Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tham nhũng và phòng chống tham nhũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.07 KB, 12 trang )

TUYỂN TẬP TÀI LIỆU HAY-HIẾM

THAM NHŨNG VÀ PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG

1


Câu 1:Tham nhũng vẫn xuất hiện, tồn tại và có lúc gia tăng trong xã hội nước ta hiện
nay?
Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền
hạn đó vì vụ lợi. (Luật Phòng, chống tham nhũng Việt Nam)
Tham nhũng là hành vi của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái
pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân.(Tổ chức Minh bạch Quốc tế).
Tham nhũng xuất hiện từ rất sớm từ khi có sự phân chia quyền lực và hình thành nhà
nước và lòng tham của con người. Nói cách khác tham nhũng gắn với vấn đề quyền lực và
lợi ích cá nhân. Nguồn gốc của nó gắn liền với yếu tố lịch sử hình thành Nhà nước và pháp
luật cũng như những yếu tố tâm lý – xã hội. Tham nhũng và tham ô thường xuất hiện nhiều
hơn từ các nước có nền kinh tế kém phát triển. Tại các nước này con người thường có ý đồ
nắm các cương vị cao trong hàng ngũ lãnh đạo để tham nhũng. Đối với một số nước kinh tế
phát triển, có mức thu nhập bình quân/đầu người cao, các cá nhân có sở hữu tài sản lớn mới
bắt đầu tham gia chính trường để làm lãnh đạo.
Tham nhũng luôn gắn bó chặt chẽ với quá trình tồn tại và phát triển của bộ máy nhà
nước. Do vậy, tệ nạn tham nhũng diễn ra ở khắp các quốc gia không phân biệt chế độ chính
trị, trình độ phát triển và ở tất cả các lĩnh vực.Tham nhũng là biểu hiện sự tha hoá trong sử
dụng quyền lực nhà nước. Nhà tư tưởng Montsquieue đã khẳng định: “mọi người có quyền
lực đều có xu hướng lạm dụng quyền lực đó”. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm: “chống
bệnh quan liêu tham ô, lãng phí” đã chỉ ra: “Tham ô, lãng phí và quan liêu dù cố ý hay không
cũng là bọn đồng minh của thực dân phong kiến” “ Những kẻ tham ô, lãng phí và quan liêu
thì phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ và nhân dân” “Trộm
cắp tiền bạc của nhân dân, làm tổn hại kinh tế của Chính phủ cũng là mật thám, phản quốc,
nếu không phải là tệ hại hơn.”


Ở nước ta hiện nay, tham nhũng đang là một quốc nạn, được coi là một căn bệnh nguy
hiểm, là mối đe doạ đối với toàn xã hội. Tham nhũng làm suy kiệt nền kinh tế của đất nước,
làm giảm lòng tin của nhân dân đối với chế độ, là một thách thức to lớn đối với hệ thống
pháp luật và việc thực thi pháp luật ở nước ta.
Mức độ tham nhũng nặng nề ở Việt Nam, tính nan giải, khó trị của nó được lý giải từ
sự yếu kém của thể chế, tính nửa vời trong chỉ đạo thực hiện và sự thoái hóa của không ít
quan chức, công chức trong bộ máy, thậm chí tham nhũng có cả trong hoạt động tư pháp,
trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Tình trạng pháp luật có, pháp chế cũng có nhưng
pháp trị thì không hoặc yếu kém và hình thức, là một thực tế phổ biến hiện nay(1).
Có những nguyên nhân sâu xa và trực tiếp, có những nguyên nhân khách
quan và chủ quan dẫn tới tham nhũng ở Việt Nam. Bước chuyển sang kinh tế thị trường
cùng với mở cửa ra thế giới bên ngoài và hội nhập quốc tế (trên dưới một thập kỷ nay) đã tạo
ra xung lực mạnh cho sự phát triển năng động của nền kinh tế nước ta. Cùng với kinh tế tăng
trưởng và phồn vinh, xã hội ta cũng đang biến đổi mạnh về cơ cấu với sự đa dạng các giai
tầng, các nhóm xã hội - nghề nghiệp. Đó là một xu hướng tích cực. Song, nước ta chưa có
một nền kinh tế thị trường hiện đại, thành thục và văn minh theo đúng nghĩa của nó. Văn hóa
kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp và văn hóa doanh nhân cũng chưa định hình các chuẩn
mực và giá trị.
2


