Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MACLENIN (PHẦN 1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.38 KB, 34 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI VẤN ĐÁP HẾT HỌC PHẦN

1

1


ĐỀ CƯƠNG ÔN THI VẤN ĐÁP HẾT HỌC PHẦN
Câu 1: Trình bày những điều kiện, tiền đề ra đời của chủ nghĩa Mác- Lê
nin ?
Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác
Điều kiện kinh tế - xã hội
Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu đã phát triển mạnh mẽ trên
cơ sở những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp. Cách mạng công
nghiệp không những đánh dấu sự chuyển biến từ nền sản xuất thủ công sang đại
công nghiệp mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội, nhất là sự hình thành
và phát triển của giai cấp vô sản. Cách mạng công nghiệp làm cho mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá với quan hệ sản xuất mang tính tư
nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt. Biểu hiện của mâu thuẫn trên là sự
xuất hiện của khủng hoảng kinh tế (xảy ra lần đầu tiên ở Anh vào năm 1825)
Phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của
công nhân ngành dệt thành phố Liôn (Pháp) năm 1831, 1834; Phong trào Hiến
chương Anh (1835-1848), khởi nghĩa của công nhân dệt ở Silêdi (Đức) năm
1844...Điều đó chứng tỏ giai cấp công nhân đã trở thành lực lượng chính trị độc
lập. Thực tiễn cuộc đấu tranh giai cấp đặt ra đòi hỏi khách quan là giai cấp công
nhân cần phải được trang bị vũ khí về lý luận làm cơ sở cho đấu tranh giai cấp.
Vì vậy, thực tiễn cách mạng là tiền đề thực tiễn cho sự phát triển lý luận của
chủ nghĩa Mác.
Tiền đề lý luận:
Chủ nghĩa Mác ra đời dựa trên sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại


trong đó trực tiếp là Triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị học cổđiển Anh và
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Triết học cổ điển Đức với các đại biểu xuất sắc là L.Phơbách (Ludwig Andreas
Feuerbach, 1804 – 1872) và G.W.Ph.Hêghen (Georg Wilhelm Friedrich Hegel,
1770 1831) đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương
pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác.
Với triết học của G.W.Ph.Hêghen, lần đầu tiên trong lịch sử tư duy của nhân
loại đã diễn đạt nội dung của phép biện chứng dưới dạng lý luận chặt chẽ thông
qua một hệ thống các quy luật, phạm trù. Trên cơ sở phê phán quan điểm duy
tâm thần bí trong triết học của G.W.Ph.Hêghen, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế
thừa phép biện chứng của ông để xây dựng phép biện chứng duy vật.
C.Mác và Ph.Ăngghen đánh giá cao quan điểm triết học của L.Phơbách trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo nhưng đồng thời cũng phê
phán quan điểm quan điểm siêu hình của ông. Chủ nghĩa duy vật, vô thần của
ông đã tạo tiền đề cho sự chuyển biến của C.Mác, Ph.Ăngghen từ thếgiới quan
duy tâm sang duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường chủ
nghĩa cộng sản. Kinh tế chính trị cổ điển Anh với các đại biểu tiêu biểu như
2

2


A.Smít, D.Ricácđô đã góp phần tích cực vào sự hình thành quan niệm duy vật
về lịch sử của chủ nghĩa Mác. Công lao của A.Smít (Adam Smith, 1723 – 1790)
và D.Ricácđô (David Ricardo, 1772 -1823) là đã xây dựng lý luận giá trị lao
động, đưa ra kết luận quan trọng về nguồn gốc của giá trị và lợi nhuận và các
quy luật kinh tế quan, nhưng lý luận của các ông có hạn chế là không thấy được
tính lịch sửcủa giá trị và mâu thuẫn của sản xuất hàng hóa, không phân biệt
được sản xuất hàng hóa giản đơn với sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, chưa
phân tích được những biểu hiện của giá trị trong phương thức sản xuất tư bản

chủ nghĩa. C.Mác đã kế thừa những yếu tố hợp lý trong học thuyết giá trị
vànhững tư tưởng tiến bộ của các nhà cổ điển, giải quyết được những bế tắc mà
các nhà cổ điển không thể vượt qua để xây dựng lý luận giá trị thặng dư, luận
chứng khoa học về bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản và nguồn gốc kinh tế
của sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời khách quan của chủ
nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội không tưởng không tưởng đã có quá trình phát
triển lâu dài và đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ XIX. Các đại biểu xuất sắc
như: H.Xanh Ximông (Henri Saint Simon, 1976 - 1725), S.Phuriê (Charles
Fourier,1772 - 1837), R.Ôoen (Robert Owen, 1771 – 1858) thể hiện đậm nét tư
tưởng nhân đạo, phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản và đưa ra nhưng dự báo
thiên tài về xã hội tương lai. Hạn chế của họ là không phân tích được một cách
khoa học bản chất của chủ nghĩa tư bản, chưa thấy được sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân, song tinh thần nhân đạo và những dự báo của các ông đã trở
thành tiền đề lý luận quan trọng cho sự ra đời của lý luận khoa học về chủnghĩa
xã hội trong chủ nghĩa Mác.
Tiền đề khoa học tự nhiên
Chủ nghĩa duy vật biện chứng của C.Mác là kết quả của sự tổng kết những
thành tựu khoa học của nhân loại, nhất là ba phát minh trong khoa học tự nhiên:
Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. Đây là cơ sở khoa học để khẳng
định rằng vật chất và vận động của vật chất không do ai sáng tạo ra và không
thể bị tiêu diệt. Chúng chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác, từ hình thức
này sang hình thức khác.
-Thuyết tiến hóa của Đácuyn (Charles Robert Darwin, 1809 – 1882) đã đem lại
cơ sở khoa học về sự phát sinh, phát triển của các giống loài, mối liên hệ hữu cơ
giữa các loài thực vật, động vật trong quá trình chọn lọc tự nhiên.
-Thuyết tế bào Học thuyết tế bào do GS. M.Slaiđen (trường Đại học Gana,ở
Đức) xây dựng năm 1838. Ông cho rằng, tế bào là đơn vị sống cơ bản nhất
trong kết cấu của mọi thực vật. Quá trình phát dục của thực vật là quá trình hình
thành và phát triển của tế bào. Sau đó, vào năm 1839 GS. T.Svannơ(GS phẫu
thuật người của trường Đại học Ruăng ở Đức) đã mở rộng học thuyết tế bào từ

giới thực vật sang giới động vật, khiến loài người nhận thức được rằng, tế bào
là đơn nguyên kết cấu chung của mọi cơ thể sinh vật. Những phát hiện nêu trên
đã vạch ra quá trình biện chứng của sự vận động,phát triển, chuyển hoá không
ngừng của bản thân giới sinh vật. Như vậy, sự ra đời của chủ nghĩa Mác là hiện
tượng hợp quy luật, nó vừa là sản phẩm của tình hình kinh tế xã hội đương thời,
3

