng được rút
ngắn, việc đổi mới thiết bị, đổi mới công nghệ, đổi mới mẫu mã hàng
hóa diễn ra liên tục, đòi hỏi phải năng động, nhạy bén khi gia nhập thị
trường thế giới. Các sản phẩm có hàm lượng khoa học khoa học và
công nghệ cao có sức cạnh tranh mạnh mẽ trong khi các sản phẩm
nguyên liệu thô ngày càng mất giá, kém sức cạnh tranh.
Sáu là, sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế một mặt thúc
đẩy tự do hóa thương mại, song mặt khác, giữa các liên kết kinh tế quốc
tế cũng hình thành những hàng rào mới, yêu cầu bảo hộ mậu dịch ngày
càng tinh vi hơn.
1.3.

Lợi ích của Thương mại quốc tế

Nhờ có thương mại quốc tế mà các doanh nghiệp có thể mở rộng
sản xuất, đáp ứng không chỉ cho thị trường nội địa mà cho cả thị trường
nước ngoài. Thương mại quốc tế mang lại cho người tiêu dùng tại các
nước sự lựa chọn đa dạng hơn về hàng hóa và dịch vụ. Chẳng hạn, do
có khí hậu lạnh nên Phần Lan không trồng được bông. Tuy nhiên, Phần
Lan vẫn có thể bán giấy và các sản phẩm khác từ gỗ (là mặt hàng sẵn
có tại Phần Lan) sang Hoa Kỳ và dùng số tiền mua được để mua bông
Trang 11



từ nước này. Do vậy mà người dân Phần Lan vẫn có bông để sử dụng.
Tuy Hoa Kỳ là nước giàu tài nguyên rừng nhưng những sản phẩm gỗ
của Phần Lan có thể thích hợp với người tiêu dùng Hoa Kỳ về mặt giá
cả, hoặc có thể giải quyết sự thiếu hụt trên thị trường Hoa Kỳ. Việc nhập
khẩu những mặt hàng này từ Phần Lan còn giúp cho các công nhân
Hoa Kỳ có thể chuyển sang làm việc ở những ngành khác với mức
lương cao hơn. Hay trường hợp Ecuador xuất khẩu hoa hồng sang Hoa
Kỳ vì có lợi thế về điều kiện khí hậu và chi phí nhân công rẻ hơn nhiều
so với việc trồng loại hoa này tại Hoa Kỳ (tại bang Florida). Còn Hoa Kỳ
lại có lợi thế hơn Ecuador về sản xuất và xuất khẩu máy vi tính. Thương
mại tự do cũng mang lại lợi ích cho những người xuất khẩu hàng hóa và
dịch vụ vào Ecuador. Khi mà nền kinh tế của Ecuador ngày càng mạnh
lên nhờ xuất khẩu được hoa hồng, người dân nước này có thể mua
được nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn. Các nhà kinh tế lập luận rằng về
dài hạn tự do thương mại sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế và nâng cao
mức sống của người dân khắp nơi trên thế giới.
Những lập luận kinh tế xung quanh những lợi ích và chi phí của tự do
hóa thương mại về hàng hóa và dịch vụ không phải là những lập luận
mang tính hàn lâm trừu tượng. Lý thuyết về thương mại quốc tế đã định
hình nên chính sách kinh tế của nhiều quốc gia trong vòng 50 năm qua.
Đó chính là động lực đằng sau việc hình thành Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) và các tổ chức thương mại khu vực ví dụ như Liên minh
Châu Âu (EU) và Hiệp định thương mại tự do Bắc Hoa Kỳ (NAFTA). Đặc
biệt, thập kỷ 90 của thế kỷ trước chứng kiến toàn thế giới vận động
mạnh mẽ về hướng tự do hóa nhiều hơn. Do đó, điều quan trọng là
chúng ta phải hiểu được những lý thuyết thương mại đó là gì và tại sao
chúng lại thành công trong việc định hình chính sách kinh tế của nhiều
nước trên thế giới cũng như hiểu được môi trường trong đó các doanh

nghiệp quốc tế cạnh tranh gay gắt với nhau.
1.4.

THƯƠNG MẠI TỰ DO VÀ CHÍNH SÁCH BẢO HỘ

Cũng như với các lý thuyết khác, tồn tại những quan điểm đối lập.
Thương mại quốc tế được nhìn nhận dưới hai quan điểm trái ngược
nhau về mức độ kiểm soát trong thương mại: thương mại tự do và chính
sách bảo hộ.
Lý thuyết về Thương mại tự do là lí thuyết đơn giản hơn trong hai lí
thuyết: thuyết tự do kinh tế (laissez-faire) cho rằng không nên có hạn
chế về thương mại. Sự tự điều chỉnh cung và cầu trên phạm vi toàn
cầu sẽ đảm bảo cho hiệu quả sản xuất. Vì vậy, không cần thiết phải đưa
ra bất kỳ chính sách nào về bảo hộ hay kích thích thương mại và tăng
trưởng, các yếu tố thị trường sẽ tự động điều chỉnh.
Trang 12