Tính sơ khai, hoang dã của kinh tế thị trường phôi thai vẫn còn mạnh, nó chứa
đầy những tiêu cực, tệ nạn với sức mạnh của đồng tiền, của sự trỗi dậy chủ nghĩa cá nhân vụ
lợi, vị kỷ cực đoan, kích thích tâm lý hưởng thụ và làm giàu bằng mọi giá. Nhà nước pháp
quyền còn đang trong quá trình xây dựng. Xã hội chưa trưởng thành về dân chủ và văn hóa
dân chủ. Trên con đường hiện đại hóa để trở thành xã hội hiện đại “dân chủ, công bằng, văn
minh” chúng ta vấp phải vô số nhiều những lực cản, cả hữu hình lẫn vô hình kìm hãm phát
triển. Những tàn dư lạc hậu, lỗi thời, cùng với những tì vết của thực dân - phong kiến còn kết
đọng rất nặng nề, chưa giải tỏa hết. Trình độ phát triển của nước ta chưa đạt tới trình độ
một nước công nghiệp nên chưa có đầy đủ những tất yếu cho việc giải thể cấu trúc xã hội cổ

truyền để xác lập cấu trúc xã hội hiện đại dân chủ - pháp quyền. Những hạn chế, yếu kém,
bất cập trong quản lý, chất lượng thấp của giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ cũng
như dịch vụ xã hội, môi trường xã hội dân chủ, công khai, minh bạch thông tin, sự thấp kém
và không đồng đều về trình độ học vấn, văn hóa giữa các vùng miền, giữa các đối tượng xã
hội, từ người dân đến công chức, quan chức… đều bắt nguồn từ những hạn chế lịch sử đó.
Nhưng trực tiếp dẫn đến tham nhũng, dung dưỡng tham nhũng, làm cho tham nhũng
trở thành vấn nạn đến mức nguy hiểm lại thuộc về chủ quan trong hệ thống tổ chức bộ máy,
trong các cơ quan lãnh đạo, quản lý với luật pháp - cơ chế - chính sách chứa đựng rất nhiều
bất ổn đang phải ra sức sửa chữa, tháo gỡ. Đó là:
Thứ nhất, hệ thống tổ chức bộ máy cồng kềnh, tầng nấc, quan liêu nặng nề. Quan liêu
cũng là một vấn nạn không kém gì so với tham nhũng. Cải cách hành chính và cải cách tư
pháp không triệt để, mục tiêu xây dựng một nền hành chính công minh bạch, phục vụ người
dân và doanh nghiệp không đạt được như mong muốn, nhất là cải cách thủ tục hành chính.
Thứ hai, hệ thống thể chế luật pháp và tổ chức thực hiện, thi hành luật pháp
không đồng bộ, chất lượng thấp, hiệu lực yếu, hiệu quả kém. Vừa bị “rừng luật” cản trở vừa
bị “luật rừng” thao túng. Chức năng phục vụ dân sinh xã hội của Nhà nước không được phát
huy lành mạnh. Các quan hệ Dân chủ -Pháp luật, kỷ cương; Công dân - Nhà nước; công
chức, viên chức với công dân không rành mạch, sáng tỏ do thiếu công khai, minh bạch, thiếu
vắng trách nhiệm và chế độ trách nhiệm.
Thứ ba, chính sách lạc hậu, đặc biệt là chính sách tiền lương lại thêm tác động của lợi
ích nhóm dẫn tới tiêu cực trong hoạch định và thực thi chính sách. Tình huống đã xuất hiện:
chính sách phục vụ dân hay phục vụ lợi ích nhóm? Bất bình, phản ứng của dân xoay quanh
vấn đề này. Tham nhũng trong chính trị, trong chính sách làm quyền lực chân chính bị tha
hóa, suy thoái, hư hỏng ngày càng trầm trọng trong một bộ phận quan chức, công chức, viên
chức gây tổn hại tới lợi ích và cuộc sống của dân.
Thứ tư, kiểm soát quyền lực chậm trễ, không rõ ràng cả trong nhận thức và hành động.
Dân chủ biến thành “quan chủ” đúng như điều mà Hồ Chí Minh đã cảnh báo. Phản biện, tư
vấn, kiểm tra, giám sát yếu kém vừa làm cho dân chủ chậm phát triển, vừa không ngăn chặn
được tham nhũng, tiêu cực ngay trong bộ máy.
Thứ năm, đội ngũ công chức thiếu tính chuyên nghiệp. Hoạt động điều hành quản lý

thiếu tính hiện đại. Văn hóa từ chức, văn hóa xin lỗi chậm hình thành, không được thực hiện
nghiêm túc, lại có nguy cơ bị hình thức hóa.
Thứ sáu, cơ chế dùng người, đặt người vào công việc bộc lộ nhiều bất ổn. Thiếu động
lực cho tài năng phát lộ, phát triển. Nhân tài, hiền tài, tinh hoa khó, thậm chí không vào được
3


