Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

hệ tư tưởng quá trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.44 KB, 45 trang )

MỤC LỤC
I>PHẦN MỜ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

2.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

3.

Phương pháp nghiên cứu

4.

Cơ sở lí luận

5.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

6.

Ý nghĩa lí luận và thực tiễn

7.

Kết cấu của đề tài.

II>PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNG I: Cơ sở lí luận và Những vấn đề cơ bản về vấn đề quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1.Cơ sở lí luận
1.1.Chủ nghĩa Mác-Lênin.
1.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.3 Quan điểm của Đảng ta.
2.Những vấn đề cơ bản về vấn đề quá độ CNXH ở Việt Nam
2.1 Cơ sở thực tiễn của vấn đề cơ bản về vấn đề quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
2.2 Những điều kiện cho sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam


Điều kiện chính trị



Điều kiện kinh tế

2.3 Nội dung sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam




Thực chất, loại hình và đặc điểm của thời kì quá độ



Nhiệm vụ của thời kì quá độ




Nội dung xây dựng của thời kì quá độ
2.4. Mục tiêu sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam

CHƯƠNG II
Thực trạng vấn đề cơ bản về vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
1.

Đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hôi

2.

Nhiệm vụ của đảng ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã

hội
3. Thành tựu thời kỳ đổi mới ở Việt Nam

CHƯƠNG III
Thực trạng vấn đề cơ bản về vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
1.

Đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hôi

2.


Nhiệm vụ của đảng ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã

hội
3. Thành tựu thời kỳ đổi mới ở Việt Nam


NỘI DUNG
1.Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là quá trình
diễn ra qua nhiều giai đoạn, vấn đề này là một vấn đề hết sức quan trọng đối
với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, vì vậy nó được sự quan tâm
rất lớn của đảng và nhà nước, được thể hiện thông qua rất nhiều nghị
quyết,văn kiện, chính sách….
Bên cạnh hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của đảng cộng sản Việt Nam, đã có rất
nhiều nhà khoa học, nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà nghiên cứu…đã nghiên
cứu đến đề tài này với cơ sở lí luận và thực tiễn sắc bén. Ngoài ra vấn đề này
còn đuọc sự quan tâm rất lớn của các phương tiện thông tin đại chúng, báo,
tạp trí,…
Trên cơ sở đó, bằng nhận thức lí luận và thực tiễn của bản thân, tôi
cần phải nghiên cứu sâu hơn nữa vấn đề này từ đó rút ra những kết luận phù
hợp với thực tiễn của vấn đề.
2.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

a)

Mục đích.
Trên cơ sở nghiên cứu cơ bản về quá trình hình thành và phát triển


của hệ thống quan điểm về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đảng ta
để chúng ta có thể thấy rõ được sự quan trọng của việc tiến lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, qua đó ta biết được những thành tựu đạt được, những hạn chế
còn lại và những thuận lợi , khó khăn trong công cuộc phát triển và xây dựng
đất nước.


b)

Nhiệm vụ

-

Nêu rõ và phân tích được vai trò của công cuộc xây dựng chủ

nghĩa xã hôi đối với sự phát triển đất nước.
Phân tích quá trình hình thành, phát triển, nội dung cơ bản của
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua hệ thống quan điểm Maxit, tư
tưởng HCM và quan điểm của đảng ta.
Nêu ra những thuận lợi, khó khăn, thành tựu và hạn chế của quá
trình và qua đó đề ra những mục tiêu, định hướng và đề xuất ra những biện
pháp khắc thưch hiện thắng lợi con đường quá độ CNXH ở Việt Nam.
3.

Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của hệ thống

quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, hệ thống tư tưởng của HCM và những
nhận định đánh giá trong đường lối xây dựng và phát triển đất nước của

Đảng
Bên cạnh đó đề tài còn sử dụng những biện pháp nghiên cứu khác
như: phương pháp lịch sử, logic, phân tích …
Khi nghiên cứu đề tài này tôi đã vận dụng những phương pháp căn
bản và sử dụng hợp lý sao cho những phương pháp đó phù hợp với những
yêu cầu và mục đích của đề tài, để có thể phát huy 1 cách tối đa hiệu quả của
mỗi phương pháp. Đôi khi tôi tách biệt hay kết hợp với nhau các phương
pháp đó với nhau để làm rõ, đánh giá, chứng minh, luận giải về những vấn
đề của đề tài.
4.

Cơ sở lí luận của đề tài.
Đề tài nghiên cứu dự trên hệ thống quan điểm chủ nghĩa Mác-

Lênin, tư tưởng HCM và quan điểm, đường lối của đảng Cộng sản Việt
Nam. Ngoài ra còn phát triển dựa vào thực tiễn hiện nay mà đề tài đề cập tới.
5.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.


a.

Đối tượng nghiên cứu “Quá trình hình thành con đường đi

lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam “.
b.

Phạm vi nghiên cứu: quá trình hình thành hệ thống quan điểm


của về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong quá trình trước và sau quá
trình đổi mới.
6.

Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài.
Dựa trên kết quả nghiên cứu của đề tài ta có thể nhận định và đánh

giá một cách chính xác và những chính sách đương lối của đảng ta về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, qua đó tìm ra những mặt hạn chế và bất cập
trong hệ thống quan điểm, đường lối của đảng để có thể khắc phục kịp thời.
7.

Kết cấu của đề tài.