Ngược lại, chủ nghĩa bảo hộ cho rằng những quy định trong
thương mại quốc tế là rất quan trọng để đảm bảo thị trường vận hành
hợp lí. Những người ủng hộ lý thuyết này tin rằng thị trường không hiệu
quả có thể cản trở những lợi ích của thương mại quốc tế và mục đích
của họ là hướng dẫn thị trường hoạt động phù hợp. Chính sách bảo
hộ được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng phổ biến
nhất là thuế quan, trợ cấp và hạn ngạch. Những chính sách này được
áp dụng nhằm hạn chế tất cả những yếu tố không hiệu quả trong
thị trường quốc tế.
1.4.1.Chính sách bảo hộ
• Hạn chế cạnh tranh giữa hàng hóa sản xuất trong nước với
hàng hóa nhập khẩu

• Bảo vệ các ngành sản xuất còn non yếu
• An ninh quốc gia
1.4.2.Thuế quan (thuế xuất/nhập khẩu)
o Đem lại nguồn thu cho ngân sách
o Phục vụ các mục tiêu kinh tế (bảo hộ sản xuất)
o Phục vụ các mục tiêu phi kinh tế ( Giảm bớt việc nhập khẩu
các hàng hóa mà nhà nước không khuyến khích nhập).
o Làm cơ sở cho đàm phán thương mại.
1.4.3.Hạn ngạch thương mại
Giới hạn số lượng một loại hàng hóa hay một mặt hàng
được phép xuất hoặc nhập từ một thị trường trong một thời gian
nhất định thông qua hình thức cấp giấy phép. Hạn ngạch làm giảm
tính hiệu quả của thương mại.
Tác động của hạn ngạch
- Giá nội địa của hàng hóa nhập khẩu sẽ tăng lên.
- Lãng phí nguồn lực xã hội.
- Có sự phân phối lại thu nhập.
- Chính phủ không nhận được khoản thu về thuế (Trừ
hạn ngạch thuế quan)
- Có thể biến 1 doanh nghiệp thành một nhà độc quyền.
- Gây ra tiêu cực trong việc xin hạn ngạch giữa các
doanh nghiệp.
1.4.4.Trợ cấp
Việc chính phủ dành cho doanh nghiệp những lợi ích mà
trong điều kiện thông thường doanh nghiệp không thể có (Chính
phủ trực tiếp cung cấp tiền, cho không, cho vay với điều kiện ưu
đãi, cấp thêm vốn, bảo lãnh trả các khoản vay, hoãn các khoản
thuế phải thu, cung cấp hoặc mua hàng hóa dịch vụ với giá cả
thuận lợi cho doanh nghiệp).
Trang 13



1.4.5.Hạn chế xuất khẩu tự nguyện
Là một biện pháp hạn chế xuất khẩu mà một quốc gia nhập
khẩu đòi hỏi quốc gia xuất khẩu phải hạn chế bớt hàng xuất
khẩu sang nước mình một cách tự nguyện, nếu không họ sẽ áp
dụng các biện pháp trả đũa kiên quyết.
Áp dụng cho các quốc gia có khối lượng xuất khẩu quá lớn
ở một mặt hàng nào đó.
1.4.6.Hàng rào phi thuế quan
Những quy định hoặc tập quán làm cản trở sự lưu thông tự do các
hàng hóa dịch vụ và các yếu tố sản xuất giữa các nước.
- Những quy định kỹ thuật về tiêu chuẫn vệ sinh, an tòan lao
động, đóng gói bao bì, nhãn hiệu … đối với nước xuất khẩu.
- Cấm xuất nhập khẩu
- Quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, đầu mối.
- Quy định về xuất xứ hàng hóa.
- Phương pháp xác định giá tính thuế hải quan.

1.5.

1.4.7.Chống bán phá giá
Bán phá giá trong thương mại quốc tế là hiện tượng xảy ra
khi một loại hàng hóa được xuất khẩu (bán sang thị trường nước
khác) với giá thấp hơn giá bán của mặt hàng đó tại thị trường
nước xuất khẩu.Như vậy có thể hiểu một cách đơn giản là nếu giá
xuất khẩu (giá XK) của một mặt hàng thấp hơn giá nội địa (giá
thông thường) của nó thì sản phẩm đó được coi là bán phá giá tại
thị trường nước nhập khẩu sản phẩm đó
Thuế chống bán phá giá là biện pháp chống bán phá giá

được sử dụng phổ biến nhất, được áp dụng đối với sản phẩm bị
điều tra và bị kết luận là bán phá giá vào nước nhập khẩu gây thiệt
hại cho ngành sản xuất nước đó.
Rủi ro trong thương mại quốc tế.
1.5.1. Rủi ro kinh tế.
• Rủi ro liên quan đến việc không có khả năng thanh toán của

người mua
• Rủi ro liên quan đến việc nợ quá hạn - người mua không thể
thanh toán tiền hàng 6 tháng kể từ ngày tới hạn.
• Rủi ro không chấp nhận hàng.
• Rủi ro từ bỏ chủ quyền kinh tế

Trang 14


1.5.2. Rủi ro chính trị
• Rủi ro liên quan đến việc hủy bỏ hoặc không gia hạn giấy phép






xuất khẩu, nhập khẩu.
Rủi ro chiến tranh.
Rủi ro liên quan đến tài sản của người nhập khẩu bị quốc hữu
hóa hoặc sung công.
Rủi ro liên quan đến việc áp đặt lệnh cấm nhập khẩu sau khi
hàng đang trên đường vận chuyển.

