Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Sự chi phối của động từ trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 103 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHÙNG THỊ HUYỀN

SỰ CHI PHỐI CỦA ĐỘNG TỪ
TRONG TIẾNG VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHÙNG THỊ HUYỀN

SỰ CHI PHỐI CỦA ĐỘNG TỪ
TRONG TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60.22.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Lộc



Thái Nguyên - 2015

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, tôi đã hoàn thành luận văn thạc
sĩ Ngôn ngữ học với đề tài: “Sự chi phối của động từ trong tiếng Việt”.
Để hoàn thành được luận văn này, ngoài sự cố gắng, nỗ lực của bản thân,
tôi đã nhận được sự quan tâm, dạy bảo, động viên, giúp đỡ của các thầy giáo,
cô giáo và các bạn bè đồng nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Văn Lộc, người
thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để tôi hoàn thành
luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Ngữ văn, Khoa Sau
Đại học - Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên cùng các thầy giáo
ở Viện Ngôn ngữ học, Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam đã tận
tình giảng dạy và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè, người
thân, các đồng chí đồng nghiệp đã động viên khích lệ tôi để tôi hoàn thành luận
văn này.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2015
Tác giả luận văn

Phùng Thị Huyền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


i




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Thái Nguyên, ngày 25 tháng 8 năm 2015
Người cam đoan

Phùng Thị Huyền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

ii




MỤC LỤC
Lời cảm ơn ......................................................................................................... i
Lời cam đoan ..................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................. 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 6
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 6
7. Cấu trúc của luận văn..................................................................................... 6
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN........................................................................... 8
1.1. Động từ ....................................................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm động từ ................................................................................... 8
1.1.2. Vấn đề phân loại động từ, các tiểu loại động từ........................................ 9
1.2. Vài nét về lí thuyết kết trị, khái niệm diễn tố, chu tố ................................. 12
1.2.1. Vài nét về lí thuyết kết trị ....................................................................... 12
1.2.2. Khái niệm diễn tố, chu tố, các kiểu diễn tố ............................................. 18
1.3. Khái niệm chi phối và đặc điểm chi phối của động từ .................................. 22
1.3.1. Khái niệm chi phối .................................................................................. 22
1.3.2. Vấn đề nghiên cứu sự chi phối của động từ trong tiếng Việt theo lí thuyết
kết trị................................................................................................................ 22
1.3.3. Các kiểu chi phối của động từ .................................................................. 23
1.4. Khái niệm ý nghĩa và các kiểu ý nghĩa của từ .............................................. 23
1.4.1. Khái niệm ý nghĩa ................................................................................... 24
1.4.1. Các kiểu ý nghĩa của từ............................................................................ 25
1.5. Hình thức ngữ pháp của từ.......................................................................... 25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

iii




1.5.1. Khái niệm hình thức ngữ pháp của từ ....................................................... 25
1.5.2. Các đặc điểm về hình thức ngữ pháp của từ tiếng Việt ........................... 27