Ngoài phần mở đầu và kết luận thì đề tài gồm 3 chương chính.


Chương 1: Cơ sở lí luận và những vấn đề cơ bản của quá trình

quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.


Chương 2: Thực trạng vấn đề cơ bản về vấn đề quá độ lên chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam.


Chương 3: Giải pháp thực hiện thắng lợi con đường quá độ

CNXH ở Việt Nam



PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

Cơ sở lí luận
I.Cơ sở lí luận



Một số khái niệm
Quá độ là khái niệm triết học dùng để chỉ sự chuyển biến,

chuyển đổi về chất từ sự vật hiện tượng này sang sự vật hiện tượng khác phù
hợp với quy luật phát triển của lịch sử.


Quá độ lên CNXH là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ sự chuyển

biến có tính chất cách mạng, từ các yếu tố các tiền đề còn mang tính chất tư
bản chủ nghĩa từng bước trở thành các yếu tố, các tiền đề xã hội chủ nghĩa
trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội được hình thành từ khi giai cấp
công nhân dành được chính quyền cho đến khi xây dựng xong cơ sở vật chất
kĩ thuật và những quan hệ xã hội căn bản của chủ nghĩa xã hội.
1.1. Trong quan điểm cách mạng của Mác, tiến hành cách mạng
vô sản là con đường dẫn đến thắng lợi của giai cấp công nhân, đưa họ lên



nắm quyền và thiết lập nền chuyên chính vô sản, đánh dấu sự mở đầu 1 giai
đoạn lịch sử mới đó là giai đoạn đi vào xây dựng một xã hội mới, giai đoạn
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Cũng theo quan điểm của Mác, chủ nghĩa cộng sản không thể
tạo dựng xã hội trong một lúc mà nó là kết quả của những cải tạo cách mạng
xã hội sâu sắc trong 1 thời gian khá dài qua nhiều giai đoạn. Bản thân xã hội
cộng sản sẽ phải phát triển qua 2 gia đoạn: Giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã
hội và giai đoạn cao gọi là chủ nghĩa cộng sản. Mác đã phân biệt được sự
khác nhau giữa cải tạo của thời kì quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên chủ
nghĩa xã hội với những cải tạo của thời kì sau.
Tóm lại ta có thể rứt ra những kết luận mang tính thực tiễn nhất
định của Mác như sau
-

Sự cần thiết phải có thời kì quá độ để chuyển từ xẫ hội cũ- xã

hội tư bản sang xã hội mới- xã hội chủ nghĩa, bởi vì các quan hệ xã hội chủ
nghĩa không hình thành được trong lòng xã hội tư bản
-

Nhà nước trong thời kì quá độ là sự chuyên chính cách mạng

của giai cấp vô sản trong suốt thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa cộng sản.
-

Chúng ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng phải tiếp thu,

kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới thời kì của chủ
nghĩa tư bản, đặc biệt là khoa học kĩ thuật và công nghệ để phát triển lực

lượng sản xuất và nền kinh tế hiện đại.
-

Thời kì quá độ mang tính chất cách mạng của sự chuyển biến

sâu sắc vừa mang tính quá độ.
Mác đã nhấn mạnh đến sự chuyển biến từ xã hội cũ sang xã hội
mới trong thời kì quá độ. Vì vậy, mọi hình thức đấu tranh giai cấp, mọi biện
pháp, thủ đoạn hoạt động của giai cấp vô sản trong thời lì này nhằm tạo


dựng sự chuyển biến về chất của xã hội. Đồng thời chính Mác đã nhấn mạnh
đến tính chấ quá độ của thời kì này, trong đó cái gọi của xã hội cộng sản
chưa phát triển trên cơ sở riêng của mình.
Quản điểm của Lê-Nin
Kế thừa những tư tưởng của Mác- Anghen về thời kì quá độ LênNin đã tiếp tục sáng tạo và phát triển những tư tưởng đó trong thời kì mới.
Ông là người đầu tiên kế tục sự nghiệp của Mác-Anghen trong điều kiện lich
sử mới, khi cuộc đấu tranh nhằm lật đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ
nghĩa xã hội đã trở thành sự nghiệp thực tiễn, Lê-Nin được cụ thể hóa và
làm phong phú thêm quan điểm macxit về thời kỳ quá độ.
Quan điểm của Lê- Nin thể hiện qua 2 nội dung sau


Lê-Nin cho rằng: sau khi cách mạng nổ ra và thắng lợi ở nước

Nga(1917) sau đó là chiến thắng sự bao vây của 14 nước để quốc và các thế
lực phản động trong nước (1919-1922) ông đưa nước Nga vào thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội . Ông đã viết nhiều tác phảm về thời kì quá độ ở
nước Nga, trong đó ông viết” thời kỳ quá độ ở nước Nga là thời kỳ quá độ
trực tiếp và phải trải qua 2 giai đoạn rất lâu dài.



Lê-Nin cho rằng các nước kém phát triển, nền kinh tế lạc

hậu….cũng có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội không cần phải trải qua giai
đoạn tư bản chủ nghĩa với điều kiện là những nước đó phải do đảng cộng sản
lãnh đạo và có 1 nước XHCN tiên tiến giúp đỡ. Thời kỳ đó gọi là thời kỳ
quá độ gián tiếp và rất lâu dài. Lê-Nin gọi đó là thòi kỳ quá độ đặc biệt của
đặc biêt.

