Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

skkn một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi ở trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.18 KB, 30 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tên sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giáo dục
kỹ năng sống
cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường mầm non
Môn/nhóm môn: Giáo dục mẫu giáo
Tổ bộ môn: Tổ 5 tuổi
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“MỘT SỐ BIỆN PHÁPGIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ
MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON"
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Học để cùng chung sống là một trong những vấn đề then chốt
của giáo dục thế giới .Chính vì vậy mà vào đầu thập kỉ 90, các
tổ chức Liên Hiệp Quốc như WHO (Tổ chức y tế thế giới),
UNICEF ( Quỹ cứu trợ nhi đồng Liên hiệp quốc), UNESCO ( Tổ
chức giáo dục , khoa học và văn hóa Liên hiệp quốc) đã chung
sức xây dựng chương trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em. “
Bởi lẽ những thử thách mà trẻ em và thanh niên đang phải đối
mặt là rất nhiều và đòi hỏi cao hơn là những kỹ năng đọc, viết,
tính toán tốt nhất”.
Ở Việt nam, từ năm học 2008-2009, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã
phát động phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện
- học sinh tích cực”, với yêu cầu tăng cường sự tham gia một
cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục trong
nhà trường và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý
thức sáng tạo. Trong các mục tiêu của chương trình giáo dục
mầm non (ban hành kèm theo thông tư số 17/2009/TT- BGD&ĐT


ngày 25 tháng 7 năm 2009) có mục tiêu giáo dục phát triển


tình cảm và kỹ năng xã hội. Để thực hiện mục tiêu trên, nội
dung quan trọng cần đưa vào giáo dục trẻ là dạy một số kỹ
năng sống cho trẻ mầm non.
Về phía các bậc cha mẹ trẻ: cha mẹ trẻ em luôn quan tâm đến
việc làm sao để kích thích tính tích cực học tập của trẻ. Cha mẹ
nào cũng muốn con mình được tham gia và trải nghiệm vào các
hoạt động vui chơi hay học tập tích cực để từ đó trẻ lĩnh hội
được các kinh nghiệm sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin và sẵn
sàng ứng phó với các tình huống trong cuộc sống. Đặc biệt, khi
trẻ chuẩn bị vào lớp một, các bậc phụ huynh lại luôn lo lắng liệu
rằng con mình có đủ sức khỏe và khả năng để theo học thật tốt
cùng các bạn ở trường tiểu học hay không.
Đối với giáo viên mầm non: GV thường lo lắng đối với những trẻ
có một số vấn đề về hành vi và khả năng tập trung trong những
năm tháng đầu tiên trẻ đến trường. Đơn giản là vì những trẻ
này thường không có khả năng chờ đến lượt, không biết chú ý
lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho trẻ không
thể tập trung lĩnh hội những điều cô giáo dạy. Vì vậy, giáo viên
phải tốn rất nhiều thời gian vào đầu năm học để giúp trẻ có
được những KNS cơ bản ở trường mầm non giúp trẻ ổn định nề
nếp nhóm lớp và có các thói quen tốt trong sinh hoạt hàng
ngày.
Đối với trẻ mầm non: Đây là giai đoạn trẻ học, tiếp thu, lĩnh hội
những giá trị sống để phát triển nhân cách, đồng thời trẻ rất dễ
bộc lộ cảm xúc, chưa có nhiều kỹ năng ứng phó với căng thẳng
và cảm xúc, vốn hiểu biết về thế giới xung quanh còn nhiều
hạn chế do đó nhiều trẻ còn thụ động, không biết ứng phó với


các tình huống nguy cấp, không biết tự bảo vệ mình trước nguy

hiểm hoặc tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác….Do đó, việc dạy
KNS cho trẻ là rất cần thiết bởi KNS thúc đẩy sự phát triển cá
nhân trẻ, giúp trẻ có nhận thức đúng và hành vi ứng xử phù hợp
ngay từ độ tuổi mầm non.
Với vai trò là tổ trưởng tổ 5 tuổi nhiều năm, tôi đã trăn trở rất
nhiều về việc làm sao phải giáo dục cho trẻ biết ứng xử tốt với
mọi tình huống mọi hoàn cảnh trong cuộc sống đời thường một
cách văn minh và hồn nhiên đúng với độ tuổi của trẻ. Một tập
thể trẻ có KNS tốt sẽ tạo nên môi trường sống ấm áp, hoà
thuận, vui vẻ và phát triển ở nhóm lớp. Vì vậy tôi chọn đề
tài một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo
5-6 tuôi ở trường mầm non.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đánh giá thực trạng dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo lớn ở
trường mầm non Đại Tự, trên cơ sở đó đề xuất một số biện
pháp nâng cao hiệu quả giáo dục KNS cho trẻ mầm non,“giúp
trẻ chuyển tải những gì mình biết( nhận thức), những gì mình
cảm nhận( thái độ), và những gì mình quan tâm( giá trị) thành
những khả năng thực thụ giúp trẻ biết phải làm gì và làm như
thế nào ( hành vi) trong những tình huống khác nhau của cuộc
sống hàng ngày. Từ đó phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu cơ sở lý luận về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi ở trường mầm non Đại Tự.
Nghiên cứu thực tiễn để đưa ra các biện pháp nâng cao chất
lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm
non.


4. Đối tượng nghiên cứu :

Trẻ mẫu giáo5-6 tuổi và các hoạt động giáo dục giúp trẻ có kỹ
năng sống tích cực ở trường Mầm non Đại Tự -Yên Lạc-Vĩnh
Phúc.
5. Phương pháp nghiên cứu:
5. 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận .
Phân tích tổng hợp các tài liệu có liên quan đến thực tiễn và
công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
* Phương pháp điều tra: Điều tra về mức độ trẻ đạt được các
nhóm KNS
Tìm hiểu các biện pháp dạy KNS cho trẻ đạt kết quả cao nhất.
*Phương pháp quan sát : Quan sát các biểu hiện , hành vi, các
kỹ năng của trẻ thông qua ngôn ngữ và hoạt động hàng ngày.
* Phương pháp đàm thoại: Đàm thoại với các đồng nghiệp để
trao đổi các kinh nghiệm hay trong dạy KNS cho trẻ. Đàm thoại
với phụ huynh để tìm hiểu đặc điểm của trẻ khi ở gia đình. Đàm
thoại trực tiếp với trẻ trong quá trình thực hiện các biện pháp
giáo dục.
* Phương pháp trực quan: Bao gồm phương pháp làm mẫu, làm
gương… giúp trẻ quan sát và bắt chước thực hành thường
xuyên những kỹ năng sống cần hình thành.
* Phương pháp thực hành:Bao gồm các phương pháp trò chơi,
giao việc, trải nghiệm. Những phương pháp này giúp trẻ bắt
chước/ tập thử và tích cực thực hành thường xuyên các kỹ năng
sống GV cần dạy trẻ.