bộ máy. Cơ chế “xin - cho”, “lợi ích nhóm”, “tư duy nhiệm kỳ” là nơi dung dưỡng cho tham
nhũng phát triển.
Thứ bảy, trình độ học vấn, văn hóa, nhất là văn hóa pháp luật thấp, không chỉ ở
dân thường mà còn ở tầng lớp có học thức, ở cả công chức, viên chức và quan chức.
Coi thường pháp luật còn diễn ra phổ biến.
Thứ tám, bất công xã hội còn nhiều. Phân hóa thu nhập, phân hóa giàu nghèo có xu
hướng gia tăng. Không kiểm soát được biến động tài sản và thu nhập, nhất là xử lý tình trạng
giàu lên nhanh chóng một cách phi pháp, ngoài lao động.
Thứ chín, tình trạng hư danh, hám danh, tham chức, tham quyền, trục lợi kèm theo sự
suy đồi đạo đức, dư luận xã hội tích cực phát triển một cách yếu ớt, không tạo được áp lực đủ
mạnh chống tham nhũng.
Thứ mười, sự thiếu gương mẫu của không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý, kể cả ở cấp cao.
“Thượng bất chính hạ tất loạn…”. Tổng kết phòng ngừa, răn đe của người xưa để phòng
tránh đã không tránh được, lại đã hiện hình trong bộ máy, trong những người nắm giữ chức,
quyền ngày nay.
Câu 2: Tại sao giải pháp minh bạch tài sản, thu nhập của cán bọ công chức chưa
thực sự phát huy hiệu quả đối với phòng ngừa tham nhũng?
Công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức là một trong những
công cụ quan trọng góp phần tăng cường tính minh bạch của bộ máy nhà nước, sự liêm chính
của cán bộ, công chức; đồng thời, qua đó cũng giúp cơ quan quản lý nhà nước giám sát,
phòng ngừa các hành vi sai trái của cán bộ, công chức, ngăn chặn, làm giảm thiểu nguy cơ
làm giàu bất chính...
Theo quy định tại Điều 4, Nghị định số 78/2013/NĐ-CP ngày 17.7.2013 của Chính

phủ quy định về minh bạch tài sản, thu nhập thì mục đích của việc kê khai tài sản, thu nhập là
để cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền biết được tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ
kê khai nhằm minh bạch tài sản, thu nhập của người đó; phục vụ cho công tác quản lý cán
bộ, công chức, viên chức góp phần phòng ngừa và ngăn chặn hành vi tham nhũng.
Người có nghĩa vụ kê khai có trách nhiệm tự kê khai các thông tin theo quy định tại
mẫu Bản kê khai và chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, đầy đủ đối với nội dung
kê khai…Mặc dù, quy định của pháp luật là rõ ràng, cụ thể nhưng việc triển khai thi hành
chưa hiệu quả, mục đích ngăn chặn hành vi tham nhũng không đạt được.
Thực tiễn quy định về việc kê khai tài sản thu nhập thời gian qua chỉ có mục đích là
bổ sung hồ sơ để đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, công chức vào chức vụ khác hoặc cao hơn. Tinh
thần trách nhiệm, trung thực trong việc kê khai tài sản thu nhập của cán bộ, công chức chưa
được đề cao; cơ quan có thẩm quyền chưa thực hiện nghiêm túc việc kiểm tra, xác minh tài
sản, thu nhập, do đó, người kê khai tài sản, thu nhập dễ dàng che dấu tài sản bất hợp pháp,
tham nhũng, qua mặt các cơ quan chức năng.
Mặt khác, cũng phải thừa nhận rằng việc xác minh, tài sản, thu nhập của người phải
kê khai để kết luận là có trung thực hay không là rất khó khăn, vì vậy, cũng không thể đổ lỗi
cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc kiểm tra, giám sát tài sản, thu nhập cán bộ, công
chức.
4


Quá trình kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức chỉ là
phần tài sản “nổi”, còn phần tài sản “chìm” thì khó có thể xác định, khi những tài sản “chìm”
rơi vào cảnh “cháy nhà mới ra mặt chuột” thì lúc đó mới phát hiện. Ví dụ, nhà cán bộ, công
chức bị trộm đột nhập, lấy đi hàng chục tỉ đồng tiền mặt, khi bị bắt, kẻ trộm thú nhận đã lấy
số tiền trên thì lúc này cơ quan có thẩm quyền mới phát hiện việc kê khai tài sản, thu nhập là
không trung thực. Tuy nhiên, những trường hợp này ít khi xảy ra; hoặc trường hợp khác, phát
hiện kê khai tài sản không trung thực của cán bộ, công chức thông qua việc tiếp nhận, giải
quyết các đơn thư phản ánh, khiếu nại, tố cáo của các tổ chức, cá nhân …
Bên cạnh đó, tình trạng tham nhũng ở nước ta ngày càng phức tạp, biến tướng; tài sản