Rủi ro thanh toán - liên quan đến việc nước nhập khẩu áp đặt
chính sách kiểm soát ngoại hối do thiếu ngoại tệ.
Rủi ro từ bỏ chủ quyền chính trị.

CHƯƠNG 2:
Trang 15


THỰC TRẠNG THƯƠNG MAI QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
2.1 Thực trạng Hoạt động thương mại quốc tế
Diễn ra trong thập kỉ 21 này được so sánh là có những khác biệt
rất lớn so với 2 thập kỉ về trước. Các doanh nghiệp hiện nay đang phải
đối mặt với nhiều vấn đề khác nhau và chịu sức ép của cạnh tranh. Hội
nhập kinh tế quốc tế là thách thức với mọi nền kinh tế, kể cả các nền
kinh tế có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam. Thách thức này càng
khắc nghiệt hơn khi chúng ta là một nước đang phát triển đồng thời là
nền kinh tế chuyển đổi Tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam
chịu ảnh hưởng tích cực của quá trình hội nhập. Thương mại và đầu tư
ở Việt Nam đã phát triển từ cơ chế tương đối hạn chế sang cơ chế mở
như hiện nay.
Những kết quả đạt được về mặt kinh tế là rất ấn tượng:
• Tỷ trọng xuất khẩu (và nhập khẩu) trong nền kinh tế tăng gấp 10
lần từ 1988 đến 2008.
• Thu nhập đầu người tăng từ $130 vào đầu thập kỷ 90 lên $800
vào 2008.
• Tỷ lệ nghèo đói giảm đáng kể từ 58% năm 1993 xuống 13% năm
2008
Thương mại Việt Nam trong thời gian qua đã có những bước tiến
rất đáng khích lệ. Người tiêu dùng có thể thỏa mãn nhu cầu thông qua
các “kênh” với nhiều “cấp độ” khác nhau: 40% qua chợ, 44% qua các

cửa hàng độc lập và cửa hàng của doanh nghiệp, 16% qua hệ thống
phân phối hiện đại (trung tâm thương mại, siêu thị). Từ chỗ chỉ xuất hiện
ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, đến nay cả nước có trên 200 siêu
thị, 50 trung tâm thương mại, gần 1.000 cửa hàng Tốc độ tăng trưởng
kim ngạch xuất khẩu hàng (KNXK) hóa được xếp vào mức cao nhất khu
vực, chỉ đứng sau Trung Quốc.
Từ chỗ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng thu nhập quốc dân 24%
năm 1991, đến năm 2007 xuất khẩu đã chiếm 64,9 % – đứng thứ 5 so
với các nước trong khu vực Đông – Nam Á, thứ 6 ở châu Á, thứ 8 trên
thế giới. Nếu như tổng KNXK của Việt Nam năm 2000 chỉ đạt xấp xỉ
14,5 tỉ USD thì năm 2007 đã tăng gấp 2,7 lần đạt trên 39 tỉ USD, đứng
thứ 6/11 trong khu vực Đông – Nam Á, 39/165 nước và vùng lãnh thổ
trên thế giới; KNXK hàng hóa bình quân đầu người gấp 2,5 lần so với
năm 2000, tăng 20,7% so với năm 2005, đứng thứ 6 trong khu vực, thứ
25 ở châu Á, thứ 92 trên thế giới. KNXK vào thị trường châu Mỹ tăng
đều trong 3 năm qua, từ 21,3% năm 2004 tăng lên 23,2% năm 2007. Thị
Trang 16


trường Hoa Kỳ vẫn là đối tác chính của Việt Nam về xuất khẩu với kim
ngạch 8 tỉ USD, chiếm tỷ trọng 86,8%, các nước khác chỉ chiếm 13,2%
trong tổng KNXK hàng hóa sang thị trường châu Mỹ.
Trong khi đó, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn đối với xuất khẩu
giày dép nhưng thị trường châu Âu vẫn duy trì được tỷ trọng 19% – 20%
trong tổng KNXK của cả nước từ năm 2004 đến nay. Các nước EU
chiếm tỷ trọng 89,2% KNXK hàng hóa sang thị trường châu Âu (6,81 tỉ
USD), tăng 23,5% so với cùng kỳ năm 2005. Trong năm 2010, có 18
mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD (Năm 2009 có 12 mặt
hàng), trong đó kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng chủ lực tăng
cao so với năm 2009 như: Hàng dệt may đạt 11,2 tỷ USD, tăng 23,2%;