* Phương pháp toán học :Xử lý những số liệu khảo sát, đã đạt
được kết quả, mức độ đạt được, để rút ra kinh nghiệm hay cho
vấn đề nghiên cứu.

5. Giới hạn nghiên cứu:
Nghiên cứu tại lớp mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường Mầm non Đại Tự
- Yên Lạc -Vĩnh Phúc.
6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu:
* Phạm vi : Nghiên cứu thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ ở mẫu giáo 5-6 tuổiở trường mầm non Đại Tự năm học
2012-2013.
* Kế hoạch :
Thời gian thực hiện bắt đầu từ tháng 6 năm 2012 đến tháng 9
năm 2013
- Tháng 6 -7 năm 2012: Nghiên cứu lý luận của đề tài
- Từ tháng 8 đến tháng 9 năm 2012: Nghiên cứu thực trạng và
giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo5-6 tuổi ở
trường mầm non Đại Tự.
- Từ tháng 9 năm 2012 đến tháng 9 năm 2013: Đưa các giải
pháp đã nghiên cứu áp dụng vào thực tiễn công tác “giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường mầm non Đại
Tự”.
PHẦN II: NỘI DUNG
1.

Cơ sở lý luận về vấn đề giáo dục kỹ năng

sống cho trẻ mầm non.
1.1. Khái niệm về kỹ năng sống:
Là khả năng thích nghi vàhành vi tích cực cho phép cá nhân có
khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc
sống hàng ngày”(Theo định nghĩa Tổ chức Y tế Thế giới)



1.2.Vai trò của giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Lứa tuổi mầm non là giai đoạn học - tiếp thu - lĩnh hội giá trị
sống để phát triển nhân cách. Kỹ năng sống là những kỹ năng
nền tảng để hình thành nhân cách trẻ. Phát triển về các mặt
thể chất, tình cảm-xã hội, ngôn ngữ, nhận thức , giúp trẻ sẵn
sàng đi học lớp một ở trường phổ thông sau này. Cụ thể là:
- Giúp trẻ được an toàn , khỏe mạnh, khéo léo bền bỉ, có khả
năng thích ứng với thay đổi của điều kiện sống.
- Giúp trẻ biết kiểm soát cảm xúc, thể hiện tình yêu thương,
đồng cảm với mọi người xung quanh.
- Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, tôn trọng
người khác, có khả năng giao tiếp tốt với mọi người.
- Giúp trẻ ham hiểu biết, sáng tạo, có những kỹ năng thích ứng
với hoạt động học tập ở lớp một như : sẵn sàng hòa nhập, vượt
qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ…
1.3.Những nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm
non
Các nhóm kỹ năng có thể dạy cho trẻ mầm non như : Kỹ năng
nhận thức về bản thân, kỹ năng quản lý cảm xúc, kỹ năng giao
tiếp và quan hệ xã hội,kỹ năng học tập, kỹ năng tương tác…Từ
đó, chương trình giáo dục mầm non đã đưa ra các nội dung đơn
giản và hết sức gần gũi với trẻ như: dạy trẻ có kỹ năng hợp tác
với mọi người, kỹ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ , kỹ năng
tự phục vụ, kỹ năng kiểm soát cảm xúc…các kỹ năng này
không tách rời nhau mà có liên quan chặt chẽ với nhau, được
thể hiện đan xen vào nhau, có thể thực hành trong bất cứ tình
huống nào xảy ra hàng ngày. Cho nên việc giáo dục và vận
dụng tốt sẽ giúp trẻ có nhân cách tốt. Khi giáo dục kỹ năng



sống còn góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, giáo
dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ... cho trẻ.
Nội dung dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non đã triển khai được
một số năm học, tuy nhiên kết quả đạt trên trẻ chưa cao và
chưa đồng đều giữa các trẻ. Nếu giáo viên thực hiện chuyên
sâu và có phương pháp giáo dục phù hợp thì kết quả trên trẻ sẽ
có bước tiến bộ nhanh chóng.
2. Thực trạng dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo5-6 tuổi
ở trường mầm non Đại Tự trong những học vừa qua.
Trường Mầm non Đại Tự là trường đạt chuẩn quốc gia, các
phòng học đều mới xây dựng nên sạch đẹp và kiên cố. Ban
giám hiệu nhà trường tích cực bồi dưỡng cho GV về chuyên
môn, xây dựng phương pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt
động giáo dục mầm non, tạo mọi điều kiện giúp tôi có đủ những
nguyên vật liệu, tài liệu để làm đồ dùng dạy học và đồ chơi cho
trẻ. Sở giáo dục, PGD&ĐT huyện thường xuyên quan tâm, đầu
tư cơ sở vật chất và các thiết bị đồ chơi phục vụ việc dạy và học
cho các lớp 5-6 tuổi.
Năm học 2012-2013 tôi được phân công chủ nhiệm nhóm lớp 56 tuổi tại khu trung tâm của trường: Là lớp 5-6 tuổi với số cháu
30, trong đó 16 cháu nữ, 14 cháu nam, tất cả đều đã qua lớp
mẫu giáo nhỡ nên đã có một số kỹ năng cơ bản. Đa số trẻ
ngoan ngoãn, mạnh dạn, hồn nhiên, đạt yêu cầu về phát triển
thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, và tình cảm
xã hội, biết cảm thụ cái hay cái đẹp trong cuộc sống xung
quanh trẻ.
Một số năm học trở lại đây, riêng nội dung giáo dục trẻ 5 tuổi
có ban hành bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi thông qua 4 lĩnh vực