1.2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về quá độ lên CNXH. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về CNXH có nguồn gốc sâu xa từ chủ nghĩa yêu nước, truyền


thống nhân ái và tinh thần cộng đồng làng xã Việt Nam, được hình thành từ
lâu đời trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Hồ Chí Minh đã từng biết đến tư tưởng CNXH sơ khai ở phương
Đông, qua “thuyết đại đồng của” Nho giáo, chế độ công điền ở phương
Đông là cơ sở kinh tế tạo nên sự cố kết cộng đồng bền chặt của người Việt
Nam.
Khi lên đường ra nước ngoài tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh
đã tìm thấy trong học thuyết Mác về lý tưởng một xã hội nhân đạo, về con
đường thực hiện ước mơ giải phóng các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ.
Đến năm 1923, Hồ Chí Minh đến Liên-xô, lần đầu tiên biết đến “chính sách
kinh tế mới” của Lênin, được nhìn thấy thành tựu của nhân dân xô-viết trên
con đường xây dựng xã hội mới . Trên cơ sở đó


HCM tiếp cận CNXH theo quan điểm Mác - Lênin từ lập


trường của một người yêu nước đi tìm con đường giải phóng dân tộc để xây
dựng một xã hội mới tốt đẹp.


HCM tiếp thu lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học của lý luận

Mác - Lênin trước hết là từ khát vọng giải phóng dân tộc Việt Nam.


HCM tiếp cận CNXH ở một phương diện nữa là đạo đức,

hướng tới giá trị nhân đạo, nhân văn mácxít, giải quyết tốt quan hệ giữa cá
nhân với xã hội.


Bao trùm lên tất cả là HCM tiếp cận CNXH từ văn hóa.
HCM có quan niệm tổng quát khi coi chủ nghĩa cộng sản, CNXH

như là một chế độ xã hội bao gồm các mặt rất phong phú, hoàn chỉnh, trong
đó con người được phát triển toàn diện, tự do. Trong một xã hội như thế,
mọi thiết chế, cơ cấu xã hội điều nhằm tới mục tiêu giải phóng con người.
HCM diễn đạt quan điểm của mình về CNXH ở Việt Nam trên một số
mặt nào đó của nó, như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…


- “CNXH là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng,… làm của chung. Ai làm
nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên là
trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con”.
- Khi nhấn mạnh mặt kinh tế, HCM nêu chế độ sở hữu công cộng của
CNXH và phân phối theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin là làm theo

năng lực, hưởng theo lao động, có phúc lợi xã hội.
- Về mặt chính trị, Hồ Chi Minh nêu chế độ dân chủ, mọi người được
phát triển toàn diện với tinh thần làm chủ.
- Nhấn mạnh mục tiêu vì lợi ích Tổ quốc, của nhân dân, là “làm sao
cho dân giàu nước mạnh”, là “làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung
sướng”, “là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân”, là
làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, được sung sướng, tự do, là “nước ta
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn
áo mặc, ai cũng được học hành” như “ham muốn tột bậc” (trả lời các nhà
báo, tháng 1–1946).
HCM nêu CNXH ở Việt Nam trong ý thức, động lực của toàn dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng một xã hội như
thế là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi, động lực của toàn dân tộc.  sức
mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, và người đã nêu ra những
đặc chưng tổng quát về CNXH ở Việt Nam như sau.
Đặc trưng tổng quát của CNXH ở Việt Nam:
- Đó là một chế độ chính trị do nhân dân làm chủ.
- CNXH là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền
với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật.
- CNXH là chế độ không còn người bóc lột người.
- CNXH một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức.


Các đặc trưng nêu trên là hình thức thể hiện một hệ thống giá trị vừa
kế thừa các di sản của quá khứ, vừa được sáng tạo mới trong quá trình xây
dựng CNXH. CNXH là hiện thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa lịch sử
nhân loại.

1.3. Quan điểm của Đảng ta.
Sau năm 1975 cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành

tựu đạt được chúng ta đã mắc phải một số sai lầm trong nhận thức và chỉ đạo
ví như: chúng ta đề ra chủ trương tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
chủ nghĩa xã hội trong khi đất nước còn thiếu những tiền đề cần thiết, thực
hiện tập thể hóa nông nghiệp một cách gượng ép, không tự nguyện đối với
nông dân,…kết quả là đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội
nghiêm trọng. Trong hoàn cảnh đó yêu cầu đặt ra là phải có nhận thức đúng
đắn về thời kỳ quá độ bỏ qua chế độ. Vì thế đại hội IX của Đảng đã nhận
định về thời kì quá độ ở Việt Nam như sau:


Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí

thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa


Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí

thống trị của kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa.


Bỏ qua chế độ chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng phải tiếp thu, kế

thừa thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là
về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng
nền kinh tế hiện đại.
Lần đầu tiên( đại hôi VI) đảng ta đã đề cập một cách có hệ thống
dưới hình thức luận đề, xác định 6 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.


Sáu đặc trưng đó chính là những dấu hiệu ( đặc điểm, tiêu chí ) nhận

biết bản chất – mục tiêu – động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam do
Đảng nêu ra, xuất phát từ thực tiễn đổi mới.
Nhận thức được 6 đặc trưng này trươc hết nhận thức được những
thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội. Bản chất ấy cũng đồng thời nói lên
tính hướng đích, tức là những mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội vươn tới. Xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như toàn bộ
tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là từng bước đạt đến cái bản
chất và mục tiêu ấy của chủ nghĩa xã hội. Động lực và các nhân tố động lực
thúc đẩy sự hình thành và phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta cũng thể
hiện thông qua 6 đặc trưng ấy hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp.
Sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
là một xã hội :
a.