1.6. Tiểu kết chương 1 ..................................................................................... 27
Chương 2: SỰ CHI PHỐI CỦA ĐỘNG TỪ ĐỐI VỚI DIỄN TỐ CHỦ THỂ .. 28
2.1. Sự chi phối của động từ đối với hình thức của diễn tố chủ thể (chủ ngữ) ........ 28
2.1.1. Sự chi phối của động từ đối với mặt cấu tạo của diễn tố chủ thể (chủ ngữ) .. 28
2.1.2. Sự chi phối của động từ với khả năng cải biến của chủ ngữ ................... 40
2.2. Sự chi phối của động từ đối với ý nghĩa của chủ ngữ ................................ 51
2.2.1. Ý nghĩa ngữ pháp của động từ quy định ý nghĩa cú pháp của chủ ngữ ... 51
2.2.2. Ý nghĩa từ vựng của động từ quy định ý nghĩa biểu hiện của chủ ngữ ... 54
2.3. Tiểu kết chương 2 ..................................................................................... 56
Chương 3: SỰ CHI PHỐI CỦA ĐỘNG TỪ ĐỐI VỚI DIỄN TỐ ĐỐI THỂ ... 60
3.1. Sự chi phối của động từ đối với số lượng và hình thức của diễn tố đối thể
(bổ ngữ) ........................................................................................................... 60
3.1.1.Dẫn nhập ................................................................................................. 60
3.1.2. Sự chi phối của động từ đối với số lượng và cấu tạo của bổ ngữ ............ 60
3.1.3. Sự chi phối của động từ với khả năng cải biến của bổ ngữ ..................... 74
3.2. Sự chi phối của động từ với ý nghĩa của bổ ngữ........................................ 79
3.2.1. Sự chi phối của ý nghĩa ngữ pháp của động từ đối với ý nghĩa cú pháp
của bổ ngữ ....................................................................................................... 80
3.2.2. Sự chi phối của ý nghĩa từ vựng của động từ - thực từ đối với ý nghĩa
biểu hiện của bổ ngữ ........................................................................................ 84
3.3. Tiểu kết chương 3 ..................................................................................... 88
KẾT LUẬN .................................................................................................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 92
NGUỒN TƯ LIỆU TRÍCH DẪN.................................................................. 95

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

iv





MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1.Trong từ loại tiếng Việt, động từ là từ loại có số lượng lớn, có đặc
điểm rất phức tạp. Động từ có vai trò quan trọng trong tổ chức cú pháp của câu,
nó được coi là từ loại tạo nên phần lớn thành tố hạt nhân (vị ngữ) của câu. Theo
Nguyễn Kim Thản, động từ trong vai trò vị ngữ tạo ra 88% câu đơn tiếng Việt.
Vì có vị trí, tầm quan trọng như vậy, từ loại động từ trong tiếng Việt đã được
chú ý và quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau.
1.2.Trong Việt ngữ học, động từ đã được tìm hiểu và nghiên cứu qua một
số công trình tiêu biểu như: “Cụm động từ tiếng Việt” của Nguyễn Phú Phong
(dẫn theo Nguyễn Văn Lộc [34]), “Các động từ chỉ hướng trong tiếng Việt”
của Nguyễn Lai [32], “Ngữ nghĩa và cấu trúc của động từ” của Vũ Thế Thạch
(dẫn theo Nguyễn Văn Lộc [34]), “Vị từ hành động tiếng Việt và các tham tố của
nó” của Nguyễn Thị Quy [46], “Kết trị của động từ tiếng Việt” của Nguyễn Văn
Lộc [34]... Qua các công trình đó, chúng ta thấy diện mạo của động từ tiếng Việt
ngày càng trở nên rõ ràng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu sự chi phối của động từ với
tư cách là kẻ mang kết trị chủ động đối với các diễn tố (chủ ngữ, bổ ngữ) trên cứ
liệu tiếng Việt thì chưa được nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu.
1.3. Lí thuyết kết trị là một trong những lí thuyết quan trọng, là một
thành tựu lớn của ngôn ngữ học hiện đại. Sau khi ra đời, lí thuyết này đã
được ứng dụng rộng rãi vào việc nghiên cứu ngữ pháp, ngữ nghĩa của các
ngôn ngữ.
Ở nước ta, lí thuyết kết trị đã được nghiên cứu trong công trình “Kết trị
của động từ tiếng Việt”của PGS.TS Nguyễn Văn Lộc [34]. Kết quả của công
trình đã mở ra một hướng nghiên cứu rất mới mẻ và thiết thực về ngữ pháp
trong đó có động từ tiếng Việt. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đặc điểm chi phối
của động từ tiếng Việt đối với diễn tố chủ thể và đối thể mới chỉ được đề cập
đến ở mức độ khái quát.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