giày dép đạt 5,1 tỷ USD, tăng 24,9%; thủy sản 4,9 tỷ USD, tăng 16,5%;
hàng điện tử máy tính 3,6 tỷ USD, tăng 28,8%; gỗ và sản phẩm gỗ 3,4
tỷ USD, tăng 31,2%; gạo đạt 3,2 tỷ USD, tăng 20,6; máy móc, thiết bị,
dụng cụ phụ tùng 3 tỷ USD, tăng 48%; cao su 2,4 tỷ USD, tăng 93,7%.
Nhìn chung xuất khẩu hàng hóa năm 2010 có nhiều thuận lợi do đơn giá
nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới tăng cao, trong đó giá sắn và sản
phẩm sắn tăng 90,7%; cao su tăng 81%; hạt tiêu tăng 39,7%; hạt điều
tăng 22,4%; than đá tăng 52,9%; dầu thô tăng 33,7%). Nếu loại trừ yếu
tố tăng giá thì kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2010 ước tính đạt
64,5 tỷ USD, tăng 13,4% so với năm 2009.
Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2010 có sự thay đổi ở
một số nhóm hàng so với năm trước, trong đó nhóm hàng công nghiệp
nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ 42,8% lên 46%; nhóm hàng công
nghiệp nặng và khoáng sản giảm từ 29,4% xuống 27,2%; nhóm hàng
thủy sản giảm từ 7,4% xuống 6,9%; vàng và các sản phẩm vàng giảm
từ 4,6% xuống 4%. Tính chung năm 2010, kim ngạch hàng hóa nhập
khẩu đạt 84 tỷ USD, tăng 20,1% so với năm trước, bao gồm khu vực
kinh tế trong nước đạt 47,5 tỷ USD, tăng 8,3%; khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài đạt 36,5 tỷ USD, tăng 39,9%.
Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng cao là: Xăng dầu
tăng 225,2%; lúa mỳ tăng 70,4%; kim loại thường khác tăng 57,7%;
nguyên phụ liệu dệt may, giày dép tăng 36%; chất dẻo tăng 33,9%; điện
tử máy tính và linh kiện tăng 30,7%; vải tăng 27,2%; thức ăn gia súc và
nguyên phụ liệu tăng 22,4%; sắt thép tăng 15%. Nhập khẩu ôtô nguyên
chiếc giảm 24,4% về kim ngạch và giảm 34,1% về lượng so với năm
2009. Trong năm 2011, có 14 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 2
tỷ USD[2] là: Dệt may 14 tỷ USD, tăng 25,1% so với năm 2010; dầu thô
7,2 tỷ USD, tăng 45,9%; điện thoại các loại và linh kiện 6,9 tỷ USD, tăng
197,3%; giày dép 6,5 tỷ USD, tăng 27,3%; thủy sản 6,1 tỷ USD, tăng
21,7%; điện tử máy tính 4,2 tỷ USD, tăng 16,9% ; máy móc thiết bị,

dụng cụ phụ tùng 4,1 tỷ USD, tăng 34,5%; gỗ và sản phẩm gỗ 3,9 tỷ
USD, tăng 13,7%; gạo 3,6 tỷ USD, tăng 12,2%; cao su 3,2 tỷ USD, tăng
Trang 17


35%; cà phê 2,7 tỷ USD, tăng 48,1%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm
gần 2,7 tỷ USD, giảm 5,2%; phương tiện vận tải và phụ tùng 2,4 tỷ USD,
tăng 51,3%; xăng dầu 2,1 tỷ USD, tăng 53,6%.
Cơ cấu kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm 2011 không có sự
thay đổi lớn so với năm 2010, trong đó nhóm tư liệu sản xuất vẫn chiếm
tỷ trọng cao nhất với 90,6%, tăng 0,6 điểm phần trăm so với năm 2010;
nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng giảm từ 8,8% năm 2010 xuống còn
7,6%; nhóm vàng và các sản phẩm vàng tăng từ 1,2% lên 1,8%.
Theo kế hoạch xuất nhập khẩu năm 2012, Bộ đặt mục tiêu nhập
siêu khoảng 13 tỷ USD, bằng khoảng 12% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Trong đó, xuất khẩu tăng 13% so với năm 2011 và đạt khoảng 108,5 tỷ
USD. Nhập khẩu khoảng 121,5 tỷ USD, tăng 14,6% so với năm 2011.
Về định hướng giai đoạn 2011 - 2015, mục tiêu tăng trưởng xuất
khẩu bình quân 12,1%/năm, phấn đấu đến năm 2015 đạt 133 tỷ USD.
Kim ngạch nhập khẩu tăng khoảng 11,5%/năm, dự kiến khoảng 146 tỷ
USD vào năm 2015. Như vậy, nhập siêu năm 2015 khoảng 9,8% kim
ngạch xuất khẩu.
Trong đó, với nhập khẩu các mặt hàng cần thiết, Bộ Công thương lưu ý
nhập khẩu thiết bị máy móc, xăng dầu vẫn tăng do nhu cầu phát triển
sản xuất và đầu tư mặc dù đã có sản phẩm của nhà máy lọc dầu Dung
Quất (dự báo nhu cầu xăng dầu đến 2015 khoảng 22 - 23 triệu tấn).
Bên cạnh đó, một số mặt hàng sẽ giảm nhập như thép, phân bón… do
đưa vào sản xuất một số dự án mới.
2.2 Đánh giá hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam trong
thời gian qua