tham nhũng được che đậy hết sức tinh vi, đối tượng tham nhũng kịp thời tẩu tán tài sản như
đứng tên chủ sở hữu là người thân, họ hàng hoặc những người khác và có thỏa thuận ngầm.
Đặc biệt, là đối tượng tham nhũng thường mở tài khoản hoặc sở hữu tài sản ở nước ngoài,
dẫn đến việc xác minh tài sản, thu nhập hoặc thu hồi tài sản nếu xử lý hành vi tham nhũng là
cực kỳ khó khăn.
Để giải quyết bất cập trong công tác kê khai tài sản, thu nhập, thì việc xem xét sửa
đổi, bổ sung Luật Phòng, chống tham nhũng trong thời gian tới là cần thiết để ngăn ngừa
tham nhũng. Trong đó, cần phải có cơ chế ràng buộc cán bộ, công chức phải công khai tài
khoản ngân hàng để cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, giám sát; cấm cán bộ, công chức mở
tài khoản nhưng không báo cáo, nhất là các tài khoản nước ngoài; cấm cán bộ, công chức sở
hữu tài sản ở nước ngoài; cơ quan nhà nước thực hiện nghiêm túc trả lương và các chế độ
chính sách cho cán bộ, công chức phải thông qua tài khoản ngân hàng; tổ chức xác minh,
công khai kết quả xác minh bản kê khai tài sản, thu nhập ở cơ quan, nơi cư trú của cán bộ,
công chức.
Khi phát hiện tài sản bất minh hoặc giải trình về nguồn gốc tài sản không trung thực,
không hợp lý, có dấu hiệu cho thấy tài sản hình thành do tham nhũng thì phải tịch thu, sung
công quỹ và xử lý theo quy định của pháp luật. Có như vậy, việc kê khai tài sản trong thời
gian tới mới thực chất, hiệu quả, góp phần quan trọng trong công tác phòng ngừa và đấu
tranh với tội phạm tham nhũng.
=>Kinh nghiệm thế giới đã rút ra ít nhất bốn yếu tố giúp việc kê khai, minh bạch tài
sản và thu nhập thành công:
Một là,cần phải khoanh vùng những quan chức bắt buộc phải kê khai, tập trung vào
các ngành và nhóm dễ tham nhũng nhất để tiện quản lý.
Hai là, cần phải thẩm tra kỹ lưỡng các bản kê khai để định ra các khuôn khổ động cơ
của các quan chức, tổ chức và duy trì tính đáng tin cậy của hệ thống.
Ba là, khi đã thẩm tra xong, tính hiệu quả phụ thuộc rất nhiều vào khả năng chế tài đối
với các quan chức không kê khai, kê khai không trung thực và trừng phạt nếu tài sản không
tương ứng với thu nhập.
Bốn là, việc người dân được tiếp cận với tài liệu kê khai tài sản cũng giúp giảm đáng
kể nạn tham nhũng.


5


Câu 3: Công khai, minh bạch được cho là khâu đột phá trong công tác phòng,
chống tham nhũng.
- Tham nhũng diễn ra có tính chất phổ biến, trên nhiều lĩnh vực bằng những thủ đoạn
tinh vi, thì cần có những giải pháp mang tính chất đột phá nhằm nâng cao hiệu quả phòng,
chống tham nhũng. Trên hương diện phòng ngừa tham nhũng cần tiếp tục đẩy mạnh, tăng
cường công tác công khai minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị và công
khai, minh bạch tài sản, thu nhập, xem đây là khâu đột phá, là chiếc chìa khóa then chốt
nhằm đảm bảo đấu tranh phòng chống tham nhũng thành công.
- Tổ chức thực hiện nghiêm, triệt để quy định về công khai, minh bạch trong hoạt
động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức,
viên chức là chủ trương lớn của Đảng, chính sách pháp luật quan trọng của Nhà nước ta.
- Công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị không những
tạo điều kiện cho cán bộ, công chức, viên chức nhà nước cũng như nhân dân thấy được
quyền lợi và nghĩa vụ của mình mà còn có ý thức trách nhiệm trong quá trình thực thi công
vụ, thực hiện quyền giám sát của mình.
- Công khai, minh bạch hóa hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã
hội và các đơn vị hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp… một mặt góp phần ngăn chặn các
hành vi sách nhiễu, cửa quyền, lợi dụng chức quyền để tham nhũng và mặt khác góp phần
hạn chế, khắc phục tệ hối lộ vì động cơ, mục đích vụ lợi.
- Minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ có chức vụ, quyền hạn, nhất là những cán bộ,
công chức làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị cũng như ở những lĩnh vực nhạy cảm
như: Tài chính, ngân hàng, hải quan, thuế, đầu tư xây dựng, tổ chức cán bộ, thừa hành pháp
luật… là một trong những biện pháp rất quan trọng trong phòng ngừa, phát hiện, điều tra, xử
lý tham nhũng. Quy định này còn có ý nghĩa đối với việc giáo dục, quản lý, ngăn ngừa cán
bộ, đảng viên tham nhũng.
Câu 4: Tham nhũng trong khu vực tư nhân? Lý giải tại sao có vấn đề này?(sách