- 28 chuẩn- 120 chỉ số với yêu cầu GV lồng ghép các chỉ số này

vào mục tiêu từng chủ đề sao cho phù hợp để qua đó dạy trẻ
các kiến thức và kỹ năng cần thiết, chuẩn bị về tâm thế và thể
chất cho trẻ 5 tuổi lên lớp một. Đa số GV đã lồng ghép chỉ số
vào mục tiêu phù hợp nhưng một số chỉ số chưa đạt được ở chủ
đề trước GV thường bỏ qua mà không rèn tiếp trẻ hoặc đưa tiếp
vào mục tiêu của chủ đề sau cho nên nhiều trẻ bị bỏ qua các kỹ
năng của chỉ số đó.
Trong quá trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tại trường mầm
non. Tôi gặp những khó khăn và thuận lợi như sau:
2.1. Thuận lợi
Trường, lớp có không gian hoạt động an toàn cho trẻ, có đủ đồ
dùng đồ chơi cần thiết trong các hoạt động giáo dục.
Trẻ khoẻ mạnh và rất hào hứng , sôi nổi với các hoạt động do cô
tổ chức, lĩnh hội nhanh các kiến thức cô giáo truyền đạt.
Phụ huynh luôn quan tâm đến trẻ, tích cực tham gia vào các
hoạt động của nhà trường, của nhóm lớp.
GV có trình độ chuyên môn đại học, được tập huấn về nội dung
dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non do Phòng giáo dục tổ chức
và qua các buổi bồi dưỡng chuyên môn tại trường, tích cực
nghiên cứu tài liệu về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
Tài liệu hướng dẫn sử dụng bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi có các
chỉ số, hướng dẫn cách đánh giá trẻ rõ ràng và cụ thể nên việc
dạy trẻ các kỹ năng và đánh giá kết quả trên trẻ rất thuận lợi,
chính xác, từ đó biết trẻ nào đạt được và chưa đạt được để tiếp
tục rèn trẻ vào các chủ đề tiếp theo.
2.2. Khó khăn


Trình độ nhận thức của trẻ không đồng đều, do đó cùng một
thời gian và biện pháp dạy trẻ các nội dung KNS nhưng kết quả

trên trẻ đạt chưa tương đương với nhau.
Một số trẻ nhút nhát nên không tự tin khi tham gia vào các hoạt
động ,một số trẻ lại quá hiếu động nên khi hoạt động chưa chú
ý vào sự hướng dẫn của cô, kỹ năng sống của trẻ còn nhiều hạn
chế.
Sự quan tâm của gia đình dành cho các cháu là không đồng
đều, 100% phụ huynh là nông thôn . Một số phụ huynh đi làm
ăn xa để các cháu ở nhà với các anh chị hoặc ông bà đã già,
thời gian phụ huynh quan tâm đến trẻ còn ít, không dành thời
gian trò chuyện để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của trẻ để giáo
dục trẻ mà chỉ biết chiều theo mọi đòi hỏi của trẻ, trẻ được đáp
ứng quá đầy đủ về nhu cầu trẻ cần. Ví dụ: trẻ chỉ cần đòi mua
đồ dùng nào đó là được đáp ứng ngay mà không biết điều đó có
phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của bố mẹ hay không, khi được
món đồ chơi đó trẻ cũng không biết cảm ơn bố mẹ….Đây cũng
là một trong những nguyên nhân làm cho trẻ thiếu KNS.
Mặc dù nhà trường đã hỗ trợ và đầu tư, tuy nhiên kinh phí trong
việc tổ chức một số các hoạt động ngoại khoá vào các ngày lễ,
ngày tết nhằm dạy KNS cho trẻ còn hạn chế và chưa thường
xuyên.
2.3. Kết quả khảo sát ban đầu
Trẻ có KNS không đồng đều. Một số trẻ ngoan ngoãn và nhanh
trí thì có nhiều kỹ năng cơ bản tốt, với sự hướng dẫn, động viên
của cô giáo trẻ luôn biết phát huy những kỹ năng tốt đó. Ngược
lại , một số trẻ nhận thức còn chậm lại hay nghịch ngợm nên
kết quả dạy KNS của cô trên trẻ đó đạt kết quả thấp.


Giáo viên đã tích cực thực hiện lồng ghép nội dung dạy KNS cho
trẻ vào các hoạt động trong ngày , đã đưa các chỉ số phát triển

trẻ 5 tuổi vào mục tiêu của chủ đề để rèn một số kỹ năng qua
các chỉ số đó nhưng tổ chức chưa linh hoạt, chưa sáng tạo nên
chưa kích thích tối đa sự hứng thú của trẻ và sự tham gia nhiệt
tình của phụ huynh.
Qua khảo sát từ phụ huynh cho thấy, có một số ít trẻ khi ở lớp
thì thực hiện các KNS tốt do trẻ rất nghe lời cô giáo nhưng khi
về nhà được bố mẹ và người thân chiều chuộng thì trẻ lại không
thực hiện một số KNS trẻ có mà luôn phụ thuộc vào người khác(
vd: trẻ không kiềm chế cảm xúc mà có thể lăn ra và khóc bất
cứ lúc nào nếu người thân không đáp ứng nhu cầu của trẻ…)
Kết quả khảo sát đầu năm học 2012 - 2013 về các kỹ năng
sống của 30 trẻ lớp 5 tuổi A:

Tên kỹ năng
- Nhóm kỹ năng nhận thức
bản thân
- Nhóm kỹ năng tự tin
- Nhóm kỹ năng giao tiếp và
quan hệ xã hội
- Nhóm kỹ năng học tập

