Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Bài dự thi tim hiểu luật bảo hiểm xã hội 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.48 MB, 93 trang )

Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”

LỜI NÓI ĐẦU
Bảo hiểm xã hội ở nước ta là một trong nhứng chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với người lao động.
Vì vậy ngay từ những ngày đầu khi mới thành lập Nước, chế độ chính sách bảo hiểm xã hội đã được ban hành và do
điều kiện đấu tranh giải phóng dân tộc, điều kiện kinh tế xã hội đã từng bước được thực hiện đối với công nhân viên
chức khu vực nhà nước. Trong quá trình thực hiện, chế độ chính sách về bảo hiểm xã hội không ngừng được bổ
sung sửa đổi cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước nhằm đảm bảo quyền lợi đối với người lao động
tham gia bảo hiểm xã hội. Từ sau Đại hội đảng lần thứ VI, nền kinh tế nước ta bắt đầu chuyên sang hoạt động theo
cơ chế kinh tế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước, với cơ chế này, nhiều vấn đề về chế độ chính sách bảo hiểm
xã hội trước đây không còn phù hợp. Bộ luật lao động được Quốc hội thông qua năm 1994 có hiệu lực thi hành từ
ngày 1/1/1995, trong đó chế độ chính sách bảo hiểm xã hội cũng được quy định trong chương XII của bộ luật này
và có liên quan đến một số điều ở các chương khác. Để thể chế các quy định trong Bộ Luật lao động, năm 1995
Chính phủ đã ban hành Điều lệ Bảo hiểm xã hội kèm theo Nghị định số 12/CP, Nghị định số 45/CP quy định cụ thể
về đối tượng tham gia, mức đóng góp, điều kiện để được hưởng, mức hưởng đối với từng chế độ, đồng thời quy định
hình thành Quý bảo hiểm xã hội và giao cho Bảo hiểm xã hội VIệt Nam thống nhất quản lý.
Giao thừa thế kỉ XXI của Việt Nam là thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tiếp tục
đường lối đổi mới, mở cửa phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.Mọi người, mọi nhà ấm no hạnh phúc.Để thực hiện được mục tiêu
trên và nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của người lao động trong sự nghiệp phát triển ngay từ khi thống
nhất đất nước Đangr và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chính sách thể hiện sự quan tâm tới người lao động trong đó
có chính sách Bảo hiểm xã hội.
Chính sách Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, đã được thực hiện
từ những năm sáu mươi của thế kỉ XX. Trải qua hơn bốn mươi năm thực hiện với những sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp với từng giai đoạn, chính sách Bảo hiểm xã hội đã góp phần rất to lớn đảm bảo đời sống cho người lao động và
gia đình họ, đồng thời góp phần ổn định chính trị- xã hội của đất nước. Đến nay Bảo hiểm xã hội đã được thực hiện
cho công chức nhà nước, lực lượng vũ trang và người lao động trong các thành phần kinh tế ở những nơi có quan
hệ lao động, có sử dụng lao động từ 10 lao động trở lên...và sẽ còn tiếp tục mở rộng cho các đối tượng khác. Với
năm chế độ về Bảo hiểm xã hội đang được thực hiện ở nước ta là: Chế độ trợ cấp ốm đau; trợ cấp thai sản; trợ cấp
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí và chế độ tử tuất chính sách Bảo hiểm xã hội đã khẳng định vai
trò của mình trong sự nghiệp đổi mới.Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của đất nước chính sách bảo hiểm xã hội


cần phải luôn luôn được thay đổi cho phù hợp.
Luật BHXH năm 2006 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu
quả thực thi chế độ, chính sách BHXH, pháp điển hóa các quy định hiện hành và bổ sung các chính sách BHXH phù
hợp với quá trình chuyển đổi của nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng nguyện
vọng đông đảo người lao động, bảo đảm an sinh xã hội và hội nhập quốc tế. Chính sách BHXH đã phát huy tích cực
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động, tạo điều kiện để mọi
người lao động đều có thể tham gia vào hệ thống BHXH với việc bổ sung thêm hình thức BHXH tự nguyện, góp
phần thực hiện mục tiêu An sinh xã hội. Nhận thức của người lao động, người sử dụng lao động và xã hội về BHXH,
An sinh xã hội đã có những chuyển biến tích cực. Đối tượng tham gia BHXH tăng nhanh qua các năm: năm 2006
mới có 6,7 triệu người tham gia BHXH bắt buộc thì đến năm 2013 đã có hơn 10,8 triệu người (tăng gần 1,6 lần).
Năm 2008 là năm đầu tiên triển khai BHXH tự nguyện có 6.110 người tham gia, đến nay đã có 173.000 người tham
gia BHXH tự nguyện. Các chế độ BHXH được thiết kế phù hợp hơn, đảm bảo tốt hơn nguyên tắc đóng - hưởng, đã
góp phần ổn định đời sống của người lao động trong quá trình làm việc và khi hết tuổi lao động. Tuy nhiên, qua 6
Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 1


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”
năm đi vào cuộc sống, thực tiễn thi hành pháp luật cho thấy Luật BHXH đang bộc lộ một số bất cập, hạn chế cần
phải xem xét sửa đổi như sau:
Thứ nhất, mức độ bao phủ của BHXH bắt buộc và tự nguyện đều thấp. Đến cuối năm 2013, tổng số đối tượng
tham gia BHXH bắt buộc mới chỉ chiếm khoảng 78% tổng số lao động có quan hệ lao động thuộc đối tượng tham
gia BHXH bắt buộc theo quy định của pháp luật và mới chỉ chiếm khoảng hơn 20% lực lượng lao động. Cả khuôn
khổ pháp lý và việc thực thi pháp luật về chế độ BHXH bắt buộc cũng như chế độ BHXH tự nguyện đều đang gặp
những điểm nghẽn cần sự đột phá về phát triển đối tượng, cụ thể là :
- Chính sách BHXH tự nguyện chưa thu hút được người lao động trong khu vực không có quan hệ lao động
tham gia. Là một nước nông nghiệp, tỷ lệ lao động phi chính thức và trong nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao. Tuy