Ưu điểm:
- Tốc độ tăng trưởng ngoại thương khá cao qua các năm và cao
hơn tốc độ tăng trưởng của nền sản xuất xã hội, tăng quy mô kim ngạch
xuất/nhập khẩu.
- Thị trường ngày càng mở rộng và chuyển từ đơn thị trường
sang đa thị trường.
- Nền ngoại thương Việt Nam đã từng bước xây dựng được
những mặt hàng có quy mô lớn được thị trường thế giới chấp nhận như:
dầu khí, gạo, thủy sản, dệt may, giày dép… khai thác được lợi thế so
sánh trong phân công lao động và hợp tác quốc tế.
- Nền ngoại thương Việt Nam đã chuyển dần từ cơ chế kế hoạch
hóa tập trung sang cơ chế hạch toán kinh doanh, phát huy quyền tự chủ
cho doanh nghiệp, thúc đẩy xuất khẩu, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội
cho hoạt động ngoại thương.
Trang 18


Hạn chế:
- Mặc dù cơ cấu xuất khẩu đã có sự thay đổi theo hướng tích cực
trong thời gian qua, nhưng tốc độ chuyển dịch theo hướng đáp ứng yêu
cầu biến đổi của thị trường và xu thế thế giới diễn ra còn chậm, tỷ trọng
hàng thô, sơ chế vẫn còn cao.
- Tỷ trọng nhóm hàng chế biến công nghệ cao còn quá nhỏ bé.
Những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn đều
là những mặt hàng hoặc là hạn chế về các yếu tố cơ cấu như năng suất,
diện tích, khả năng khai thác (nhóm nông, thủy sản và khoáng sản)
hoặc là phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ và nguyên liệu cũng như thị
trường nước ngoài do đó giá trị gia tăng thấp (giày da và dệt may) …
- Tỷ trọng hàng xuất khẩu chế biến (công nghiệp nhẹ và tiểu, thủ
công nghiệp) còn khá khiêm tốn, trong khi hàng sơ chế và khoáng sản

vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn. - Sự chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của ta
nhìn chung chưa thật bền vững, còn chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Đây
là một trong những hạn chế lớn nhất trong cơ cấu xuất khẩu hiện nay.
Nếu không tăng nhanh tỷ trọng các mặt hàng chế biến, xét về dài hạn,
tăng trưởng xuất khẩu sẽ rất khó khăn.
→ Với những hạn chế nêu trên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói
chung và cơ cấu xuất khẩu nói riêng của chúng ta còn chưa vững chắc.
Cơ cấu kinh tế như vậy sẽ chứa đựng nhiều nguy cơ làm chậm quá
trình tăng trưởng. Việc tập trung quá lớn vào một số thị trường đã làm
suy giảm khả năng thực hiện mục tiêu mở rộng thị trường mới, dẫn tới
nguy cơ tự chúng ta đánh mất thị trường, khó có thể phát triển bền vững
và duy trì tốc độ tăng trưởng cao.
Nguyên nhân:
- Công cụ và chính sách nhà nước còn thiếu sót chưa thực sự cụ
thể, điều này làm cản trở không nhỏ cho cả nhà nước và các nhà kinh
doanh trong và ngoài nước.
- Quy mô nguồn vốn trong nước còn nhỏ, trình độ công nghệ
khoa học kỹ thuật còn thấp, phương tiện máy móc sản xuất còn thô sơ.
- Trình độ nghiệp vụ ngoại thương nhiều cán bộ còn non yếu,
chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của sự phát triển xã hội ngày một đổi
mới tiên tiến và hiện đại hơn.
- Tình hình buôn lậu, gian lận thương mại vẫn còn xảy ra và đang
là vấn đề "quốc nạn".
2.2.1.Đánh giá lợi thế so sánh của hàng xuất khẩu Việt Nam

Trang 19


Chuỗi giá trị toàn cầu (Global Value Chain - GVC) được hiểu là
chuỗi giá trị trong đó các hoạt động của chuỗi có thể được thực hiện bởi

nhiều hãng và diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Trong cách tiếp cận chuỗi
giá trị toàn cầu, mỗi nền kinh tế quốc gia chỉ là một bộ phận hữu cơ coi
phân công lao động quốc tế là xu thế tất yếu và biên giới quốc gia không
còn là giới hạn chủ yếu quy định không gian phát triển của các chủ thể
kinh tế. Để nâng cao khả năng, hiệu quả tham gia chuỗi giá trị toàn cầu,
thì hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam phải xác định được những lợi thế
so sánh cùng những điểm hạn chế để đưa ra các chính sách hỗ trợ phù
hợp.
Trong những năm qua, xuất khẩu của Việt Nam đang sử dụng những lợi
thế so sánh bậc thấp, gồm 5 loại:






Lao động giản đơn
Nguyên liệu thô, sơ chế
Vốn vừa và nhỏ
Công nghệ phù hợp
Sức mua thấp.