1




1.4. Nghiên cứu sự chi phối của động từ đối với các diễn tố chủ thể và
đối thể, theo chúng tôi, là một hướng nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng về lí
luận và thực tiễn.
Về lí luận: Việc miêu tả đặc điểm chi phối của động từ với diễn tố chủ
thể và đối thể sẽ góp phần làm phong phú, hoàn thiện hơn lí thuyết kết trị về
động từ, qua đó, làm rõ hơn một số vấn đề lí thuyết có liên quan đến thành
phần câu nhìn từ góc độ kết trị của từ.
Về thực tiễn: Kết quả của việc nghiên cứu đề tài này có thể được sử
dụng để biên soạn các tài liệu phục vụ cho việc dạy học ngữ pháp tiếng Việt
nói chung, động từ tiếng Việt nói riêng trong nhà trường.
Với những lí do trình bày trên đây, chúng tôi chọn vấn đề: “Sự chi phối của
động từ trong tiếng Việt” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Cho đến nay, hầu như không còn ai nghi ngờ sự tồn tại khách quan
của động từ và các từ loại trong tiếng Việt. Tuy nhiên, vấn đề phân định động
từ và ranh giới giữa động từ và tính từ cũng như việc miêu tả đặc điểm cú pháp
của động từ vẫn còn nhiều khía cạnh chưa được làm rõ.
Theo các quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt,
việc xác định, phân loại từ tiếng Việt cần được dựa vào ý nghĩa và đặc điểm
hoạt động ngữ pháp. Theo đó, động từ tiếng Việt được xác định theo các tiêu
chí sau: Về mặt ý nghĩa, chỉ hoạt động (hành động hay trạng thái), có khả năng
được bổ sung ý nghĩa thời thể (thời gian, mệnh lệnh, phương thức...). Về mặt
hình thức, động từ có khả năng thay thế bằng những từ nghi vấn “làm gì”,

“làm sao”, có khả năng kết hợp với các phó từ chỉ thời gian, mệnh lệnh, kết
quả...(đã, sẽ, đang, hãy, đừng, chớ, xong, rồi...).
Động từ tiếng Việt đã được chú ý và nghiên cứu trong các chuyên luận sau:
- “Phân loại động từ tiếng Việt” của I.S.Bystov (1966) (dẫn theo
Nguyễn Văn Lộc [34])
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

2




- “Cụm động từ tiếng Việt” của Nguyễn Phú Phong (1973) (dẫn theo
Nguyễn Văn Lộc [34])
- “Về nhóm động từ chỉ hướng trong tiếng Việt” của Nguyễn Lai (1976) [32]
- “Động từ trong tiếng Việt” của Nguyễn Kim Thản (1977) [51]
- “Ngữ nghĩa và cấu trúc của động từ” của Vũ Thế Thạch (1984) (dẫn
theo Nguyễn Văn Lộc [34])
- “Ngữ pháp tiếng Việt” - Tập 1 của Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung
(1991) [2]
- “Vị từ hoạt động và các tham tố của nó” của Nguyễn Thị Quy (1995) [46]
- “Kết trị của động từ tiếng Việt” của Nguyễn Văn Lộc (1995) [34]
Trong các công trình nghiên cứu trên, một số tác giả nghiên cứu tương
đối toàn diện về động từ như: Nguyễn Phú Phong, Nguyễn Kim Thản. Một số
công trình đi sâu tìm hiểu một phương diện nào đó của động từ: I.S.Bystov đi
sâu vào vấn đề phân loại động từ, Nguyễn Lai đi sâu vào nhóm động từ chỉ
hướng, Vũ Thế Thạch phân tích về mặt ngữ nghĩa, Nguyễn Văn Lộc đi sâu
nghiên cứu về kết trị, Nguyễn Thị Quy khai thác về nhóm vị từ hành động và
các tham tố của nó.
Nhìn chung, trong những công trình trên đây, vấn đề tiêu chí xác định,