3


của tri thức nhân loại trong các lĩnh vực khoa học, vừa là sản phẩm năng lực tư
duy và tinh thần nhân văn của những người sáng lập ra nó
Câu 2: Vấn đề cơ bản của triết học là gì? Cách giải quyết vấn đề cơ bản
của triết học ?
Vấn đề cơ bản của triết học :
Triết học là hệ thống các lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí,
vai trò của con người trong thế giới đó.
Triết học ra đời do nhu cầu hoạt động nhận thức của con người nhằm phục vụ
nhu cầu sống. Triết học ra đời từ thực tiễn, và nhu cầu từ thực tiễn. Như vậy,
triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. Khi con người có một
vốn kiến thức nhất định và đạt đến khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa, hệ
thống hóa những gì mà con người quan sát được, triết học ra đời. Còn nguồn
gốc xã hội của triết học chính là sự phát triển của xã hội đến thời kỳ hình thành
tầng lớp lao động trí óc. Họ đã nghiên cứu, hệ thống hóa các quan điểm, quan
niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và triết học đã ra đời.
Triết học cũng như bao khoa học khác, cũng có đối tượng nghiên cứu riêng của
mình. Đối tượng nghiên cứu của triết học chính là những vấn đề chung nhất của
tự nhiên, xã hội, tư duy. Nhưng trong đó có những vấn đề cực kỳ quan trọng, là
nền tảng, là điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề còn lại. Đó là vấn đề cơ
bản của triết học. Theo Ăngghen: “Vấn đền cơ bản lớn của mọi triết học, đặc

biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”.
Vấn đề cơ bản của Triết học có hai mặt:
- Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái
nào quyết định cái nào?
- Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới không?
 Cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học:
Giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học gắn liền với việc
phân định các trường phát triết học. Có 3 cách giải quyết:
Một là, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
Hai là, ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất.
Ba là, vật chất và ý thức tồn tại độc lập, bên cạnh nhau, chúng không có quan
hệ sản sinh nhau, cũng không có quan hệ quyết định nhau.
Cách giải quyết thứ nhất là thứ hai tuy có đối lập nhau về nội dung, nhưng
giống nhau ở chỗ, chúng đều thừa nhận một nguyên thể (hoặc là vật chất, hoặc
là ý thức) là nguồn gốc của thế giới. Hai cách giải quyết này thuộc về triết học
nhất nguyên.
Trong triết học nhất nguyên, những người khẳng định tính nguồn gốc của vật
chất thuộc trường phát triết học nhất nguyên duy vật, còn gọi là chủ nghĩa duy
vật. Ngược lại, những người khẳng định tính nguồn gốc của ý thức thuộc
trường phát nhất nguyên duy tâm, còn gọi là chủ nghĩa duy tâm.
Cách giải quyết thứ ba, thuộc về triết học nhị nguyên. Thừa nhận vật chất và ý
4

4


thức tồn tại hoàn toàn độc lập với nhau, và thừa nhận cả hai nguyên thể là
nguồn gốc của thế giới. Triết học nhị nguyên có khuynh hướng điều hòa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Họ muốn dung hòa hai trường phái trên để
cùng tồn tại và dẫn đến một trường phái duy nhất.

Để trả lời câu hỏi thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học, các nhà triết học
chia thành hai trường phái: khả tri và bất khả tri. Hầu hết các nhà duy vật và
duy tâm đều cho rằng con người có thể nhận thức được thế giới. Tuy nhiên,
dưới góc độ duy tâm, các nhà triết học theo trường phái này cho rằng sự nhân
thức của con người chỉ là sự tự nhận thức về chính bản thân mình. Còn những
nhà triết học phủ nhận sự nhận thức của con người đã cho ra đời “thuyết không
thể biết”. Học thuyết này cho rằng con người không thể hiểu được đối tượng
hoặc có chăng là chỉ hiểu hình thức bề ngoài vì tính xác thực của hình ảnh về
đối tượng mà các giác quan của con người cung cấp trong quá trình nhận thức
không đảm bảo tính chân thực. Tính tương đối của nhận thức dẫn đến sự hình
thành trào lưu “hoài nghi luận”, những người theo trào lưu này nâng sự hoài
nghi lên thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng
con người không thể đạt đến chân lý khách quan.
Câu 3 : Nêu và phân tích định nghĩa vật chất của Lênin.Ý nghĩa của định
nghĩa này ?
Định nghĩa vật chất của Lênin :
Trong tác phẩm “chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy vật phê phán” Lênin
đã đưa ra đinh nghĩa về “vật chất” như sau: “vật chất là một phạm trù triết học
dung để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác củ chúng ta chụp lại, chép lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác”.
 Phân tích định nghĩa :
Cách định nghĩa: Phạm trù vật chất la phạm trù rộng, mà cho đến nay, thực ra
nhận thức luận chưa qua được. Khi định nghĩa phạm trù này không thể quy nó
về vật thể hoặc một thuộc tính cụ thể nào đó, cũng không thể quy về phạm trù
rộng hơn phạm trù vật chất. Do vậy chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất
trong quan hệ với ý thứcm phạm trù đối lập với nó và trong quan hệ ấy, vật chất
là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai.
Trong định nghĩa này, Lênin phân biệt hai vấn đề:
-Thứ nhất: cần phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan

niệm về khoa học tự nhiên về cấu tạo và các thuộc tính cụ thể của các đối
tượng, các dạng vật chất khác nhau. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học
nó chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, còn các đối tượng, các dạng vật chất
khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn. Vì vậy, không thể quy vật chất nói
chung về vật thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung với các dạng cụ thể
của vật chất như các nhà triết học duy vật trong lịch sử Cổ đại và Cận đại.
-Thứ hai: là trong nhận thức luận, khi vật chất đối lập với ý thức, cái quan trọng
để nhận biết vật chất là thuộc tính khách quan. Khách quan theo Lênin là “cái
5

5


đang tồn tại độc lập với loài người và với cảm giác của con người”. Trong đời
sống xã hội, “ vật chất là cái tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội
của con người”. Về mặt nhận thức luận thì khái niệm vật chất chính là “ thực tại
khách quan tồn tại độc lập với ý thức của con người và được con người phản
ánh”.
Như vậy, định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ
bản sau:
 Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý
thức, bất kể sự tồn tại ấy con người nhận thức được hay chưa nhận thức được.
 Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hay trực tiếp tác
động lên giác quan của con người.
 Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh vật chất.
 Ý nghĩa vật chất của Lê nin
Với những nội dung cơ bản trên, phạm trù vật chất trong quan niệm của Lênin
có ý nghĩa cô cùng to lớn.
-Chống chủ nghĩa duy tâm dưới mọi hình thức.
-Chống thuyết “Bất khả tri” cho rằng: con người chỉ nhận thức được bề ngoài

của sự vật hiện tượng chứ không nhận thức được bản chất của sự vật hiện
tượng. Lênin khắng định: con người có thể nhận thức được bản chất của thế
giới.
-Khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác (đó là quan điểm
siêu hình máy móc, quy vật chất nói chung về những dạng cụ thể của vật chất).
-Là thế giới quan, phương pháp luận cho các ngành khoa học hiện đại tiếp tục
phát triển.
Câu 4 : Phân tích nguồn gốc của Ý thức ?
 Nguồn gốc tự nhiên
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần kinh,
chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là thuộc tính của một
dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc con người.
Bộ óc con người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài về mặt sinh
vật - xã hội và có cấu tạo rất phức tạp, gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh.
Các tế bào này tạo nên nhiều mối liên hệ nhằm thu nhận, xử lý, dẫn truyền và
điều khiển toàn bộ hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài
thông qua các phản xạ có điều kiện và không điều kiện.
Hoạt động ý thức con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của
bộ óc người. Sự phụ thuộc của ý thức vào hoạt động của bộ óc thể hiện ở chỗ
khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn. Ý thức là chức năng
của bộ óc người, là hình ảnh tinh thần phản ánh thế giới khách quan; nhưng ý
thức không diễn ra ở đâu khác ngoài hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc
ng¬ười.
Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ óc, thần
bí hoá hiện tượng tâm lý, ý thức. Còn chủ nghĩa duy vật tầm thường lại đồng
6

