Tải bản đầy đủ (.pdf) (179 trang)

Phân tích hệ thống và tối ưu hoá phó đức anh, đặng hữu đạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.07 MB, 179 trang )

&


(In LÇn thø ba cã chØnh lý, bæ sung)

(
Phã §øc Anh & §Æng H÷u §¹o

Nhμ xuÊt b¶n n«ng nghiÖp
hμ néi- 2006


Lời nói đầu
(cho lần xuất bản thứ ba)
Sau lần xuất bản thứ hai, sách này đã đợc sử dụng tiếp để giảng dạy cho các lớp
Cao học từ khoá X đến khoá XIII của Trờng Đại học Thủy lợi.
Trong lần xuất bản này, sách đợc viết lại, thêm nhiều chủ đề mới và các ví dụ, bài
tập giúp bạn đọc tham khảo để sau này có thể tiếp cận dễ dàng hơn với các tài liệu kỹ thuật
hiện hành.
Các tác giả xin chân thành cám ơn Trờng Đại học Thủy lợi và Nhà xuất bản Nông
nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi để giáo trình đợc biên tập chính xác và sớm xuất bản.
Xin cảm ơn các ý kiến đã và sẽ đóng góp cho cuốn sách này của các bạn đồng nghiệp và các
sinh viên.

Hà nội - 31 - 3 - 2006
Các tác giả

3


Lời nói đầu


(cho lần xuất bản thứ hai)

Giáo trình này đã đợc biên soạn và sử dụng cho các lớp Cao học (từ khoá I) và các
lớp sinh viên Khoa Thủy văn & Môi trờng (khóa 35,36,37) của Trờng Đại học Thuỷ lợi
và đã đợc in thành sách để dùng trong nội bộ nhà trờng từ năm 1996.
Lần xuất bản này, giáo trình đợc viết lại và chia làm hai phần chính:
+ Phần Lý thuyết Phân tích hệ thống và ứng dụng do PGS.TS. Đặng Hữu Đạo biên soạn.
+ Phần Lý thuyết tối u bao gồm Qui hoạch tuyến tính và Qui hoạch động thực hành do
PGS.TS. Phó Đức Anh biên soạn.
Giáo trình đợc viết thêm các bài tập và nhiều ví dụ minh họa.
Các tác giả xin chân thành cám ơn Khoa Sau đại học và Khoa Thủy văn & Môi
trờng, Trờng Đại học Thủy lợi và Nhà xuất bản Nông nghiệp đã động viên, khuyến khích,
tạo điều kiện thuận lợi để giáo trình đợc xuất bản. Xin cảm ơn các ý kiến đã và sẽ đóng
góp cho cuốn sách này của các bạn đồng nghiệp và các sinh viên.
Hà nội - 7 - 12 - 2001
Các tác giả

4


Lời nói đầu
(cho lần xuất bản thứ nhất)

Giáo trình này đợc viết cho các sinh viên Trờng Đại học Thuỷ lợi, nhằm cung cấp
cho ngời đọc những kiến thức cơ sở tối thiểu trong lĩnh vực lý thuyết Phân tích hệ thống và
ứng dụng, để giúp họ trong một thời gian ngắn, nắm vững những lập luận, phơng pháp thực
hành trong việc phân tích hệ thống và tiếp thu dễ dàng hơn các môn học có liên quan.
Do hoàn cảnh thực tế là trớc đây, các sinh viên của trờng cha có dịp học các môn
Quy hoạch tuyến tính và Quy hoạch động, nên sách dành một chơng giới thiệu các lý
thuyết này, nhằm giúp ngời đọc lĩnh hội tốt hơn các phơng pháp tối u hoá để vận dụng

vào các bài toán kỹ thuật thuỷ lợi cụ thể trong các môn học sau.
Vì khả năng có hạn, thời gian chuẩn bị lại quá ít, nhất định sách sẽ có nhiều thiếu
sót, mong bạn đọc góp ý để trong lần xuất bản sau, giáo trình sẽ đợc biên soạn lại một
cách hoàn thiện hơn.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành giáo s Hoàng Tụy về các tài liệu tham
khảo và Phó giáo s Đặng Hữu Đạo về những ý kiến quý báu để biên soạn giáo trình.
Xin cảm ơn các ý kiến đã và sẽ đóng góp cho cuốn sách này của các bạn đồng
nghiệp và các sinh viên.
Hà nội - 1- 8 - 1995
Phó Đức Anh

5


Chơng 1

TổNG QUAN Về Phân tích hệ thống
I. Giới thiệu chung.
Lĩnh vực mang tên phân tích hệ thống (PTHT) ra đời do nhu cầu của con ngời phải
tiến hành những nghiên cứu có đặc trng liên ngành với đối tợng nghiên cứu là các hệ
thống phức tạp. Đặc biệt là việc chúng ta phải giải quyết các vấn đề liên quan đến các hệ
thống bao gồm con ngời với các sản phẩm do họ tạo ra trong sự kết hợp với môi trờng tự
nhiên. Đó là các vấn đề về hệ thống phổ biến trong đời sống xã hội hiện nay. Sau đây là một
vài ví dụ:
Vấn đề gia tăng các tai nạn giao thông trong hoạt động của hệ thống đờng giao
thông cao tốc, đó là hệ thống kết hợp các lái xe, hành khách, bộ hành, đờng xá, xe cộ, luật
lệ giao thông, thời tiết và môi trờng xung quanh.
Vấn đề đáp ứng nhu cầu năng lợng của con ngời liên quan đến hệ thống năng
lợng, đó là hệ thống kết hợp các nguồn năng lợng, các công cụ chuyển hoá các nguồn này
thành các dạng năng lợng có thể sử dụng đợc, các cơ chế và thủ tục phân phối năng

lợng, con ngời sử dụng năng lợng và các cách sử dụng năng lợng, môi trờng tự nhiên
và môi trờng kinh tế, một môi trờng ảnh hởng đến cách sử dụng năng lợng và ngợc lại
bị hệ thống năng lợng ảnh hởng đến.
Các vấn đề đô thị liên quan đến hệ thống bao gồm con ngời và định c đô thị, đó là
hệ thống kết hợp trong một môi trờng tự nhiên con ngời và chỗ ở, các xí nghiệp, các dịch
vụ xã hội, các phơng tiện đi lại và giải trí, các công cụ kinh tế để trao đổi lao động và các
sản phẩm, các thói quen và các luật định để điều hành hành vi hệ thống và các cấu trúc tổ
chức để làm cho tất cả hoạt động.
Các vấn đề sản xuất kinh doanh nẩy sinh từ các công ty, các xí nghiệp sản xuất kinh
doanh, đó là các hệ thống kết hợp vốn, lao động, quản lý, và các tri thức chuyên ngành để
tạo ra các sản phẩm xã hội mong muốn trong đó có các xí nghiệp.
Các vấn đề quản lý nhà nớc thờng liên quan đến hệ thống lớn và phức tạp: các cơ
quan quản lý với các mục tiêu, các hoạt động, các dịch vụ, các nhu cầu kinh phí, và quan hệ
với dân chúng.
Mục đích chính của PTHT là trợ giúp cho các nhà làm chính sách và ra quyết định (của
nhà nớc và của t nhân) giải quyết và quản lý tốt hơn các vấn đề mà họ phải đơng đầu.
PTHT đa ra các thông tin và các bằng chứng đợc chọn lựa tốt, có quan hệ với các vấn đề
đang phải giải quyết nhằm cải thiện cơ sở cho các lập luận của họ. Nh vậy PTHT tập trung
vào các vấn đề nẩy sinh từ các tơng tác giữa các yếu tố và con ngời trong xã hội, trong
các hoạt động sản xuất, kinh doanh và môi trờng, xem xét các phản ứng khác nhau tới vấn
đề này, cung cấp các bằng chứng về các hậu quả - tốt, xấu, trung lập - của các phản ứng
này.

6


Việc tiến hành một PTHT đòi hỏi hợp nhất các nỗ lực của nhiều chuyên gia thuộc
các lĩnh vực khác nhau, thống nhất và làm tơng thích các thông tin nhận đợc do các
nghiên cứu có đặc trng cụ thể khác nhau. Việc triển khai có kết quả các nghiên cứu mang
tính hệ thống (liên ngành) nh thế rất gắn bó với khả năng xử lý thông tin nhờ máy tính

điện tử cùng với các phơng pháp hình thức. Cần nhấn mạnh rằng PTHT nảy sinh trong kỷ
nguyên của máy tính, sự phát triển của PTHT phụ thuộc rất nhiều vào khả năng và triển
vọng của máy tính. Có thể nói rằng PTHT là tập hợp các phơng pháp dựa trên việc sử dụng
máy tính hớng tới việc nghiên cứu các hệ phức tạp: các hệ kĩ thuật, kinh tế, sinh thái
v...v...Kết quả của các nghiên cứu này không phải chủ yếu nhằm cung cấp những tri thức
mới, mà thờng nhằm mục đích lựa chọn các giải pháp giải quyết các vấn đề: kế hoạch phát
triển vùng, các tham số của một sản phẩm v.v.... Nh vậy có thể nói PTHT là lĩnh vực
nghiên cứu vấn đề ra quyết định trong các điều kiện mà việc chọn giải pháp đòi hỏi phải
phân tích các thông tin phức tạp có bản chất khác nhau. Vì thế, nguồn gốc của PTHT, các
quan niệm cũng nh phơng pháp của nó nằm trong lĩnh vực nghiên cứu các vấn đề ra quyết
định - lý thuyết nghiên cứu các lý luận hớng đích (vận trù) và lý thuyết điều khiển.
Vấn đề ra quyết định đã và đang có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống con
ngời. Hoạt động của con ngời, xét cho cùng, là một chuỗi các quyết định (tức là chọn một
trong các khả năng hành động có thể). Trong các tình huống đơn giản, con ngời có thể ra
quyết định theo trực giác và kinh nghiệm chủ quan mà không cần phải theo một phơng
pháp khoa học nào. Tuy nhiên, trong các trờng hợp mà tình thế phức tạp đến nỗi ngời ra
quyết định không có khả năng để tin rằng việc lựa chọn của mình là đúng đắn, đơng nhiên
cần có các phơng pháp khoa học để đề ra quyết định. Dần dần các phơng pháp này phát
triển và ngày nay đã trở thành một lĩnh vực riêng - lý thuyết quyết định. Trên bớc phát
triển hiện đại của lý thuyết này, khi mà máy tính đợc sử dụng rộng rãi, hệ thống lập luận
và mô hình của nó trở nên phức tạp và phát triển, PTHT đợc hình thành và phát triển.
Nh vậy nguồn gốc của PTHT đã có từ lâu, trong quá khứ xa xôi của lịch sử nhân loại,
khi con ngời phải tiến hành chiến tranh, sản xuất, buôn bán v.v... . Tuy thế, khi đó cha thể
coi đây là một khoa học, mà mới chỉ là một số các qui tắc tổng kết các kinh nghiệm của loài
ngời hoặc phản ảnh quan niệm chủ quan của một số ngời nào đó. Việc ra quyết định trở
thành một khoa học chỉ khi bắt đầu nảy sinh các mô hình riêng, khi xuất hiện các phơng
pháp luận khái quát để phân tích các bài toán có bản chất vật lý khác nhau.
Việc hình thành lý thuyết quyết định có thể bắt đầu vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX, khi xuất hiện các công trình đầu tiên về lý thuyết điều chỉnh, khi trong kinh tế đã bắt
đầu nói về các quyết định tối u, tức là khi xuất hiện quan niệm về hàm mục tiêu, khi