nhiên, đến năm 2013, số người tham gia BHXH tự nguyện mới chỉ chiếm khoảng 0,3% số đối tượng thuộc diện tham
gia BHXH tự nguyện. Nguyên nhân chính một phần là do các điều kiện, thủ tục, cơ chế pháp lý của BHXH tự
nguyện chưa hấp dẫn được người lao động tham gia. Do vậy, yêu cầu thúc đẩy sự tham gia của các nhóm lao động
khu vực phi chính thức, nông nghiệp vào hệ thống ASXH chính thức là hết sức cấp thiết để hướng tới một hệ thống
An sinh xã hội bao phủ rộng tới các nhóm dân cư trong xã hội.
- Đối với BHXH bắt buộc, công tác quản lý lao động thuộc diện bắt buộc tham gia BHXH trong các thành
phần kinh tế chưa kịp thời, thiếu chính xác; chưa có cơ chế phối hợp, trao đổi thông tin về quản lý lao động một
cách hiệu quả giữa các cơ quan chức năng. Việc xác định và giao BHXH Việt Nam thực hiện chỉ tiêu mở rộng đối
tượng tham gia BHXH hằng năm còn thiếu cơ sở khoa học và chưa rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước
trong việc chỉ đạo, quản lý nên trong nhiều năm qua, tỷ lệ lao động tham gia BHXH, đặc biệt là BHXH tự nguyện
còn ở mức thấp, không phù hợp với lộ trình thực hiện đạt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 có 50% lực lượng lao
động tham gia BHXH mà Nghị quyết số 15-NQ/TW đã đề ra.
Thứ hai, Luật BHXH 2006 chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới hệ thống BHXH theo hướng đa dạng hóa hình
thức BHXH và phù hợp với mô hình An sinh xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường. Luật hiện hành
mới chỉ thiết kế được một hệ thống bảo hiểm hưu trí đơn tầng, duy nhất do Nhà nước tổ chức, quản lý (hay còn gọi
là hưu trí cơ bản). Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nhà nước cần phải thiết kế mô hình BHXH theo hướng đa tầng,
trong đó tầng hưu trí cơ bản do nhà nước tổ chức, quản lý để tạo ra một sàn an sinh tối thiểu cho mọi người lao
động và tầng tiếp theo là bảo hiểm hưu trí bổ sung để tạo cơ hội cho những người lao động có điều kiện, mức thu
nhập cao hơn sẽ tích lũy an sinh nhiều hơn, có mức sống tốt hơn sau khi hết tuổi lao động.
Thứ ba, quỹ hưu trí và tử tuất có nguy cơ mất cân đối trong tương lai gần, tỷ trọng giữa số tiền chi trả chế độ
so với số thu từ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động hàng năm có xu hướng tăng nhanh, nếu
như năm 2007, tỷ trọng số chi so với số thu chỉ chiếm 57,2% thì sang năm 2008 con số này là 73,7%, năm 2009 là
81,8%, năm 2010 là 76,3%; năm 2011 là 77,0%; năm 2012 là 68,56% và ước năm 2013 là 76,6% (năm 2010 và
năm 2012 tỷ trọng chi so với thu có giảm xuống là do tác động của việc thực hiện quy định về điều chỉnh tăng tỷ lệ
đóng góp thêm 2% ở mỗi năm).
Theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), với các chính sách hiện hành thì quỹ hưu trí và tử tuất đến
năm 2021 thu trong năm không đủ chi trong năm, để đảm bảo khả năng chi trả, phải lấy từ nguồn kết dư của quỹ.
Đến năm 2034, phần kết dư không còn, số chi lớn hơn rất nhiều so với số thu.
Nguy cơ về mất cân đối quỹ hưu trí và tử tuất là do cơ chế đóng - hưởng BHXH còn mất cân đối, mức đóng
chưa tương ứng với mức hưởng: tỷ lệ đóng góp vào quỹ hưu trí và tử tuất còn thấp so với mức hưởng lương hưu; từ

năm 2014 trở đi, tỷ lệ đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất là 22%, trong khi tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa là 75% mức
bình quân tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH trong khi mức tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH
còn khoảng cách lớn với mức tiền lương, tiền công thực tế của người lao động (chỉ bằng 66% tiền lương, tiền công
Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 2


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”
thực tế năm 2012); tỷ lệ hưởng lương hưu cao và công thức tính tỷ lệ hưởng lương hưu còn chưa hợp lý (75% cho
25 năm đóng BHXH đối với nữ và 30 năm đối với nam). Tỷ lệ tính hưởng lương hưu bình quân của nam là 2,5% cho
một năm đóng, của nữ là 3% cho một năm đóng là quá cao (bình quân các nước trên thế giới là 1,7%). Tỷ lệ giảm
lương hưu do nghỉ hưu trước tuổi chỉ 1% là thấp. Tiền lương bình quân làm căn cứ tính lương hưu của người lao
động trong khu vực nhà nước chỉ tính bình quân trên một số năm cuối (là giai đoạn người lao động có mức lương
cao nhất). Số người đóng BHXH cho một người hưởng lương hưu ngày càng giảm, nếu như năm 1996 có 217 người
đóng BHXH cho 01 người hưởng lương hưu, con số này giảm xuống còn 34 người vào năm 2000, 19 người vào năm
2004, 14 người vào năm 2007, 11 người vào năm 2009, 9,9 người vào năm 2011 và đến năm 2012 chỉ có 9,3 người
đóng BHXH cho 01 người hưởng lương hưu. Tuổi nghỉ hưu thấp, dẫn tới thời gian đóng BHXH ngắn (số năm đóng
BHXH bình quân đối với nam là 28 năm và nữ là 23 năm) và thời gian hưởng lương hưu dài. Theo kết quả Tổng
điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 thì số năm trung bình còn sống thêm của nam ở tuổi 60 là 18,1 năm và
của nữ ở tuổi 55 là 24,5 năm (trên thực tế tuổi nghỉ hưu bình quân năm 2012 chỉ là 54,2 tuổi, trong đó nam là 55,6
tuổi và nữ là 52,6 tuổi).
Thứ tư, người lao động còn gặp nhiều khó khăn, cản trở trong việc tiếp cận các dịch vụ BHXH; tiếp cận, theo
dõi các thông tin về BHXH liên quan đến việc đóng - hưởng của người lao động, người sử dụng lao động và nhà
nước; việc cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý BHXH còn chậm; chưa hình
thành quản lý BHXH bằng thẻ BHXH điện tử để mọi người lao động đều có thể truy cập tìm hiểu, kiểm tra tất cả
những thông tin liên quan tới tài khoản BHXH của mình, do vậy, nhiều trường hợp người lao động bị doanh nghiệp
không đóng hoặc nợ BHXH đã rất lâu nhưng không biết.

Thứ năm, chế tài và việc xử phạt các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH chưa nghiêm khắc nên tình
trạng nợ đọng, chậm đóng BHXH còn xảy ra khá phổ biến, đặc biệt ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (chiếm trên 70% tổng số nợ), ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp
của người lao động và nguồn thu quỹ BHXH. Theo Báo cáo của BHXH Việt Nam, đến 31/12/2013, tổng số nợ đọng
BHXH và BHTN là 6.449 tỷ đồng, chiếm 4,47% số phải thu. Việc người sử dụng lao động trốn đóng, chậm đóng
BHXH vừa ảnh hưởng đến tình hình tài chính của quỹ BHXH, nhưng quan trọng hơn là nó làm cho người lao động
có nguy cơ không được thụ hưởng các chế độ An sinh xã hội, đặc biệt là chế độ bảo hiểm hưu trí do việc doanh
nghiệp trốn đóng BHXH gây ra.
Thứ sáu, việc kiện toàn, nâng cao năng lực tổ chức bộ máy thực hiện; xác định chi phí quản lý BHXH; ứng
dụng công nghệ thông tin trong quản lý hệ thống BHXH; cung ứng dịch vụ công chậm được đổi mới nên chưa tạo
điều kiện thuận lợi cho mọi người dân tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH, BHYT, đáp ứng yêu cầu hội nhập
và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Với những lý do khách quan nêu trên, cần thiết phải đổi mới căn bản, toàn diện pháp luật về BHXH để đáp
ứng yêu cầu phát triển hệ thống An sinh xã hội phù hợp với nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế trong tình hình
mới. Nếu không mở rộng diện bao phủ BHXH tới đông đảo người lao động thì trong tương lai, đất nước sẽ phải đối
mặt với hàng triệu người lao động bước vào tuổi nghỉ hưu không có thu nhập từ lương hưu, gánh nặng này sẽ thuộc
về Nhà nước, đó là phải trợ cấp xã hội cho hàng triệu người để hỗ trợ cho cuộc sống của họ (năm 2011 tổng số
người từ 80 tuổi hưởng trợ cấp xã hội là: 1.331.449 người với kinh phí là 2.954 tỷ đồng). Đây là vấn đề cần phải
quan tâm trong quá trình sửa đổi Luật BHXH./.
Ngày 20/11/2014, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã
thông qua Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13 (sau đây gọi là Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014). Luật đã
được Chủ tịch nước ký Lệnh công bố số 16/2014/L-CTN ngày 04/12/2014 và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2016.
Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 3



Bài dự thi “Cơng đồn với Luật Bảo hiểm xã hội”

HÃY TÍCH CỰC THAM GIA BHXH ĐỂ ĐẢM BẢO CUỘC SỐNG CHO BẢN THÂN, GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI

Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 4


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”

Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 5


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”

Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 6


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”


Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 7


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”
Câu 1. Anh (chị) hãy cho biết Luật bảo hiểm xã hội (sửa đổi bổ sung năm 2014) được Quốc hội nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua ngày tháng năm nào? So với Luật BHXH số 71/2006/QH11 có
những nội dung nào mới?
Ngày 20/11/2014, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông
qua Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13 (sau đây gọi là Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014). Luật đã được Chủ tịch
nước ký Lệnh công bố số 16/2014/L-CTN ngày 04/12/2014 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016.

Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, luôn được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng
và Hiến pháp qua các thời kỳ. Để tổ chức thực hiện chính sách này, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy
phạm pháp luật, đặc biệt với sự ra đời của Luật Bảo hiểm xã hội (được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2006) đánh dấu một bước quan trọng trong việc tạo cơ sở
pháp lý để nâng cao hiệu quả thực thi chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, pháp điển hóa các quy
định hiện hành và bổ sung các chính sách bảo hiểm xã hội phù hợp với quá trình chuyển đổi của nền kinh tế theo cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo người lao động, bảo đảm an sinh xã
hội và hội nhập quốc tế.
Sau 7 năm thực hiện, Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng dẫn thi hành đã đi vào cuộc sống, phát huy
tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động, góp phần thực
hiện mục tiêu chính sách an sinh xã hội của nhà nước. Quá trình triển khai thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội đã mang
lại một số kết quả sau:
Thứ nhất, nhận thức của người lao động, người sử dụng lao động và xã hội về bảo hiểm xã hội đã có những
chuyển biến tích cực;

Thứ hai, Luật Bảo hiểm xã hội đã tạo điều kiện để mọi người lao động đều có thể tham gia vào hệ thống bảo
hiểm xã hội với việc bổ sung thêm hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tăng:
Năm 2006 mới có 6,7 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì đến hết năm 2013 đã có hơn 10,89 triệu
người (tăng 1,6 lần). Năm 2008 là năm đầu tiên triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện có 6.110 người tham gia, đến
hết năm 2013 đã có 173.584 người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện;

Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 8


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”
Thứ ba, các chế độ bảo hiểm xã hội được thiết kế phù hợp hơn, bảo đảm tốt hơn nguyên tắc đóng - hưởng, đã
góp phần ổn định đời sống của người lao động trong quá trình làm việc và khi hết tuổi lao động;
Thứ tư, việc giải quyết chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động đã bảo đảm đầy đủ, kịp thời,
đúng quy định của pháp luật hơn; quản lý chặt chẽ các đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội hàng tháng; hình
thức chi trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội ngày càng được cải tiến, hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho
người tham gia bảo hiểm xã hội khi thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội;
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách, chế độ BHXH cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập sau:
Thứ nhất, việc mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội còn chậm, đặc biệt là đối tượng tham gia bảo
hiểm xã hội tự nguyện. Số người tham gia bảo hiểm xã hội còn thấp (hiện tại mới chiếm khoảng 20% lực lượng lao
động). Bảo hiểm xã hội tự nguyện mặc dù có đối tượng thuộc diện tham gia rộng, tuy nhiên trên thực tế thì số người
tham mới chỉ chiếm khoảng 0,3% số đối tượng thuộc diện tham gia. Nguyên nhân của tình trạng nêu trên là do một
số chính sách chưa thật sự hấp dẫn, chưa có cơ chế để khuyến khích người lao động tham gia, công tác tuyên truyền,
phổ biến nâng cao nhận thức để mở rộng đối tượng tham gia còn chưa được quan tâm đúng mức.
Thứ hai, tình trạng nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội xảy ra còn khá phổ biến, đặc biệt ở các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (chiếm trên 70% tổng số nợ), làm ảnh hưởng đến
nguồn thu quỹ bảo hiểm xã hội và quyền lợi của người lao động. Một trong những nguyên nhân của tình trạng nợ

đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội nêu trên là do Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành quy định lãi chậm đóng bằng mức
lãi suất của hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội trong năm, trong khi đó mức lãi suất của hoạt động đầu tư từ
quỹ bảo hiểm xã hội thường thấp hơn nhiều so với lãi suất cho vay của các ngân hàng. Mặt khác, mức phạt tiền đối
với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội theo quy định còn thấp. Vì vậy, nhiều doanh
nghiệp cố tình nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội và chấp nhận chịu phạt để chiếm dụng tiền đóng BHXH.
Thứ ba, một số quy định trong chế độ bảo hiểm xã hội hiện hành không còn phù hợp với thực tế, bộc lộ những
hạn chế, bất cập, cụ thể như sau:
- Đối với bảo hiểm xã hội bắt buộc: Một số quy định trong pháp luật về bảo hiểm xã hội hiện hành còn chưa
phù hợp, như quy định về điều kiện hưởng lương hưu, tuổi nghỉ hưu đối với lao động nữ chưa tạo sự bình đẳng và
tạo điều kiện để lao động nữ có thể tiếp tục làm việc và nâng cao mức thu nhập. Quy định cho phép người lao động
có dưới 20 năm đóng bảo hiểm xã hội nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần chưa phù hợp với mục tiêu của bảo
hiểm xã hội là nhằm bảo đảm cuộc sống cho người lao động khi hết tuổi lao động. Quy định về tính mức bình quân
tiền lương, tiền công tháng làm căn cứ tính hưởng bảo hiểm xã hội còn có sự khác biệt giữa khu vực hành chính, sự
nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, lực lượng vũ trang và các doanh nghiệp ngoài nhà nước. Quy định về trợ cấp tuất
hàng tháng và một lần hiện nay còn có sự chênh lệch lớn, một số trường hợpthân nhân hưởng trợ cấp tuất hàng tháng
bị thiệt thòi hơn rất nhiều so với việc hưởng trợ cấp tuất một lần.
- Đối với bảo hiểm xã hội tự nguyện: Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện hiện quy định còn khá cao so với
đại bộ phận người dân ở khu vực nông thôn và lao động tự do có thu nhập hàng tháng thấp và không ổn định. Nhóm
đối tượng người lao động từ 45 tuổi trở lên đối với nam và từ 40 tuổi trở lên đối với nữ không thể tham gia bảo hiểm
xã hội tự nguyện để được hưởng lương hưu khi đến tuổi nghỉ hưu, do họ không thể đóng góp bảo hiểm xã hội tự
nguyện đủ 20 năm1 theo phương thức hàng tháng hoặc hàng quý hoặc 6 tháng một lần mà Luật bảo hiểm xã hội quy
định. Việc quy định quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện độc lập với quỹ hưu trí và tử tuất trong quỹ bảo hiểm xã hội bắt
buộc gây nên khó khăn cho cơ quan bảo hiểm xã hội khi giải quyết chế độ cho những người nghỉ hưu vừa có thời
gian tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
1

Luật BHXH quy định điều kiện để được hưởng lương hưu trong BHXH tự nguyện là nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên. Trường hợp nam đủ
60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi nhưng thời gian đóng BHXH còn thiếu không quá 5 năm so với thời gian quy định thì được đóng tiếp cho đến khi đủ 20 năm.

Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng


– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 9


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”
Thứ tư, hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội hiệu quả chưa cao, lãi thu được từ hoạt động đầu tư
tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội chưa bảo tồn được giá trị của quỹ, lãi suất đầu tư luôn ở dưới chỉ số tăng giá tiêu
dùng (CPI) (lãi suất đầu tư bình quân của giai đoạn 2007 - 2012 chỉ khoảng 9,5%/năm, trong khi CPI bình quân là
13,2%/năm, tỷ lệ điều chỉnh lương hưu bình quân là 15,2%/năm). Một trong những nguyên nhân của hiệu quả đầu tư
quỹ chưa cao là do hình thức đầu tư được quy định trong luật chưa thật đa dạng, đội ngũ cán bộ làm công tác đầu tư
của cơ quan bảo hiểm xã hội chưa chuyên nghiệp.
Thứ năm, quy định về chi phí quản lý của tổ chức bảo hiểm xã hội còn chưa phù hợp: Luật Bảo hiểm xã hội
hiện hành quy định tổ chức bảo hiểm xã hội là tổ chức sự nghiệp nhưng lại quy định chi phí quản lý của tổ chức bảo
hiểm xã hội bằng mức chi phí quản lý của cơ quan hành chính nhà nước.
Thứ sáu, quy định về thủ tục, hồ sơ tham gia và thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội còn chưa thật thuận tiện,
mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý bảo hiểm xã hội còn hạn chế, ứng dụng công nghệ thông tin trong
công tác quản lý, thống kê, điều hành, giám sát chưa có sự liên thông trong hệ thống từ đó dẫn tới những khó khăn
trong đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với người tham gia và thụ hưởng bảo hiểm xã hội.
Thứ bảy, Luật Bảo hiểm xã hội chưa quy định cụ thể trách nhiệm của các Bộ, ngành trong quản lý nhà nước
về bảo hiểm xã hội.
Thứ tám, quỹ hưu trí và tử tuất có nguy cơ mất cân đối trong tương lai gần, tỷ trọng giữa số tiền chi trả chế độ
so với số thu từ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động hàng năm có xu hướng tăng nhanh. Nếu
như năm 2007 tỷ trọng số chi so với số thu chỉ chiếm 57,2% thì sang năm 2008 con số này là 73,7%, năm 2009 là
81,8%, năm 2010 là 76,3%; năm 2011 là 77%; năm 2012 là 68,6% và ước năm 2013 là 76,6% (năm 2010 và năm
2012 tỷ trọng chi so với thu có giảm xuống là do tác động của việc thực hiện quy định về điều chỉnh tăng tỷ lệ đóng
góp thêm 2% ở mỗi năm).
Theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), với các chính sách hiện hành thì quỹ hưu trí và tử tuất đến
năm 2021 thu trong năm không đủ chi trong năm, để bảo đảm khả năng chi trả, phải lấy từ nguồn kết dư của quỹ.

Đến năm 2034, phần kết dư không còn, số chi lớn hơn rất nhiều so với số thu. Nguy cơ về mất cân đối quỹ hưu trí và
tử tuất xuất phát từ nguyên nhân sau đây:
- Đóng - hưởng bảo hiểm xã hội còn mất cân đối, mức đóng chưa tương ứng với mức hưởng, cụ thể:
+ Tỷ lệ đóng góp vào quỹ hưu trí và tử tuất còn thấp so với mức hưởng lương hưu (từ năm 2012 tổng mức
đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động là 20%, từ năm 2014 trở đi là 22%, trong khi tỷ lệ hưởng
lương hưu tối đa là 75% mức bình quân tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội).
+ Mức tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội còn khoảng cách lớn với mức tiền lương, tiền
công thực tế của người lao động (theo kết quả điều tra năm 2012 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, con số
này mới chỉ bằng 66% tiền lương, tiền công thực tế).
+ Tính tuân thủ các quy định về đóng bảo hiểm xã hội còn thấp, tình trạng nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã
hội còn diễn ra ở nhiều doanh nghiệp, ảnh hưởng đến nguồn thu quỹ bảo hiểm xã hội.
+ Tỷ lệ hưởng lương hưu cao và công thức tính tỷ lệ hưởng lương hưu còn chưa hợp lý (75% cho 25 năm đóng
bảo hiểm xã hội đối với nữ và 30 năm đối với nam). Tỷ lệ tính hưởng lương hưu bình quân của nam là 2,5% cho một
năm đóng, của nữ là 3% cho một năm đóng là quá cao (bình quân các nước trên thế giới là 1,7%). Tỷ lệ giảm lương
hưu do nghỉ hưu trước tuổi chỉ 1% là thấp.

Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 10


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”
+ Tiền lương bình quân làm căn cứ tính lương hưu của người lao động trong khu vực nhà nước chỉ tính bình
quân trên một số năm cuối (là giai đoạn người lao động có mức lương cao nhất).
+ Số người đóng bảo hiểm xã hội cho một người hưởng lương hưu ngày càng giảm, nếu như năm 1996 có 217
người đóng bảo hiểm xã hội cho 1 người hưởng lương hưu, con số này giảm xuống còn 34 người vào năm 2000, 19
người vào năm 2004, 14 người vào năm 2007, 11 người vào năm 2009, 9,9 người vào năm 2011, 9,3 người vào năm
2012 và đến năm 2013 chỉ có 9,13 người đóng bảo hiểm xã hội cho 1 người hưởng lương hưu.

+ Tuổi nghỉ hưu thấp dẫn tới thời gian đóng bảo hiểm xã hội ngắn (số năm đóng bảo hiểm xã hội bình quân
đối với nam là 28 năm và nữ là 23 năm) và thời gian hưởng lương hưu dài. Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà
ở Việt Nam năm 2009 thì số năm trung bình còn sống thêm của nam ở tuổi 60 là 18,1 năm và của nữ ở tuổi 55 là
24,5 năm (trên thực tế tuổi nghỉ hưu bình quân năm 2012 chỉ là 54,2 tuổi, trong đó nam là 55,6 tuổi và nữ là 52,6
tuổi).
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa trong tổ chức thực hiện bảo hiểm xã hội còn chậm, dẫn đến
chưa giảm thiểu được chi phí quản lý.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên, để khắc phục được những hạn chế, bất cập của Luật Bảo hiểm xã hội hiện
hành, kịp thời thể chế hóa các quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo hiểm xã hội thì việc sửa đổi Luật
Bảo hiểm xã hội là cần thiết, phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới, đáp ứng được nguyện
vọng của người lao động, bảo đảm an sinh xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.

Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 được xây dựng trên cơ sở quán triệt đầy đủ các quan điểm chỉ đạo sau
đây:
1. Tiếp tục thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước trong: Hiến pháp năm 2013; Nghị quyết
số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề về chính
sách xã hội giai đoạn 2012-2020; Kết luận số 63-KL/TW tại Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI một số vấn đề về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định
hướng cải cách đến năm 2020; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày
22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
giai đoạn 2012 - 2020, cụ thể:
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội đa dạng và linh hoạt.
- Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội; xây dựng chính sách khuyến khích nông dân, lao động trong
khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện; phấn đấu đến năm 2020 có 50% lực lượng lao động
tham gia bảo hiểm xã hội.
Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 11



Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”
- Tuân thủ nguyên tắc đóng - hưởng và bảo đảm khả năng cân đối quỹ bảo hiểm xã hội.
- Hoàn thiện các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội, bảo đảm sự bình đẳng trong tham gia và thụ hưởng bảo
hiểm xã hội.

Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Đỗ Thị Xuân Phương báo cáo tại Hội thảo
2. Kế thừa, phát triển những quy định hiện hành phù hợp đã đi vào cuộc sống, sửa đổi các quy định chưa phù
hợp, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật; bổ sung những quy định mới phù hợp với thực tiễn kinh tế - xã
hội của đất nước và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên tham gia bảo hiểm xã hội; tạo điều kiện thuận lợi để mọi
người lao động tham gia và thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội.
4. Xây dựng các chế độ bảo hiểm xã hội tuân thủ theo nguyên tắc mức hưởng trên cơ sở mức đóng và có chia
sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội tùy theo tính chất của từng chế độ, bảo đảm công bằng và bền vững
của hệ thống bảo hiểm xã hội.
5. Tham khảo và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia có
điều kiện phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.