giáo trình) tham khảo phần này.
Nguồn lực ở “khu vực tư” của xã hội Việt Nam so với những năm trước đây đã thay
đổi và lớn mạnh hơn trước rất nhiều. Khu vực tư trong nền kinh tế không chỉ là đối tượng
được cung cấp các dịch vụ của nhà nước mà còn là đối tượng cung cấp các dịch vụ cho nhà
nước. Các công ty tư nhân, các tập đoàn kinh tế có thể trở thành các “đối tác” lớn của nhà
nước trong việc cung cấp các dịch vụ hành chính công, giao thông, xây dựng, giáo dục, y tế
cho đến việc cung cấp vật tư, hàng hoá, phương tiện kỹ thuật cho an ninh, quốc phòng, cũng
như hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung.
Để có được những hợp đồng cung cấp các dịch vụ cho nhà nước, nhà tư bản có thể
phải thực hiện hành vi hối lộ các quan chức nhà nước để được quyền cung cấp dịch vụ (hối
lộ trong lĩnh vực công); và ngược lại, trong việc mua sắm tài sản công… những người có
chức vụ hoặc được nhà nước giao quyền có thể phải thực hiện hành vi hối lộ các ông chủ
hoặc người có chức vụ trong các công ty để “giảm giá” hoặc “hợp thức” các hợp đồng,
chứng từ… để có thể chiếm đoạt tài sản của nhà nước hay mưu cầu các lợi ích riêng - (hối lộ
trong lĩnh vực tư)1.
1

6


Sự thay đổi lớn của các chính sách kinh tế, xã hội của Việt Nam trong những năm gần
đây làm cho sự tăng trưởng, phát triển và đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng
nhiều cho việc phát triển kinh tế, xã hội của đất nước cũng như hoạt động của bộ máy nhà
nước. Bên cạnh đó các đơn vị, pháp nhân, cá nhân còn tham gia ngày càng nhiều vào việc
thực hiện các dịch vụ công như công chứng (tư), giám sát, giám định, phiên dịch, cung cấp
vật tư, hàng hoá (cho hoạt động mua sắm tài sản công)… Không ít trường hợp người có chức
vụ quyền hạn, ông chủ của các doanh nghiệp “trong khu vực tư” nhận tiền, tài sản để làm
những việc sai trái theo yêu cầu của người đưa tiền, tài sản. Để xác định đúng bản chất pháp
lý cho các hành vi này thì việc nội luật hoá quy định tại Điều 21 Công ước, tức là bổ sung
thêm hành vi “tham nhũng trong lĩnh vực tư” là rất cần thiết. Tuy nhiên điều cần lưu ý là:

việc nội luật hoá đối với hành vi hối lộ, biển thủ trong khu vực tư phải được giới hạn đối với
trường hợp mà hậu quả pháp lý của các hành vi này có liên quan đến việc công hoặc tài sản
công.
Vấn đề để căn cứ phân tích đặc điểm của hành vi tham nhũng
Chúng ta có thể nhận thấy hành vi tham nhũng có các đặc điểm sau:
Thứ nhất: tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn.
Theo quy định tại Điều 1 Luật phòng, chống tham nhũng: “Tham nhũng là hành vi…
lợi dụng chức vụ, quyền hạn…”. Điều này cho thấy chủ thể của hành vi tham nhũng phải là
người có chức vụ, quyền hạn. Bởi vì, chỉ khi “có chức vụ, quyền hạn” người ta mới có thể
“lợi dụng chức vụ quyền hạn”. Chức vụ quyền hạn mà chủ thể của hành vi tham nhũng có
được có thể do được bầu cử, do được bổ nhiệm, do hợp đồng… Chức vụ quyền hạn phải
gắn với quyền lực nhà nước trong các lĩnh vực và các cơ quan khác nhau: cơ quan lập
pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức kinh tế Nhà nước hoặc lực lượng vũ trang nhân dân từ trung ương đến địa phương.
Đây là dấu hiệu để phân biệt hành vi tham nhũng với những hành vi vi phạm pháp luật
khác tuy cũng có yếu tố vụ lợi nhưng không phải là tham nhũng vì nó được thực hiện bởi
những người không có chức vụ, quyền hạn như hành vi trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, buôn lậu…
Thứ hai: khi thực hiện hành vi tham nhũng, người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng
chức vụ, quyền hạn của mình làm trái pháp luật để mưu lợi riêng. Người có hành vi tham
nhũng sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình như một phương tiện để thực hiện hành vi trái
pháp luật. Nếu không có chức vụ, quyền hạn đó họ sẽ không thể thực hiện được hoặc khó có
thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật để đáp ứng nhu cầu hưởng lợi (trái pháp luật) của
bản thân. Ví dụ: nếu không phải là thủ kho thì A không thể hoặc khó có thể lấy được tài sản
trong kho làm tài sản riêng của mình. Việc lợi dụng (sử dụng) chức vụ, quyền hạn là thủ kho
trong trường hợp này đã giúp A đạt được mục đích hưởng lợi ích vật chất trái pháp luật. Đó
chính là tham nhũng. Việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái pháp luật cũng là dấu hiệu
đặc trưng của hành vi tham nhũng. Mặt khác, không phải khi nào người có chức vụ, quyền
hạn làm trái pháp luật cũng có yếu tố lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền
hạn nhưng khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật lại không lợi dụng chức vụ, quyền hạn