Chính vì vậy mà hàng hóa xuất khẩu của chúng ta chủ yếu vẫn
dưới dạng thô, giá trị gia tăng thấp, lợi ích thu được từ xuất khẩu không
cao. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, những lợi thế so sánh bậc
thấp này lại phù hợp với một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, như:
Nông sản xuất khẩu: So với các mặt hàng công nghiệp xuất
khẩu, như: hàng dệt may, giầy da hay cơ khí, điện tử lắp ráp…, thì trong
cùng một lượng kim ngạch xuất khẩu thu về như nhau, tỷ lệ chi phí sản
xuất có nguồn gốc ngoại tệ của hàng nông sản rất thấp. Do đó, thu nhập

ngoại tệ ròng của hàng nông sản xuất khẩu đang cao hơn nhiều so với

các ngành hàng xuất khẩu khác
Tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam

Trang 20


Có thể nói, đây là lợi thế ban đầu của các nước nghèo như Việt
Nam, khi chưa có đủ nguồn ngoại tệ để đầu tư xây dựng các nhà máy
lớn, khu công nghiệp để sản xuất - kinh doanh những mặt hàng tiêu tốn
nhiều ngoại tệ, cũng như có những thương hiệu mạnh đủ sức đứng
vững trên thị trường thế giới.
Nông, lâm nghiệp, thủy sản là những ngành sử dụng nhiều lao
động vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Đây là một ưu thế quan trọng
giúp nước ta phải giải quyết thêm việc làm cho 1,4 triệu người bước vào
tuổi lao động mỗi năm. Hơn nữa, với việc giá nhân công Việt Nam vẫn
còn rẻ hơn các nước khác trong khu vực, thì trước mắt, đây cũng là một
lợi thế so sánh cho ngành này. Tất nhiên lợi thế này sẽ không tồn tại lâu
do quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước giúp cho thu nhập
của người dân dần cải thiện.
Điều đáng lưu ý là những lợi thế so sánh bậc thấp có ưu thế đối
với nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản, nhưng lại bất lợi đối với nhóm hàng
công nghiệp, với đặc thù phải sử dụng lợi thế so sánh bậc cao, bao
gồm:
• Lao động chất lượng cao
• Nguyên, vật liệu tinh chế
• Vốn lớn
• Công nghệ hiện đại
• Sức mua cao.

Thời gian qua, Việt Nam chưa đạt được những lợi thế bậc cao
này, nên hầu hết các mặt hàng xuất khẩu công nghiệp, như: dệt may,
giày da, điện tử và linh kiện máy tính... không những chỉ đơn thuần
mang tính chất gia công, mà chủ yếu là đón các công nghệ chưa phải là
nguồn từ các nước phát triển. Bởi vậy, các nhà sản xuất và xuất khẩu
của Việt Nam ít có khả năng kiểm soát đối với toàn bộ chuỗi giá trị của
sản phẩm, hay chỉ thu được về phần nhỏ và rẻ nhất trong toàn bộ giá trị
gia tăng (khoảng 20-30% tổng giá trị).
Hơn nữa, Việt Nam cũng chưa chú trọng khai thác những lợi thế
cạnh tranh khi xây dựng các ngành công nghiệp, tạo nên mối liên kết
chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn. Bởi
vậy, chưa thể vươn tới một số khâu trong chuỗi giá trị có ảnh hưởng chi
phối đến phần giá trị gia tăng của các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt
Nam. Do đó, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam thực tế đã không đem
lại sự gia tăng tương ứng trong thu nhập cho người sản xuất do sự rớt
giá, hoặc hàng sản xuất sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên, lao động
rẻ, hàng hóa có hàm lượng công nghệ cao.
Trang 21


Thực tế này đang đặt Việt Nam đối diện với hệ lụy là sự phát triển
thiếu bền vững như học thuyết “Immiserizing growth - tăng trưởng bần
cùng hóa” được GS. Jagdish Bhagwati đưa ra vào năm 1958 (Học
thuyết này nêu rõ, sự tăng trưởng của một quốc gia có thể chạm tới
ngưỡng, mà tại đó đất nước trở nên xấu đi so với trước ngưỡng này.
Nếu tăng trưởng của một quốc gia quá phụ thuộc vào xuất khẩu, thì sẽ
dẫn tới tình trạng giảm tỷ giá thương mại của nước xuất khẩu. Trong
một số trường hợp, sự sụt giảm này sẽ lớn hơn phần tăng trưởng thu
được).
2.2.2.Giải pháp chiến lược đối với xuất khẩu của Việt Nam