Ông Mai Đức Chính, Phó Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam phát biểu tham luận tại Hội thảo

Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 12


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 gồm có 9 chương, 125 điều.

1. Chương 1. Những quy định chung
Chương này gồm 17 điều (từ Điều 1 đến Điều 17), quy định về: Phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải
thích từ ngữ; các chế độ bảo hiểm xã hội; nguyên tắc bảo hiểm xã hội; chính sách của Nhà nước đối với bảo hiểm xã
hội; nội dung quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội; cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội; hiện đại hoá quản
lý bảo hiểm xã hội; trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về bảo hiểm xã hội; trách
nhiệm của Bộ trưởng Bộ Tài chính về bảo hiểm xã hội; trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp về bảo hiểm xã
hội; thanh tra bảo hiểm xã hội; quyền và trách nhiệm của tổ chức công đoàn, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên của Mặt trận; quyền và trách nhiệm của tổ chức đại diện người sử dụng lao động; chế độ báo cáo,
kiểm toán; các hành vi bị cấm.

Ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, ....

2. Chương 2. Quyền và trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động, cơ quan bảo hiểm xã
hội
Chương này gồm 6 điều (từ Điều 18 đến Điều 23), quy định về: Quyền của người lao động; trách nhiệm của
người lao động; quyền của người sử dụng lao động; trách nhiệm của người sử dụng lao động; quyền của cơ quan bảo
hiểm xã hội; trách nhiệm của cơ quan bảo hiểm xã hội.
3. Chương 3. Bảo hiểm xã hội bắt buộc: Chương này gồm 48 điều (từ Điều 24 đến Điều 71), chia thành 05
mục:
- Mục 1. Chế độ ốm đau (từ Điều 24 đến Điều 29) quy định về: Đối tượng áp dụng chế độ ốm đau; điều hiện
hưởng chế độ ốm đau; thời gian hưởng chế độ ốm đau; thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau; mức hưởng chế độ
ốm đau; dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi ốm đau.
- Mục 2. Chế độ thai sản (từ Điều 30 đến Điều 41) quy định về: Đối tượng áp dụng chế độ thai sản; điều hiện
hưởng chế độ thai sản; thời gian hưởng chế độ khi khám thai; thời gian hưởng chế độ khi sẩy thai, nạo, hút thai, thai
chết lưu hoặc phá thai bệnh lý; thời gian hưởng chế độ khi sinh con; chế độ thai sản của lao động nữ khi mang thai
hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ; thời gian hưởng chế độ khi nhận nuôi con nuôi; thời gian hưởng chế độ khi thực
hiện các biện pháp tránh thai; trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi; mức hưởng chế độ thai sản; lao
động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con; dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản
- Mục 3. Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (từ Điều 42 đến Điều 52) quy định về: Đối tượng áp dụng
chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; điều kiện hưởng chế độ tai nạn lao động; điều kiện hưởng chế độ bệnh

nghề nghiệp; giám định mức suy giảm khả năng lao động; trợ cấp một lần; trợ cấp hằng tháng; thời điểm hưởng trợ
Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 13


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”
cấp; phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình; trợ cấp phục vụ; trợ cấp một lần khi chết do tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp; dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi điều trị thương tật, bệnh tật.
- Mục 4. Chế độ hưu trí (từ Điều 53 đến Điều 65) quy định về: Đối tượng áp dụng chế độ hưu trí; điều kiện
hưởng lương hưu; điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động; mức lương hưu hằng tháng; điều
chỉnh lương hưu; trợ cấp một lần khi nghỉ hưu; thời điểm hưởng lương hưu; bảo hiểm xã hội một lần; bảo lưu thời
gian đóng bảo hiểm xã hội; mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu, trợ cấp một
lần; điều chỉnh tiền lương đã đóng bảo hiểm xã hội; tạm dừng, hưởng tiếp lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng
tháng; thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với người đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng ra
nước ngoài để định cư.
- Mục 5. Chế độ tử tuất (từ Điều 66 đến Điều 71) quy định về: Trợ cấp mai táng, các trường hợp hưởng trợ cấp
tuất hằng tháng, mức trợ cấp tuất hằng tháng; các trường hợp hưởng trợ cấp tuất một lần, mức trợ cấp tuất một lần,
chế độ hưu trí và chế độ tử tuất đối với người vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có thời gian đóng
bảo hiểm xã hội tự nguyện.

Bà Trần Thị Thúy Nga, Vụ trưởng Vụ BHXH, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, ...

4. Chương 4. Bảo hiểm xã hội tự nguyện: Chương này gồm 10 điều (từ Điều 72 đến Điều 81), gồm 02 mục:
- Mục 1. Chế độ hưu trí (từ Điều 72 đến Điều 79) quy định về: Đối tượng áp dụng chế độ hưu trí; điều kiện
hưởng lương hưu; mức lương hưu hằng tháng; trợ cấp một lần khi nghỉ hưu; thời điểm hưởng lương hưu; bảo hiểm
xã hội một lần; bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội, tạm dừng, hưởng tiếp lương hưu; mức bình quân thu nhập
tháng đóng bảo hiểm xã hội.

- Mục 2. Chế độ tử tuất, bao gồm Điều 80 và Điều 81, quy định về trợ cấp mai táng và trợ cấp tuất.
5. Chương V. Quỹ bảo hiểm xã hội
Chương này gồm 11 điều (từ Điều 82 đến Điều 92), quy định về: Các nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội;
các quỹ thành phần của quỹ bảo hiểm xã hội; sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội; mức đóng và phương thức đóng của
người
lao
động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc; mức đóng và phương thức đóng của người sử dụng lao động; mức đóng và
phương thức đóng của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện; tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội bắt
buộc; tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc; chí phí quản lý bảo hiểm xã hội; nguyên tắc đầu tư; các hình
thức đầu tư.
Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 14


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”

6. Chương VI. Tổ chức, quản lý bảo hiểm xã hội
Chương này gồm 03 điều (từ Điều 93 đến Điều 95), quy định về: Cơ quan bảo hiểm xã hội; hội đồng quản lý
bảo hiểm xã hội; nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội.
7. Chương VII. Trình tự, thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội
Chương này gồm 22 điều (từ Điều 96 đến Điều 117), bao gồm 02 mục:
- Mục 1. Trình tự, thủ tục tham gia bảo hiểm xã hội (từ Điều 96 đến Điều 99) quy định về: Sổ bảo hiểm xã hội;
hồ sơ đăng ký tham gia và cấp sổ bảo hiểm xã hội; điều chỉnh thông tin tham gia bảo hiểm xã hội; giải quyết đăng ký
tham gia và cấp sổ bảo hiểm xã hội.