của mình thì hành vi vi phạm đó không phải là tham nhũng. Ví dụ, trường hợp một công
chức có hành vi trộm cắp tài sản của người khác hoặc của cơ quan, tổ chức khác. Hành vi
trộm cắp tài sản và chức vụ của người đó không liên quan với nhau trong trường hợp này.
7


Hành vi trộm cắp tài sản có thể được thực hiện bởi bất kỳ người nào không có chức vụ quyền
hạn hoặc có chức vụ, quyền hạn nhưng chức vụ quyền hạn đó không liên quan đến việc quản
lý, bảo vệ tài sản. Như vậy, dấu hiệu lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái pháp luật là một
dấu hiệu không thể thiếu của hành vi tham nhũng.
Thứ ba: động cơ của người có hành vi tham nhũng là vì vụ lợi. Người có chức vụ,
quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn - sử dụng trái pháp luật quyền hành mà nhà nước
trao cho để mưu cầu lợi ích riêng. Hành vi của họ không xuất phát từ nhu cầu công việc hay
trách nhiệm của người cán bộ, công chức mà vì lợi ích riêng (cá nhân hay đơn vị mình).
Thiếu yếu tố vụ lợi thì hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn, làm trái công vụ của cán bộ công
chức cũng không bị coi là “tham nhũng” nói chung hay tội phạm về tham nhũng nói riêng.
Hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ quyền hạn làm trái pháp luật mưu lợi riêng tham nhũng đã xuất hiện và tồn tại trong xã hội từ rất sớm. Việc ban hành và áp dụng các văn
bản pháp luật, đặc biệt là các văn bản pháp luật để xử lý nghiêm minh các hành vi tham
nhũng được coi là công cụ hữu hiệu trong việc phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng ở
mỗi quốc gia.

Câu 5: Mối quan hệ biện chứng giữa phòng và chống tham nhũng?
Phòng tham nhũng

Chống tham nhũng
Mối quan hệ

Thống
nhất


Tác
động
qua
lại

Quy
định
lẫn
nhau

Mâu
thuẫn

Hỗ
trợ
nhau

Chuyển
hóa lẫn
nhau

Phòng
mang
tính

Chống
mang
tính

8



Mang
tính xã
hội (nhân
dân)

Thuộc
phạm trù
đạo đức;
mang tính
căn bản,
lâu dài
(loại trừ
gốc rễ
TN)

Tuyên
truền,
giáo dục,
thuyết
phục

Nêu
gương,
hướng
thiện

Xử lý;
kỷ luật;

trừng
phạt

Phạm trù
Pháp luật,
mang tính
trước mắt

Trách
nhiệm
của các
cơ quan
Nhà nước

=>Nắm vững mối quan hệ giữa phòng và chống, trong tình hình hiện nay, phải hết sức
nghiêm khắc với hiện tượng tham nhũng, cần duy trì nghiêm công tác chống tham nhũng, giữ
nghiêm kỷ luật, kỷ cương, bất kể phát sinh ở đâu, thời gian nào, liên quan đến ai đều phải
được điều tra, xử lý một cách triệt để, quyết không nhân nhượng, không chùn bước. Hệ thống
pháp luật trước tiên là để cảnh báo giáo dục những người có chức, có quyền, sau đó là phải
đủ sức răn đe để họ không dám tham nhũng. Mặt khác, cần chú trọng công tác phòng ngừa
tham nhũng, xây dựng các quy chế, chính sách tiền lương, quy định về đạo đức nghề nghiệp
của cán bộ, công chức...

Tóm lại: =>>>Tham nhũng là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, là một biểu
hiện của sự lợi dụng hay lạm dụng quyền lực nhà nước, vì vậy, nó gắn liền với quyền lực
nhà nước và được thực hiện bởi chủ thể được nhà nước trao quyền. Phòng chống tham
nhũng, lãng phí là công việc khó khăn, phức tạp, là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên
của Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khó
khăn không phải là không có cách giải quyết, vấn đề cót lõi là nằm ở sự quyết tâm của
toàn bộ hệ thống chính trị. Để hiện thực hóa mục tiêu này, Trong thời gian tới cần tập

trung vào các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau đây:
1 - Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền,
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng chống tham nhũng, lãng phí. Nâng
cao vai trò, trách nhiệm, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng, tính tiên phong, gương
mẫu của cán bộ, đảng viên. Cơ quan Kiểm tra của Đảng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
có chức năng phòng chống tham nhũng của Nhà nước để kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử lý
kịp thời và công khai kết quả xử lý tổ chức, cán bộ, đảng viên có vi phạm.