V.Pareto nêu ra nguyên tắc đầu tiên về sự thỏa hiệp.
Sự phát triển của lý thuyết quyết định đợc xác định một mặt bởi sự phát triển của bộ
máy toán học và các phơng pháp hình thức hóa, mặt khác bởi các bài toán mới nảy sinh
trong các lĩnh vực quân sự, kinh tế, quản lý,...Sau những năm 50, lý thuyết quyết định bắt
đầu phát triển nh vũ bão, khi mà trên cơ sở các lý thuyết về hiệu quả, lý thuyết trò chơi, lý
thuyết phục vụ đám đông đã xuất hiện một lĩnh vực có đặc trng tổng hợp nhằm nghiên cứu
các hoạt động hớng đích (vận trù học). Sau đó nó dần dần trở thành lý thuyết PTHT, đó là
sự tổng hợp của hoạt động hớng đích và lý thuyết điều khiển.
7


Lý thuyết quyết định hiện đại có các công cụ tổng quát bao gồm bộ máy toán học
phát triển và các hệ thống tính toán hiện đại. Nhng dù cho lý thuyết này có đạt đợc
những thành tựu đến nh thế nào đi nữa, bên cạnh các công cụ hiện đại, đôi khi các thủ tục
phân tích truyền thống sử dụng các kinh nghiệm trực quan, sử dụng khả năng của con ngời
kết hợp với nhiều điều khác nằm ngoài phạm vi toán học và còn cha mang nhiều bản chất
trí tuệ nhân tạo vẫn còn đóng vai trò quyết định. Vì thế, việc trình bày các phơng pháp của
PTHT nhất thiết phải bao gồm việc mô tả cả các thủ tục không chính quy, thiếu nó, mọi
quan niệm về PTHT không những không đầy đủ, mà còn sai lệch. Cần thiết không phải chỉ
mô tả các thủ tục heuristic (phát hiện trực quan) và các phơng pháp lập luận phi hình thức,
mà điều rất quan trọng là cần chứng tỏ rằng các phơng pháp phi hình thức, heuristic này
đợc hoà nhập vào lý thuyết quyết định hiện đại nh thế nào, chúng đã thay đổi dạng nh
thế nào, dới ảnh hởng của các công cụ mới của lý thuyết hiện đại.
Thực tiễn cách mạng cũng nh thực tế sản xuất đã nhiều lần chứng tỏ rằng ở nhiều nơi,
nhiều lúc do vi phạm tính hệ thống, con ngời đã phải trả giá quá đắt nh thế nào. Một nớc
nọ, đông dân, đã đề ra chính sách diệt chim sẻ ... để một thời gian không lâu sau đó phải
chịu hậu quả nặng nề của dịch sâu cắn lúa. ở nớc ta, chắc không ai quên có thời ngời ta
khuyến khích nuôi ốc bơu vàng... Có thể nói rằng rất dễ tìm ra những điều vi phạm tính hệ
thống ở mọi nơi, mọi lúc. Nạn phá rừng, lấn chiếm, nạn xây dựng bừa bãi, gây ô nhiễm môi
trờng hoặc làm mất cân bằng sinh thái... là những hành động tự sát của nhân loại, nhng

không thể hy vọng một sớm, một chiều ngăn chặn đợc.

II. Các đặc điểm chính của PTHT.
1. Đối tợng nghiên cứu của PTHT là các hệ thống, một tổng thể gồm nhiều bộ phận,
nhiều yếu tố có quan hệ tơng hỗ với nhau và với môi trờng xung quanh một cách phức
tạp. Khi tiến hành PTHT, ta không thể chỉ xem xét từng yếu tố riêng lẻ mà phải xem xét
mỗi yếu tố trong mối tơng quan và tác động qua lại của nó với các yếu tố khác và môi
trờng . Ta cũng không thể chỉ xem xét hệ thống tại từng thời điểm tĩnh mà phải có quan
điểm động để nghiên cứu nó.
2. Do thừa nhận có nhiều đối tợng phức tạp, bản chất khác nhau nhng lại có những
đặc trng có cấu trúc hệ thống giống nhau, ta có thể nghiên cứu những đặc điểm tổng quát,
những quy luật vận động tổng quát cho các đối tợng này, để sau đó vận dụng vào những hệ
thống riêng biệt. Dĩ nhiên, bên cạnh xu hớng này, ta vẫn phải đi sâu nghiên cứu những đặc
thù và những quy luật vận động của từng hệ thống riêng.
3. Cần nghiên cứu sự vận động của đối tợng, xét mỗi hệ thống trong quá trình phát
sinh, phát triển, tăng trởng, suy thoái...để thấy đợc xu thế và tìm ra phơng hớng tác
động tích cực nhất, có hiệu quả nhất.
4. Cần nhấn mạnh đến sự cần thiết phải lựa chọn quyết định tối u trong nhiều phơng
án khả thi. Gặp những tình huống có thể, cần biết phân tích theo những thủ tục nhất định,
cần biết lựa chọn, kết hợp các thủ tục hình thức và phi hình thức.
5. Nhấn mạnh tính liên ngành, sử dụng nhiều chuyên gia trong nhiều lĩnh vực khác
nhau để cùng nghiên cứu, ra quyết định cho các vấn đề phức tạp.
8


6. Thừa nhận tính bất định, coi tình trạng không đầy đủ thông tin nh là một tất
yếu khách quan, không thể tránh khỏi trong quá trình điều khiển phức tạp. Cần có
những phơng pháp nghiên cứu thích hợp để khai thác, tận dụng tốt nhất phần thông tin đã
có.


III. Phơng pháp luận PTHT
III.1. Nhập đề
Để bàn về phơng pháp luận của PTHT, trớc hết chúng ta trình bầy một ví dụ đơn
giản và thông qua ví dụ này làm quen với những thuật ngữ của PTHT sẽ đợc dùng đến về
sau: vấn đề (bài toán), mục tiêu, phơng án (giải pháp), kết quả (hậu quả), tiêu chuẩn, mô
hình, tối u,...
Nhằm giải quyết vấn đề tai nạn giao thông đang gia tăng trên các đờng cao tốc, một
tiểu ban của Quốc hội có nhiệm vụ nghiên cứu để đa ra thông qua một đạo luật mới nhằm
nâng cao an toàn giao thông, giảm tai nạn trên đờng cao tốc. Đạo luật mới rõ ràng liên
quan tới nhiều ngành, nhiều ngời và cần đợc nghiên cứu hoàn chỉnh với quan điểm PTHT
[3].
Mục tiêu đề ra cho đạo luật mới là nâng cao an toàn giao thông, giảm tai nạn trên
đờng cao tốc. Ngời ta sẽ phải đa ra những chỉ tiêu định lợng để đánh giá đợc mức độ
an toàn này.
Có nhiều phơng án (giải pháp) giải quyết vấn đề đợc đa ra để chọn lựa, trong mỗi
phơng án lại có nhiều chi tiết cụ thể. Chẳng hạn, ngời ta có thể xét ba phơng án sau đây:
- Phơng án quy định lại về dây lng an toàn;
- Phơng án quy định lại về tốc độ tối đa;
- Phơng án nâng cao tiêu chuẩn cấp bằng lái xe trên đờng cao tốc.
Kèm theo mỗi phơng án, sẽ có nhiều chi tiết do các điều luật quy định và do các cơ
quan chức năng điều hành đặt ra ... Tiểu ban trên, với quan điểm PTHT phải thấy đợc
những kết quả (hậu quả) theo sau từng phơng án đợc đề xuất. Ví dụ, khi ta quy định lại
về tốc độ tối đa trên đờng cao tốc, đơng nhiên sẽ có kết quả tích cực: ngời lái xe sợ bị
phạt, sẽ giảm tốc độ và vì thế tai nạn có thể sẽ giảm đi. Tuy nhiên một hậu quả tiêu cực
cũng cần tính đến: để giám sát nghiêm ngặt quy định mới về tốc độ, trên đờng cần có
nhiều cảnh sát giao thông hơn, nhà nớc cần tuyển thêm ngời, thêm quỹ lơng, hoặc ít ra
cũng phải điều một số cảnh sát đang làm nhiệm vụ khác lên đờng cao tốc. Tiểu ban cần
thấy hết các kết quả cùng các chi tiết kéo theo sau đó. Hơn nữa tiểu ban cũng cần nghiên
cứu những định mức, những quy tắc tạo thành những tiêu chuẩn để đánh giá các kết quả dự
kiến. Nhờ những tiêu chuẩn này, ngời ta sắp xếp đợc ba giải pháp đem ra nghiên cứu.