6



nhất vật chất với ý thức.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc người mà không có sự tác động của thế giới bên
ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Phản ánh là
năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ
thống vật chất khác.
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của
vật chất cũng phát triển từ thấp đến cao với nhiều hình thức khác nhau.
- Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất ở giới vô sinh, thể hiện
qua các quá trình biến đổi cơ, lý, hoá.
- Phản ánh sinh học trong giới hữu sinh cũng có nhiều hình thức khác nhau ứng
với mỗi trình độ phát triển của thế giới sinh vật:
+ Tính kích thích: Thể hiện ở thực vật, động vật bậc thấp, đã có sự chọn lọc
trước những tác động của môi trường.
+ Tính cảm ứng: Thể hiện ở động vật bậc cao có hệ thần kinh, xuất hiện do
những tác động từ bên ngoài lên cơ thể động vật và cơ thể phản ứng lại. Nó
hoàn thiện hơn tính kích thích, được thực hiện trên cơ sở các quá trình thần kinh
điều khiển mối liên hệ giữa cơ thể với môi trường thông qua cơ chế phản xạ
không điều kiện.
+ Tâm lý động vật: Là hình thức cao nhất trong giới động vật gắn liền với các
quá trình hình thành các phản xạ có điều kiện, thông qua các cảm giác, tri giác,
biểu tượng ở động vật có hệ thần kinh trung ương.
- Phản ánh ý thức: Gắn liền với quá trình chuyển hoá từ vượn thành người. Đó
là hình thức phản ánh mới, đặc trưng của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất
là bộ óc con người.
Như vậy, sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người là nguồn gốc tự
nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội
Để ý thức có thể ra đời, những nguồn gốc tự nhiên là rất cần thiết nhưng chưa
đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện

ở vai trò của lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
- Lao động đem lại cho con người dáng đi thẳng đứng, giải phóng 2 tay. Điều
này cùng với chế độ ăn có thịt đã thực sự có ý nghĩa quyết định đối với quá
trình chuyển hoá từ vượn thành người, từ tâm lý động vật thành ý thức. Việc
chế tạo ra công cụ lao động có ý nghĩa to lớn là con người đã có ý thức về mục
đích của hoạt động biến đổi thế giới.
- Trong quá trình lao động, con người tác động vào các đối tượng hiện thực, làm
chúng bộc lộ những đặc tính và quy luật vận động của mình qua những hiện
tượng nhất định. Những hiện tượng đó tác động vào bộ óc con người gây nên
những cảm giác, tri giác, biểu tượng. Nhưng quá trình hình thành ý thức không
phải là do tác động thuần túy tự nhiên của thế giới khách quan vào bộ óc con
người, mà chủ yếu là do hoạt động lao động chủ động của con người cải tạo thế
giới khách quan nên ý thức bao giờ cũng là ý thức của con người hoạt động xã
7

7


hội. Quá trình lao động của con người tác động vào thế giới đã làm cho ý thức
không ngừng phát triển, mở rộng hiểu biết của con người về những thuộc tính
mới của sự vật. Từ đó, năng lực tư duy trừu tượng của con người dần dần hình
thành và phát triển.
- Lao động ngay từ đầu đã liên kết con người lại với nhau trong mối liên hệ tất
yếu, khách quan. Mối liên hệ đó không ngừng được củng cố và phát triển đến
mức làm nảy sinh ở họ một nhu cầu "cần thiết phải nói với nhau một cái gì đó",
tức là phương tiện vật chất để biểu đạt sự vật và các quan hệ của chúng. Đó là
ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Theo
Mác, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng;
không có ngôn ngữ thì con người không thể có ý thức.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát

triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các
quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
Câu 5 : Phân tích bản chất, kết cấu của ý thức ?
 Bản chất của ý thức :
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan
vào bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất của ý thức là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật
chất.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có nghĩa là nội
dung của ý thức là do thế giới khách quan quy định, nhưng ý thức là hình ảnh
chủ quan, là hình ảnh tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật lý, vật chất như
chủ nghĩa duy vật
tầm thường quan niệm.
- Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cũng có nghĩa là
ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo thế giới.
+ Phản ánh ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy
định. Nhu cầu đó đòi hỏi chủ thể phản ánh phải hiểu được cái được phản ánh.
Trên cơ sở đó hình thành nên hình ảnh tinh thần và những hình ảnh đó ngày
càng phản ánh đúng đắn
hơn hiện thực khách quan. Song, sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của phản
ánh, dựa trên cơ sở phản ánh.
+ Phản ánh ý thức là sáng tạo, vì phản ánh đó bao giờ cũng dựa trên hoạt động
thực tiễn và là sản phẩm của các quan hệ xã hội. Là sản phẩm của các quan hệ
xã hội, bản chất của ý thức có tính xã hội.
Quan điểm trên của triết học Mác về nguồn gốc và bản chất của ý thức hoàn
toàn đối lập với chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tư duy là cái có trước, sinh ra vật
chất và chủ nghĩa duy vật tầm thường coi ý thức là một dạng vật chất hoặc coi ý
thức là sự phản
ánh giản đơn, thụ động thế giới vật chất.

8

8


 Kết cấu của ý thức :
Ý thức là một hiện tượng tâm lý - xã hội có kết cấu rất phức tạp bao gồm nhiều
thành tố khác nhau có quan hệ với nhau. Có thể chia cấu trúc của ý thức theo
hai chiều:
a. Theo chiều ngang: Bao gồm các yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý
trí, ý chí ..., trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
b. Theo chiều dọc: Bao gồm các yếu tố như tự ý thức, tiềm thức, vô thức.

Câu 6 : Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức? Ý nghĩa
phương pháp luận ?
 Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức :
-Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức.Vật chất là cái có
trước,nó sinh ra và quyết định ý thức:
Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất : bộ não ngưòi – cơ quan phản ánh thế
giơí xung quanh,sự tác động của thế giới vật chất vào bộ não ngưòi,tạo thành
nguồn gốc tự nhiên .
Lao động và ngôn ngữ(tiếng nói,chữ viết )trong hoạt động thực tiễn cùng với
nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành,tồn tại và phát triển của ý thức .
Mặt khác,ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.Vật chất là đối
tượng,khách thể của ý thức,nó quy định nội dung,hình thức,khả năng và quá
trình vận động của ý thức .
-Tác động trở lại của ý thức
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định,nhưng ý thức lại có tính độc lập tương
đối của nó.Hơn nữa,sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh
thần,phản ánh sáng tạo và chủ động chứ không thụ động,máy móc,nguyên si thế

giới vật chất,vì vậy nó có tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người .
Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan,con người đề ra mục tiêu,phương
hướng,xác định phương pháp,dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy.Vì vậy,ý thức
tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu :Nếu ý thức phản ánh đúng đắn
điều kiện vật chất,hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy tạo sự thuận lợi cho sự
9

9


-

phát triển của đối tượng vật chất.Ngược lại,nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện
thực sẽ làm cho hoạt động của con người không phù hợp với quy luật khách
quan,do đó:sẽ kìm hãm sự phát triển của vật chất.
Tuy vậy,sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất
định chứ nó không thể sinh ra hoặc tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất
được.Và suy cho cùng,dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh
thế giới vật chất .
Biểu hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan
hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội,đồng thời ý thức xã hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn
tại xã hội .
Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để nghiên cứu,xem
xét các mối quan hệ khác như: lý luận và thực tiễn,khách thể và chủ thể,vấn đề
chân lý …
 Ý nghĩa phương pháp luận :
-Vì vật chất quyết định ý thức (xét về mặt nhận thức luận) nên trong mọi hoạt
động nhận thức và thực tiễn đều phải xuất phát từ thực tế khách quan. Phải khắc

phục bệnh chủ quan, duy ý chí, mà thực chất là duy tâm chủ quan. (Phân tích
một số sai lầm vừa qua).
-Vì ý thức có tính độc lập tương đối nên có sự tác động trở lại cực kỳ to lớn đối
với vật chất thông qua thực tiễn của con người.
- Vai trò của ý thức ở chỗ:
- Xác định mục tiêu (đối tượng là gì, như thế nào, tuân theo quy luật nào? )
- Xác định phương hướng, biện pháp để thực hiện mục tiêu trong thực tiễn
- Huy động ý chí thực hiện mục tiêu.
Nếu ý thức đúng sẽ khiến con người hành động đúng. Nếu ý thức sai, sẽ
dẫn con người hành động sai. Vì vậy phải đặc biệt coi trong việc phát huy nhân
tố con người, nghĩa `là phải bồi dưỡng cho được ý thức đúng đắn cho con
người.
Ý thức tác động trở lại vật chất bằng con đường duy nhất là phải thông qua
thực tiễn, vì bản thân ý thức tự nó không thể thay đổi được gì trong hiện thực.