Thứ nhất, chuyển đổi mô hình xuất khẩu
Những năm qua, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu
dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có về tài nguyên và lao động rẻ.
Lợi thế nói trên hiện tại và một vài năm tới vẫn đang còn phát huy tác
dụng. Nhưng, cũng dễ dàng nhận thấy rằng, nguồn tài nguyên ngày
càng cạn kiệt. Những hạn chế mang tính cơ cấu về lợi thế tự nhiên,
như: khả năng khai thác, đánh bắt, nuôi trồng sẽ làm giảm tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu trong dài hạn. Đó là chưa kể đến những tác động tiêu
cực đến môi trường được xem như một hạn chế cản trở tăng trưởng
xuất khẩu.
Cùng với đó, lợi thế lao động rẻ cũng ngày càng giảm dần khi
chênh lệch tiền lương lao động ở Việt Nam với các nước giảm dần và
nhu cầu cao trên thị trường thế giới về những hàng hóa có hàm lượng
công nghệ, khoa học ngày càng cao. Do đó, dựa vào mô hình tăng
trưởng theo chiều rộng trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh sẵn có, xuất
khẩu Việt Nam khó có thể duy trì được tốc độ tăng trưởng ở mức cao
trong thời gian tới.
Việc xây dựng mô hình tăng trưởng mới cần phải hướng theo
chiều sâu, dựa vào việc khai thác lợi thế cạnh tranh động để nâng cao
năng suất, chất lượng và hiệu quả xuất khẩu trên cơ sở đẩy mạnh cải
cách thể chế, sử dụng công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại và đồng bộ.
Chuyển từ phát triển xuất khẩu theo chiều rộng sang phát triển
theo chiều sâu, từ việc dựa chủ yếu vào lợi thế so sánh sẵn có (tĩnh)
sang lợi thế cạnh tranh “động” không những là nhân tố quyết định chất
lượng tăng trưởng xuất khẩu, mà còn duy trì được tốc độ tăng trưởng
cao, nâng cao hiệu quả kinh tế, cũng như khả năng cạnh tranh của hàng
hóa xuất khẩu, phù hợp với xu hướng biến đổi của thị trường. Nhờ đó,
Trang 22



hạn chế được rủi ro khi thị trường thế giới có những biến động bất lợi.
Chuyển nền kinh tế từ khai thác và sử dụng tài nguyên dưới dạng thô
sang chế biến tinh xảo hơn, nâng cao giá trị gia tăng từ mỗi một đơn vị
tài nguyên được khai thác.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu
Đối với nhóm hàng nguyên liệu và khoáng sản: Giảm khối
lượng xuất khẩu khoáng sản thô, chuyển dần sang xuất khẩu sản phẩm
chế biến, tận dụng cơ hội thuận lợi về thị trường và giá cả để tăng giá trị
nhóm hàng nhiên liệu và khai khoáng.
Nhóm hàng nông lâm, thủy sản: Khai thác lợi thế của nền nông
nghiệp nhiệt đới để gia tăng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu nông,
lâm, thủy sản; hướng mạnh vào phát triển sản phẩm sạch, giá trị gia
tăng cao, có sức cạnh tranh và vượt được rào cản thương mại mới
ngày càng tinh vi của các nước nhập khẩu.
Đối với nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo và thủ công
mỹ nghệ: Khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu đa dạng,
nguồn lao động dồi dào để phát triển công nghiệp chế biến và chế tạo
sản phẩm thủ công mỹ nghệ có tỷ lệ giá trị trong nước và giá trị gia tăng
cao để phục vụ xuất khẩu, tăng nhanh kim ngạch và hiệu quả xuất khẩu,
tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
Thứ ba, điều chỉnh cơ cấu thị trường xuất khẩu
Về cơ cấu thị trường xuất khẩu, củng cố và mở rộng vững chắc thị
phần của hàng Việt Nam tại thị trường EU, Bắc Mỹ; tạo bước đột phá
mở rộng thị trường xuất khẩu tại Liên bang Nga và Đông Âu, Mỹ La
Tinh, Tây Á, Nam Á và châu Phi. Bên cạnh đó, tiếp tục coi thị trường
châu Á - Thái Bình Dương (Trung Quốc, Indonesia…) là thị trường xuất
khẩu trọng điểm trong 10 năm tới. Xuất khẩu sang các quốc gia và vùng
lãnh thổ này, Việt Nam sẽ tận dụng được lợi thế về khoảng cách địa lý
và nhiều nét tương đồng về văn hóa. Điều này sẽ mang lại một số thuận

lợi trong việc tiếp cận và mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời vẫn
bảo đảm duy trì thị trường trong nước.
Thứ tư, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu
Hàng hóa Việt Nam, đặc biệt là hàng nông sản, dệt may khi tham
gia xuất khẩu vẫn bị xếp vào nhóm hàng gia công, sơ chế hoặc nghiên
liệu thô, tức là giá trị thấp, nên mặc dù khối lượng xuất khẩu lớn, nhưng
giá trị gia tăng không nhiều, dẫn đến giá trị xuất khẩu không cao. Trong
khi đó, không ít mặt hàng xuất khẩu thô từ Việt Nam đưa các hãng phân
Trang 23