Nh vậy, nhà phân tích cần thu thập các số liệu cần thiết, biết đợc mối tơng quan
giữa các thành phần trong hệ thống (chẳng hạn, biết đợc tốc độ tối đa quy định trớc đây
và hiện nay, tơng quan giữa tốc độ và số tai nạn xảy ra trên đờng , biết đợc tình trạng
của các trạm kiểm soát giao thông, điều kiện làm việc của cảnh sát ...). Trên cơ sở có đầy đủ
9


thông tin khoa học và chính xác, tiểu ban mới định đợc các tiêu chuẩn và sắp xếp
đợc ba phơng án cần chọn lựa. Cần lu ý là sự sắp xếp này rất đa dạng, phụ thuộc
nhiều vào năng lực, trình độ của nhà phân tích, phụ thuộc vào cách đặt vấn đề, cách chọn
mục tiêu, các yêu cầu cấp thiết nhất cần quan tâm...
Một điều rất quan trọng đối với nhà phân tích là cần hiểu đúng hệ thống cần nghiên
cứu, không đợc lầm lẫn giữa các yêu cầu thực và yêu cầu giả [14]. Trong quá trình phân
tích cũng nh điều khiển sau này, nếu không loại bỏ đợc các yêu cầu giả tạo và nếu không
tìm đợc các yêu cầu đúng và cấp thiết nhất, nhà phân tích sẽ sắp xếp và chọn sai các giải
pháp cần thiết.
Sau đó, tiểu ban cần xây dựng các mô hình theo từng phơng án. Mô hình bao giờ cũng
gồm cả các yếu tố thực cũng nh yếu tố mô phỏng và dự kiến. Mỗi phơng án, nếu đợc
thực hiện, sẽ kéo theo nhiều tình huống mà nhà phân tích không thể bỏ qua. Chẳng hạn, việc
giảm tốc độ xe trên đờng sẽ ảnh hởng thế nào đến lợng xăng cần dùng trong một đơn vị
thời gian, từ đó sẽ phải có phơng án bố trí lại các trạm xăng trên đờng hợp lý hơn và chắc
chắn cách bố trí này sẽ khác với bố trí khi chọn phơng án khác ( nh phơng án quy định
lại về dây lng an toàn ...)
Ví dụ đơn giản trên đã cho ta một số khái niệm mở đầu về PTHT và một số thuật ngữ
sẽ sử dụng đến. Bây giờ chúng ta đi vào trình bầy một số vấn đề chung mang tính phơng
pháp luận của PTHT.
Để có thể tiến hành thực hiện một PTHT, đầu tiên chúng ta phải khẳng định là có tồn
tại một vấn đề (một bài toán), hoặc có khả năng tồn tại một vấn đề (một bài toán) cần phải
giải quyết. Điều đó có nghĩa là chúng ta hoặc không thoả mãn với tình trạng công việc hiện
tại, hoặc không thoả mãn với tình trạng công việc sắp tới, và muốn tìm ra cách thay đổi sao

cho công việc đợc tốt hơn. PTHT có thể trợ giúp cho chúng ta thực hiện điều này, thậm chí
ngay cả khi nó chỉ chứng minh cho ta thấy rất ít hy vọng có thể cải thiện đợc tình hình.
Trong đa số các trờng hợp, qua PTHT chúng ta có thể phát hiện ra một phơng án giải
quyết, tức là một "chơng trình hành động" dẫn đến những thay đổi mong muốn, và chúng
ta có thể tiếp nhận để đa chơng trình ra thực hiện.
PTHT cũng có thể đợc sử dụng để đa ra các lập luận và thông tin xác đáng, tin cậy
nhằm hỗ trợ cho việc chấp nhận đúng đắn một chơng trình hành động. Trong quá trình
thực hiện chơng trình đã lựa chọn, nó còn có thể hỗ trợ để tránh cho chúng ta không bị rơi
vào tình trạng sai lệch không hiệu quả do các lợi ích trái ngợc nhau, do hiểu sai, hoặc do
các vấn đề không dự báo trớc đợc.
III.2. Các bớc và các giai đoạn của quá trình PTHT
PTHT, giống nh nghiên cứu khoa học, là công việc đòi hỏi kinh nghiệm và sự thông
minh, khôn khéo. Việc tổ chức thực hiện PTHT phụ thuộc rất nhiều vào ý định của nhà phân
tích là ngời thờng phải dựa vào kinh nghiệm và trực giác nghề nghiệp. Một phơng pháp
sử dụng tốt cho nhà phân tích này có thể không tốt cho nhà phân tích khác. Tuy nhiên mỗi
quá trình PTHT đều bao gồm một số hoạt động đặc thù (các bớc) đợc liên kết với nhau
một cách thích hợp. Chúng ta có thể trình bầy quá trình PTHT thành một lợc đồ nh hình
10


I.1 bao gồm các bớc chính sau đây (tất nhiên có thể tiếp tục phân nhỏ các bớc này và
thứ tự thực hiện chúng cũng có thể thay đổi):
Phát biểu vấn đề (đặt bài toán).
Nhận dạng, thiết kế, và sàng lọc các phơng án có thể.
Dự báo các bối cảnh hoặc trạng thái tơng lai của hoàn cảnh xung quanh.
Xây dựng các mô hình và ứng dụng để dự báo các kết quả.
So sánh và xếp hạng các phơng án.
Lặp lại việc xét các điều kiện rng buộc

Kết quả

dự kiến

Phát
Khởi đầu

biểu
vấn đề

Ranh giới điều kiện
Mục tiêu
Tiêu chuẩn đánh giá

Nhận dạng,

Xây

Thiết kế,

Các

Sàng lọc

phơng án

các

phơng

So


dựng
Các

và sử dụng
mô hình

kết quả

án .

sánh,

phân hạng,

Kết quả

Xắp

thông tin

xếp

các phơng
án

Lặp lại các biện pháp cải tiến
Lặp lại việc thiết lập bi toán

Hình I-1


Để thực hiện các bớc này, có thể còn cần tiến hành một số hoạt động bổ sung, đó là
(một số trong các hoạt động này không đợc vẽ trong sơ đồ):
Xác định các ràng buộc và các hạn chế.
Xác định các mục tiêu.
Xác định các tiêu chuẩn và cách đánh giá của ngời làm quyết định.
Tập hợp và phân tích dữ liệu.
Trao đổi thông tin giữa nhà phân tích và ngời làm quyết định.

11


Trong phần lớn các quá trình PTHT, đối với mỗi bớc, rất ít khi chỉ sau một lần
thực hiện đã có thể hoàn thành tốt. Thông thờng sau khi có các kết quả trung gian
hoặc phiên bản kết quả đầu tiên của quá trình phân tích, nhà phân tích thờng không thoả
mãn, họ thấy cần phải thay đổi các giả thiết ban đầu, cần phải thu thập thêm dữ liệu, cần
phải thảo luận thêm với ngời ra quyết định về việc chính xác hoá lại tập các mục tiêu, về
việc bổ sung thêm các ràng buộc do phát hiện ra các kết quả không mong muốn,... Điều đó
có nghĩa là quá trình PTHT thờng là quá trình lặp, trong đó có nhiều vòng lặp (còn gọi là
các vòng phản hồi -feedback loop). Sau đây là một số ví dụ về các vòng lặp:
Vòng lặp từ bớc đánh giá kết quả của các phơng án về bớc thiết kế các phơng
án. Chẳng hạn ngời ra quyết định có thể nhận thấy trong các kết quả của phơng án
muốn chọn có những điều không thể chấp nhận đợc hoặc phơng án có một số đặc
điểm mà khi thực hiện có thể dẫn đến khó khăn, anh ta muốn thực hiện một số thay
đổi trong phơng án và muốn biết sự thay đổi đó có ảnh hởng nh thế nào đến vị trí
của phơng án. Vòng lặp cho phép thay đổi hoặc cải tiến một số phần của phơng án
(điều chỉnh các tham số của nó) sau khi đã xem xét các kết quả của việc làm này.
Vòng lặp từ kết quả của mô hình về bớc đặt vấn đề. Vòng lặp này là rất cần thiết, vì
thông thờng không thể xác định đợc ngay một cách chính xác các mục tiêu, các
hạn chế và các ràng buộc trớc khi biết về các hậu quả của chúng. Ví dụ có những
điều mà ban đầu chỉ là hình nh có thể thì đến bây giờ đã khẳng định là sẽ đạt đợc.

Do đó, trong nhiều trờng hợp phải thiết kế lại các phơng án. Hơn nữa, ngời làm
quyết định có thể không thoả mãn với các kết quả nhận đợc xuất phát từ các giả
thiết và các ràng buộc ban đầu. Các phép lặp còn cho phép đánh giá đợc "chi phí"
của các ràng buộc, ví dụ có thể cho thấy chi phí giảm đi bao nhiêu nếu một ràng
buộc nào đó đợc giảm nhẹ đi. Dựa vào đó chúng ta có thể thảo luận để bỏ hoặc làm
giảm nhẹ một vài ràng buộc với mục đích giảm chi phí xuống đến mức phù hợp. Nếu
việc giảm nhẹ ràng buộc là không thể, ngời ra quyết định có thể phải hạ thấp mục
tiêu cho phù hợp với hạn chế về chi phí. Một mục đích quan trọng khác của quá trình
lặp là cải tiến các mô hình đợc dùng để dự báo. Kết quả là chúng ta có thể đơn giản
bớt các yếu tố và mối quan hệ mà ban đầu chúng ta nghĩ là quan trọng, song sau khi
xem xét mới thấy là chúng có thể bỏ qua đợc.
Phân tích không nhất thiết kết thúc khi quá trình lặp không còn mang lại những cải
thiện cơ bản tình hình hoặc không còn đa ra thêm đợc các chơng trình hành động mới để
ngời làm quyết định có thể so sánh, đánh giá và lựa chọn. Nhà phân tích vẫn còn phải tiếp
tục trợ giúp cho ngời ra quyết định trong việc giải quyết các vấn đề mới xuất hiện, ví dụ
nh giải lại một số vấn đề nẩy sinh trong quá trình thảo luận với những ngời ra quyết định
khác hoặc trong quá trình thực hiện chơng trình hành động đã lựa chọn, trợ giúp đánh giá
lại kết quả sau khi quá trình thực hiện đã hoàn tất thành công (hoặc thất bại).
Mặc dù hầu hết các phơng án không khả thi đã bị loại bỏ trong quá trình phân tích,
việc thực hiện một chơng trình hành động vẫn còn có thể có nhiều vấn đề phải giải quyết
ngay cả khi chơng trình đang đợc thực hiện tốt. Một trong các lý do là quyết định cuối
cùng đã có thể không đợc trình bầy và lý giải một cách thích hợp để chỉ dẫn và làm hấp