10

10


Câu 7 : Trình bày nguyên lý mối liên hệ phổ biến. Ý nghĩa phương pháp
luận ?
Khái niệm mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến
- Mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn
nhau giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt của sự vật hiện tượng trong
thế giới.
- Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các
hiện tượng sự vật của thế giới đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ nội
tại ở nhiều sự vật hiện tượng của thế giới trong đó có những mối liên hệ tồn tại
ở mọi sự vật hiện tượng của thế giới.

Các tính chất của mối liên hệ phổ biến:
- Mối liên hệ mang tính khách quan:các mối liên hệ là vốn có của sự vật hiện
tượng, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Mối liên hệ mang tính phổ biến: bất kì sự vật hiện tượng nào ở bất kì không
gian nào và ở bất kì thời gian nào cũng có mối liên hệ với sự vật hiện tượng
khác.
- Mối liên hệ mang tính đa dạng và phong phú: các sự vật hiện tượng hay quá
trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau giữ vị trí vai trò
khác nhau đối với sự tồn tại phát triển của nó.
*Có nhiều mối liên hệ khác nhau:
+ Mối liên hệ bên trong-bên ngoài
+ Mối liên hệ chủ yếu-thứ yếu
+ Mối liên hệ tất nhiên-ngẫu nhiên
+ Mối liên hệ trực tiếp-gián tiếp
Sự phân chia các cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối. Con người phải nắm
bắt đúng các mối liên hệ đó để có tác động phù hợp, đạt hiệu quả cao nhất trong
hoạt đông thực tiễn của mình.
 Ý nghĩa phương pháp luận :
- Sự vật không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật, hiện
tượng khác. Nên muốn nhận thức sự vật phải nhận thức được các mối liên hệ
của nó. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải có quan điểm
toàn diện, khắc phục quan điểm phiến diện một chiều.
- Có nhiều loại mối liên hệ và chung có vai trò khác nhau trong sự vật do đó để
thúc đẩy sự vật phát triển phải phân loại các mối liên hệ, nhận thức được mối
liên hệ cơ bản, quy định bản chất sự việc từ đó giải quyết mối liên hệ đó.
Câu 8 : Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng ? Ý nghĩa
phương pháp luận ?
Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng :
Cái chung và cái riêng đều tồn tại khách quan.
- Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn

tại của mình. Nghĩa là không có cái chung nào tồn tại thuần tuý tách rời cái
riêng.
11

11


- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có cái
riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, mà lại không có liên hệ với cái chung.
- Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung; còn cái chung là cái bộ
phận, không gia nhập hết vào cái riêng, nhưng sâu sắc hơn cái riêng.
- Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá cho nhau trong những điều kiện
nhất định: Cái chung chuyển hoá thành cái đơn nhất, đó là quá trình tồn tại và
tiêu vong dần dần của cái cũ; Cái đơn nhất chuyển hoá thành cái chung, đó là
quá trình ra đời và phát triển của cái mới.
Ý nghĩa phương pháp luận
Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, nên muốn tìm cái chung phải tìm từ
những cái riêng.
Vì cái chung sâu sắc hơn cái riêng, nên phải dựa vào cái chung để cải tạo cái
riêng và khi vận dụng cái chung vào cái riêng, phải cá biệt hoá cho phù hợp với
đặc điểm của từng cái riêng.
Trong hoạt động thực tiễn, cần tạo điều kiện để cái chung và cái đơn nhất có thể
chuyển hoá cho nhau.
Câu 9 : Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng ? Ý nghĩa
phương pháp luận ?
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, là 2 mặt vừa thống nhất vừa
đối lập nhau.
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan :Chủ nghĩa duy vật biện chứng
cho rằng: cả bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, là cái vốn có của sự
vật không ai sáng tạo ra, bởi vì sự vật nào cũng được tạo ra từ những yếu tố

nhất định. Những yếu tố nàu liên hệ với nhau bằng mối liên hệ khách quan, đan
xen, tương đối ổn định. Tất nhiên mối liên hệ này tạo thành bản chất của sự vật.
Vậy bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng : bản chất bao giờ cũng bộc lộ qua
hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của 1 bản chất nhất
định. Không có bản chất nào tồn tại thuần túy tách rời hiện tượng, cũng như
không có hiện tượng không biểu hiện bản chất nào đó. VD: Trong xã hội có giai
cấp, bản chất của nhà nước là công cụ thống tị giai cấp , bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị. Trong xã hội phong kiến, sự thống trị biểu hiện: Nhà nước chiếm
đất, bắt nông dân đi lính. Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi,
khi bản chất mất đi thì hiện tượng cũng mất theo. VD: Bản chất của gió là sự
chuyển động của không khí, không khí luôn chuyển động từ nơi khí áp cao về
nơi khí áp thấp. Sự chuyển động của không khí gây nên hiện tượng gió. Khi
không có sự chuyển động trên thì không có gió.
Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng : Bản chất là cái chung, cái tất yếu.
Còn hiện tượng là cái riêng biệt phong phú và đa dạng. Cùng 1 bản chất có thể
biểu hiện ra nhiều hiện tượng khác nhau tùy theo sự thay đổi của điều kiện và
hoàn cảnh. Vì vậy bản chất tương đối ổn định, còn hiện tượng là cái thường
xuyên biến đổi. Bản chất là cái bên trong còn hiện tượng là cái bên ngoài. VD :
bản chất giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân trong chủ nghĩa tư bản là
12

12


quan hệ bóc lột, biểu hiện của quan hệ này ra ngoài xã hội là quan hệ bình đẳng,
người công nhân có quyền kí hay không ký vào bản hợp đồng với tư bản, chăm
lo sức khỏe đến công nhân nếu đều đó có lợi cho việc tăng giá trị thặng dư.
Ý nghĩa phương pháp luận :
Muốn nhận thức đúng sự vật, hiện tượng thì không dừng lại ở hiện tượng bên

ngoài mà phải đi vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác nhau mới
nhận thức đúng bản chất.Bản chất phản ánh tính tất yếu, tính quy luật nên trong
nhận thức và thực tiễn cần căn cứ vào bản chất chứ không căn cứ vào hiện
tượng thì mới đánh giá chính xác sự vật hiện tượng đó, mới có thể cải tạo căn
bản sự vật.VD: Qua quan sát nghiên cứu nhiều hiệ tượng phát triển của cây lúa,
người ta nhận biết được bản chất, quy luật của nó. Từ đó cải tạo giống lúa cho
năng suất cao.
Câu 10 : Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức ? Ý nghĩa
phương pháp luận ?
 Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức
Vì nội dung là những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật, còn
hình thức là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của
nội dung nên nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau trong một
thể thống nhất. Không có hình thức nào tồn tại thuần túy không chứa đựng nội
dung, ngược lại cũng không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình
thức xác định. Nội dung nào có hình thức đó.
Nội dung và hình thức không tồn tại tách rời nhau, nhưng không phải vì thế mà
lúc nào nội dung và hình thức cũng phù hợp với nhau. Không phải một nội
dung bao giờ cũng chỉ được thể hiện ra trong một hình thức nhất định, và một
hình thức luôn chỉ chứa một nội dung nhất định, mà một nội dung trong quá
trình phát triển có thể có nhiều hình thức thể hiện, ngược lại, một hình thức có
thể thể hiện nhiều nội dung khác nhau. Thí dụ, quá trình sản xuất ra một sản
phẩm có thể bao gồm những yếu tố nội dung giống nhau như: con người, công
cụ, vật liệu... nhưng cách tổ chức, phân công trong quá trình sản xuất có thể
khác nhau. Như vậy, nội dung quá trình sản xuất được diễn ra dưới những hình
thức khác nhau nhưng được thực hiện trong những ngành, những khu vực, với
những yếu tố vật chất khác nhau, sản xuất ra những sản phẩm khác nhau. Vậy là
một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung khác nhau.
 Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình vận động
phát triển của sự vật