Do nhân lao động làm chủ.

b.

Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất

hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
c.

Có một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

d.

Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm

theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,

có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
e.

Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau

cùng tiến bộ.
f.
giới.

Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế


Đại hội VII, IX, X tiếp tục bổ sung quan niệm về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tính đúng đắn từ 6 đặc trưng
xã hội chủ nghĩa được hiểu trên các mặt như :
1.

đã xác định chủ thể xã hội chủ nghĩa là nhân dân lao động, hơn

nữa, chủ thể đó không chỉ có vị thế của người chủ xã hội mà còn là năng lực
để làm chủ xã hội.
Chủ thể ấy không phải là cá nhân, của số ít, của một nhóm thiểu số
mà là đông đảo quần chúng nhân. Nội dung những đặc trưng cho thấy bản
chất của chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của Đảng ta là thống nhất, trùng
hợp với quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là độc lập cho Tổ quốc, tự
do cho dân tộc va hạnh phúc cho đồng bào.
2.

bản chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội là một nền kinh tế phát


triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất chủ yếu
Ở đặc trưng này, tư duy lý luận của Đảng trong đổi mới đã hướng
theo yêu cầu chính xác hóa, khoa học hóa, thể hiện thái độ tôn trọng quy luật
khách quan trong phát triển mà quy luật lớn nhất, phổ biến nhất là quy luật
là sự phù hợp về quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất.
Chú trọng tới tiêu chí “ nền kinh tế phát triển cao “ đã trở thành định
hướng để dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, đi vào kinh tế
hàng hóa, phát triển sản xuất hàng hóa, áp dụng cơ chế thị trường, chấp nhận
cạnh tranh, phân hóa, vượt trội để tạo động lực phát triển.
3.

bản chất – mục tiêu – động lực của chủ nghĩa xã hội thể hiện

qua 6 đặc trưng xã hội chủ nghĩa mà Đảng đã nêu lên trong cương lĩnh là


chỉnh thể kinh tế – chính trị – văn hóa – xã hội nhằm vào mục đích phục vụ
cuộc sống nhân lao động.
Tư tưởng về xây dựng nên văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
được ghi trong Cương lĩnh từ Đại hội VI được cụ thể hóa và phát triển trong
nghị quyết Trương ương 5 khóa VIII, được tổng kết và đánh giá trong Hội
nghị Trung ương 10 khóa IX. Thực chất sâu xa của xây dựng văn hóa là xây
dựng con người, đạo đức, lối sống. Văn hóa đổi mới và đổi mới là một sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.
4.

Đảng ta đặc biệt chú trọng tới sự phát triển của dân tộc, phát


huy động lực quan trọng và mạnh mẽ nhất là đoàn kết dân tộc, có chính sách
dân tộc bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau trong phát triển ở
quốc gia đa dân tộc như ở Việt Nam. Một trong những nét nổi bật trong tư
duy là, Đảng khẳng định đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác.
Việt Nam mong muốn làm bạn của tất cả các nước, sẵn sàng hợp tác song
phương và đa phương.
Từ Đại hội VI đến Đại hội IX Đảng ta xác định và không ngừng bổ
sung, hoàn thiện với các tiêu chí : dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Đây là mục tiêu của đổi mới cũng là bản chất – mục tiêu
– động lực của chủ nghĩa xã hội.
Tại đại hội XI diễn ra từ ngày 12-19/1/2011 đảng ta đã xác định, bổ
xung và hoàn thiện hơn về các vấn đề chung, chính trị, kinh tế, văn hóa,con
người, dân tộc, nhà nước và vấn đề về kinh tế đối ngoại như sau:


Xã hội XHCN mà ta xây dựng là xã hội dân giàu,nước mạnh,

dân chủ công bằng, văn minh


Do nhân dân làm chủ



Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện

đại với quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp





Có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc



Con người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điề kiện

phát triển toàn diện


Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn

trọng, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển


Có nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vi dân



Có quan hệ hòa bình hữu nghị hợp tác với các nước trên thế

giới.
* Tóm lại :
Từ ngày thành lập Đảng cho đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam luôn
lấy chủ nghĩa Mac-Lenin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động của mình. Đảng nắm vững chủ nghĩa Mac-Lenin và luôn có ý thức vận
dụng một cách độc lập và sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của CMVN, có ý
thức kế thừa di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, sản phẩm trí tuệ vào việc kết hợp
nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mac-Lenin với thực tiễn đất nước và tinh hoa
truyền thống dân tộc, chú trọng kết hợp hài hòa lợi ích cách mạng nước ta

với lợi ích cách mạng thế giới, học tập có phê phán kinh nghiệm của phong
trào cộng sản quốc tế. Nhờ đó mà Đảng ta đề ra được nhiều đường lối chủ
trương và chính sách sát hợp, cho phép giải quyết đúng đắn các vấn đề do
thực tiễn cách mạng nước ta đề ra.
Bên cạnh những đúng đắn, Đảng ta không tránh khỏi những lúc phạm
sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo và chỉ đạo. Đi vào cuộc cách mạng
XHCN phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng và kéo dài, nhất là trong lĩnh vực
lãnh đạo và chỉ đạo kinh tế, mà nguyên nhân là do chủ quan duy ý chí, vi
phạm quy luật khách quan, vừa nôn nóng, lại vừa bảo thủ trì trệ.
Ý thức được tính chất khó khăn phức tạp của qúa trình đi lên CNXH
ở nước ta, rút ra bài học kinh nghiệm lịch sử thất bại của Đảng cộng sản các