Số trẻ đạt

Trẻ chưa đạt

18 = 60 %

12 = 40 %

20 = 66.6%


10 = 33.4%

17 = 56.6 %

13= 43.3%

16 = 53.3%

14 = 46.7

- Nhóm kỹ năng hợp tác
21 = 70%
9 = 30%
Mặc dù thực trạng giáo dục KNS cho trẻ ở trường còn nhiều khó
khăn, tuy nhiên tôi đã dần khắc phục, nghiên cứu các giải pháp
và thực hiện giáo dục KNS cho trẻ theo mục tiêu của chương


trình giáo dục đã đề ra, chuẩn bị tốt cho trẻ trước khi bước vào
lớp một ở trường phổ thông.
3. Các giải pháp, kinh nghiệm giáo dục KNS cho trẻ mẫu
giáo lớn 5-6 tuổi ở trường mầm non Đại Tự.
3.1. Nâng cao nhận thức về việc dạy trẻ kỹ năng sống
cho giáo viên mầm non.
Trong những năm học trước, giáo viên chủ nhiệm các lớp
thường tự tìm hiểu các kiến thức, phương pháp giáo dục kỹ
năng cho trẻ một cách riêng lẻ nên có một số giáo viên chưa
tích cực tự bồi dưỡng do đó hiểu chưa sâu về sự cần thiết phải
dạy kỹ năng sống cho trẻ, chưa biết cần phải có phương pháp

nào để kết quả dạy là tốt nhất.
Do đó, đầu năm học tôi đề nghị với Ban giám hiệu nhà trường
mua bổ xung 1 số tài liệu có nội dung giáo dục KNS cho trẻ
mầm non cho tất cả giáo viên tổ 5 tuổi( Vd: tài liệu “ Giáo dục
giá trị sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non”….). Đồng thời,
tôi đã tổ chức thảo luận với giáo viên trong tổ,trong trường về
thực trạng và giải pháp ở đơn vị trong việc dạy trẻ các KNS cần
thiết, qua đó giúp giáo viên hiểu được rằng chương trình học
thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức trong suốt năm
học, và thực tế trẻ sẽ học tốt nhất khi có được cách tiếp cận
một cách cân bằng, giáo viên biết cách phát triển các kỹ năng
nhận thức, cảm xúc và xã hội của trẻ. Vì thế, khi trẻ tiếp thu
được những kỹ năng giao tiếp xã hội và các hành vi ứng xử cơ
bản trong nhóm bạn, thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả
năng tập trung vào việc học một cách tốt nhất.
3.2. Xác định những KNS cơ bản cần dạy trẻ ở lứa tuổi
mẫu giáo lớn


Việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ
giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy
trẻ ở lớp mình phụ trách.
Đối với tâm sinh lý trẻ em dưới sáu tuổi thì có nhiều kỹ năng
quan trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn
hoá. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kỹ
năng quan trọng nhất trẻ cần được giáo dục chính là những
KNS như:
- Nhóm kỹ năng tự tin: Nhận biết , thể hiện cảm xúc, suy nghĩ
cá nhân với mọi người.
- Nhóm kỹ năng hợp tác: Kỹ năng tổ chức hoạt động, làm việc

theo nhóm,kỹ năng ra quyết định, giải quyết vấn đề.
- Nhóm kỹ năng nhận thức về bản thân: Kỹ năng tự bảo vệ
trước những tình huống nguy hiểm, nhận biết về giá trị bản
thân.
- Nhóm kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội: kỹ năng ứng xử
phù hợp với người xung quanh, kỹ năng hợp tác, kỹ năng nhận
và hoàn thành nhiệm vụ, kỹ năng tuân thủ các quy tắc xã hội,
giao tiếp lịch sự và lễ phép, kỹ năng tự phục vụ.
- Nhóm kỹ năng học tập : Ý thức trách nhiệm, Kỹ năng thiết lập
và thực hiện mục tiêu.
Để xác định được những kỹ năng này tôi cần đọc, nghiên cứu
tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên mầm non và các
tài liệu khác về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ do các nhà xuất
bản có uy tín phát hành.
3.3. Cụ thể hóa những biện pháp để giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ.
3.3.1. Hình thành kỹ năng tự tin:


- Theo Dale - một nhà văn, nhà thuyết trình nổi tiếng của Mỹ thì
“Nếu bạn thật sự tin tưởng chính mình, nhất định sẽ đạt được
ước mơ, bạn có thể bước trên đường bằng phẳng mà người
khác cũng sẽ cần bạn hơn”. Vì vậy, một trong những kỹ năng
đầu tiên mà tôi cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng
của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá
nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác,trẻ tự
tin làm theo ý tưởng, tự tin bày tỏ cảm xúc của mình với người
khác mà không e ngại. KNS này giúp trẻ nhanh chóng thực hiện
được mong muốn của mình đồng thời có khả năng hòa nhập với
cộng đồng.

- Những biện pháp tôi sử dụng để phát triển sự tự tin ở trẻ là:
+ Luôn tôn trọng, giúp trẻ xây dựng hình tượng tốt của chính
mình: Từ đặc điểm sự tự tin của trẻ bắt nguồn từ lòng tự tôn,
một trẻ không có sự tự tôn thì không thể có sự tự tin. Do đó , tôi
luôn tôn trọng trẻ, cổ vũ và khích lệ những khả năng của trẻ
mọi lúc mọi nơi một cách kịp thời.
Ví dụ: khi trẻ xung phong lên hát trước cả lớp, tôi sẽ khen ngợi
là trẻ rất giỏi, rất mạnh dạn…để lần sau trẻ muốn và không e
ngại khi biểu diễn trước đám đông…..
+Nói cho trẻ biết “con có thể làm được”: Tôi dùng lời động viên
trẻ một cách chân thành, không quá lời khen, nghĩ một đường
nói một nẻo. Và trong mọi việc tôi luôn nói “ con có thể làm
được” để dần củng cố niềm tin vào bản thân cho trẻ.
Ví dụ:Trong giờ thể dục, một sốtrẻ sợ độ cao nên không dám
trèo lên xuống thang, tôi không ép buộc trẻ phải thực hiện hoạt
động đó ngay lập tức mà sẽ khuyến khích trẻ với lời động viên “


con có thể trèo được…”để trẻ tự tin thể hiện bản thân mình
trước các bạn.
+Bồi dưỡng tài năng đặc biệt cho trẻ : Tài năng đặc biệt cũng
có thể làm tăng thêm sự tự tin cho trẻ. Tôi căn cứ vào sở thích,
niềm đam mê của trẻ để bồi đắp sở trường đặc biệt của trẻ.
Ví dụ: trẻ có khả năng vẽ đẹp tôi sẽ tạo nhiều cơ hội ở lớp để
trẻ được thể hiện sở trường của mình như vẽ trong các góc,
trang trí lớp cùng cô... Đồng thời trao đổi với phụ huynh cho trẻ
tham gia các lớp vẽ ngoại khóa để nâng cao tài năng cho trẻ….
+Cho phép trẻ mắc sai lầm: Một đứa trẻ nếu không phạm sai
lầm sẽ không thể trưởng thành. Cho nên, khi trẻ mắc sai lầm tôi
luôn lưu tâm đến sai lầm đó để trao đổi thân thiện, cởi mở với