Đồng chí Đinh Thế Huynh- Ủy viên Bộ Chính trị, Bí Thư TƯ Đảng,
Trưởng Ban Tuyên giáo TƯ phát biểu chỉ đạo tại Hội thảo

- Mục 2. Trình tự, thủ tục giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội (từ Điều 100 đến Điều 117) quy định về: Hồ sơ
hưởng chế độ ốm đau; hồ sơ hưởng chế độ thai sản; giải quyết hưởng chế độ ốm đau, thai sản; giải quyết hưởng trợ
cấp dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau ốm đau, thai sản; hồ sơ hưởng chế độ tai nạn lao động; hồ sơ hưởng chế độ
bệnh nghề nghiệp; giải quyết hưởng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; giải quyết hưởng trợ cấp dưỡng sức,
phục hồi sức khoẻ sau tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hồ sơ hưởng lương hưu; hồ sơ hưởng bảo hiểm xã hội
một lần; giải quyết hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội một lần; hồ sơ hưởng chế độ tử tuất; giải quyết hưởng chế độ
tử tuất; hồ sơ hưởng tiếp lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng đối với người xuất cảnh trái phép trở về
Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 15


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”
nước định cư hợp pháp và người bị Tòa án tuyên bố mất tích trở về; giải quyết hưởng tiếp lương hưu, trợ cấp bảo
hiểm xã hội hằng tháng đối với người xuất cảnh trái phép trở về nước định cư hợp pháp, người bị Tòa án tuyên bố
mất tích trở về; chuyển nơi hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội; giải quyết hưởng chế độ bảo hiểm xã hội
chậm so với thời hạn quy định; hồ sơ, trình tự khám giám định mức suy giảm khả năng lao động để giải quyết chế
độ bảo hiểm xã hội.
8. Chương VIII. Khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về bảo hiểm xã hội
Chương này gồm 05 điều (từ Điều 118 đến Điều 122), quy định về: Khiếu nại về bảo hiểm xã hội; trình tự giải
quyết khiếu nại về bảo hiểm xã hội; tố cáo, giải quyết tố cáo về bảo hiểm xã hội; thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính và mức phạt trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp ; xử lý vi phạm pháp luật về
bảo hiểm xã hội.
9. Chương IX. Điều khoản thi hành
Chương này gồm 03 điều (từ Điều 123 đến Điều 125), quy định về: Quy định chuyển tiếp; hiệu lực thi hành; quy
định chi tiết.

Đồng chí Nguyễn Thị Minh- Thứ trưởng, Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam

phát biểu kết luận Hội thảo

Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 16


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”

NHỮNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG VÀ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT
1. Về phạm vi điều chỉnh
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 không áp dụng đối với bảo hiểm thất nghiệp do bảo hiểm thất nghiệp đã được
quy định trong Luật Việc làm.
2. Về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội
- Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc: So với Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành, Luật Bảo hiểm xã hội
năm 2014 bổ sung thêm 03 nhóm đối tượng sau:
+ Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng;
+ Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn.
+ Người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ
hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp.
- Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện: Mở rộng đối tượng tham gia theo hướng không khống chế
tuổi trần tham gia.

Các khoản người lao động phải đóng góp
* Tăng tiền đóng BHXH
Đây là thay đổi quan trọng nhất trong Luật Bảo hiểm xã hội 2014. Hiện tại, người lao động đóng BHXH bắt
buộc trên nền tiền lương cơ bản. Đối với người hưởng lương từ ngân sách là lương cơ sở nhân với hệ số. Với lao
động trong doanh nghiệp là mức lương thỏa thuận với chủ sử dụng ghi trong hợp đồng nhưng không thấp hơn lương

tối thiểu vùng. Từ 1/1/2016 đến hết 2017, mức đóng dựa trên lương cộng phụ cấp ghi trong hợp đồng lao động. Từ
1/1/2018 trở đi, đóng trên lương cùng phụ cấp và các khoản bổ sung ghi trong hợp đồng lao động. Phụ cấp được xác
định

các
khoản cố định, ít biến động, gồm tiền để bù đắp điều kiện lao động, tính chất phức tạp công việc, điều kiện sinh
hoạt, mức độ thu hút lao động mà lương thỏa thuận trong hợp đồng chưa tính đến hoặc tính chưa đầy đủ.
Theo quy định, người lao động đóng 8%, còn lại 18% sẽ do người sử dụng lao động đóng, tổng cộng 26%
Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 17


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”
đóng vào quỹ BHXH.
3. Về quản lý Nhà nước về bảo hiểm xã hội
Bổ sung thêm 03 điều (từ Điều 10 đến Điều 12) quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Lao độngThương binh và Xã hội, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Ủy ban nhân dân các cấp về bảo hiểm xã hội.
4. Về thanh tra bảo hiểm xã hội
- Bổ sung Thanh tra tài chính thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về quản lý tài chính bảo hiểm xã
hội.
- Bổ sung cơ quan bảo hiểm xã hội thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế.
5. Về quyền và trách nhiệm của tổ chức công đoàn, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên của Mặt trận
- Bổ sung quyền của tổ chức công đoàn khởi kiện ra Tòa án đối với hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã
hội gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, tập thể người lao động.
- Bổ sung quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong
tuyên truyền, vận động, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội.


6. Về bổ sung thêm các quyền của người lao động được:
- Quản lý sổ bảo hiểm xã hội.
- Hưởng bảo hiểm y tế trong thời gian nghỉ việc hưởng trợ cấp thai sản khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi;
đang hưởng trợ cấp ốm đau đối với người lao động mắc bệnh thuộc Danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày.
- Được chủ động đi khám giám định mức suy giảm khả năng lao động nếu thuộc trường hợp thương tật, bệnh
tật tái phát đã được điều trị ổn định, người đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội; được thanh toán phí giám định
y khoa nếu đủ điều kiện để hưởng bảo hiểm xã hội.
- Được cơ quan bảo hiểm xã hội, người sử dụng lao động định kỳ cung cấp thông tin về đóng bảo hiểm xã hội.
7. Về trách nhiệm của người sử dụng lao động:
- Bỏ quy định người sử dụng lao động bảo quản sổ bảo hiểm xã hội của người lao động trong thời gian người
lao động làm việc (giao người lao động giữ sổ bảo hiểm xã hội);
- Bổ sung trách nhiệm về định kỳ 06 tháng, niêm yết công khai thông tin về việc đóng bảo hiểm xã hội cho
Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 18


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”
người lao động; hằng năm, niêm yết công khai thông tin đóng bảo hiểm xã hội của người lao động do cơ quan bảo
hiểm xã hội cung cấp.
8. Về quyền và trách nhiệm của cơ quan bảo hiểm xã hội:
- Bổ sung quyền của cơ quan bảo hiểm xã hội:
+ Yêu cầu người sử dụng lao động xuất trình sổ quản lý lao động, bảng lương và thông tin, tài liệu khác liên
quan đến việc đóng, hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế.
+ Được cơ quan đăng ký doanh nghiệp, cơ quan cấp giấy chứng nhận hoạt động hoặc giấy phép hoạt động gửi
bản sao giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy phép hoạt động, giấy chứng nhận hoạt động hoặc quyết định
thành lập để thực hiện đăng ký lao động tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với doanh nghiệp, tổ chức

thành lập mới.
+ Định kỳ 06 tháng được cơ quan quản lý nhà nước về lao động ở địa phương cung cấp thông tin về tình hình sử
dụng và thay đổi lao động trên địa bàn.
+ Được cơ quan thuế cung cấp mã số thuế của người sử dụng lao động; định kỳ hằng năm cung cấp thông tin
về chi phí tiền lương để tính thuế của người sử dụng lao động.
+ Thanh tra chuyên ngành việc đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế.
+ Xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp
- Bổ sung trách nhiệm của cơ quan bảo hiểm xã hội:
+ Ban hành mẫu sổ, mẫu hồ sơ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp sau khi có ý kiến thống nhất của Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội.
+ Hằng năm, xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho từng người lao động; cung cấp thông tin về việc
đóng bảo hiểm xã hội của người lao động để người sử dụng lao động niêm yết công khai.
+ Hằng năm, báo cáo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
thất nghiệp; báo cáo Bộ Y tế về tình hình thực hiện bảo hiểm y tế; báo cáo Bộ Tài chính về tình hình quản lý và sử
dụng quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế. Hằng năm, cơ quan bảo hiểm xã hội tại địa phương
báo cáo Ủy ban nhân dân cùng cấp về tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế trong
phạm vi địa phương quản lý.
+ Công khai trên phương tiện truyền thông về người sử dụng lao động vi phạm nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế.
9. Về chế độ ốm đau
- Sửa đổi quy định về thời gian nghỉ hưởng chế độ ốm đau đối với trường hợp mắc bệnh thuộc danh mục cần
chữa trị dài ngày đã hưởng hết thời hạn 180 ngày mà vẫn tiếp tục điều trị thì được hưởng tiếp chế độ ốm đau với
mức thấp hơn nhưng thời gian hưởng tối đa bằng thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội.
- Sửa đổi quy định mức hưởng trợ cấp ốm đau một ngày được tính bằng mức trợ cấp ốm đau theo tháng chia cho
24 ngày (hiện hành chia cho 26 ngày).
- Tăng mức trợ cấp ốm đau đối với người lao động mắc bệnh thuộc Danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày từ
Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng


Trang: 19


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”
45% lên 50% mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc nếu đã đóng bảo hiểm xã hội
dưới 15 năm.
- Sửa đổi quy định mức hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi ốm đau một ngày bằng 30% mức lương cơ sở
(hiện hành quy định bằng 25% nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ tại gia đình và bằng 40% nếu nghỉ tại cơ sở tập
trung).
10. Về chế độ thai sản
- Sửa đổi quy định thời gian hưởng chế độ thai sản đối với lao động nữ nghỉ việc hưởng chế độ khi sinh con,
nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động năm 2012.
- Bổ sung quy định lao động nam có vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản 05 ngày làm việc trong
trường hợp sinh thường; 07 ngày làm việc khi vợ sinh con phải phẫu thuật, sinh con dưới 32 tuần tuổi. Trường hợp
vợ sinh đôi thì được nghỉ 10 ngày làm việc, từ sinh ba trở lên thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 03 ngày làm việc;
Trường hợp vợ sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật thì được nghỉ 14 ngày làm việc.

Số ngày lao động nam được nghỉ khi vợ sinh con.

- Bổ sung quy định điều kiện hưởng chế độ thai sản đối với trường hợp lao động nữ khi mang thai phải nghỉ
việc để dưỡng thai chỉ cần đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 3 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh thay vì
phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con như Luật Bảo hiểm xã
hội hiện hành.
- Bổ sung chế độ thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ.
- Bổ sung quy định trợ cấp một lần khi sinh con đối với trường hợp chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội.
- Sửa đổi quy định mức hưởng một ngày được tính bằng mức hưởng chế độ thai sản theo tháng chia cho 24
ngày (hiện hành chia cho 26 ngày).
- Sửa đổi quy định mức hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi ốm đau một ngày bằng 30% mức lương cơ
sở.


Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 20


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”

Mở rộng chế độ thai sản
Lao động nam được nghỉ khi vợ sinh con: Lần đầu tiên, luật mới bổ sung chế độ thai sản cho lao động nam.
Cụ thể, chồng được nghỉ 5 ngày làm việc trong trường hợp vợ sinh thường, 7 ngày khi vợ sinh phải phẫu thuật, sinh
con dưới 32 tuần tuổi. Nếu vợ sinh đôi thì chồng được nghỉ 10 ngày; từ sinh ba trở lên thì cứ thêm mỗi con được
nghỉ thêm 3 ngày làm việc. Nếu vợ sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật thì chồng được nghỉ 14 ngày. Nếu chỉ có
người chồng tham gia BHXH thì khi vợ sinh con vẫn được nhận trợ cấp một lần bằng 2 tháng tiền lương cơ sở. Thời
gian nghỉ hưởng chế độ thai sản được tính trong 30 ngày đầu kể từ khi vợ sinh con.

Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ mang thai hộ đều được nghỉ thai sản:
Quy định cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được Quốc hội thông qua vào tháng 6/2014 trong Luật
Hôn nhân và Gia đình sửa đổi. Lao động nữ mang thai hộ được nghỉ đi khám thai, nghỉ tối đa trong thời gian sinh
con, hưởng chế độ thai sản như người mẹ nhờ mang thai hộ.
Khi con chưa đủ 6 tháng tuổi, chẳng may người mẹ nhờ mang thai hộ chết hoặc không đủ sức khỏe chăm sóc
con thì người cha nhờ mang thai hộ hoặc người mẹ trực tiếp nuôi dưỡng được hưởng chế độ thai sản đối với thời
gian còn lại của người mẹ nhờ mang thai hộ. Nếu người cha hoặc người nuôi dưỡng đang tham gia BHXH mà không
nghỉ việc thì ngoài tiền lương, còn được hưởng chế độ thai sản đối với thời gian còn lại của người mẹ đã mất hoặc
không đủ sức khỏe chăm sóc con.
Điều kiện hưởng thai sản là người mang thai hộ, người mẹ nhờ mang thai hộ phải đóng BHXH đủ từ 6 tháng
trở lên trong vòng 12 tháng trước khi sinh hoặc nhận con nuôi.
Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng


– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 21


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”

Hướng dẫn hưởng chế độ thai sản theo luật BHXH mới

Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã quy định cụ thể và hướng dẫn thi
hành chế độ thai sản như: điều kiện hưởng chế độ thai sản, thời gian hưởng chế độ thai sản, mức hưởng chế độ thai
sản...
Theo đó, điều kiện hưởng chế độ thai sản của lao động nữ sinh con, lao động nữ mang thai hộ, người mẹ nhờ
mang thai hộ và người lao độngnhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều
31 Luật bảo hiểm xã hội (BHXH); khoản 3 Điều 3 và khoản 1 Điều 4 của Nghị định số 115/2015/NĐ-CP và được
hướng dẫn cụ thể như sau:
Thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi được xác định như sau: a- Trường hợp sinh
con hoặc nhận nuôi con nuôi trước ngày 15 của tháng thì tháng sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi không tính vào
thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi; b- Trường hợp sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi từ
ngày 15 trở đi của tháng và tháng đó có đóng BHXH, thì tháng sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi được tính vào thời
gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi. Trường hợp tháng đó không đóng BHXH thì thực hiện
theo quy định tại điểm a.
Điều kiện hưởng trợ cấp 1 lần khi sinh con được hướng dẫn cụ thể như sau: Đối với trường hợp chỉ có cha
tham gia BHXH thì cha phải đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con. Đối với
người chồng của người mẹ nhờ mang thai hộ phải đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng tính
đến thời điểm nhận con.
Trong thời gian đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con mà lao động nữ phải nghỉ việc để khám thai, sẩy
thai, nạo, hút thai, thai chết lưu, phá thai bệnh lý, thực hiện các biện pháp tránh thai thì được hưởng chế độ thai sản
theo quy định tại các Điều 32, 33 và 37 của Luật BHXH.
Dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản

Thông tư quy định, lao động nữ, lao động nữ mang thai hộ được nghỉ việc hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi
sức khỏe theo quy định tại Điều 41 Luật BHXH và điểm c khoản 3 Điều 3 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP.
Theo khoản 1 Điều 41 Luật BHXH, lao động nữ ngay sau thời gian hưởng chế độ thai sản quy định tại Điều
33, khoản 1 hoặc khoản 3 Điều 34 Luật này, trong khoảng thời gian 30 ngày đầu làm việc mà sức khỏe chưa phục
hồi thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe từ 5 ngày đến 10 ngày.
Lao động nữ đủ điều kiện nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe trong năm nào thì thời gian nghỉ việc hưởng
Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 22