nước Đông Âu và Liên Xô, cũng như tự kiểm điểm những sai lầm của chính
bản thân mình. Đảng ta luôn luôn tự nhận thấy rằng sự cần thiết của CMVN
là phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động phù hợp quy luật khách
quan. Nhận thức quy luật khách quan là điều kiện bảo đảm cho sự lãnh đạo
của Đảng được đúng, mà thước đo là mọi chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước phải có tác động tích cực đối với sự phát triển sản xuất, đời
sống xã hội và của con người.
Sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân ta còn nhiều khó khăn, trở
ngại, nhưng với bản lĩnh cách mạng vững vàng, với kinh nghiệm đã tích lũy
phong phú trong qúa trình cách mạng, được nhân dân ủng hộ, bạn bè quốc tế
giúp đỡ, nhất định Đảng ta và nhân dân ta sẽ xây dựng thành công CNXH vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh

2. Những vấn đề cơ bản về vấn đề quá độ CNXH ở Việt
Nam
2.1.Cơ sở thực tiễn về vấn đề quá độ CNXH ở Việt Nam
2.1.1. Xét trên phương diện lịch sử

Sự phát triển tuần tự theo từng nấc thang một là tính trên phạm vi
toàn thế giới, nhưng đối với từng quốc gia không nhất thiết phải như vậy.
Trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội cũng đã có những quốc gia quá
độ bỏ qua một hay một vài hình thái kinh tế xã hội mà không đi tuần tự, ví
như nước Mỹ sau cuộc nội chiến Nam-Bắc (1861-1865), nước Mỹ đã bỏ qua
giai đoạn phát triển chế độ phong kiến mà tiến thẳng lên chủ nghĩa tư bản. Ở
Việt Nam không tồn tại chế độ chiếm hữu nô lệ với tư cách là một chế độ
đặc trưng, mà Việt Nam chỉ tồn tại chế độ nô tỳ. Như vậy, sự phát triển bỏ
qua một giai đoạn đã có tiền lệ trong lịch sử.


Thế giới sau cách mạng tháng Mười cũng đã có nhiều nước đi theo
chế độ TBCN, nhưng những nước thành công không phải là nhiều ở những
nước đó vẫn nghèo nàn và lạc hậu, bất bình đẳng. Điều đó chứng minh rằng
chủ nghĩa tư bản không phải là một chế độ có thể giải phóng triệt để con
người khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công mang lại cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc cho nhân dân.
2.1.2.Xét trên góc độ thời đại
Với thắng lợi của cách mạng tháng Mười (1917), cuộc cách mạng do
công nông liên minh thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêcvích, cuộc
cách mạng thắng lợi có ý nghĩa lịch sử to lớn, lần đầu tiên trong lịch sử
trong một đất nước rộng lớn chiếm 1/6 diện tích thế giới quần chúng công
nông đã giành được chính quyền và bắt tay vào xây dựng một chế độ mớichế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, dưới chế độ đó con người được giải phóng
hoàn toàn khỏi mọi áp bức bất công, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc thực sự
chứ không phải là cái khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bắc ái” mà bọn tư sản rêu
rao. Như vậy, là với thắng lợi của cách mạng tháng Mười thì nhân loại đã có
thêm một con đường mới để lựa chọn đó là con đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Chế độ tư bản chủ nghĩa không còn là con đường lựa chọn duy nhất của
các nước sau khi giành được độc lập dân tộc. Và chế độ nào ưu việt hơn chế
độ nào thì thực tế lịch sử đã chứng minh điều đó.

Sau chiến tranh thế giới thứ hai thì một loạt các nước giành được độc
lập dân tộc đã đi lên chủ nghĩa xã hội hay định hướng phát triển theo chế độ
XHCN. Đây là một sự khích lệ rất lớn các nước đang đấu tranh để giành độc
lập dân tộc.
Do quá trình quốc tế hóa nền kinh tế, do sự phát triển của nền khoa
học-kỹ thuật, hợp tác quốc tế,…tạo nên sự hợp tác giữa các quốc gia, sự hợp


tác tùy thuộc vào nhau và tạo lên sự hợp tác giúp đỡ giữa các nước đi trước
với các nước đi sau.
2.1.3. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là phù hợp
với điều kiện lịch sử của đất nước ta, là sự lựa chọn tất yếu của chính
lịch sử về con đường giải phóng dân tộc và phát triển đất nước của
những phong trào yêu nước Việt Nam.
Trong hoản cảnh đất nước bị quân xâm lược dầy xéo, nước mất nhà
tan, nhân dân khổ cực lầm than. Bác Hồ của chúng ta đã ra đi tìm đường cứu
nước, Người đã đi qua nhiều nước đế quốc, thuộc địa cũng như nửa thuộc
địa. Quá trình trình khảo sát cách mạng đầy gian khổ đó người đã rút ra nhận
định rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác ngoài con đường cách mạng vô sản”, bởi vì “chỉ có chủ nghĩa cộng sản
mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người có cuộc sống tự do, bình đẳng,
bắc ái thực sự”.
Nhân dân Việt Nam đã từng sống dưới chế độ phong kiến, chế độ
thực dân Pháp đã hiểu được bản chất của chế độ phong kiến, của chế độ tư
bản chủ nghĩa, do vậy, đã chấp nhận hy sinh, mất mát để giành cho được độc
lập dân tộc và tiếp đó tiến hành cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp rồi
chống Mỹ để bảo bảo vệ chính quyền nhân dân. Ngày nay, chúng ta phải giữ
cho được chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Muốn
thực hiện được điều đó chỉ có con đường duy nhất là đi lên CNXH.
Thực tiễn cách mạng các nước XHCN trước đây đã tạo ra sự phát