trẻ giúp trẻ hiểu rằng ai cũng có thể mắc sai lầm nhưng điều
quan trọng nhất là biết sửa chữa và không bao giờ mắc phải sai
lầm đó nữa. Đồng thời không phê bình hay chê bai trẻ quá
thẳng thắn sẽ làm trẻ mất hứng thú và tự ti về bản thân mình.
Ví dụ: khi trẻ tranh giành đồ chơi với bạn, tôi sẽ hỏi trẻ xem vì
sao lại như vậy, tôi bày ra các trò chơi với món đồ chơi đó để 2
trẻ cùng được chơi với nhau. Sau đó hỏi 2 trẻ xem chơi cùng
nhau như vậy có vui hơn là tranh giành nhau không và giáo
dục trẻ lần sau nên chơi đoàn kết với bạn bè ...
+ Quy định hành vi : Đầu năm học tôi đề ra 1 số quy định phù
hợp với lớp học nhằm đạt được mục tiêu chăm sóc giáo dục trẻ,
tạo thói quen nề nếp tốt cho trẻ. Yêu cầu trẻ trong lớp thực hiện
theo các nội quy đó để tạo tính chủ động và làm việc có kế
hoạch cho trẻ trong lớp


Ví dụ : Đến giờ thể dục sáng, tôi hỏi trẻ các con nhìn lên lịch
xem hoạt động đầu tiên trong ngày hôm nay là gì? Và cho trẻ
cùng chuẩn bị hoạt động đó với cô...
+ Tổ chức một số hoạt động khác để phát triển sự tự tin của
trẻ :
Tôi có thể trò chuyện với trẻ với những câu hỏi như tự tin là gì?
Khi con tự tin con cảm thấy như thế nào? Khi không tự tin con
cảm thấy ra sao? Hoặc sử dụng những câu hỏi gắn với thực tế
của trẻ như “ con hãy kể những việc con muốn tự làm, Con học
cách làm này như thế nào? Hãy kể những việc con tự làm, Khi
tự làm con cảm thấy như thế nào?”. Qua hoạt động trò chuyện
đó giúp trẻ hiểu rằng khi trẻ tự tin là khi trẻ mạnh dạn nói ,
làm, thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của mình với mọi người. Nếu
trẻ tự tin ở mình thì kết quả hoạt động của trẻ sẽ đạt tốt hơn.

Tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm: để trẻ tự làm mọi việc cho
bản thân mình càng nhiều càng tốt( Vd: tự lấy đồ dùng học tập,
hoặc dạy trẻ cách nhờ 1 người bạn khác giúp đỡ mình 1 việc gì
đó..)
3.3.2. Hình thành kỹ năng hợp tác:
- Ca dao tục ngữ Việt Nam có câu “ Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi
cao”
Vì vậy việc giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ mầm non là rất
cần thiết. Bởi trẻ mầm non còn nhỏ, có nhiều việc không thể tự
làm được nếu không có người khác giúp đỡ. Khi trẻ được bạn
giúp đỡ và khi trẻ giúp đỡ được bạn trẻ sẽ nhanh chóng hoàn
thành nhiệm vụ của mình. Qua đó trẻ có niềm vui, có bạn bên


cạnh để chia sẻ công việc, giúp phát triển kỹ năng và tình cảm
xã hội của trẻ.
- Để giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ tôi luôn tạo cơ hội cho trẻ
chơi và làm việc theo nhóm với các trẻ khác trong tất cả các
hoạt động.
Ví dụ: Cho trẻ thảo luận theo tổ để cùng nhau nhận xét về đặc
điểm của 1 đối tượng nào đó trong các hoạt động, tạo những
cảm nhận giúp trẻ tôn trọng những quyền lợi của trẻ khác qua
việc chia sẻ, hướng dẫn trẻ cư xử lịch sự với bạn khác.
- Tổ chức 1 số hoạt động phát triển kỹ năng hợp tác như:
+ Thảo luận về sự hợp tác: Trò chuyện với trẻ có sử dụng câu
hỏi như “Con và bạn đã cùng nhau làm những việc gì?Trò chơi
nào con thích hơn khi có bạn cùng chơi? Tại sao con phải hợp
tác với bạn, một mình con có làm được việc này không? Điều gì
con cảm thấy vui khi hợp tác?....Qua việc trò chuyện giúp trẻ

hiểu hợp tác là có nhiều người cùng thực hiện 1 việc gì đó, cùng
vui thích khi làm việc.
+ Trò chơi “ đôi bạn hợp tác”: Cho trẻ tìm thêm 1 bạn để ghép
đôi với nhau. Các đôi ngồi quay mặt vào nhau, nắm lấy tay
nhau, cùng ngồi xuống hoặc cùng đứng lên mà không buông
tay nhau ra.
+ Trò chơi “ Những chiếc tháp tập thể”: Yêu cầu trẻ ngồi xung
quanh 1 cái bàn và đưa cho trẻ những khối đồ chơi có hình
dáng và kích thước khác nhau. Nhiệm cụ của trẻ là xếp những
khối đó thành 1 cái tháp càng cao càng tốt.
+ Trưng bày các hình ảnh sưu tập: có nội dung mọi người cùng
chơi, làm việc với nhau và cho trẻ thảo luận nội dung của các
hình ảnh đó.