phối lớn tiếp tục đóng gói, nhập khẩu lại thị trường Việt Nam với thương
hiệu ngoại. Bởi vậy, để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng xuất khẩu Việt
Nam, Nhà nước nên tập trung cho việc cung cấp thông tin và thực hiện
chiến lược xây dựng thương hiệu đối với những mặt hàng Việt Nam đã
xuất khẩu và được thị trường thế giới chấp nhận, như: gạo, cà phê, thủ
công mỹ nghệ…; từng bước thiết lập hệ thống phân phối tại các nước
và khu vực trên thế giới để mang lại giá trị xuất khẩu cao.
Đồng thời, các nhà sản xuất nỗ lực tiến hành nâng cấp các khâu
để từng bước chuyển từ nhà sản xuất gia công, không tên tuổi thành
nhà sản xuất có thương hiệu riêng, cạnh tranh trên thị trường toàn cầu
bằng chất lượng và tạo ra giá trị gia tăng cao hơn cho mình. Đặc biệt,
nhà sản xuất phải biết gắn mình với thị trường tiêu thụ cuối cùng; cần
học cách không chỉ làm thế nào để tổ chức mạng lưới sản xuất, mà còn
phải học cả cách tiếp thị sản phẩm, tham gia vào dây chuyền phân phối
và đáp ứng các điều kiện về giao hàng và tài chính. Hơn nữa, quá trình
nâng cấp này không chỉ diễn ra ở từng doanh nghiệp riêng lẻ, mà còn
phải được tiến hành ở cấp độ ngành, mạng lưới giữa những doanh
nghiệp cung ứng và khách hàng, cũng như trong toàn nền kinh tế.


CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM

Trang 24


Từ các diễn biến và xu hướng của thương mại thế giới như đã
phân tích ở trên, có thể rút ra một vài định hướng chính sách phù hợp
cho Việt Nam như sau.
Một là, phải có chính sách thương mại đúng đắn, phù hợp nhằm
khai thác triệt để lợi thế so sánh thông qua quan hệ buôn bán quốc tế để
chiếm lĩnh và mở rộng thị trường khu vực và thị trường thế giới cho
mình. Lợi thế so sánh là những điều kiện và khả năng thuận lợi (hoặc
khó khăn) của một nước này so với nước khác trong việc sản xuất cùng
một loại sản phẩm hàng hóa hay kinh doanh và dịch vụ thương mại
trong những thời điểm nhất định, nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất cho
mỗi quốc gia. Lợi thế so sánh thương mại quốc tế bao gồm ba loại: lợi
thế so sánh tự nhiên vốn có, lợi thế so sánh nảy sinh do sự phát triển
của lực lượng sản xuất và lợi thế so sánh phát sinh do đổi mới chủ
trương, chính sách và cơ chế quản lý Nhà nước. Khi nói về lợi thế tuyệt
đối, A-đam Xmít, nhà kinh tế học cổ điển, cho rằng một nước chỉ nên
sản xuất những loại hàng hóa sử dụng tốt nhất các loại tài nguyên sẵn
có của họ để có lợi nhuận cao nhất. Việc tiến hành trao đổi giữa các
quốc gia phải tạo ra lợi ích cho cả hai bên, nếu một quốc gia có lợi còn
quốc gia khác bị thiệt thì họ sẽ từ chối tham gia vào thương mại quốc tế.
Khi tham gia trao đổi mua bán thương mại quốc tế, các quốc gia phải
biết lựa chọn sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa có lợi thế so sánh
tốt nhất và nhập khẩu những hàng hóa mà mình sản xuất bất lợi nhất.
Đây cũng là một bài học mà chúng ta đã rút ra qua hơn 20 năm đổi mới

nền kinh tế. Một số sản phẩm của nước ta đang có lợi thế tuyệt đối trên
thị trường quốc tế cần phải đẩy mạnh xuất khẩu.
Hai là, lựa chọn mặt hàng và thị trường có lợi nhất cho mình để
phát triển và mở rộng quan hệ thương mại quốc tế. Trong quan hệ
thương mại thế giới, cần đa phương hóa, linh hoạt hoá thị trường, mở
rộng buôn bán với nhiều nước. Song ở giai đoạn trước mắt đối với
nước ta kinh tế chưa phát triển cao, các điều kiện về khoa học – kỹ
thuật còn nhiều hạn chế, khả năng cạnh tranh còn yếu, cần lựa chọn
những mặt hàng có chất lượng cao xây dựng thành thương hiệu quốc tế
và những thị trường có khả năng và ưu thế riêng đối với mình để khai
thác và tham gia xuất, nhập khẩu buôn bán thương mại, dịch vụ, trên cơ
sở đó từng bước giành chỗ đứng trên thị trường thế giới.
Ba là, hoàn thiện khung pháp luật cho hoạt động thương mại cả ở
thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Đây là vấn đề hết sức
cần thiết để phát triển lành mạnh thị trường trong nước làm cơ sở hậu
phương cho phát triển thị trường ngoài nước. Thị trường trong nước
phát triển vững chắc là điều kiện quan trọng để mở rộng thị trường ra
ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu và chủ động nhập khẩu của nước ta,
Trang 25


×