Vì khuynh hướng chủ đạo của nội dung là biến đổi, còn khuynh hướng chủ đạo
của hình thức là tương đối bền vững, chậm biến đổi hơn so với nội dung. Dưới
sự tác động lẫn nhau của những mặt trong sự vật, hoặc giữa các sự vật với nhau
trước hết làm cho các yếu tố của nội dung biến đổi trước; còn những mối liên
kết giữa các yếu tố của nội dung, tức hình thức thì chưa biến đổi ngay, vì vậy
hình thức sẽ trở nên lạc hậu hơn so với nội dung và sẽ trở thành nhân tố kìm
hãm nội dung phát triển. Để sự vật phát triển được, đến một lúc nào đó, hình
13

13


thức nhất định phải thay đổi cho phù hợp với sự phát triển của nội dung. Ví dụ,
lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất còn quan hệ sản xuất
là hình thức của quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất biến đổi chậm hơn, lúc
đầu quan hệ sản xuất còn là hình thức thích hợp cho lực lượng sản xuất. Nhưng
do lực lượng sản xuất biến đổi nhanh hơn nên sẽ đến lúc quan hệ sản xuất lạc
hậu hơn so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sẽ trở thành yếu tố
kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Để mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển, con người phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất
mới phù hợp với lực lượng sản xuất.
 Sự tác động trở lại của hình thức đối với nội dung
Hình thức do nội dung quyết định nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và
tác động trở lại nội dung. Sự tác động của hình thức đến nội dung thể hiện ở
chỗ: Nếu phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy
nội dung phát triển; nếu không phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ ngăn cản,
kìm hãm sự phát triển của nội dung. Thí dụ, trong cơ chế bao cấp ở nước ta
trước đây, do quan hệ sản xuất chưa phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất nên không kích thích được tính tích cực của người sản xuất,
không phát huy được năng lực sẵn có của lực lượng sản xuất của chúng ta.

Nhưng từ sau đổi mới, khi chúng ta chuyển sang xây dựng nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất nước ta, do
vậy tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sản xuất phát triển.
Ý nghĩa phương pháp luận :
Vì nội dung và hình thức luôn gắn bó với nhau trong quá trình vận động, phát
triển của sự vật, do vậy trong nhận thức không được tách rời tuyệt đối hóa giữa
nội dung và hình thức. Đặc biệt cần chống chủ nghĩa hình thức. Cùng một nội
dung trong quá trình phát triển của sự vật có thể có nhiều hình thức, ngược lại,
một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung. Vì vậy trong hoạt động thực
tiễn cải tạo xã hội cần phải chủ động sử dụng nhiều hình thức khác nhau, đáp
ứng với yêu cầu thực tiễn của hoạt động cách mạng trong những giai đoạn khác
nhau.
Nội dung quyết định hình thức, do vậy để nhận thức và cải tạo được sự vật,
trước hết ta phải căn cứ vào nội dung, nhưng hình thức có tính độc lập tương
đối và tác động trở lại nội dung, do vậy trong hoạt động thực tiễn phải thường
xuyên đối chiếu giữa nội dung và hình thức và làm cho hình thức phù hợp với
nội dung để thúc đẩy nội dung phát triển.
Câu 11 : Trình bày nội dung quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về
lượng dẫn đến sự thya đổi về chất và ngược lại ? Ý nghĩa phương pháp
luận ?
 Nội dung quy luật:
- Mỗi sự vật, hiện tượng đều là một thể thống nhất của 2 mặt chất và lượng và
chúng có quan hệ hữu cơ với nhau. Phép biện chứng duy vật đã đưa ra và sử
14

14


dụng các khái niệm: chất, lượng, thuộc tính, độ, điểm nút, bước nhảy để diễn

đạt mối quan hệ giữa chất và lượng trong sự vận động và phát triển của sự vật,
hiện tượng – cách thức vận động, phát triển.
- Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng.
+ Từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất. Sự thống nhất
giữa chất và lượng tồn tại trong một độ nhất định khi sự vật còn là nó chưa trở
thành cái khác. Trong mối quan hệ giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối
ổn đinh, còn lượng là mặt biến đổi hơn. Sự vận động và phát triển của sự vật
bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Song không phải bất kỳ sự thay
đổi nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất ngay tức khắc, mặc dù bất kỳ
sự thay đổi nào về lượng cũng ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật. Chỉ
khi nào lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định (điểm nút) thì mới dẫn đến
sự thay đổi về chất. Sự thay đổi căn bản về chất được gọi là bước nhảy. Như
vậy, khi lựợng biến đổi đến điểm nút thì diễn ra bước nhảy, chất mới ra đời thay
thế cho chất cũ, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ, nhưng rồi những lượng
mới này lại tiếp tục biến đổi đến điểm nút mới lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ
như vậy, quá trình vận động, phát triển của sự vật diễn ra theo cách thức từ
những thay đổi về lựợng dẫn đến những thay đổi về chất một cách vô tận. Đó là
quá trình thống nhất giữa tính tuần tự, tiệm tiến, liên tục với tính gián đoạn,
nhảy vọt trong sự vận động, phát triển.
+ Sự tác động trở lại của chất đối với lượng. Khi chất mới ra đời, nó không tồn
tại một cách thụ động, mà có sự tác động trở lại đối với lượng, được biểu hiện ở
chỗ, chất mới sẽ tạo ra một lượng mới cho phù hợp với nó để có sự thống nhất
mới giữa chất là lượng. Sự quy định này có thể được biểu hiện ở quy mô, nhịp
độ và mức độ phát triển mới của lượng.
 Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải chú ý tích lũy dẫn những thay đổi
về lượng, đồng thời phải biết thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều
kiện chín muồi.
- Chống lại quan điểm tả khuynh: chủ quan, nóng vội, duy ý chí, khi lượng
chưa biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước nhảy.

- Chống lại quan điểm hữu khuynh: bảo thủ, trì trệ, khi lượng đã biến đổi đến
điểm nút nhưng không thực hiện bước nhảy.
- Phải thấy được tính đa dạng của các bước nhảy, nhận thức được từng hình
thức bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy, tạo mọi điều kiện cho bước nhảy
được thực hiện một cách kịp thời.
- Phải có thái độ khách quan và quyết tâm thực hiện bước nhảy khi hội đủ các
điều kiện chin muồi.
Câu 12 : Trình bày nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập ? Ý nghĩa phương pháp luận ?
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật cơ bản và quan
trọng nhất – hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Quy luật này vạch ra nguồn
15

15


gốc, động lực của sự vận động, phát triển.
 Nội dung quy luật
- Tất cả các sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau, tức
những mặt đối lập trong sự tồn tại của nó. Các mặt đối lập của sự vật vừa thống
nhất vừa đấu tranh với nhau tạo thành nguồn gốc, động lực của sự vận động,
phát triển của sự vật. Phép biện chứng duy vật đã đưa ra và sử dụng các khái
niệm: mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng, sự thống nhất của các mặt đối lập,
đấu tranh của các mặt đối lập để diễn đạt mối quan hệ giữa thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập trong bản thân sự vật – tạo thành nguồn gốc, động lực
của sự vận động và phát triển của sự vật.
- Mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
+ Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác
nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện chứng
bao hàm cả “sự thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự thống nhất

gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn
liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển.
+ Sự phát triển của sự vật, hiện tượng gắn liền với quá trình hình thành, phát
triển và giải quyết mâu thuẫn. Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì
đấu tranh của các mặt đối lập quy định sự thay đổi của các mặt đang tác động
và làm cho mâu thuẫn phát triển. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ
điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó
mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi
sự vật mới ra đời thay thế.
 Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của sự vật và
là khách quan trong bản thân sự vật nên cần phải phát hiện ra mâu thuẫn của sự
vật bằng cách phân tích sự vật tìm ra những mặt, những khuynh hướng trái
ngược nhau và mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa chúng.
- Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể, biết phân loại mâu thuẫn và
tìm cách giải quyết cụ thể đối với từng mâu thuẫn.
- Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn – phù hợp với từng loại mâu
thuẫn, trình độ phát triển của mâu thuẫn. Không được điều hòa mâu thuẫn. Phải
tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn khi điều
kiện đã chín muồi.
Câu 13 : Thực tiễn là gì? Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức ?
Khái niệm thực tiễn :Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích
mang tính lịch sử- xã hội của con người nhằm cải biến thế giới khách quan.
- Thực tiễn là hoạt động vật chất. Tất cả những hoạt động bên ngoài hoạt động
tinh thần của con người đều là hoạt động thực tiễn.
- Là hoạt động có mục đích. Khác hoạt đông bản năng của động vật.
- Có tính lịch sử - xã hội: Là hoạt động của con người trong xã hội và trong
những giai đoạn lịch sử nhất định.
- hoạt động thực tiễn rất đa dạng, cơ bản có 3 hình thức:
16