+ Cho trẻ tập đóng kịch: theo nội dung các câu chuyện trong
chương trình giáo dục mầm non: Đóng kịch “Nhổ củ cải”( có
các cảnh mọi người hợp tác với nhau để nhổ được củ cải)…
Đóng kịch theo bài thơ “ gấu qua cầu”, theo truyện “đôi bạn
tốt”…
3.3.3. Hình thành kỹ năng tự nhận thức bản thân :
- Kỹ năng tự nhận thức là trẻ tự nhận diện về bản thân, phát
triển quan niệm tích cực về bản thân. Trẻ nhận thức sự khác
nhau giữa các trẻ, nhận thức mỗi cá nhân có điểm riêng biệt
cần được tôn trọng, phát triển những suy nghĩ tích cực về bản
thân trẻ. Kỹ năng tự nhận thức giúp trẻ hiểu đúng mình là ai?
Trẻ yêu gì? Điểm mạnh và sở thích của mình là gì để kết nối
chúng vào những lĩnh vực liên quan và phát huy chúng một
cách tối đa. Trẻ nhận ra điểm yếu của mình cũng giúp trẻ dự
đoán được những khó khăn trong quá trình hoạt động từ đó tìm

ra cách khắc phục khó khăn đó.
- Để hình thành kỹ năng tự nhận thức tôi đã thực hiện 1 số biện
pháp sau:
+Trò chuyện giúp trẻ tìm hiểu về bản thân thông qua 1 số câu
hỏi như: Con là ai? Con thấy mình có những tính tốt đẹp nào?
Con thích gì và không thích gì? Con có mong muốn gì? Con sẽ
làm gì để đạt được mong muốn đó?con có những điểm gì khác
với bạn?.....
+ Chấp nhận sự đa dạng của trẻ và giúp trẻ chấp nhận lẫn
nhau: Tôi luôn tôn trọng cá tính của từng cá nhân trẻ trong lớp,
đồng thời có biện pháp giáo dục để hạn chế điểm yếu, phát huy
điểm mạnh của trẻ. Tôi nhận thấy rằng khi tôi tôn trọng tất cả


các trẻ thì trẻ trong lớp sẽ noi gương theo cô, biết tôn trọng các
bạn lớp mình.
Ví dụ: Trong lớp có một cháu bị khuyết tật, trẻ trong lớp không
chơi cùng với bạn đó, tôi sẽ trò chuyện để các cháu thấy rằng
bạn đó có rất nhiều điểm tốt như ngoan, chăm đi học, bạn hát
hay…các con cần quan tâm giúp đỡ và chia sẻ với bạn. Đồng
thời, bản thân tôi cũng luôn đối xử công bằng , yêu thương , tôn
trọng trẻ đó để trẻ trong lớp noi theo.
+Đặt yêu cầu cao cho các trẻ và khích lệ trẻ hoạt động để đạt
mục tiêu đó: Tôi luôn đặt yêu cầu cao cho tất cả các trẻ trong
lớp, Với sự hướng dẫn của tôi, từng trẻ đã có khả năng tham gia
hầu hết các hoạt động . Trong bất kì hoạt động nào tôi cũng
khuyến khích để kích thích tính tò mò khám phá của trẻ chứ
không ép buộc mọi trẻ phải tham gia. Tôi gợi ý để trẻ thử thách
với chính mình. Thay vì cạnh tranh với trẻ khác, tôi khuyến
khích trẻ cạnh tranh với chính mình.

Ví dụ: Nhảy xa sử dụng thước dây, xếp hình bằng đồng hồ bấm
giây…lần sau tốt hơn lần trước…
+ Giúp trẻ đạt được thành công nhất định trong lớp học: Thành
công là một trong những yêu tố quan trọng tác động đến sự
phát triển ý thức bản thân. Trẻ ở lứa tuổi này cần trải qua thành
công( theo khả năng của trẻ) để trẻ có cảm giác tự tin rằng
mình làm được những điều tốt. Thực tế , có một số trẻ sợ thất
bại đến nỗi không dám thử một hoạt động nào đó, lúc này tôi
sẽ giúp trẻ đạt được thành công trong việc đó từng bước một
đồng thời khen ngợi khả năng đó để trẻ thêm tự tin vào mình.
Trẻ sẽ tự hào về thành công của mình nếu cô giáo cho trẻ thấy
rằng cô tự hào về trẻ.


+ Tổ chức một số hoạt động, trò chơi phát triển kỹ năng tự
nhận thức cho trẻ:
Ví dụ: Hoạt động “ soi gương”: Giúp trẻ tự quan sát, cảm nhận
về hình dáng của mình bằng cách cho trẻ tự ngắm mình trong
gương với các động tác như làm điệu, đội mũ, mặc quần áo…. .
lúc đó tôi có thể hỏi trẻ: Con thấy ai trong gương, người trong
gương có dáng yêu không?
Hoạt động “Hái hoa dân chủ”:Trẻ chọn 1 bông hoa theo ý thích
trong đó có nội dung “ Hãy nói cho chúng tôi về….”( có thể là
gia đình, đồ chơi bạn thích, món ăn bạn thích…) và tôi sẽ đọc to
câu hỏi đó cho cả lớp nghe, trẻ hái hoa sẽ nói về điều đó theo
hiểu biết của mình.
Hoạt động “ Tôi có thể vẽ”:Tôi tạo ra 1 tờ giấy lớn và dán lên
tường. Tôi cổ vũ trẻ vẽ hay dán bất cứ thứ gì trẻ có thể làm
được vào đó để trẻ cả lớp tạo thành bức tranh tổng hợp lớn. Với
hoạt động này trẻ sẽ thấy được sự phát triển tiến bộ của bản

thân qua từng giai đoạn.
Hoạt động “ có điều gì trong một cái tên”: Trẻ nhỏ thường rất tự
hào về cái tên của mình, do đó tất cả hoạt động nào liên quan
đến cái tên của trẻ đều làm trẻ hứng thú. Hầu hết bố mẹ đặt
tên cho con đều có 1 ý nghĩa, yêu cầu trẻ hỏi bố mẹ về điều
này, sau đó tôi phát cho mỗi trẻ 1 tờ giấy và bút màu để trẻ có
thể vẽ lại điều đó vào bức tranh và trang trí cho tranh của
mình. Khi đã thực hiện xong có thể cho trẻ diễn tả lại ý nghĩa
của bức tranh mà trẻ đã vẽ.
3.3.4. Hình thành kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội:
- Trẻ mầm non cần phải học rất nhiều trong những năm đầu
đời : học cách làm chủ ngôn ngữ, học cách nhận biết và đối phó