12


dẫn những ngời phải điều hành nó và những ngời có những ý tởng riêng về cách thể
hiện nó.
Thông thờng một thời gian dài sau khi quá trình phân tích đã hoàn thành thì việc thực
hiện mới đợc bắt đầu, do đó khi thực hiện hoàn cảnh bên ngoài có thể đã thay đổi khác với

các dự báo trong quá trình phân tích và điều đó lại đòi hỏi phải tiến hành phân tích lại.
Cuối cùng nhà phân tích có thể đợc mời đến để trợ giúp cho ngời ra quyết định đánh
giá tiến độ thực hiện. Do nhà phân tích đã nghiên cứu kỹ và hiểu biết đầy đủ vấn đề, nên có
khả năng phát hiện ra nguyên nhân của các sai lệch khác với các dự tính ban đầu.
Có nhiều cách để kết hợp các bớc của quá trình PTHT thành các giai đoạn. Tuy vậy
nói chung có thể chia quá trình PTHT thành ba giai đoạn:
Đặt vấn đề (hay là: Phát biểu, Thiết lập bài toán);
Nghiên cứu, bao gồm tìm ra, thiết kế và phân hạng các phơng án, dự báo các hoàn
cảnh xung quanh, xác định các kết quả;
Trình bày, bao gồm so sánh và làm các tài liệu.
Tuy nhiên cần chú ý rằng không phải mỗi quá trình PTHT đều đòi hỏi phải thực hiện
đầy đủ mọi giai đoạn và mọi bớc. Sau đây là một số ví dụ nh thế:
Đánh giá tác động của một hành động bao gồm xác định tất cả các kết quả cơ
bản, hoặc chỉ một lớp nào đó các kết quả của một hành động đợc đề xuất. Ví
dụ nghiên cứu đánh giá tác động môi trờng của một công nghệ cụ thể đợc
đề xuất có thể không phải thực hiện việc so sánh hoặc xếp hạng.
Phân tích quyết định nhằm trợ giúp cho việc chọn một trong một số hạn chế các
phơng án đã xác định mà các kết quả của từng phơng án đợc coi là đã biết.
ở đây việc phân tích chỉ nhằm cung cấp một khuôn khổ để phân hạng các
phơng án này. Ví dụ minh hoạ cho loại phân tích này là các dự án lựa chọn
thiết bị từ các nhà cung cấp cạnh tranh.
Khi tiến hành phân tích không đầy đủ, ta luôn luôn giả thiết rằng những phần còn thiếu
sẽ đợc ngời nào đó cung cấp sau.
Trong phần tiếp theo ta trình bầy sâu hơn về nội dung các bớc của PTHT.
III.3. Đặt vấn đề.
Mục đích.
Nói một cách tổng quát, trong bớc đặt vấn đề ta phải đa ra đợc các câu hỏi hoặc
các vấn đề cần giải quyết, xác định hoàn cảnh mà trong hoàn cảnh đó ta giải quyết vấn đề,
làm sáng tỏ các mục tiêu và các ràng buộc, xác định những ngời bị tác động bởi các quyết
định, phát hiện các tác nhân quan trọng nhất và quyết định cách tiếp cận ban đầu. Trong

bớc đặt vấn đề chúng ta hy vọng có thể đạt đợc một số điều sau đây:
- Thiết lập sơ bộ các mục tiêu và các cách để đo lờng các thành tựu đạt đợc.
13


- Đa ra đợc một vài chơng trình hành động (phơng án) có thể.
- Xác định các ràng buộc.
- Dự báo các loại kết quả có thể, cách thức đo lờng chúng, các tiêu chuẩn có thể để
phân hạng chúng.
- Xây dựng một kế hoạch cho việc phân tích tiếp tục.
Đặt vấn đề sẽ cho phép chúng ta giới hạn các câu hỏi, các vấn đề phải đề cập, các khía
cạnh của hoàn cảnh xung quanh cần đa vào xem xét, khuôn khổ thời gian, và các nguồn
phân tích cần thiết để thực hiện công việc. Phạm vi của vấn đề có thể đợc hạn chế lại nhờ
hạn chế số lợng và chủng loại các hoạt động có thể phải xem xét.
Bớc đặt vấn đề, thực chất có thể đợc xem nh một quá trình PTHT ở quy mô nhỏ. Nó
có thể sắp xếp một lợng rất lớn các yêu cầu thành một hệ thống phân cấp các mục tiêu, hệ
thống các giá trị, các loại ràng buộc khác nhau, các phơng án có thể, các kết quả đợc dự
đoán, các cách mà những ngời bị tác động phản ứng lại với các kết quả,... Tuy nhiên ở
bớc này các mô hình dùng để dự báo vẫn còn thô, và có thể các kết quả mới ở mức phán
đoán.
Trong quá trình xem xét việc đặt vấn đề, nhà phân tích cần phải cân nhắc đến phơng
pháp phân tích, tất nhiên phơng pháp này phụ thuộc vào vấn đề cần phải giải quyết. Ví dụ
nếu ngời ra quyết định đã đợc chia một lợng kinh phí cố định, nhà phân tích cần phải cố
gắng giúp ngời ra quyết định tìm một phơng án có thể thực hiện đợc trong khuôn khổ
kinh phí này và đạt đợc hoàn toàn hoặc đạt đợc gần nhất đến mục tiêu. Còn nếu vấn đề
đòi hỏi là phải điều chỉnh lại một điều kiện không mong muốn nào đó, thì khi đó mục tiêu
phân tích có thể là tìm điểm mà tại đó lợi nhuận cận biên của hành động hiệu chỉnh đúng
bằng với chi phí cận biên. Một khả năng khác là nhà phân tích đợc định hớng tới việc tìm
một chơng trình hành động cho tỷ suất hoàn vốn nội bộ đủ cao đối với đầu t để tạo sự hấp
dẫn,...

Khi quá trình nghiên cứu đợc triển khai và nhiều thông tin hơn đã đợc thu thập để
phân tích, xử lý, cách tiếp cận phân tích có thể phải thay đổi cho phù hợp.
Cách đặt vấn đề có liên quan chặt chẽ đến các giả thiết thiết yếu mà nhà phân tích phải
tuân theo, bởi vì mỗi cách đặt vấn đề lại dẫn tới các kết quả trông đợi khác nhau. Các ý kiến
của ngời làm quyết định đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn cách đặt vấn đề nào.
Thiết lập lại vấn đề theo các cách khác nhau có thể làm sáng tỏ phải chăng vấn đề là tầm
thờng hoặc không xác thực và cũng có thể chỉ ra đợc cách hớng tới lời giải. Trớc khi
xác định đợc vấn đề và làm sáng tỏ các nội dung, thờng ta không thể biết trớc đợc liệu
các nỗ lực nghiên cứu có đa lại kết quả trông đợi hay không. Một khó khăn nữa là kết quả
thì phụ thuộc vào các giả thiết cơ bản của ngời đặt vấn đề, trong khi anh ta và ngời làm
quyết định không ý thức đợc chính xác các giả thiết này là nh thế nào.

14


Bớc đặt vấn đề là bớc rất quan trọng của PTHT. Nh R.L. Ackoff, một chuyên
gia về PTHT đã viết: chúng ta thất bại thờng là do chúng ta đã giải các vấn đề đặt sai
nhiều hơn là do chúng ta giải sai những vấn đề đặt đúng 1 .
Các mục tiêu
Một phần công việc quan trọng của nhà PTHT là xác định xem các mục tiêu của ngời
ra quyết định thực sự là gì. Trong nhiều trờng hợp các mục tiêu đợc sắp xếp thành cây
mục tiêu đợc phân cấp theo các mức khác nhau và các mức thờng đợc phân biệt theo
thời gian. Ví dụ trong các kế hoạch kinh tế có một hệ thống phân cấp các mục tiêu ngắn hạn
và các mục tiêu dài hạn. Điều quan trọng là các mục tiêu ở các mức phải tơng thích với
nhau.
Đặt mục tiêu là bớc rất quan trọng vì các mục tiêu mới gợi ý ra các phơng án. Để
một phơng án có thể đợc đa ra xem xét, chơng trình hành động của nó phải tạo ra khả
năng đạt đợc các mục tiêu. Đôi khi ngay trong lúc vấn đề và các mục tiêu cha đợc xác
định rõ ràng, ngời ta đã đa ra một lời giải và mong muốn thực hiện nó. Khi đó nhà phân
tích phải phân tích ngợc từ lời giải về lại các giả thiết để khẳng định xem vấn đề và các

mục tiêu mong muốn là gì.
Để thuận lợi cho phân tích, chúng ta muốn có khả năng đo lờng mức độ đạt đợc một
mục tiêu do một chơng trình hoạt động mang lại. Vì thế nếu mục tiêu ban đầu không thể
lợng hoá đợc, cần tìm cách đa ra một mục tiêu khác gần nh mục tiêu ban đầu, song có
thể đo lờng đợc. Mục tiêu khác này đợc gọi là mục tiêu đại diện. Ví dụ thu nhập có thể
là mục tiêu đại diện cho mục tiêu chất lợng cuộc sống. Đôi khi mục tiêu đại diện có thể lấy
là một trong các chiều của vectơ mục tiêu nhiều chiều. Ví dụ giảm thời gian đi lại trung
bình có thể đợc sử dụng làm đại diện cho mục tiêu cải thiện dịch vụ vận chuyển. Trong
một số trờng hợp để tốt hơn ngời ta thờng lấy tổng có trọng số của các chiều làm mục
tiêu đại diện thay cho việc lấy một trong các chiều.
Trong trờng hợp mục tiêu có thể đo lờng đợc, ta có thể đặt giá trị cho mục tiêu. Ví
dụ đặt mục tiêu thời gian đi lại trung bình là 40 phút. Thông thờng để mềm dẻo hơn, ta có
thể lấy giá trị trong một khoảng, ví dụ: (thời gian đi lại trung bình) 45 phút, điều đó làm
cho việc chọn phơng án tự do hơn.
Trong đa số các trờng hợp, ngời làm quyết định thờng có nhiều mục tiêu. Các mục
tiêu này có thể có quan hệ với nhau hoặc cùng nhau đóng góp vào một mục tiêu chung ở
cấp cao hơn. Ví dụ mục tiêu nâng cao chất lợng cuộc sống đô thị là mục tiêu ở mức cao
hơn bao gồm nhiều thành phần nh nhà ở tốt hơn, nhiễm bẩn không khí ít hơn, thời gian đi
lại trung bình giảm hơn, tiện nghi thuận lợi hơn,... Nếu không thể tách ra đợc đóng góp
tơng đối của từng yếu tố cho mục tiêu, chúng ta phải tìm các phơng án cải thiện (theo
cách có thể đo lờng đợc) tất cả hoặc chỉ cải thiện các yếu tố chủ yếu đóng góp vào mục
tiêu và dành quyền quyết định cuối cùng cho ngời ra quyết định.