triển về kinh tế, chăm lo tới nhu cầu kinh tế, giáo dục, nâng cao mức sống
cho nhân dân lao động và thực tiễn phũ phàng do sự đổ vỡ của chế độ
XHCN ở Liên Xô đã đưa lại một hậu quả nặng nề cho nhân dân lao động
như: chiến tranh, nghèo đói, thất nghiệp, mất an ninh,…càng củng cố quyết
tâm đi lên CNXH của Việt Nam, chúng ta cần hiểu thực chất của quá độ “bỏ


qua” chế độ TBCN, không phải là sự nhảy cóc, đốt cháy giai đoạn, phủ nhận
sạch trơn những yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế TBCN mà bỏ
qua hậu quả mà chế độ này tạo ra.
Trong thưc tiễn cách mạng Việt Nam, không thể tiến thẳng từ xã hội
vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất còn thấp kém lên
CNXH mà bỏ qua những khâu trung gian, những hình thức quá độ cần thiết
để phát triển các yếu tố hợp thành xã hội tương ứng với trình độ mà giai
đoạn TBCN của sự phát triển đã đạt được. Do đó, bước quá độ lên CNXH ở
nước ta hiện nay cũng phải diễn ra theo cái logic tất yếu đó, phải thực hiện
được những chuyển biến cơ bản. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải sử dụng và
phát triển mọi phương diện của đời sống xã hội như: sự phát triển nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó có kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư
bản nhà nước, sự áp dụng các hình thức quản lý theo cơ chế thị trường, có sự
cạnh tranh như đấu thầu cổ phần, sử dụng một số hình thức pháp quyền tư
bản chủ nghĩa,...
2.1.4. Chúng ta kế thừa những yếu tố hợp lí tích cực của
CNTB.
- Các yếu tố tư bản được sử dụng và phát triển nhằm phục vụ cho mục
tiêu xây dựng CNXH, nằm trong quỹ đạo của CNXH.
- Chúng ta không nhất thiết và không thể áp dụng tất cả những hình
thức lịch sử, những biện pháp, trình tự, bước đi với tất cả những đặc điểm
lịch sử “đầy máu và nước mắt” của giai đoạn TBCN.
- Điều quan trọng nhất là chúng ta không để cho các yếu tố, các thuộc

tính TBCN chiếm vị trí chủ đạo, chi phối đời sống xã hội, mà phải làm cho
các yếu tố XHCN ngày càng vươn lên giữ vai trò đó.
Như vậy, thực chất vấn để “bỏ qua chế độ TBCN” để đi lên CNXH là
bỏ qua chế độ chính trị thống trị áp bức, là bỏ qua về mặt lịch sử, bằng


phương thức “rút gọn” lịch sử, với những khâu trung gian, những hình thức
quá độ, những biện pháp và bước đi thích hợp theo những định hướng cơ
bản của CNXH. Đó cũng là sự rút gắn giảm bớt những cơn đau đẻ về mặt
lịch sử bằng hai nội dung: vừa rút ngắn quá trình công nghiệp hóa và hiện
đại hóa đất nước, vừa bỏ qua chế độ TBCN, tiến lên chế độ CNXH.
2.1.5. Kiên trì con đường XHCN là sự lựa chọn duy nhất
đúng trong điều kiện mới.
Đại hội lần thứ VI (12-1986) Đại hội đổi mới của Đảng diễn ra trong
bối cảnh đất nước đang lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc. Chính tại đại hội
này, Đảng ta đã thông qua đường lối đổi mới nhằm khắc phục hậu quả của
những sai lầm trong thời gian trước và tiếp tục đưa sự nghiệp xây dựng
CNXH tiến lên. Đại hội khẳng định, đổi mới không có nghĩa là từ bỏ mục
tiêu CNXH đã được lựa chọn mà là tiếp tục tìm ra phương thức, con đường
hợp lý, có hiệu quả hơn để đi tới mục tiêu.
Phân tích tình hình thực tế, ngay từ Hội nghị TW 7 (khóa VI), Đảng ta
đã tiếp tục khẳng định tính tất yếu lịch sử của CNXH, khẳng định tính khách
quan và phương hướng xã hội của quá trình cải tổ, cải cách và đổi mới. Đại
hội lần thứ VII của Đảng cũng đã khẳng định “nhân dân quyết không chấp
nhận con đường nào khác ngoài con đường XHCN”. Quả vậy, tiếp tục phấn
đấu vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn cần thiết và đúng đắn. Điều
đó thể hiện ở những lý do sau:
- Cuộc khủng hoảng ở các nước XHCN là cuộc khủng hoảng mô hình
phát triển. Chúng ta biết rằng, khi nghiên cứu về sự phát triển của CNTB,
Mác đã có những dự đoán về xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa

trên những nét đặc trưng nhất. Trong mô hình xác định đặc trưng CNXH là
sở hữu công cộng dưới hai hình thức quốc doanh và tập thể, việc quản lý
kinh tế bằng một kế hoạch nhà nước, một hệ thống các chỉ tiêu pháp lệnh,


một cơ chế quan liêu bao cấp trong tổ chức sản xuất cũng như phân phối.
Những yêu cầu này rất phù hợp với yêu cầu thời chiến trong việc huy động
sức người, sức của, trong việc tổ chức quản lý lao động thời chiến.
- Sự khủng hoảng của mô hình cũ nói lên rằng cần phải có một mô
hình CNXH có thể phát huy mọi nguồn lực của xã hội cho sự phát triển vì
lợi ích của toàn thể cộng đồng nhằm hiện thực hóa mục tiêu. Ở Việt Nam,
ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã có sự phát triển mới trong định hình CNXH
ở Việt Nam, sự phát triển này được thể hiện trong cương lĩnh được đại hội
VII thông qua.
Trên cơ sở nhận thức mới về CNXH, Đảng và nhân dân ta đã đẩy
mạnh công cuộc đổi mới đưa Việt Nam thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng, tiếp
bước đi lên theo định hướng, mục tiêu đã xác định, đó là chủ nghĩa xã hội.
Như vậy là việc tiếp tục lựa chọn CNXH không có nghĩa là tiếp tục con
đường cũ, mô hình cũ đã bị sụp đổ, mà là sự đổi mới, tìm phương cách mới
để đi đến mục tiêu. Cụ thể là chúng ta đã chuyển sang mô hình kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
- Những hậu quả kinh tế-xã hội của Liên Xô và Đông Âu cho thấy
tính cần thiết và đúng đắn của việc kiên trì con đường XHCN. Liên xô thực
hiện công cuộc cải tổ nhưng do nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên
nhân là không nhất quán, kiên trì mục tiêu lý tưởng XHCN đã lựa chọn. Quá
trình cải cách đã đi chệch hướng, Đảng cộng sản đã mất quyền lãnh đạo cách
mạng, các lực lượng cơ hội ngóc đầu dậy giành quyền lực, đưa cuộc cải tổ
theo xu hướng tư bản chủ nghĩa.
- Việc một loạt các nước xã hội chủ nghĩa cũ rời bỏ con đường XHCN
chuyển sang quỹ đạo TBCN không có nghĩa rằng thời đại ngày nay CNXH

không còn là xu hướng phát triển của các dân tộc. Trên thực tế, do nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài, CNXH ở một


loạt nước sụp đổ “khiến CNXH tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó
không làm thay đổi tính chất của thời đại; loài ngươi vẫn trong thời đại quá
độ từ CNTB lên CNXH”.
- Chúng ta biết rằng, lịch sử của xã hội loài người là lịch sử vươn tới
tự do. CNXH chính là xã hội vươn tới đảm bảo cho con người sự phát triển
toàn diện, làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân, dựa trên
chế độ tư hữu trong thực tế không thể có được. Với việc khát khao tự do thì
việc vận động đi lên, vượt qua CNTB là sự đương nhiên.
- Từ khi ra đời CNXH trong thực tiễn với tư cách là sự phủ nhận
CNTB, luôn bị giai cấp tư sản tìm cách chống phá, sự sụp đổ của một số
nước XHCN ngoài nguyên nhân bên trong, còn xuất phát từ sự chống đối, sự
thù địch. Song, sự sụp đổ này không nói lên rằng, CNTB là tiên tiến ưu việt
hơn CNXH. Đó chỉ là bước rích rắc trong con đường vận động, đi lên
CNXH, một xu hướng tất yếu của xã hội loài người.
- Cùng với những điểm trên thì xu hướng hòa hoãn quốc tế đã và đang
tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế. Nhìn chung, các quốc gia
hiện nay đều tập trung vào phát triển kinh tế, coi đó là mục tiêu chiến lược.
Điều này càng thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hợp tác, liên kết giữa các quốc
gia, vùng lãnh thổ. Và qua đó các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát
triển có thể hòa nhập nhanh vào tiến trình phát triển chung.
- Một trong những đặc điểm của tiến trình lịch sử Việt Nam là: Đảng
Cộng sản-Người đại biểu lợi ích cho giai cấp vô sản và dân tộc là người duy
nhất có khả năng và thực tiễn đã lãnh đạo phong trào cách mạng. Ngay từ
những năm đầu thế kỷ XX, lịch sử đã đặt lên vai những người cộng sản
nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ. Trải qua quá trình đầy gian
khổ, hy sinh Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành được nhiều thắng lợi, đưa

nhân dân Việt Nam từ thân phận người nô lệ lên làm chủ nước nhà. Ngay từ


khi thành lập, Đảng đã xác định làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa
cách mạng để tiến lên xã hội cộng sản. Trải qua hơn 80 năm qua khuynh
hướng chính trị đó đã ăn sâu bám rễ trong xã hội Việt Nam, nó trở thành sức
mạnh vật chất thúc đảy xã hội tiến lên. Chính vì vậy, việc tiếp tục lựa chọn
con đường XHCN là sự phù hợp với mục tiêu của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta.