16


+ Hoạt động sản xuất vật chất
+ Hoạt động chính trị - xã hội.
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học (Nhằm tạo ra môi trường giống hoặc gần
giống môi trường sống bên ngoài: hoạt động này ngày càng đóng vai trò quan
trọng).
- Trong 3 hoạt động trên, hoạt động sản xuất vật chất có vai trò quan trọng nhất,
là cơ sở cho các hoạt động khác của con người và cho sự tồn tại và phát triển
của xã hội loài người.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Thực tiễn và nhận thức không ngừng phát triển trong sự tác động lẫn nhau,
trong đó thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, nguồn gốc, động lực, mục đích của
nhận thức và là cơ sở của chân lý.
 Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc, động lực của nhận thức
- Con người muốn tồn tại thì phải lao động sx để tạo ra những sản phẩm phục
vụ cho con người, muốn lao động sx con người phải tìm hiểu thế giới xung
quanh. Vậy, hoạt động thực tiễn tạo ra động lực đầu tiên để con người nhận
thức thế giới.
- Trong hoạt động thực tiễn , con người dung cac song cụ, các phương tiện để
tác động vào thế giới, làm thế giới bộc lộ những đặc điểm, thuộc tính, kết cấu,
quy luật vận động; con người nắm bắt lấy các đặc điểm thuộc tính đó, dần dần
hình thành tri thức về thế giới.
- Trong hoạt động thực tiễn, con ngườidần tự hoàn thiện bản than mình, các
giác quan của con người ngày càng phát triển. do đó, làm tăng khả năng nhận
thức của con người về thế giới.
- Trong bản thân nhận thức có động lực trí tuệ. Nhưng suy cho cùng thì đông
lực cơ bản của nhận thức là thực tiễn. Trong hoạt động thực tiễn con người đã

vấp phải nhiều trở ngại, khó khăn và thất bại. Điều đó buộc con người phải giải
đáp những câu hỏi do thực tiễn đặt ra. Ănghen nói: Chính thực tiễn đã “đặt
hàng” cho cac nhà khoa học phải giải đáp những bế tắc của thực tiễn (ngày
càng nhiều ngành khoa học mới ra đời để đấp ứng yêu cầu của thực tiễn như
KH vật liệu mới, KH đại dương, KH vũ trụ…)
- Trong hoạt động thực tiễn, con người chế tạo ra các công cụ, phương tiện có
tác dụng nối dài các giác quan, nhờ vậy làm tăng khả năng nhận thức của con
người về thế giới.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Mục đích của mọi nhận thức không
phải vì bản thân nhận thức, mà vì thực tiễn nhằm cải biến giới tự nhiên, biến đổi
xã hội vì nhu cầu của con người. Mọi lý luận khoa học chỉ có ý nghĩa khi nó
được ứng dụng vào thực tiễn.
 Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý: Làm sao để nhận biết được nhận thức
của con người đúng hay sai? Tiêu chuẩn để đánh giá cuối cùng không nằm
trong lý luận, trong nhận thức mà ở thực tiễn. Khi nhận thức được xác nhận là
đúng, nhận thức đó sẽ trở thành chân lý.
17

17


Tuy nhiên cũng có trường hợp không nhất thiết phải qua thực tiễn khiêpr
nghiệm mới biết nhận thức đó là đúng hay sai, mà có thể thông qua quy tắc
logic vẫn có thể biết được nhận thức đó là thế nào. Nhưng xét đến cùng thì
những nguyên tắc đó cũng đã được chứng minh từ trong thực tiễn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính tuyệt đối lại vừa có tính tương
đối:
Tuyệt đối là ở chỗ: Thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý,
thực tiễn có khả năng xác định cái đúng, bác bỏ cái sai.
Là tương đối ở chỗ: Thực tiễn ngay một lúc không thể khẳng định được cái

đúng, bác bỏ cái sai một cách tức thì. Hơn nữa, bản thân thực tiễn không đứng
yên một chỗ mà biến đổi và phát triển liên tục, nên nó không cho phép người ta
hiểu biết bất kỳ một cái gì hóa thành chân lý vĩnh viễn.
Câu 14. Trình bày con đường biện chứng của nhận thức ?
Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan gắn liền với hoạt động
thực tiễn. V.I.Lênin đã khái quát quá trình đó như sau: “từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường
biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”.
Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng
 Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính): là giai đoạn mở đầu của quá trình
nhận thức, là sự phản ánh trực tiếp các sự vật, hiện tượng của hiện thực khách
quan, thông qua các giác quan của con người. Giai đoạn này, nhận thức được
thực hiện qua ba hình thức cơ bản là: cảm giác, tri giác và biểu tượng.
- Cảm giác là hình thức đầu tiên, đơn giản nhất của nhận thức cảm tính, là sự
phản ánh những mặt, những thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng một cách
trực tiếp. Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nó là cơ sở
hình thành nên tri giác.
- Tri giác là sự phản ánh tương đối toàn vẹn của con người về những biểu hiện
của sự vật khách quan, cụ thể, cảm tính, được hình thành trên cơ sở liên kết,
tổng hợp những cảm giác về sự vật. So với cảm giác, tri giác là hình thức nhận
thức cao hơn, đầy đủ hơn, phong phú hơn về sự vật, nhưng đó vẫn chỉ là sự
phản ánh đối với những biểu hiện bề ngoài của sự vật khách quan, chưa phản
ánh được cái bản chất, quy luật khách quan.
- Biểu tượng là sự tái hiện hình ảnh về sự vật khách quan vốn đã được phản ánh
bởi cảm giác và tri giác; nó là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của
giai đoạn nhận thức cảm tính, đồng thời nó cũng chính là bước quá độ từ giai
đoạn nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính.
Tư duy trừu tượng (Nhận thức lý tính): là giai đoạn cao của quá trình nhân
thức, là sự phản ánh gián tiếp các sự vật, hiện tượng của hiện thực khách quan.
Nhận thức lý tính được thực hiện thông qua ba hình thức cơ bản là: khái niệm,

phán đoán và suy lý (suy luận).
- Khái niệm là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, phản ánh những đặc tính
18