1

R.L. Ackoff. Redesigning the Future: A Systems Approach to Societal Problems. New York:
Wiley, 1974
15



Đa mục tiêu thờng có tính tơng tranh và do đó phải giải quyết vấn đề cạnh tranh
lẫn nhau của các mục tiêu. Thờng thì một phơng án có thể mang lại sự cải thiện tối
đa cho một mục tiêu nào đó, song nó lại làm làm suy giảm các mục tiêu khác. Ví dụ mong
muốn giảm ô nhiễm tiếng ồn có thể buộc phải hạn chế (một cách không mong muốn) tốc độ
giao thông đô thị. Lựa chọn phơng án trong tình huống đa mục tiêu là một vấn đề khó
khăn.
Các giá trị và các tiêu chuẩn
Một chơng trình hành động có thể có nhiều kết quả (hậu quả). Một số kết quả sẽ làm
tăng hoặc làm giảm một số mục tiêu và một số kết quả khác có thể chỉ mới có tác động thứ
yếu, tức là cha có tác động thực sự đến các mục tiêu. Nếu chúng ta muốn khẳng định một
phơng án là tốt, chúng ta cần phải không chỉ đo lờng giá trị của từng kết quả, mà còn cần
phải có cách nào đó tổ hợp các tác động này trong một tổng thể. Hơn nữa nếu chúng ta
muốn có khả năng phân hạng các phơng án để chỉ ra phơng án u tiên, chúng ta cần phải
có các "tiêu chuẩn". Các giá trị mà ngời làm quyết định đa ra mang ý nghĩa là tầm quan
trọng gán cho các kết quả sẽ là cơ sở để xác định một tiêu chuẩn, do đó nhà phân tích cần
nghiên cứu các giá trị này khi phải đề xuất tiêu chuẩn.
Thông thờng ngời làm quyết định quan tâm đến việc phân hạng tơng ứng với nhiều
hơn một tiêu chuẩn. Việc phân hạng các phơng án theo đa tiêu chuẩn là vấn đề khó và
nhiều khi nhà phân tích chỉ làm nhiệm vụ t vấn, hỗ trợ, còn việc lựa chọn thuộc quyền của
ngời làm quyết định.
Việc đo lờng các giá trị thờng mang tính chủ quan. Cùng một kết quả song những
ngời đánh giá khác nhau có thể cho các cách đánh giá khác nhau. Trong thực tế, đánh giá
của ngời ra quyết định phải đợc coi trọng hơn, vì đây chính là ngời sẽ quyết định việc
lựa chọn chơng trình hành động. Tuy nhiên trong mọi trờng hợp, nguyện vọng của các cá
nhân hoặc những nhóm ngời mà ngời ra quyết định phải phục vụ hoặc của các cá nhân bị
ảnh hởng bởi các quyết định cũng cần đợc xem xét. Việc xem xét các nguyện vọng này
không phải chỉ do thiện ý của ngời làm quyết định, mà chính ngời làm quyết định phải
thấy đó là cần thiết để có thể thực hiện đợc cái mà anh ta mong muốn.
Hãy xét ví dụ về việc xem xét vấn đề nhiễm bẩn không khí có thể gây ra do một nhà
máy công nghiệp tơng lai. Nếu không có các tiêu chuẩn hoặc hình thức phạt về nhiễm bẩn,

chủ xí nghiệp có thể bỏ qua vấn đề này mặc dù anh ta biết những hậu quả nghiêm trọng do
nhiễm bẩn gây ra. Song rõ ràng anh ta không thể không xem xét đến các chi phí của quyết
định làm nh thế ngay cả khi không chú ý đến khía cạnh đạo đức. Những ngời bị tác động
của nhiễm bẩn có thể có các hành động chống lại làm ảnh hởng đến lợi nhuận của nhà
máy. Khi đó nhiệm vụ của nhà phân tích là phải chỉ ra tác động của nhiễm bẩn lên những
ngời bị ảnh hởng và bằng cách nào đó làm cho ngời ra quyết định phải cân nhắc đến các
phản ứng có thể của những ngời bị ảnh hởng này.
Các ràng buộc (các hạn chế)
Các ràng buộc là các điều kiện hạn chế đặt trên các phơng án. Các ràng buộc có thể là
các tính chất vật lý của hệ thống, các giới hạn của tự nhiên, hoặc các hạn chế mang tính
chính trị không cho phép thực hiện một số hành động nào đó. Nh vậy các ràng buộc có thể
16


kéo theo một số kết quả không thể thực hiện đợc, và do đó một số mục tiêu sẽ không
thể đạt đợc. Các phơng án, các kết quả, các mục tiêu trực tiếp hoặc gián tiếp không
bị các ràng buộc ngăn cản, đợc xem là khả thi. Một số ví dụ về các ràng buộc là các quy
luật của tự nhiên, các giới hạn về tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, hệ thống luật
pháp, phong tục, tập quán, đạo đức, nguồn vốn đầu t,...
Một số ràng buộc có thể xác định ngay từ đầu hoặc do ngời đặt hàng thiết lập. Một số
ràng buộc khác có thể đợc phát hiện ra trong quá trình phân tích. Có thể có ràng buộc
không đợc phát hiện ra thậm chí cho đến tận lúc đã biết các kết quả. Một số ràng buộc
mang tính chính trị hoặc văn hoá có thể cha xuất hiện ngay, song đến lúc bắt đầu thực hiện
mới hình thành và phát triển.
Vấn đề về tính khả thi là rất quan trọng trong PTHT và thờng là vấn đề khó. Tìm đợc
một phơng án khả thi đã có thể tạo ra cơ hội để cải thiện tình hình và là kết quả mong
muốn trong những tình huống phức tạp.
Có nhiều loại ràng buộc khác nhau. Một số là vĩnh cửu và cứng, không thể bỏ qua (ví
dụ các quy luật tự nhiên hoặc các nguồn tài nguyên chung). Một số khác ít cứng nhắc hơn,
chỉ tác động trong thời hạn ngắn và có thể thay đổi theo thời gian hoặc đợc cải thiện do

trình độ phát triển của khoa học. Ngoài ra còn có các ràng buộc do con ngời tạo ra, ví dụ
do hoàn cảnh chính trị, hoặc do tính cách của ngời ra quyết định. Nh vậy có những ràng
buộc là cứng nhắc, một số khác mềm dẻo hơn.
ở tất cả các mức của quá trình ra quyết định đều có các ràng buộc. Thông thờng ở các
mức thấp có nhiều ràng buộc phải xem xét hơn (và ở mức này chúng thờng không quá
cứng nhắc). Ví dụ phân tích các phơng án về hệ thống giao thông đô thị cần phải xem xét
các ràng buộc về chi phí, về các chuẩn nhiễm bẩn không khí và tiếng ồn và có thể các ràng
buộc về nhân lực. Đây thờng là các ràng buộc do các nhà quyết định cấp cao đa ra chứ
không phải do hạn chế về tổng nguồn lực hoặc bởi tự nhiên. Các quyết định nh thế có thể
thay đổi nếu trong quá trình phân tích ta đa ra đợc các lý do thích đáng, để chứng tỏ cần
phải thay đổi. Ví dụ qua phân tích có thể chỉ ra cho thấy chi phí hoặc việc đạt mục tiêu sẽ
thay đổi thế nào tơng ứng với lợng thay đổi trong các ràng buộc (kết quả của phân tích
nhậy cảm). Chẳng hạn có thể xẩy ra là chỉ cần giảm nhẹ chuẩn nhiểm bẩn chấp nhận đợc
sẽ làm giảm đáng kể chi phí sản xuất một sản phẩm công nghiệp. Đây là loại phân tích
nhằm xác định chi phí của các ràng buộc. Tuy nhiên chúng ta không đợc quên rằng nhờ bỏ
bớt ràng buộc, phía gây nhiễm bẩn có thể thu đợc lợi nhuận, song lợi nhuận này có thể là
không đáng kể so với chi phí đặt lên vai những ngời bị nhiễm bẩn.
Nh đã trình bầy ở trên, không thể hy vọng rằng mọi ràng buộc và trong một chừng
mực nào đó, tập các phơng án khả thi phù hợp với các ràng buộc sẽ đợc làm rõ ngay từ
bớc đặt vấn đề. Dù sao điều quan trọng đối với nhà phân tích là ghi nhận các ràng buộc mà
anh ta cảm thấy sẽ phải làm việc dới tác động của chúng.
III.4. Nhận dạng, thiết kế và lựa chọn các phơng án
Có thể nói không quá rằng trong PTHT, việc tìm ra các phơng án là nhiệm vụ của trí
tởng tợng và mang tính sáng tạo, đòi hỏi sự kết hợp hài hoà giữa bề sâu và bề rộng của
17


các tri thức liên quan đến các vấn đề đặt ra. Các phơng án đợc xem xét trong mỗi
trờng hợp cụ thể có thể rất đa dạng, không nhất thiết phải là các phơng án thay thế
đợc cho nhau, không nhất thiết phải đợc thực hiện cùng một hệ thống các chức năng. Ví

dụ từng yếu tố, hoặc tổ hợp của các yếu tố giáo dục, giải trí, trợ cấp gia đình, cảnh sát giám
sát, nhà ở cho ngời thu nhập thấp đều có thể đợc xem xét nh các phơng án để chống lại
phạm tội vị thành niên. Mặt khác, việc tìm ra các phơng án không phải chỉ đợc tiến hành
ở giai đoạn đầu của quá trình phân tích, mà còn có thể đợc bổ sung hoặc phát hiện thêm ở
các giai đoạn muộn hơn.
Tập các phơng án có thể ban đầu bao gồm tất cả các chơng trình hành động tạo ra cơ
hội đạt đợc toàn bộ hoặc đạt đợc một phần các mục tiêu. Ngời ta thờng thêm vào tập
này phơng án số không là phơng án không có hành động nào và xem nó nh phơng án
cơ sở dùng để so sánh. Sau khi các ràng buộc đợc phát hiện ra hoặc khi tìm đợc một phần
lời giải, tập này có thể đợc thu gọn lại. Trong đa số trờng hợp, một số phơng án đợc đề
xuất bởi ngời ra quyết định bằng cách đa ra các đặc trng cơ bản xác định chúng. Một số
phơng án khác do các nhà phân tích tìm tòi sáng tạo ra.
Việc tìm ra một tập hợp phong phú các phơng án là bớc cơ bản trong PTHT. Tiếp
theo chúng ta không thể nghiên cứu tỷ mỷ tất cả các phơng án, vì làm thế sẽ tốn nhiều thời
gian, công sức và quá tốn kém. Cần phải có cách để sàng lọc sơ bộ chúng và làm giảm tập
hợp các phơng án xuống đến mức có thể xử lý đợc. Ví dụ có thể loại bỏ ngay các phơng
án có những kết quả không chấp nhận đợc (chẳng hạn nh chi phí quá cao), hoặc có thể
đa ra một số chuẩn để các phơng án nào không đáp ứng các chuẩn này sẽ bị loại. Một số
ít các phơng án vợt qua vòng sàng lọc này sẽ đợc tiếp tục xem xét chi tiết hơn. Thực tế
sau khi hoàn thành việc lựa chọn, vẫn có thể có một số khía cạnh của phơng án cần đợc
nghiên cứu chi tiết thêm trớc khi chơng trình cuối cùng đợc chuẩn bị để đa ra thực
hiện. Các phơng án càng tốt càng dễ dàng phân tích. Một phơng án đặc biệt tốt có thể
đợc chấp nhận ngay mà không cần tiếp tục phân tích thêm.
III.5. Dự báo tình trạng hoàn cảnh thế giới tơng lai.
Tơng lai và bất định
Trong PTHT, một nhiệm vụ quan trọng là phải dự báo đợc các kết quả của các phơng
án đợc xem xét. Song các dự báo này lại phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể lúc thực hiện
phơng án, do đó kết quả dự báo thờng có độ bất định và không chính xác. Để khắc phục
tính bất định này, việc dự báo thờng đợc tiến hành với một số kịch bản của hoàn cảnh
tơng lai.