9


2 - Tiếp tục hoàn thiện thể chế về quản lý kinh tế - xã hội để phòng chống tham
nhũng, lãng phí. Sớm sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai và pháp luật liên quan đến quản lý, sử
dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản. Hoàn thiện các quy định để quản lý, kiểm soát chặt chẽ
việc thu, chi ngân sách; việc chi tiêu công, nhất là mua sắm và đầu tư công. Hoàn thiện thể
chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn của Nhà nước. Hoàn thiện cơ
chế, chính sách để kiểm soát chặt chẽ hoạt động tín dụng, đầu tư xây dựng.
3 - Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế, chính sách về công tác tổ chức,
cán bộ để phòng chống tham nhũng, lãng phí. Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong
công tác cán bộ, nhất là trong các khâu tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm, điều động, luân
chuyển, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật…
4 - Tiếp tục hoàn thiện thể chế và tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm
toán, điều tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng, lãng
phí. Đẩy nhanh tiến độ xử lý các vụ việc tham nhũng, lãng phí nghiêm trọng, phức tạp mà dư
luận xã hội quan tâm. Tập trung kiểm tra, thanh tra, kiểm toán đối với một số lĩnh vực trọng
điểm; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thanh tra, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ
việc, vụ án tham nhũng; xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm, gây lãng phí.
5 - Tăng cường vai trò giám sát của cơ quan dân cử và nhân dân trong phòng chống
tham nhũng, lãng phí. Ban hành quy chế về việc nhân dân giám sát tổ chức Đảng và cán bộ,
đảng viên. Có biện pháp bảo vệ an toàn và kịp thời biểu dương, khen thưởng những cán bộ,

đảng viên, người dân dũng cảm tố cáo, phát hiện hành vi tham nhũng, lãng phí và những tập
thể, cá nhân có thành tích đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.
6 - Đổi mới, nâng cao năng lực của cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo và cơ quan thường
trực, tham mưu về công tác phòng chống tham nhũng. .
Trách nhiệm của công dân trong phòng, chống tham nhũng
Việc phòng, chống tham nhũng không chỉ là trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội mà còn là trách nhiệm của mỗi công dân.
- Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về phòng, chống tham nhũng;
- Lên án, đấu tranh với những người có hành vi tham nhũng;
- Phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng;
- Hợp tác với các cơ quan có thẩm quyền trong việc xác minh, xử lý hành vi tham
nhũng;
- Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp
luật về phòng, chống tham nhũng;
- Góp ý kiến xây dựng pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong phòng, chống tham nhũng
10


Thanh tra Chính phủ (TTCP) vừa tổ chức Hội thảo khoa học “Vai trò của các cơ quan Nhà
nước trong việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng - Thực trạng và giải pháp”. Tại đây,
nhiều vấn đề “nóng” liên quan đến vấn nạn tham nhũng và những tồn tại từ công tác phòng,
chống tham nhũng (PCTN) đã được phân tích, chỉ rõ.

Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh phát biểu khai mạc Hội thảo
Thanh tra và KTNN góp phần quan trọng trong PCTN
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh khẳng định,
tham nhũng và lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều cấp, ngành, nhiều lĩnh vực với
phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt và làm giảm sút lòng tin của