với cảm xúc của mình cũng như của người khác, học cách tin
vào mình và can đảm để khám phá thế giới rộng lớn xung
quanh. Nếu trẻ không đạt được năng lực xã hội tối thiểu vào
khoảng 6 tuổi thì trẻ có thể gặp khó khăn trong suốt cuộc sống
sau này
- Phát triển kỹ năng này là một nhiệm vụ phức tạp đối với trẻ.
Yêu cầu trẻ biết ứng xử theo quy tắc xã hội, biết tạo các mối
quan hệ cũng như tương tác với cảm giác thoải mái với những
người khác đồng thời biết điều chỉnh hành vi phù hợp với hoàn
cảnh. Để giáo dục tốt cho trẻ nội dung này tôi thực hiện 1 số
biện pháp sau:
+ Dạy trẻ học cách kiểm soát xung đột và điều chỉnh hành vi
của mình:
Tôi làm cầu nối giúp trẻ biểu lộ cảm xúc của mình và biết lắng
nghe ý kiến của người khác. Nếu trẻ bất hòa với bạn khác tôi
thường chỉ cho trẻ thấy trẻ chưa đúng ở điểm nào, điểm nào

cần khắc phục và điểm tốt nào cần phát huy. Cho trẻ thấy
những mối bất hòa thường dẫn đến những cảm xúc tiêu cực
như tức giận, sợ hãi, còn nếu chơi đoàn kết với bạn sẽ tạo nên
nhưng tình cảm tốt đẹp và tinh thần thoải mái, vui vẻ…
Ví dụ: Có 2 trẻ đánh nhau, điều đầu tiên cần làm là hỏi hai trẻ lý
do vì sao lại như vậy để từng trẻ có cơ hội thể hiện suy nghĩ
bằng lời nói về sự việc đó. Sau đó giải thích cho trẻ hiểu bạn
nào đúng, bạn nào chưa đúng. Giáo dục trẻ lần sau chơi đoàn
kết với bạn hơn.
+ Dạy trẻ cách giải quyết vấn đề: Mỗi tình huống khó khăn mà
trẻ gặp phải sẽ có tác dụng giúp trẻ lĩnh hội được kinh nghiệm
sống thông qua việc tìm cách giải quyết vấn đề đó. Cho nên với


mỗi tình huống xảy ra hàng ngày tôi đều tận dụng cho trẻ quan
sát và gợi ý để trẻ tìm ra cách giải quyết một cách nhanh chóng
và hiệu quả nhất.
Ví dụ: khi trẻ làm lăn đồ dùng vào gậm tủ mà tay không với tới
được, tôi gợi ý để trẻ biết dùng gậy để lấy đồ dùng đó ra…
+Tạo cơ hội cho trẻ tham gia vào các mối quan hệ với trẻ
khác: Nếu trẻ tương tác với nhau một cách phù hợp, qua đó trẻ
sẽ học được các quy tắc ứng xử trong xã hội. Vì vậy, tôi thường
xuyên tổ chức các hoạt động tập thể cho trẻ trong lớp như tổ
chức sinh nhật, biểu diễn văn nghệ tổng hợp cuối chủ đề, hoạt
động góc…để các trẻ được làm việc theo nhóm với nhau. Trong
quá trình hoạt động luôn khuyến khích trẻ giao tiếp thỏa thuận
với bạn cùng chơi,biểu lộ mong muốn một cách thích hợp, biết
giúp đỡ bạn trong khi chơi.
+ Tổ chức 1 số trò chơi :
Giúp trẻ biết lắng nghe người khác nói. Ví dụ: Hoạt động“ điện

thoại bạn bè”: Cho 2 trẻ chơi gọi điện cho bạn ( 2 bạn ở gần
nhau). Theo dõi quá trình trò chuyện của trẻ. Sau đó hỏi trẻ :
Hai người cùng nói 1 lúc thì có nghe rõ điều gì không? Khi nào
con nghe thấy tiếng bạn? Con cảm thấy thế nào khi nghe được,
khi không nghe được?
Giúp trẻ biết quan tâm và chia sẻ với người khác. Ví dụ: Hoạt
động“ chúc bạn chóng khỏe”: Nếu trong lớp có 1 trẻ bị ốm
không đến lớp được, Tôi sẽ tổ chức cho trẻ cả lớp làm 1 tấm
thiệp để gửi lời thăm hỏi và chúc bạn nhanh khỏe rồi gửi tới bạn
bị ốm…
3.3.5. Hình thành kỹ năng học tập:


Mặc dù những kiến thức mà trẻ học ở trường mầm non chỉ là sơ
đẳng nhưng có vai trò rất quan trọng, là nền tảng vững chắc
cho việc học văn hóa ở trường phổ thông sau này. Với trẻ ở lớp
tôi, trong mỗi hoạt động tôi đều xác định cụ thể mục tiêu,
hướng dẫn cụ thể nội dung, gợi ý cách thực hiện và cho trẻ trao
đổi cách thực hiện với các bạn để trẻ tìm ra cách thực hiện của
riêng mình, đồng thời tôi cũng khuyến khích và tuyên dương kịp
thời sự sáng tạo của trẻ, giúp đỡ những trẻ thực hiện kém, động
viên trẻ cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao với tâm
trạng thoải mái và hứng thú nhất.
Ví dụ: Trong hoạt động tạo hình vẽ ngôi nhà (theo đề tài ). Tôi
cho trẻ quan sát và nhận xét 1 số tranh vẽ ngôi nhà đã chuẩn
bị trước để gợi ý cách vẽ cho trẻ. Trong quá trình trẻ thực hiện
tôi bao quát để kịp thời tuyên dương những trẻ có sáng tạo như
biết vẽ thêm các chi tiết trang trí cho bức tranh, đồng thời giúp
đỡ những trẻ chưa biết cách thực hiện hoàn thành sản phẩm
của mình.

Kết quả là đa số trẻ lớp tôi đã có ý thức trách nhiệm, có kỹ
năng thiết lập và thực hiện mục tiêu trong tất cả các hoạt động,
nhất là trong các hoạt động học có chủ đích.
3.5. Giúp trẻ phát triển các KNS qua việc tổ chức các
hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trường.
Nội dung phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực”, trong đó có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các
hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến
khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ chức các
trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác
phù hợp với lứa tuổi của học sinh.