Khi đã xác định trớc một dự báo cụ thể hoặc một giả thiết cụ thể về hoàn cảnh thế giới
tơng lai, việc đánh giá kết quả của một chơng trình hành động liên quan đến việc trả lời
hai câu hỏi:
- Cái gì sẽ xẩy ra do thực hiện chơng trình hành động?
- Cái gì sẽ xẩy ra nếu không thực hiện chơng trình hành động?

18


Không có câu hỏi nào đợc trả lời chính xác vì cả hai câu hỏi đều liên quan đến
dự báo các hoàn cảnh tơng lai của thế giới, hoặc ít ra của phần thế giới đang đợc
nghiên cứu.
Dự báo trong PTHT
Dự báo là cần thiết trong mọi PTHT. Nó cần thiết ngay cả trong trờng hợp đơn giản
chúng ta chỉ muốn khẳng định xem có cần thực hiện một hành động nào đó hay không. Ví
dụ về các dự báo là dự báo thời tiết hay dự báo kinh trắc đợc dùng để phác hoạ về tình
trạng tơng lai của nền kinh tế thế giới. Cần chú ý là mặc dù có thể đã dùng các mô hình
phức tạp và phân tích dữ liệu thống kê chuyên sâu, chúng ta vẫn không thể biết hết các mối
quan hệ nhân quả. Các mô hình dự báo có thể chỉ ra các mối tơng quan, song cũng có thể
sai khi xác định các mối phụ thuộc. Nếu không chú ý đến sự phân biệt này có thể dẫn đến
sai lầm. Ví dụ chúng ta không thể gây ra ma bằng cách buộc chim phải bay ở tầm thấp,
mặc dù hai hiện tợng này có mối tơng quan mạnh trong các điều kiện khí hậu nào đó (vì
cả hai đều chịu ảnh hởng của cùng nguyên nhân là độ ẩm không khí).
Dự báo tình trạng tơng lai của thế giới (trong thực tế chỉ là dự báo tơng lai của một
phần rất nhỏ bé của thế giới có liên quan đến vấn đề của chúng ta) là cần thiết để dự báo các
kết quả của phơng án, vì các kết quả này phụ thuộc vào các tính chất của phơng án và vào
hoàn cảnh khi nó đợc thực hiện. Nếu sự tin tởng của chúng ta vào độ chính xác của các
dự báo này không quá cao (mà thờng là nh vậy), chúng ta sẽ phải thực hiện phân tích với
một vài kịch bản dự báo khác nhau về tình trạng tơng lai cuả thế giới.
Các phơng pháp dự báo

Dự báo tình trạng tơng lai của thế giới có thể đợc thực hiện theo nhiều cách. Các kỹ
thuật dự báo thay đổi từ phơng pháp mô tả các kịch bản (tức là chuẩn bị một tập các giả
định về tình trạng tơng lai của thế giới dựa vào việc theo dõi một chuỗi các sự kiện giả
định hợp lý) cho tới phơng pháp sử dụng các mô hình dự báo toán học. Mỗi khi một kỹ
thuật đợc sử dụng, dự báo phải đợc tiến hành dựa trên các dữ liệu quá khứ và hiện hành,
các quan sát, đo đạc và các giả thiết liên quan đến tơng lai. Khi chỉ dùng lập luận chuyên
gia, các kỹ thuật đợc sử dụng sẽ không thể hiện rõ. Đối với nhiều PTHT, thờng ít dùng
các mô hình định lợng. Cách thức chủ yếu là soạn thảo các kịch bản.
Kỹ thuật dự báo đợc lựa chọn không nên quá phức tạp so với các dữ liệu sẵn có. Nếu
dữ liệu có quá ít hoặc không chính xác, một mô hình dự báo dựa trên lập luận đơn giản cũng
tốt chẳng khác gì mô hình rất phức tạp. Trong những bớc đầu tiên của quá trình phân tích,
khi đang muốn tìm các câu trả lời chủ yếu mang tính định tính, việc cố gắng dùng các mô
hình dự báo phức tạp có thể sẽ là không thực tế.
Cần chú ý là ngay cả các kỹ thuật dự báo tốt nhất cũng chỉ có thể xác định đợc tơng
lai với một xác suất nào đó. Trong một số trờng hợp có thể thay thế các dự báo tơng lai
mang tính xác suất bằng việc chọn một tình huống cụ thể. Ví dụ khi xem xét một kế hoạch
phát triển nguồn nớc, chúng ta có thể đặt câu hỏi phải chăng sau khi thực hiện kế hoạch
này, trong mọi hoàn cảnh nhu cầu nớc của tất cả những ngời dùng luôn luôn đều đợc
thoả mãn. Câu hỏi này dẫn đến phải kiểm tra trờng hợp xấu nhất của thời tiết và các điều
kiện khác. Với mục đích này chúng ta có thể xem giới tự nhiên nh lực lợng đối lập chống
19


lại chúng ta và nh vậy mô hình dẫn đến sử dụng lý thuyết trò chơi. Cần chú ý là để
nhận đợc các kết luận hợp lý, các khả năng xấu của giới tự nhiên sẽ phải đợc hạn chế
theo một cách nào đó, nếu không thì không hệ thống nớc nào có thể chịu đựng đợc phép
thử. Trong mọi trờng hợp, lý thuyết trò chơi có thể cho thấy trờng hợp các điều kiện bên
ngoài xấu nhất, và khi đó chúng ta có thể thử xác định xem phải chăng trờng hợp này có
thể xẩy ra.
Trong nhiều phân tích xuất hiện nhu cầu xem xét các sự cố ít khi xẩy ra (xác suất xẩy

ra chúng là thấp hoặc rất thấp), song nếu chúng xẩy ra thì các hậu quả lại rất đáng kể.
Thông thờng các hậu quả này là bất lợi, song đôi khi lại là các hậu quả tốt (chẳng hạn nh
thành công của một đầu t cho nghiên cứu triển khai với xác suất thành công thấp)
III.6. Nhận dạng các kết quả.
Mỗi phơng án cụ thể thờng có nhiều kết quả. Một số trong các kết quả này là những
lợi ích mong muốn và đóng góp vào việc đạt đợc các mục tiêu. Một số khác là những chi
phí, những kết quả mang tính phủ định mà chúng ta muốn tránh hoặc muốn cực tiểu hoá.
Một số kết quả mặc dù có ảnh hởng rất ít đến việc đạt đợc các mục tiêu và ban đầu chúng
ta đã bỏ qua khi đánh giá, song lại có tác dụng mạnh đến lợi ích của các nhóm ngời khác
hoặc các nhà ra quyết định khác, và những ngời này lại có thể tác động đến việc ra quyết
định bằng cách gây áp lực lên ngời ra quyết định hoặc đa ra các yêu cầu của họ khi thực
hiện phơng án. Khi đó có thể cần phải mở rộng nghiên cứu bằng cách đa các tác động
loại này vào so sánh các phơng án.
Theo nghĩa rộng, các chi phí là các cơ hội đã bị bỏ qua - đó là các thứ chúng ta không
thể có hoặc không thể làm khi một phơng án đã đợc chọn. Một số chi phí có thể đợc
biểu thị dới dạng tiền hoặc dới dạng lợng hoá khác thích hợp, còn một số khác có thể
không. Ví dụ nếu mục tiêu của một quyết định là làm giảm tai nạn giao thông, ta có thể đa
ra luật về hạn chế tốc độ, điều đó có thể buộc lái xe phải đi với tốc độ chậm trên những
đoạn đờng an toàn và không đông đúc, nh vậy có thể sẽ gây ra tổn thất vợt quá các lợi
ích đạt đợc. Sự chậm chạp nh thế không những chỉ mang giá trị phủ định đợc biểu thị
một phần dới dạng tiền tệ, mà còn có thể gây ra sự khó chịu và vi phạm luật do tăng tốc
độ, đó là các kết quả mang tính phủ định khó có thể lợng hóa.
Một vấn đề quan trọng và cũng là quyết định quan trọng của ngời phân tích là xác
định xem các kết quả nào sẽ phải xem xét. Chúng ta không thể tránh đợc việc phải đánh
giá giá trị và biên độ của các kết quả ngay ở những bớc đầu của quá trình phân tích. Nếu
chúng ta xem xét quá nhiều kết quả trong tự nhiên, kinh tế, môi trờng, xã hội có liên quan
đến vấn đề đang phải nghiên cứu, thì việc phân tích sẽ trở nên tốn kém, mất nhiều thời gian
và không hiệu quả. Do đó phải hạn chế số kết quả phải xem xét. Tuy nhiên danh sách các
kết quả quan trọng cần phải đa vào xem xét phải có khả năng mở rộng.
Đối với ngời làm quyết định, họ thờng hay nhấn mạnh đến các kết quả có lợi và bỏ

qua những hậu quả kéo theo các chi phí không thích hợp và phơng hại đến những ngời
khác. Do đó trách nhiệm chủ yếu là của nhà phân tích. Việc quyết định các kết quả nào phải
xem xét là một trong các quyết định quan trọng trong nghiên cứu. Các đánh giá ban đầu dựa