2. Những điều kiện cần thiết cho quá trình quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa
Khả năng con đường phát triển bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta, cần
được xem xét trên các lĩnh vực sau:
1. Phương diện chính trị
Với những thành quả của cuộc cách mạng tháng Tám 1945, thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân ta đã
nêu lên một nguyên lý mới của thời đại. Đó là: CNTB có thể đánh bại tại
vùng ngoại vi, trước khi nó bị đánh bại tại chính quê hương nó. Sau những
cuộc chiến tranh chống xâm lược, nhân dân Việt Nam hơn ai hết, hiểu rõ
thực chất của CNTB, nên không thể không tìm kiếm con đường phát triển
đất nước bỏ qua chế độ đó. Bao nhiêu thành quả cách mạng giành được bằng
xương máu của nhiều thế hệ người Việt Nam không thể lại đi theo con
đương CNTB để rồi tự mình quay trở lại thân phận bị áp bức, bóc lột, nô lệ.
Yếu tố chính trị có vai trò quyết định trong việc thu hút và chuyển hóa
nhân tố thời đại thành nguồn lực bên trong để xây dựng CNXH ngay cả
trong điều kiện không có chế độ XHCN ở Liên xô (cũ) và Đông Âu. Nói
cách khác, trong điều kiện cụ thể ở nước ta hiện nay cái tất yếu chính trị giữ
vị trí hàng đầu, nhưng xét đến cùng, trên quy mô thời đại thì nhân tố chính



trị này cũng bắt nguồn từ nguyên nhân kinh tế. Cái tất yếu chính trị ấy sẽ
thúc đảy sự ra đời những cơ sở kinh tế của chế độ mới ở nước ta.
Bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất TBCN. Điều đó có nghĩa là, quan hệ sản xuất TBCN, quan hệ
bóc lột vấn còn, nhưng nó không phải là tuyệt nhiên, không phải là quan hệ
sản xuất thống trị. Điều này hoàn toàn đúng, cả về mặt lý luận cả về mặt
thực tiễn. Rằng với nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có cả thành phần
kinh tế tư bản tư nhân và tư bản nhà nước thì đương nhiên, quan hệ sản xuất
TBCN, quan hệ bóc lột TBCN vẫn còn. Song, do thành phần kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế hợp tác xã là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, nên
quan hệ sản xuất TBCN không thể trở thành quan hệ sản xuất thống trị được,
mà trái lại, quan hệ sản xuất này càng được củng cố và ngày càng xác lập vị
trí thống trị của mình.
Trong hệ thống chính trị hiện nay ở đất nước ta nhân tố có vị trí hàng
đầu là Đảng. Đảng hoàn thành vai trò của mình thông qua xác định mục tiêu
tiêu chính trị, định hướng sự phát triển đất nước bằng cương lĩnh, bằng
đường lối chiến lược, bằng những nguyên tắc, chủ trương, đường lối đối
ngoại.
Bên cạnh vai trò của Đảng trong tiến trình phát triển đi lên CNXH,
Nhà nước có vai trò quan trọng. Để rút ngắn con đường đi lên CNXH, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa Nhà nước phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, một nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân hoạt
động trong khuân khổ pháp luật nhằm đem lại quyền lợi cho nhân dân.
Con đường đi lên CNXH của nước ta hiện nay đang diễn ta trong thời
kỳ đầy biến động, thời cơ lớn để phát triển đi liền với thách thức khó khăn.
Đó là trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra nhanh chóng, sự hợp tác giao
lưu kinh tế giữa các nước trong khu vực và trên thế giới đang diễn ra mạnh



mẽ. Vì vậy, tính tất yếu của con đường quá độn lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN không có nghĩa là bỏ qua những thành tựu tiến bộ mà chủ nghĩa tư
bản đã đạt được.
2. Phương diện kinh tế
Theo V.I.Lê nin, không ai chờ đợi lịch sử cho ra đời một chủ nghĩa xã
hội “hoàn bị”, một cách trơn tru, lặng lẽ, dễ dàng, đơn giản. Chúng ta đã và
đang kiên trì từng bước xây dựng cơ sở vật chất làm tiền đề cho bước quá độ
lên CNXH với những nội dung sau
Thứ nhất, những cơ sở kinh tế-kỹ thuật mà chúng ta giành được
quyền làm chủ từ tay các thế lực xâm lược, cùng với những giá trị đã xây
dựng được, do sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây là những
tiền đề kinh tế-kỹ thuật cho phép nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ
TBCN.
Thứ hai, bằng cách chuyển nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước và mở rộng kinh tế đối ngoại, nền kinh tế nước ta đã
đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao hơn. Điều đó chứng tỏ khẳ năng thừa
kế những kinh nghiệm của thế giới, vận dụng thực hiện theo định hướng xã
hội chủ nghĩa và phù hợp với điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
Thứ ba, bằng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó khu
vực kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, chúng ta đã từng bước giải
phóng được sức sản xuất, phát huy các động lực, đạt hiểu quả kinh tế cao
hơn và cải thiện đời sống nhân dân.
Thứ tư, khả năng phát triển kinh tế của nước ta đang đứng trước
những điều kiện mới, cơ hội mới. Ngày nay, với ý chí độc lập, tự chủ, tự
cường được phát huy cao độ và đường lối đối ngoại đúng đắn, chúng ta đang
nhận được sự hợp tác có hiệu quả với nhiều quốc gia trên thế giới.


×