Căn cứ vào nội dung trên, tôi đã xây dựng kế hoạch và thực
hiện nhiều hoạt động một cách thiết thực, khuyến khích sự
tham gia chủ động, tự giác của trẻ. Cụ thể như sau:
* Tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường tổ chức cho giáo
viên thi làm đồ chơi dân gian; sáng tác bài hát, điệu múa thể
loại dân ca cho trẻ ở lứa tuổi mầm non.
* Tổ chức các hội thi, các hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí
tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của trẻ mầm non. Huy động
và tạo điều kiện để có sự tham gia hoạt động đa dạng và phong
phú của cha mẹ trẻ em, các tổ chức, lực lượng xã hội, cá nhân
trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giáo dục lòng yêu
nước cho trẻ. ( Ví dụ:tăng cường cho trẻ chơi các trò chơi dân
gian trong giờ hoạt động ngoài trời vào các ngày thứ tư, sáu;
riêng chiều thứ hai hàng tuần, trẻ được xem các kịch bản rối
qua các câu chuyện cổ tích, giao lưu hỏi đáp giữa các trẻ về nội
dung các câu chuyện)
Cụ thể tôi đã tổ chức thực hiện các hoạt động nổi bật như sau:

- Tổ chức cho học sinh lớp 5-6 tuổi thi góc chơi “khám phá khoa
học” theo chủ đề bản thân, tôi lên tiết thực hành giúp trẻ trải
nghiệm bằng các giác quan, những trải nghiệm trong đời sống
hàng ngày của trẻ .
- Tổ chức cho trẻ đến thăm nhà bạn trong chủ đề gia đình theo
từng tổ, từng nhóm trẻ. Hoạt động trên nhằm phối hợp với các
bậc cha mẹ để có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc và xã
hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại gia đình.
- Tổ chức cho trẻ tham quan các công trình công cộng ( như
trạm y tế, nhà tưởng niệm Bác Hồ…) nhằm rèn luyện kỹ năng
giao tiếp, giáo dục lòng yêu quê hương đất nước con người.


- Tổ chức ngày hội “ Bánh chưng, bánh giày” lồng ghép giáo
dục qua câu chuyện lịch sử “Sự tích bánh chưng, bánh giày”.
Hoạt động vui chơi giải trí này còn dành thời gian cho học sinh
khối 5 tuổi thực hành chuyên đề “Bé tập làm nội trợ”qua hội thi
gói bánh chưng ngày tết.
- Tổ chức hội diễn văn nghệ mừng xuân cho trẻ tại các góc chơi
với chủ đề “ Bé hát dân ca” thi “Trang phục dân gian”, tổ chức
các gian hàng ẩm thực mùa xuân, trò chơi dân gian, thi giải câu
đố hay….
- Tổ chức cho trẻ lớp 5 tuổi tham quan, vui chơi các trò chơi dân
gian trong dịp đầu xuân như: Đập heo, lò cò, cướp cờ tại sân
vận động hoặc nhà văn hoá xã, giúp trẻ có dịp đến tham quan
tìm hiểu nét văn hóa đặc trưng ở địa phương.
- Tổ chức hoạt động nghệ thuật cho trẻ qua hội thi “ Vẽ những
điều mơ ước cho mẹ”, tổ chức hoạt động phát triển tư duy qua
một số hội thi có sự tham gia trực tiếp của cha mẹ để cùng chơi
với trẻ qua đó rèn luyện tính kiên nhẫn, kỹ năng hợp tác với cha

mẹ, ông bà để chiến thắng yêu cầu thử thách của luật chơi,
phát triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống tự tin, phát triển tình
cảm, nhận thức ở trẻ.
3.5. Tạo môi trường thuận lợi để dạy trẻ KNS
Môi trường giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giáo dục
trẻ. Có môi trường trong lớp và môi trường ngoài lớp học. Môi
trường trong lớp như các góc hoạt động, đồ dùng học tập… có
tác dụng giúp trẻ lĩnh hội kiến thức và một số kỹ năng. Môi
trường ngoài lớp như góc thiên nhiên, vườn cây…giúp trẻ phát
triển tình cảm xã hội. Để có môi trường dạy kỹ năng sống tốt
cho trẻ tôi thực hiện như sau:


* Tôi đã thực hiện kế hoạch giáo dục, kế hoạch đánh giá trẻ
nhằm ghi chép hàng ngày từng chi tiết về sự tiến bộ của trẻ,
các mối quan hệ với cô, với bạn, ghi chép những kỹ năng trẻ
đạt được trong mỗi ngày làm căn cứ, thước đo để đánh giá cuối
mỗi độ tuổi, cuối giai đoạn phát triển của trẻ. Cũng từ biện
pháp này, tôi có dữ liệu, sản phẩm để đánh giá trẻ, đồng thời có
cơ sở để thay đổi, bổ sung các biện pháp giáo dục từng trẻ vì
mỗi trẻ rất khác nhau và giúp trẻ sớm hình thành các kỹ năng
sống.
* Nhiều bậc cha mẹ rất e ngại khi tham gia vào quá trình giáo
dục trẻ, hơn nữa phần lớn cha mẹ thừơng lúng túng khi lựa
chọn hình thức thực hiện. Tôi đã trang bị các bảng thông tin
dành cho phụ huynh, dán các nội dung cần phối hợp với phụ
huynh vào đó để các bậc cha mẹ có thể đọc, quan sát theo dõi
dễ dàng giúp nhà trường tuyên truyền đến cha mẹ của trẻ
những kết quả giáo dục ở con mình, tạo điều kiện cho giáo viên
trao đổi hai chiều với các bậc cha mẹ những vấn đề có liên

quan đến trẻ, các thông tin của lớp, thông tin sức khỏe, ngược
lại các bậc cha mẹ có thể ghi chép những yêu cầu, đề nghị,
thông tin cần trao đổi với giáo viên.
*. Nhằm tạo môi trường giúp giáo viên và các bậc cha mẹ tăng
cường đọc sách cho con trẻ. Tại lớp, tôi đã trang trí, sắp xếp
góc thư viện và văn học, để nơi dễ hoạt động với nhiều tên gọi
khác nhau theo chủ đề : “Thư viện trường mầm non”; “tủ sách
gia đình”; “dinh dưỡng trẻ thơ”; “những con vật đáng yêu”;
“hoa trái bốn mùa”; thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách,
truyện nhiều kích cỡ, vừa tầm với của trẻ. Vận động cha mẹ


×