20


trên kinh nghiệm, các lập luận hợp lý, các hiểu biết liên quan đến vấn đề là điểm xuất
phát, song phải đợc bổ sung dần dần trong quá trình phân tích.
Còn một vấn đề nữa liên quan đến đến việc liệt kê các kết quả thích hợp. Đó là việc
chúng ta sẽ xem xét tơng lai xa đến mức nào. Điều đó có nghĩa là cần phân biệt các kết
quả ngắn hạn và các kết quả dài hạn, phải xét xem các kết quả ngắn hạn kéo dài bao lâu và
ảnh hởng nh thế nào đến các kết quả dài hạn.
Các mô hình dự báo
Các kết quả của một hành động không thể đo hoặc quan sát trớc khi nó đợc thực
hiện. Do đó cần tiến hành dự báo (hoặc đánh giá) chúng xuất phát từ hiểu biết hiện tại của
chúng ta về bối cảnh và các quan hệ thực tế giữa hành động dự tính và các kết quả của nó.
Trong số các loại mô hình dùng để dự báo, mô hình hay đợc dùng nhất là các mô hình
toán học. Một mô hình toán học bao gồm một tập các phơng trình và các quan hệ hình
thức thờng đợc biểu diễn dới dạng một chơng trình máy tính nhằm biểu diễn các quá
trình và hoàn cảnh xác định kết quả của các hành động đợc lựa chọn. Tính đúng đắn của
các mô hình này phụ thuộc vào chất lợng các thông tin chúng biểu diễn. Với khả năng
hiện nay của chúng ta, việc lập các mô hình toán học cho các kết quả dự báo tin cậy còn khá
hạn chế, đặc biệt là đối với các vấn đề về các chính sách công, vì khi đó các nội dung xã hội
và chính trị có khuynh hớng đóng vai trò cơ bản. ở đây có thể phải dùng các mô hình dựa
vào kinh nghiệm và trực quan hơn là dựa vào các lập luận chính xác.
Trong các mô hình dự báo cần phân biệt hai loại yếu tố cùng có ảnh hởng đến các kết
quả: các yếu tố thuộc hành động và các yếu tố thuộc hoàn cảnh (tình trạng của thế giới).
Hoàn cảnh bao gồm tất cả các yếu tố ngoại sinh, chính là các yếu tố nằm ngoài khuôn khổ
điều khiển của hành động, song có ảnh hởng đến các kết quả của hành động. Lý do của

việc phân biệt này là do việc dự báo hoàn cảnh tơng lai thờng chứa các yếu tố bất định.
Hơn nữa thay cho việc giả sử rằng mọi thứ đều có quan hệ và ảnh hởng, chúng ta cần đa
ra một hạn chế các yếu tố có ảnh hởng đến các kết quả cần xem xét (có nghĩa là không
phải mọi thứ bên ngoài đều đợc xem là môi trờng). Sau đó chúng ta phải đa ra một hạn
chế khác liên quan đến các tác động cơ bản của hành động (các kết quả). Quyết định về các
hạn chế này đợc tiến hành theo cách đầu tiên thử xác định trong giai đoạn đặt vấn đề, sau
đó tiếp tục điều chỉnh, có thể vài lần, từ lúc các mô hình thô đợc sử dụng để sàng lọc các
phơng án, cho đến khi các mô hình mịn hơn đợc xây dựng để dự báo các kết quả chính
xác hơn, và cứ thế quá trình lặp đợc tiếp tục.
Các hạn chế của mô hình dự báo: các phép thử (các thí nghiệm)
Ngay trong trờng hợp các hiện tợng và các quan hệ đòi hỏi để dự báo đều đợc lợng
hoá, tính đúng đắn của các mô hình dự báo còn bị hạn chế bởi nhiều yếu tố nh hiểu biết
hạn chế về các quy luật hoạt động của hệ thống, dữ liệu không phù hợp, không có khả năng
xử lý hiệu quả các quan hệ quá phức tạp, v...v...
Một khó khăn gặp phải trong quá trình xây dựng mô hình là việc các dữ liệu thu đợc
từ các quan sát thụ động thờng không bộc lộ các quan hệ nhân quả và khó dự báo đợc
hành vi của con ngời, mà các hành vi này lại là yếu tố quan trọng của hầu hết các vấn đề
21


của PTHT. Một khó khăn khác nẩy sinh khi trong hệ thống đợc mô hình hoá có chứa
không phải "một" mà là "một số" ngời làm quyết định mà quyết định của họ đều có
ảnh hởng đến kết quả. Hành vi của họ phải đợc tích hợp vào mô hình. Để làm điều này,
cần đa vào mô hình dạng "trò chơi" các "đấu thủ" để biểu diễn, ví dụ, nhà quản lý, hội
đồng lập pháp, một đảng chính trị, một yếu tố của xã hội, thậm chí một ngành kinh tế,... đó
là các thực thể mà với tình trạng hiểu biết của chúng ta hiện nay không thể mô hình hoá một
cách phù hợp nhờ một tập các phơng trình hay một chơng trình máy tính. Chúng ta sẽ có
các loại khác nhau của lý thuyết "trò chơi" tuỳ thuộc vào bối cảnh (trò chơi tác nghiệp, trò
chơi chiến tranh, trò chơi kinh doanh,...).
Nếu các mô hình dự báo là không phù hợp do các khó khăn liên quan đến việc dự báo

hành động của một số tơng đối lớn các cá nhân, ngời lập mô hình có thể đề nghị một
cuộc thử nghiệm xã hội. Nó có thể bao gồm, ví dụ, việc thử nghiệm một chơng trình hành
động trên một nhóm mẫu các cá thể và trên một nhóm đối chiếu song song. Sau khi thử
nghiệm ta tiến hành đối chiếu các kết quả để đa ra kết luận về các hành động hoặc xây
dựng một mô hình mô phỏng hành động trớc khi nó đợc triển khai đầy đủ. Vấn đề về các
thử nghiệm nh thế còn đợc hiểu biết quá ít, và còn quá mới, quá đắt để có thể triển khai
rộng rãi.
Một thử nghiệm có thể cho chúng ta biết hiện tại hệ thống sẽ phản ứng nh thế nào,
song sẽ không cho ta biết trong tơng lai nếu các điều kiện thay đổi thì hệ thống sẽ phản
ứng ra sao (vì không thể lặp lại thử nghiệm với các điều kiện thay đổi). Do các khó khăn
này, chúng ta không thể dùng các phép thử nghiệm để thay cho mô hình, song có thể coi
chúng nh các hoạt động bổ sung.
Không có mô hình nào là hoàn toàn đúng đắn. Không thể đảm bảo rằng các kết quả
của mô hình sẽ hoàn toàn phù hợp với thực tế. Tuy nhiên chúng ta có thể làm tăng độ tin
cậy của các dự báo bằng cách làm việc với mô hình, kiểm tra đối chiếu với các mô hình
khác và với các dữ liệu lịch sử, hoặc dùng nó để dự báo các kết quả trong các tình huống đã
biết. Tốt ra là chúng ta kiểm tra mô hình theo một hệ thống các phép thử đợc thiết kế trớc
và so sánh các kết quả với mục đích kiểm tra xem mô hình có thể sai ở đâu. Việc thử
nghiệm này giúp chúng ta có thể hiểu khả năng và hạn chế của mô hình.
Sử dụng mô hình
Về nguyên tắc việc sử dụng mô hình là rất đơn giản. Chúng ta đa vào mô hình các
hành động đợc lựa chọn, hoàn cảnh tơng lai đợc giả thiết hoặc dự báo nh các đầu vào,
chạy mô hình và nhận đợc đầu ra là các kết quả do mô hình dự báo.
Một công việc quan trọng là nghiên cứu độ nhậy của các kết quả nhận đợc từ mô hình
đối với độ bất định hoặc các sai số trong việc chọn các tham số hoặc các giả thiết. Để làm
điều này, chúng ta chỉ cần tạo ra một chuỗi các thay đổi trong các tham số của phơng án,
của hoàn cảnh, hoặc của mô hình và quan sát xem các kết quả thay đổi thế nào. Phân tích độ
nhậy giúp làm rõ các loại và bậc bất định tồn tại trong các kết quả và nhận dạng các tham số
phải chú ý trong quá trình quản lý. Một loại nghiên cứu tơng tự nhng theo sự thay đổi của
các nhân tố ngoại sinh hoặc các giả thiết về tình trạng tơng lai của ngoại cảnh và thờng

đợc gọi là phân tích hoàn cảnh (contingency analysis).
22


Các kỹ thuật cụ thể đợc dùng để dự báo các kết quả theo các đầu vào phụ thuộc
vào loại mô hình đợc dùng (ví dụ mô hình giải tích sử dụng các phơng trình và các
công thức toán học, hoặc các mô hình suy luận). Tuy nhiên tất cả các loại mô hình đều cho
phép đánh giá độ nhậy.
Chúng ta đã thấy rằng chỉ có thể xác định tơng lai chính xác theo một xác suất nào
đó. Do đó chúng ta đòi hỏi mô hình phải dự báo với xác suất các kết quả. Ví dụ chúng ta có
thể quan tâm đến một miền hoặc một khoảng chứa các kết quả với xác suất cao nào đó. Để
nhận đợc trả lời loại này cần nhiều thông tin và khó thực hiện trong PTHT.
Các nhận xét tóm tắt
Đôi khi xẩy ra trờng hợp là trong một quá trình tiến hành PTHT, mặc dù đã rất cố
gắng trong xây dựng mô hình và dự báo, nhà phân tích vẫn không thể khẳng định đợc việc
các kết quả đợc dự báo sẽ xẩy ra với xác suất cao, có nghĩa là độ bất định trong các câu trả
lời là không thể khắc phục đợc. Khi đó có thật hợp lý không khi chúng ta bỏ thời gian và
kinh phí cho PTHT, cho việc xây dựng và sử dụng các mô hình, trong khi chúng không thể
cho dự báo chính xác?
Câu trả lời là có. Thứ nhất, nếu ngời làm quyết định phải đa ra một quyết định thì sự
trợ giúp không hoàn hảo nhờ phân tích còn tốt hơn việc đa ra quyết định chỉ do các phán
đoán và trực giác tuỳ tiện. Thứ hai, phân tích cho phép so sánh các phơng án, ngay cả nếu
độ chính xác tuyệt đối trong dự báo các kết quả là thấp. Phân tích hoàn cảnh (nghiên cứu độ
nhậy của kết quả theo sự thay đổi của hoàn cảnh xung quanh) có thể chứng tỏ rằng một
phơng án cụ thể là tốt nhất hoặc ít ra cũng là rất tốt trong một miền rộng rãi của ngoại
cảnh. Ví dụ giả sử rằng không có dự báo mang tính xác suất về tơng lai, nhng có một số
kịch bản về tơng lai bao gồm nhiều khả năng có thể. Khi đó nếu nhờ phân tích chúng ta
phát hiện ra rằng các kết quả của hành động a1 là tốt hơn của hành động a2 trong tất cả hoặc
trong hầu hết các kịch bản, thì đây sẽ là một luận cứ tốt để u tiên hành động a1. Các luận
cứ tốt khác mà mô hình có thể cung cấp là các tính chất về độ nhậy: một chơng trình hành

động làm cho hệ thống không nhậy cảm với các yếu tố ngoại sinh, hoặc có khả năng phục
hồi sau các cú sốc là có lợi ngay cả trong trờng hợp chúng ta không biết chính xác các kết
quả cuả nó.
III.7. So sánh và xếp hạng các phơng án
Các khó khăn khi xếp hạng
Giả sử các kết quả của mỗi phơng án đã đợc xác định đối với một số các kịch bản về
hoàn cảnh thế giới xung quanh. Bằng cách nào chúng ta có thể so sánh các phơng án? Một
phơng pháp đơn giản, song khó áp dụng trong trờng hợp số các kịch bản lớn, là hiển thị
các phơng án và các kết quả của chúng theo những khuôn khổ thích hợp để có thể thấy
đợc những điểm khác nhau và giống nhau giữa các phơng án. Tuy nhiên nhà phân tích có
thể đợc yêu cầu phải làm nhiều hơn: phải xếp hạng các phơng án để có thể tiến hành lựa
chọn. Điều này có nghĩa là phải đa ra các tiêu chuẩn và dựa theo các tiêu chuẩn để xếp
hạng các phơng án.