18


bản chất của sự vật, là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc
điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp các sự vật, là cơ sở hình thành nên
những phán đoán.
- Phán đoán là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, được hình thành thông
qua việc liên kết các khái niệm với nhau theo phương thức khẳng định hay phủ
định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng nhận thức.
Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được chia làm ba loại là phán
đoán đơn nhất, phán đoán đặc thù và phán đoán phổ biến. Phán đoán phổ biến
là hình thức phản ánh thể hiện sự bao quát rộng lớn nhất về thực tại khách quan.
- Suy lý là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, được hình thành trên cơ sở
liên kết các phán đoán nhằm rút ra tri thức mới về sự vật. Điều kiện để có bất
cứ một suy lý nào cũng phải là trên cơ sở những tri thức đã có dưới hình thức là
những phán đoán, đồng thời tuân theo những quy tắc lôgíc của các loại hình suy
luận, đó là suy luận quy nạp (đi từ những cái riêng đến cái chung) và suy luận
diễn dịch (đi từ cái chung đến mỗi cái riêng, cái cụ thể) .
Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính:
- Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn, hai cấp độ của chu
trình nhận thức thống nhất. Trong đó, nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên,
cấp độ thấp, còn nhận thức lý tính là giai đoạn kế tiếp, là cấp độ cao của quá
trình nhận thức.
- Nhận thức cảm tính phản ánh khách thể một cách trực tiếp, đem lại những tri
thức cảm tính, bề ngoài của khách thể, còn nhận thức lý tính phản ánh khách
thể một cách gián tiếp, đem lại những tri thức về bản chất và quy luật của khách

thể.
- Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có sự liên hệ, tác động qua lại lẫn
nhau, chúng đều dựa trên cơ sở thực tiễn: nếu không có nhận thức cảm tính sẽ
không có nhận thức lý tính, nhận thức cảm tính cung cấp tài liệu cảm tính cho
nhận thức lý tính; mặt khác, nhận thức cảm tính đã chứa đựng những yếu tố của
nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính tác động trở lại đối với nhận thức cảm tính
làm cho nó chính xác hơn, nhạy bén, sâu sắc hơn.
 Tư duy trừu tượng đến thực tiễn
- Nhận thức phải trở về thực tiễn để kiểm tra tính chân lý của tri thức. Ngoài ra,
mục đích của nhận thức là chỉ đạo, định hướng cho hoạt động thực tiễn cải tạo
thế giới.
Nếu dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có được những tri thức
về đối tượng, còn bản thân những tri thức đó có thật sự chính xác hay không thì
con người vẫn chưa thể biết được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác
định xem những tri thức đó có chân thực hay không. Để thực hiện điều này thì
nhận thức nhất thiết phái trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn,
làm thước đo tính chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình
nhận thức. Mặt khác, mọi nhận thức, suy đến cùng đều là xuất phát từ nhu cầu
thực tiễn và trở lại phục vụ.
- Quy luật chung, có tính chu kỳ (lặp đi lặp lại) của quá trình vận động, phát
19

19


triển của nhận thức là từ thực tiễn đến nhận thức - từ nhận thức trở về với thực
tiễn - từ thực tiễn tiếp tục quá trình phát triển nhận thức v.v... Thực tiễn vừa là
điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc một chu trình nhận thức. Qua trình này lặp
đi lặp lại, không có điểm dừng cuối cùng, trình độ của nhận thức và thực tiễn ở
chu kỳ sau thường cao hơn chu kỳ trước, nhờ đó mà quá trình nhận thức đạt dần

tới những tri thức đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc hơn về thực tại khách quan. Đây
cũng chính là quan điểm về tính tương đối của nhận thức con trong quá trình
phản ánh thực tế khách quan.
Sự vận động của quy luật chung trong quá trình vận động phát triển nhận thức
chính là quá trình con người, loài người ngày càng tiến dần tới chân lý.
Câu 15. Khái niệm lực lượng sản xuất và phân tích kết cấu của lực lượng sản
xuất ?
Khái niệm lực lượng sản xuất : Là toàn bộ các lực lượng được con người xử
dụng trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Nó bao gồm người lao động
với 1 thể lực, tri thức, kỹ năm lao động nhất định và tư liệu sản xuất, trước hết
là công cụ lao động nhất định và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người kết hợp với tư liệu sản
xuất , trước hết là công cụ lao động, tạo thành lực lượng sản xuất.
Kết cấu của lực lượng sản xuất :Lực lượng sản xuất bao gồm 2 yếu tố cấu
thành đó là tư liệu sản xuất và người lao động .
Tư liệu sản xuất gồm : +Tư liệu lao động: Có công cụ lao động với những
phương tiện lao động khác, phục vụ cho quá trình sản xuất như những phương
tiện vận chuyển, bảo quản sản phẩm. + Đối tượng lao động : là những vật có
sẵn trong tự nhiên và do con người tạo ra và được con người sử dụng trong quá
trình sản xuất.
Yếu tố con người : Đó chính là người lao động với kinh nghiệm, kỹ năng, tri
thức lao động của họ. Các yếu tố trong lực lượng sản xuất không thể tách rời
nhau mà quan hệ hữu cơ với nhau. Trong đó con người giữ vị trí hàng đầu. Tư
liệu sản xuất giữ vai trò quan trọng và khoa học ngày càng trở thành các lực
lượng sản xuất trực tiếp của xã hội. Ngày nay lực lượng sản xuất có thêm 1 yếu
tố mới tham gia vào quá trình của nó đó là khoa học .

Câu 16 : Khái niệm quan hệ sản xuất và phân tích kết cấu của lực lượng
sản xuất ?
Khái niệm quan hệ sản xuất :

Là sự biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất về lĩnh vực đời sống vật chất xã hội do đó mang tính khách
quan.Mỗi loại quan hệ sản xuất đặc trưng cho một hình thái kinh tế - xã hội.
Kết cấu quan hệ sản xuất
Quan hệ giữa người với người đối với việc sở hữu về tư liệu sản xuất.
20

20


Quan hệ giữa người với người đối với việc tổ chức quản lý
Quan hệ giữa người với người đối với việc phân phối sản phẩm lao động
=> Ba mặt trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất giữ vai trò quyết định. Bản chất của bất cứ kiểu quan hệ sản xuất nào
trước hết do quan hệ chiếm hữu tư liệu sản xuất quyết định.
Câu 17. Trình bày nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất ?
Trình độ của LLSX : được biểu hiện ở trình độ công cụ lao động cộng với trình
độ tổ chức lao động xã hội + trình độ ứng dụng khoa học và sản xuất + kinh
nghiệm, kỹ năng lao động của con người + trình độ phân công lao động.
. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, thể hiện
trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Đó là kết quả của năng lực thực
tiễn của con người trong quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất
bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của loài người. Lực lượng sản xuất bao
gồm tư liệu sản xuất (tư liệu lao động và đối tượng lao động) và người lao động
với kinh nghiệm sản xuất và thói quen lao động.
Các yếu tố của lực lượng sản xuất có quan hệ với nhau. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất là sự phát triển của tư liệu lao động thích ứng với bản thân
người lao động, với trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật của họ.

Năng suất lao động là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đồng
thời, xét đến cùng, đó là nhân tố quan trọng nhất cho sự thắng lợi của một trật
tự xã hội mới. Ngày nay, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Những thành tựu của khoa học được vận dụng nhanh chóng và rộng rãi vào sản
xuất, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất phát triển; những tư liệu sản xuất,
những tiến bộ của công nghệ
và phương pháp sản xuất là kết quả vật chất của nhận thức khoa học. Thời đại
ngày nay tri thức khoa học trở thành một bộ phận cần thiết của kinh nghiệm và
tri thức của người sản xuất v.v. và được phát triển mạnh mẽ. Đó là lực lượng
sản xuất to lớn thúc đẩy quá trình phát triểntiến bộ xã hội trên thế giới.
. Quan hệ sản xuất
Quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất được gọi là quan hệ sản
xuất. Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống
vật chất của xã hội. Tính vật chất của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ chúng tồn
tại khách quan độc lập với ý thức con người.
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất; quan hệ về tổ
chức quản lý trong sản xuất; quan hệ phân phối sản phẩm. Ba mặt trên có quan
hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò
quyết định. Bản
chất của bất cứ kiểu quan hệ sản xuất nào trước hết do quan hệ chiếm hữu tư
liệu sản xuất quyết định.
. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
21

21


lực lượng sản xuất
 Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi, phát triển dưới ảnh hưởng quyết
định của lực lượng sản xuất

- Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và cách mạng nhất, là nội dung của
phương thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, là hình
thức xã hội của phương thức sản xuất. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình
thức thì nội dung quyết định hình thức.
- Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất biến đổi theo phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó làm cho lực lượng
sản xuất tiếp tục phát triển. Khi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
phát triển đến mức nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi
xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ để hình thành quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực
lượng sản xuất đang phát triển, làm phương thức sản xuất cũ mất đi, phương
thức sản xuất mới xuất hiện...
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao qua các thời kỳ lịch sử
khác nhau đã quyết định sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất
mới cao hơn, đưa loài người trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội khác nhau
từ thấp lên cao, với những kiểu quan hệ sản xuất khác nhau.
 Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
- Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ
tạo địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, trở thành động
lực cơ bản thúc đẩy, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
- Khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu không còn phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất thì nó trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm
sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Quan hệ sản xuất, sở dĩ có thể tác động (thúc đẩy hoặc kìm hãm) sự phát triển
của lực lượng sản xuất, vì nó quy định mục đích của sản xuất; ảnh hưởng đến
thái độ lao động của quảng đại quần chúng; kích thích hoặc hạn chế việc cải
tiến công cụ, việc áp
dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, việc hợp tác và phân công lao
động, v.v..
- Trong xã hội có giai cấp đối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chỉ thông qua đấu tranh giai

cấp mới giải quyết được mâu thuẫn đó để đưa xã hội tiến lên.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất biểu hiện sự vận động nội tại của phương thức sản xuất và biểu
hiện tính tất yếu của sự thay thế phương thức sản xuất này bằng phương thức
sản xuất khác cao hơn. Quy luật này là quy luật phổ biến tác động trong mọi xã
hội, làm cho xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao.
Câu 18. Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng ?
 Cơ sở hạ tầng :là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế
của một xã hội nhất định.
22

22


Kiến trúc thượng tầng : là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết
học, tôn giáo, nghệ thuật …. Cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như
nhà nước, đảng phái, giáo hội … được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.

Tính chất của CSHT như thế nào sẽ quy định tính chất của KTTT như thế ấy.
Quan hệ sản xuất nào giữ địa vị thống trị sẽ tạo ra KTTT tương ứng. Giai cấp
nào thống trị về mặt kinh tế cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị.Nếu
CSHT thay đổi thì sớm muộn KTTT cũng sẽ thay đổi theo, nhưng quá trình đó
diễn ra một cách phức tạp, vì trong đó còn chứa nhiều yếu tố của KTTT cũ chưa
bị diệt vong.Quá trình đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái
kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay
trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
Tuy sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng cũng gắn với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, nhưng lực lượng sản xuất không trực tiếp làm thay đổi kiến trúc
thượng tầng. Sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp làm thay đổi

quan hệ sản xuất, tức trực tiếp làm thay đổi cơ sở hạ tầng và thông qua đó làm
thay đổi kiến trúc thượng tầng.
Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất
phức tạp. Trong đó có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh
chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật, v.v.. Trong
kiến trúc thượng tầng, có những yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật,
v.v.. hoặc có những yếu tố vẫn được kế thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có
giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng
xã hội.
 Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ
tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác
động khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố có tác động mạnh
nhất đối với cơ sở hạ tầng vì đó là bộ máy bạo lực tập trung của giai cấp thống
23

23


trị về kinh tế. Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức,
tôn giáo, nghệ thuật, v.v... cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng chúng
đều bị nhà nước, pháp luật chi phối.
Trong mỗi chế độ xã hội, sự tác động của các bộ phận của kiến trúc thượng tầng
không phải bao giờ cũng theo một xu hướng. Chức năng xã hội cơ bản của kiến
trúc thượng tầng thống trị là xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã
sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó.
Một giai cấp chỉ có thể giữ vững được sự thống trị về kinh tế chừng nào xác lập
và củng cố được sự thống trị về chính trị, tư tưởng.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai
chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế

khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác
động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.
Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế,
nhưng không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội. Xét
đến cùng, nhân tố kinh tế đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng.
Nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm phát triển kinh tế thì sớm hay muộn, bằng
cách này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến
trúc thượng tầng mới tiến bộ để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển.
Câu 19. Khái niệm hình thái kinh tế xã hội và các yêu tố cấu thành hình
thái kinh tế xã hội ?
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng
để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất
đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản
xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những
quan hệ sản xuất ấy.
Câu 20 : Trình bày định nghĩa và kết cấu của ý thức xã hội ?
Định nghĩa :
Ý thức xã hội là khái niệm triết học dùng để chỉ các mặt, các bộ phận khác nhau
của lĩnh vực tinh thần xã hội như quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng,
truyền thống... của cộng đồng xã hội; mà những bộ phận này nảy sinh từ tồn tại
xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. Các ý
thức cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với mức độ khác nhau. Do đó, nó
không thể không mang tính xã hội. Song ý thức cá nhân không phải lúc nào
cũng thể hiện quan điểm tư tưởng, tình cảm phổ biến của cộng đồng, của một
thời đại xã hội nhất định.
Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng
với nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú nhau.
 Kết cấu của ý thức xã hội
Ý thức xã hội gồm những hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những hình thái

khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng phương thức khác nhau. Chúng ta có
thể phân ý thức xã hội thành các dạng sau đây:
24

24


-Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận.
Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con người
hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được
hệ thống hoá, khái quát hoá.
Ý thức xã hội thông thường, thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt
cuộc sống hàng ngày của con người, thường chi phối cuộc sống đó. Ý thức
thông thường tuy là trình độ thấp nhưng có vai trò quan trọng ở chỗ, nhờ nó mà
tri thức kinh nghiệm được hình thành, đây là tiền đề quan trọng để hình thành
các lý thuyết khoa học.
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hoá, khái quát hoá
thành học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù,
quy luật. Ý thức lý luận (lý luận khoa học) có khả năng phản ánh hiện thực
khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ
bản chất của các sự vật và hiện tượng.
- Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội.
Tâm lý xã hội là bộ phận của ý thức xã hội bao gồm tình cảm, ước muốn, thói
quen, tập quán... của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn bộ xã hội
hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản
ánh đời sống đó.
Đặc điểm của tâm lý xã hội là phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sống của
xã hội và phản ánh có tính tự phát, do vậy thường ghi lại những mặt bề ngoài
không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã
hội. Tâm lý xã hội còn mang nặng tính kinh nghiệm, chưa được thể hiện về mặt

lý luận, yếu tố tình cảm đan xen yếu tố lý luận.
Tuy nhiên, tâm lý xã hội có vai trò nhất định trong đời sống xã hội, biểu hiện ở
chỗ, nếu nắm bắt được trạng thái tâm lý của nhân dân thì sẽ tìm ra được các
biện pháp để giáo dục nhân dân tham gia tích cực, tự giác vào cuộc đấu tranh
cho một xã hội tốt đẹp.
Hệ tư tưởng là bộ phận của ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội một cách gián
tiếp, tự giác, khái quát hoá thành những quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết
học, nghệ thuật, tôn giáo).
Đặc điểm của hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã
hội do vậy có khả năng phản ánh sâu sắc những điều kiện sinh hoạt vật chất của
xã hội.
Hệ tư tưởng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của khoa học, và tới toàn bộ xã
hội, biểu hiện ở chỗ, hệ tư tưởng là cơ sở lý luận để định hướng sự phát triển
của khoa học và các hoạt động cải tạo xã hội.
Cần phân biệt hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học. Hệ tư
tưởng khoa học phản ánh chính xác, khách quan các mối quan hệ vật chất của
xã hội. Hệ tư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh các mối quan hệ vật
chất của xã hội, nhưng dưới một hình thức sai lầm, hư ảo hoặc xuyên tạc.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức phản
ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng chúng có mối quan hệ với nhau. Chúng
25

25


×