nhân dân. Cùng với việc tăng cường và kiện toàn hệ thống văn bản pháp luật đối với công tác
PCTN, công tác đấu tranh chống tham nhũng trên mọi mặt trận đã đạt được những kết quả
đáng ghi nhận. Các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán có sự phối hợp thường xuyên, chặt
chẽ hơn. Số vụ án tham nhũng được điều tra, truy tố, xét xử với số lượng lớn, bình quân mỗi
năm khởi tố 282 vụ/600 bị can.
Sau 6 năm triển khai Luật PCTN, toàn ngành Thanh tra và các cấp, các ngành đã triển khai
62.994 cuộc thanh tra, kiểm tra, đã kết thúc 52.671 cuộc; kiến nghị xử lý kỷ luật hành chính
đối với 1.619 tập thể, 11.973 cá nhân; chuyển cơ quan điều tra xử lý 464 vụ việc; kiến nghị
thu hồi NSNN 20.743,8 tỷ đồng, 3.793.978 USD. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2013,
ngành Thanh tra phát hiện 73 vụ, 80 đối tượng có hành vi liên quan đến tham nhũng với số
tiền 117 tỷ đồng, kiến nghị thu hồi 115 tỷ đồng; đã thu 59 tỷ đồng, kiến nghị xử lý hành
chính đối với 4 tập thể, 28 cá nhân, chuyển cơ quan điều tra hình sự 11 vụ, 34 đối tượng, xử
lý trách nhiệm 3 người đứng đầu.
Sau 6 năm thực hiện Luật PCTN (tính đến hết năm 2012), KTNN đã tiến hành kiểm toán 903
cuộc kiểm toán, qua đó phát hiện và kiến nghị xử lý tài chính 121.100 tỷ đồng. Qua kiểm
toán, KTNN đã phát hiện và kiến nghị xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân hàng trăm vụ việc;
trong đó, riêng năm 2012, KTNN đã chuyển hồ sơ 4 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật
sang cơ quan Cảnh sát điều tra để điều tra, làm rõ. Tính đến hết tháng 6/2013, toàn ngành đã
triển khai 75/143 cuộc kiểm toán, kết thúc 52 cuộc kiểm toán, phát hành 5 báo cáo kiểm toán.
Chỉ tính riêng 5 báo cáo kiểm toán đã phát hành đã kiến nghị xử lý về tài chính 83,3 tỷ đồng.
Đánh giá về vai trò của KTNN trong việc phát hiện và PCTN, TS. Nguyễn Quốc Hiệp - Viện
trưởng Viện Khoa học Thanh tra (TTCP), cho biết: Kết quả kiểm toán của KTNN là nguồn
thông tin rất có giá trị trong PCTN. Hoạt động kiểm toán của KTNN góp phần rất ý nghĩa
vào việc ngăn chặn kịp thời những biểu hiện tiêu cực xâm hại tài sản đất nước và sự tha hoá,
biến chất đội ngũ cán bộ quản lý.
Thông qua việc xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng đã giúp các cấp, các ngành phát hiện
những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế - xã hội, từ đó giúp cơ quan lập pháp bổ sung cơ
11



chế, chính sách, khắc phục những tồn tại, yếu kém, đưa ra các giải pháp phòng ngừa tiêu cực,
tham nhũng phù hợp hơn...
Tăng cường phối hợp xử lý vi phạm về tham nhũng
Cùng với những kết quả đạt được đáng ghi nhận, thời gian qua, công tác PCTN vẫn còn
nhiều hạn chế. Đó là: Việc vận dụng một số chủ trương, chính sách và áp dụng các quy định
pháp luật về PCTN chưa sát với tình hình thực tiễn, thiếu hiệu quả (như minh bạch tài sản,
thu nhập của cán bộ, công chức); xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham
nhũng còn mang tính hình thức, chưa phát huy nhiều tác dụng trong PCTN. Việc xác định
đúng đắn dấu hiệu của hành vi, tính chất và mức độ của vụ việc tham nhũng cũng như trách
nhiệm của những người vi phạm đòi hỏi có nhiều thời gian, hiểu biết pháp luật, chuyên môn,
điều này cũng khiến cho công tác xử lý tham nhũng gặp nhiều khó khăn. Một thực tế khác
được TS. Nguyễn Quốc Hiệp chỉ ra, đó là: dù các cơ quan như Thanh tra, KTNN đã phát
hiện sai phạm, thất thoát về tiền, tài sản lớn, nhưng hầu hết là kiến nghị xử lý hành chính, số
vụ việc chuyển cơ quan điều tra xử lý còn ít.
TS. Trần Văn Đạt - Phó Vụ trưởng Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật (Bộ Tư
pháp), cho biết, hậu quả do hành vi tham nhũng gây ra năm 2011 là hơn 11 nghìn tỷ đồng,
tuy nhiên việc thu hồi đạt tỉ lệ rất thấp - khoảng 300 tỷ đồng, tương ứng với 2,6%, tức là còn
tới 97,4% chưa và không thu hồi được. Nguyên nhân, theo TS. Đỗ Văn Đương - Phó Chủ
nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, do tâm lý nể nang, né tránh nên nhiều nơi chưa kiên
quyết chuyển các vụ việc có dấu hiệu tội phạm cho các cơ quan điều tra xem xét để xử lý
hình sự. Việc xử lý nhiều vụ việc tham nhũng còn kéo dài, trong đó số vụ án do Cơ quan
điều tra Bộ Công an thụ lý điều tra chiếm xấp xỉ 70%.
Hội thảo cũng thống nhất ý kiến cần phát huy tối đa vai trò của các cơ quan Nhà nước trong
việc phát hiện, xử lý tham nhũng, trong đó, sự tăng cường phối hợp và quyết liệt trong xử lý
sai phạm đóng vai trò quyết định, góp phần đẩy lùi tham nhũng. “Hiện tại, TTCP đã triển
khai xây dựng hệ thống dữ liệu chung về PCTN tiến tới sẽ mở rộng đến các cơ quan ở Trung
ương có chức năng về PCTN như KTNN, Bộ Công an; đẩy mạnh hơn mối liên kết trong
PCTN giữa các cơ quan trong tương lai” - Phó Cục trưởng Cục Chống tham nhũng (TTCP)
Ngô Mạnh Hùng cho biết.
Theo Báo Kiểm toán (Số 29/2013)


12



×