23


Việc xếp hạng các phơng án có thể gặp khó khăn do các lý do sau đây:
- Trong nhiều trờng hợp, một phơng án có thể tốt hơn các phơng án khác về một
số khía cạnh này song lại yếu hơn về một số khía cạnh khác.
- Các kết quả đa dạng của một phơng án nói chung không thể đợc tích hợp vào một
chỉ tiêu đơn giản để đặc trng cho độ đạt đợc các mục tiêu.
- Khi các kết quả kéo dài theo thời gian, việc u tiên các khoảng thời gian khác nhau
có thể dẫn đến các cách xếp hạng khác nhau.
- Có các kết quả mà việc lợng hoá chúng phụ thuộc vào chủ quan con ngời.
- Các điều kiện tơng lai mà trong các điều kiện đó phơng án lựa chọn sẽ thực hiện
là bất định. Đồng thời miền giá trị của các điều kiện tơng lai có thể quá rộng rãi và
phụ thuộc vào các kết quả dự báo.
Tuy nhiên, cho dù gặp khó khăn, việc lựa chọn vẫn phải đợc thực hiện. Vấn đề là nhà
phân tích có thể trợ giúp quá trình này nh thế nào. Ví dụ, bằng cách nào đó nhà phân tích

có thể thu gọn các kết quả của các phơng án vào một số ít các chỉ tiêu tin cậy. Cần chú ý là
việc gộp quá mức (tức là gộp quá nhiều chỉ tiêu vào một chỉ tiêu đơn) cũng có mặt nguy
hiểm. Không nên bỏ qua sự kiện là ý kiến của ngời ra quyết định dựa trên một tập các kết
quả đợc trình bầy rõ ràng có thể phản ảnh đúng ý thích của anh ta hơn là chỉ có một chỉ
tiêu.
So sánh và xếp hạng theo lập luận
Một phơng pháp đợc dùng khi xếp hạng là trình bày các kết quả của các phơng án
theo kiểu phiếu ghi điểm và dùng mầu sắc để chỉ ra các xếp hạng. Việc trình bầy kiểu phiếu
ghi điểm nh thế nhằm trình bầy cho ngời ra quyết định một tập hợp đầy đủ các kết quả,
cả tốt lẫn xấu, và ở những chỗ thích hợp một chỉ tiêu về ai đợc lợi và ai phải trả chi phí.
Ngời làm quyết định có thể thêm vào các thông tin tơng đối khách quan này các ý kiến
của anh ta về các giá trị cũng nh tích hợp các ý kiến có giá trị của các tầng lớp dân c mà
anh ta đại diện. Cách làm này cũng có thể dùng để chỉ ra độ nhậy, chính là chỉ ra các tác
động hoặc xếp hạng thay đổi thế nào khi các tham số và các điều kiện ngoại cảnh thay đổi.
Để làm điều này, phải chuẩn bị một phiếu ghi điểm của cùng phơng án trong các điều kiện
thay đổi và so sánh nó với phiếu ghi điểm trớc.
Phiếu ghi điểm có cùng tác động nh nhau đến những ngời ra quyết định, mỗi ngời
có những ý kiến riêng tuỳ thuộc vào ý thích và những thiên kiến của anh ta. Thông qua một
tiểu ban có thể phải tiến hành thảo luận để đi đến một sự đồng thuận.
Trong quá trình nhà phân tích hoặc chuyên gia tiến hành đánh giá và xếp hạng các
phơng án, có thể có các yếu tố quan trọng đối với ngời làm quyết định đã bị bỏ qua do
không biết. Do đó cách xếp hạng này có thể không làm thoả mãn ngời ra quyết định. Vì
vậy cần trình bầy rõ cho ngời làm quyết định các phơng án với các kết quả chính yếu của
chúng.
Một số nhận xét chung

24


Trong các ứng dụng thực tế, việc so sánh các phơng án là công việc khó khăn.

Cũng cần phải nhớ rằng mặc dù việc so sánh và lựa chọn phơng án đợc tiến hàng
đồng thời, song thực hiện hai việc này lại do những ngời khác nhau. Nhiệm vụ của nhà
phân tích là đa ra cách so sánh và xếp hạng các phơng án, song quyền và trách nhiệm lựa
chọn phơng án lại thuộc về ngời ra quyết định. Nhà phân tích không nên cảm thấy khó
chịu khi ngời làm quyết định chon phơng án đợc xếp hạng không phải đầu tiên. Việc lựa
chọn nh thế chỉ chứng tỏ rằng có những yếu tố bổ sung mà ngời làm quyết định đã không
nói rõ hoặc nhà phân tích không nhận ra. ở giai đoạn này nhà phân tích đợc xem là thành
công, nếu ngời ra quyết định tiến hành lựa chọn quyết định dựa trên phân tích theo nghĩa
là chơng trình hành động đợc lựa chọn đã đợc nhà phân tích xem xét một cách đầy đủ và
thích hợp. Chúng ta cần nhớ rằng mục tiêu của nhà phân tích không chỉ đơn thuần là tìm ra
một chơng trình hành động thích hợp nhất thoả mãn các ràng buộc và làm đạt đợc các
mục tiêu của ngời ra quyết định, mà phải là tìm ra một chơng trình hành động gần sát
nhất với ý tởng này và có thể đợc những ngời khác tham gia vào quá trình ra quyết định
chấp nhận và khi đó sẽ đợc thực hiện mà không cần những điều chỉnh không mong muốn,
hoặc không bị những chi phí vợt trội hoặc không bị kéo dài làm chậm trễ.
Nh đã nói ở đoạn III.2, vai trò của nhà phân tích không kết thúc khi một chơng trình
hành động cụ thể đã đợc ngời làm quyết định lựa chọn. Nhà phân tích vẫn còn phải tiếp
tục trợ giúp cho ngời ra quyết định trong việc giải quyết các vấn đề mới xuất hiện, ví dụ
nh giải lại một số vấn đề nẩy sinh trong quá trình thảo luận với những ngời ra quyết định
khác hoặc trong quá trình thực hiện chơng trình hành động đã lựa chọn, trợ giúp đánh giá
lại kết quả sau khi quá trình thực hiện đã hoàn tất thành công (hoặc thất bại).
III.8. Viết tài liệu
Trong quá trình thực hiện PTHT, các nhà phân tích cần ghi nhớ các giả thiết, dữ liệu,
lựa chọn và đánh giá các tham số, cấu trúc của mô hình, các bớc trong quá trình phân tích,
các ràng buộc, các chơng trình máy tính, các kết quả, các phân tích độ nhậy,.... Nh vậy
sau khi hoàn thành phân tích, đội phân tích cần viết các tài liệu chi tiết, đầy đủ và cẩn thận
về công việc để các nhà chuyên môn có thể đọc và hiểu đợc công việc đã tiến hành. Không
đợc coi nhẹ hoặc làm qua loa cho xong việc bớc viết tài liệu này. Sau đây chúng ta có thể
kể ra một số lý do tại sao cần làm tốt các tài liệu:
- Nếu phơng án do nhà phân tích tìm ra đợc chấp nhận và đa vào thực hiện, trong

quá trình thực hiện thờng có các vấn đề mới nẩy sinh cần phải tiếp tục nghiên cứu giải
quyết, khi đó không thể nhanh chóng giỉa đáp đợc các câu hỏi với các tài liệu lộn xộn và
không đầy đủ.
- Sau khi nghiên cứu đã hoàn thành, thờng thờng một nhà phân tích mới đợc giao
nhiệm vụ thử lại các kết quả theo các cách khác nhau. Đây là bớc quan trọng để có thể tin
tởng đợc vào các kết quả nghiên cứu. Nếu nhà phân tích mới không hiểu đợc tài liệu, sự
tin tởng này đã bị phá hoại ngay khi mới bắt đầu.

- Tài liệu rõ ràng và đầy đủ càng làm củng cố lòng tin vào quá trình phân tích và đó
cũng là dấu hiệu xác nhận trình độ nghề nghiệp.

25


IV. Các ví dụ về PTHT
IV.1. Chu trình dự án
Trong đoạn này ta đi sâu vào một lĩnh vực quan trọng của PTHT, coi nó là một minh
hoạ cụ thể cho các bớc trên, đó là chu trình dự án.
Trớc hết, mỗi dự án có thể xem nh một hên thống, tức là một tổng thể đặc tính hoá
một cách tơng đối, phân biệt khỏi bối cảnh và môi trờng trong khi vẫn tiến hành các trao
đổi với môi trờng (Định nghĩa theo Walliser B,Systèmes et modèles- Le Sueil,
Paris,1997). Dự án đợc xây dựng và phát triển trong một quá trình gồm nhiều giai đoạn
riêng biệt, song gắn bó chặt chẽ với nhau và đi theo một tiến trình logic đợc gọi là chu
trình dự án. Dĩ nhiên là có nhiều cách chia chu trình dự án. ở đây ta sẽ chia thành 5 giai
đoạn nh sau [15]:
-

Xác định dự án.

-


Phân tích và lập dự án.

-

Thông qua dự án.

-

Triển khai thực hiện

-

Nghiệm thu, tổng kết và giải thể.

Trong giai đoạn thứ t , cần kiểm tra, giám sát, giải quyết các khó khăn phát sinh
(chẳng hạn, về tài chính, về kỹ thuật, về các hạn chế trong quản lý ...) cũng nh các hậu quả
theo sau những biến động xã hội ( về chính trị, các chính sách kinh tế - xã hội mới của nhà
nớc, mức u tiên và ủng hộ của chính phủ với dự án thay đổi,...).
Giai đoạn cuối cùng: việc đánh giá, nghiệm thu nhằm làm rõ những thành công và thất
bại trong toàn bộ quá trình xác định, phân tích và lập dự án, cũng nh trong khi thực hiện
để rút ra những kinh nghiệm và bài học cho quản lý các dự án khác sau này.
Kết thúc và giải thể dự án nh thế nào cũng là điều cần nghĩ đến, tốt hơn cả là ngay từ
khi lập dự án. ít nhất có hai việc quan trọng cần làm là bàn giao (hay phân chia), sử dụng
các kết quả của dự án, cũng nh các phơng tiện mà dự án còn để lại và bố trí lại các công
việc cho các thành viên tham gia dự án, nhất là những ngời từ nơi khác đợc biệt phái đến
làm cho dự án.
Chu trình dự án trên đợc mô tả trong Hình I.2
Trong quá trình xây dựng dự án, ta thờng phải lựa chọn trong số các phơng án chấp
nhận đợc một phơng án tối u theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau. Đây là một vấn đề khó.

Sau đây ta giới thiệu một phơng pháp tơng đối đơn giản trợ giúp cho quá trình lựa chọn
này.
Phân tích đa tiêu chuẩn

26


×