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”
dưỡng sức, phục hồi sức khỏe được tính cho năm đó.
Hồ sơ, giải quyết chế độ ốm đau thực hiện theo quy định tại Điều 101, Điều 102 Luật BHXH và Điều 5 Nghị
định số 115/2015/NĐ-CP.
Trường hợp người lao động chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc trước thời điểm
sinh con, thời điểm nhận con, thời điểm nhận nuôi con nuôi thì nộp hồ sơ và xuất trình sổ BHXH cho cơ quan
BHXH nơi cư trú.
Chế độ thai sản sau sinh mà mẹ chết hoặc con chết
Thời gian hưởng chế độ nếu sau khi sinh con mà con chết được quy định là 4 tháng tính từ ngày sinh con nếu
con dưới 2 tháng tuổi hoặc 2 tháng tính từ ngày con chết nếu con từ 2 tháng tuổi trở lên.
Về thời gian hưởng chế độ nếu sau khi sinh con mà mẹ chết, trước đây luật quy định thời gian hưởng là cho
đến khi con đủ 4 tháng tuổi. Luật Bảo hiểm xã hội mới quy định thời gian hưởng chế độ thai sản trong trường hợp
này là thời gian nghỉ thai sản còn lại của người mẹ.
Trường hợp mẹ không đủ điều kiện được hưởng chế độ thai sản khi sinh con thì cha, người trực tiếp nuôi
dưỡng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản khi con đủ 6 tháng tuổi. Nếu cha, người trực tiếp nuôi không nghỉ việc
thì ngoài tiền lương còn được hưởng chế độ thai sản với thời gian còn lại của mẹ theo quy định.
Trường hợp chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ chết sau khi sinh con hoặc gặp rủi ro sau khi sinh mà

không còn đủ sức khỏe để chăm sóc con theo xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì cha được
nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 6 tháng tuổi.

+ Dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau thai sản
Thời gian hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sau thai sản được quy định là từ 5-10 ngày trong khoảng thời
gian 30 ngày đầu làm việc (thay vì trong 1 năm như trước đây). Trường hợp, người lao động có thời gian nghỉ dưỡng
sức, phục hồi sức khỏe từ cuối năm trước chuyển tiếp sang đầu năm sau thì thời gian nghỉ đó được tính cho năm
trước. Mức hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản một ngày được quy định chung là bằng 30%
mức lương cơ sở. Trước đó, tỷ lệ này trong quy định cũ là 25% lương cơ sở nếu nghĩ dưỡng sức, phục hồi tại gia
đình, 40% mức lương cơ sở nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi tại cơ sở tập trung.
Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 23


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”

+ Đi làm trước hạn
Quy định mới về đi làm trước hạn nâng thời gian sau khi sinh con từ đủ 60 ngày trở lên tăng lên ít nhất 4
tháng. Luật mới quy định người nghỉ thai sản phải báo trước và được người sử dụng lao động đồng ý. Ngoài tiền
lương của những ngày làm việc, lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con vẫn được hưởng chế độ thai
sản cho đến khi đủ 6 tháng.

+ Chế độ sẩy thai, nạo hút thai hoặc thai chết lưu
Trong trường hợp sẩy thai, nạo hút thai hoặc thai chết lưu, lao động nữ được nghỉ 10 ngày nếu thai dưới 5 tuần
tuổi, nghỉ 20 ngày nếu thai từ 5 tuần tuổi đến dưới 13 tuần tuổi, nghỉ 40 ngày nếu thai từ 13 tuần tuổi đến dưới 25
tuần tuổi và nghỉ 50 ngày nếu thai từ 25 tuần tuổi trở lên.
+ Chế độ thai sản khi nhận con nuôi

Thời gian nghỉ thai sản khi nhận con nuôi được điều chỉnh tho đến khi con đủ 4 tháng tuổi lên cho đến khi con
đủ 6 tháng tuổi. Trường hợp cả cha và mẹ cùng tham gia bảo hiểm xã hội đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản quy
định thì chỉ cha hoặc mẹ được nghỉ việc hưởng chế độ.
+ Điều kiện hưởng chế độ thai sản
Trường hợp lao động nữ sinh con, mang thai hộ, nhờ mang thai hộ, nhận nuôi con nuôi thì phải đóng bảo hiểm
xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong vòng 12 tháng trước khi sinh con hay nhận nuôi con nuôi thì được hưởng chế độ
thai sản.
Lao động nữ sinh con đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 12 tháng trở lên mà khi thai phải nghỉ việc để dưỡng thai
theo chỉ định của cơ sở khám chữa bệnh thì phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 3 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng
trước khi sinh con mới được hưởng chế độ thai sản. Lao động đủ điều kiện mà chấm dứt hợp đồng lao động, hợp
đồng làm việc hoặc thôi việc trước khi sinh con, nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì vẫn được hưởng chế độ
thai sản theo quy định.
Luật Bảo hiểm xã hội còn bổ sung trường hợp chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội thì khi vợ sinh con cha
được trợ cấp một lần bằng 2 tháng lương cơ sở cho mỗi con.
Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 24


Bài dự thi “Công đoàn với Luật Bảo hiểm xã hội”
11. Về chế độ hưu trí
- Điều kiện hưởng lương hưu:
+ Sửa đổi quy định lao động nữ là người hoạt động chuyên trách hoặc không chuyên trách ở xã, phường, thị
trấn tham gia bảo hiểm xã hội khi nghỉ việc mà có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm đóng bảo hiểm xã hội và đủ 55
tuổi thì được hưởng lương hưu. Những đối tượng này không được áp dụng quy định mức lương hưu thấp nhất bằng
mức lương cơ sở.
+ Có lộ trình tăng dần tuổi hưởng lương hưu đối với người bị suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80% từ
nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi lên 55 tuổi đối với nam và 50 tuổi đối với nữ.


Một điểm chi trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội. (Ảnh:
Minh Quyết/TTXVN)

- Tỷ lệ hưởng lương hưu
+ Quy định có lộ trình tăng dần thời gian đóng bảo hiểm xã hội để đạt tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa 75%, tiến
tới người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 30 năm đối với nữ và 35 năm đối với nam thì đạt tỷ lệ
hưởng lương hưu tối đa 75%.
+ Sửa đổi quy định giảm trừ tỷ lệ hưởng lương hưu do nghỉ hưu trước tuổi quy định từ 1% lên 2% cho mỗi
năm nghỉ hưu trước tuổi quy định.
- Bảo hiểm xã hội một lần:
+ Sửa đổi quy định điều kiện hưởng bảo hiểm xã hội một lần theo hướng chỉ giải quyết bảo hiểm xã hội một
lần đối với người lao động khi đã hết tuổi lao động mà không đủ điều kiện hưởng lương hưu hoặc ra nước ngoài để
định cư hợp pháp. Riêng đối với lực lượng vũ trang vẫn thực hiện như quy định hiện hành, được giải quyết ngay khi
phục viên, xuất ngũ, nếu không đủ điều kiện để hưởng lương hưu và người lao động có nhu cầu. Bổ sung trường hợp
được giải quyết bảo hiểm xã hội một lần đối với bị mắc bệnh nguy hiểm đến tính mạng như ung thư, bại liệt, xơ gan
cổ chướng, phong, lao nặng, nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS và những bệnh khác theo quy định của Bộ
Y tế (kể cả trường hợp có từ đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên).
+ Tăng mức hưởng bảo hiểm xã hội một lần từ 1,5 tháng lên 02 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng
bảo hiểm xã hội cho những năm đóng từ năm 2014 trở đi.
Người dự thi: Nguyễn Văn Tùng

– Trường Cao đẳng nghề số 5 – Bộ Quốc phòng

Trang: 25


×