phân loại động từ, đặc điểm ý nghĩa và khả năng kết hợp của động từ đã được
nghiên cứu tương đối kĩ. Riêng vấn đề chi phối của động từ cũng đã được đề
cập trực tiếp hay gián tiếp ở các mức độ khác nhau nhưng chưa được nghiên
cứu có hệ thống và chuyên sâu. Đặc biệt, vấn đề chi phối của động từ đối với
chủ ngữ (diễn tố chủ thể) hầu như không được chú ý. Điều này có thể do sự hạn
chế của cách nhìn nhận truyền thống về bản chất của mối quan hệ chủ vị (chẳng
hạn, việc coi chủ ngữ là thành phần chính của câu có vai trò ngang hàng với vị
ngữ và không chịu sự chi phối của vị ngữ).
2.2. Khác với các tác giả chủ trương cách phân tích ngữ pháp theo truyền
thống, trong cuốn“Những sơ sở của cú pháp cấu trúc” [68], L.Tesnière cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

3




rằng: động từ trong vai trò mà ngữ pháp học truyền thống gọi là vị ngữ thực
chất chính là thành tố hạt nhân, là cái nút chính của câu. Động từ quy định số
lượng và đặc tính của các thành tố có quan hệ với nó, các thành tố này, xét theo
mức độ gắn bó với động từ được chia thành tố bắt buộc (chủ ngữ, bổ ngữ) và thành
tố tự do (trạng ngữ). L.Tesnière gọi các thành tố bắt buộc là diễn tố (actants), chúng
gồm hai kiểu chính là diễn tố chủ thể (sujet) và diễn tố đối thể (obijet).
Ví dụ, trong câu:“Alferd frappe Bernard” (Alpret đánh Becna), động từ
biểu thị quá trình là “frappe - đánh”. Các diễn tố chỉ người hay vật tham gia
vào quá trình với tư cách chủ động hay bị động. Trong ví dụ trên, các diễn tố là
Alferd và Bernard. Các diễn tố (actants) có các đặc điểm chung là: 1. Đều phụ
thuộc vào động từ, là kẻ thể hiện kết trị của động từ, kể cả kết tố chủ thể (chủ
ngữ); 2. Đều có tính bắt buộc, có nghĩa là sự xuất hiện của chúng do nghĩa của
động từ đòi hỏi và nếu lược bỏ chúng sẽ làm cho nghĩa của động từ trở nên mơ

hồ, không xác định; 3.Về hình thức, chúng được biểu hiện bằng danh từ hoặc
các yếu tố tương đương.
L.Tesnière đã phân loại các diễn tố dựa vào chức năng khác nhau mà
chúng thực hiện trong mối quan hệ với động từ. Dựa vào số lượng chức năng
(tức là số lượng tối đa diễn tố có thể có bên động từ), ông đã chia ra ba kiểu
diễn tố: diễn tố thứ nhất, diễn tố thứ hai và diễn tố thứ ba.
Quan niệm và cách phân tích của L.Tesnière về vai trò chi phối của động
từ hạt nhân đối với các diễn tố xoay quanh động từ hạt nhân là cơ sở mà chúng
tôi sẽ dựa vào để nghiên cứu sự chi phối của động từ đối với chủ ngữ và bổ ngữ
trong tiếng Việt.
Trong các luận văn thạc sĩ “Các diễn tố được biểu hiện bằng vị từ và
cụm từ chủ vị trong tiếng Việt hiện đại” của Nguyễn Thị Thu Hoài [31], “Sự
hiện thực hóa kết trị bắt buộc của động từ tiếng Việt” của Trần Minh Tuất [62],
các tác giả cũng đã đề cập đến mối quan hệ giữa động từ và các diễn tố. Tuy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

4




nhiên, các luận văn này chưa có điều kiện nghiên cứu một cách chuyên sâu, có
hệ thống về sự chi phối của động từ với diễn tố chủ thể và đối thể.
Tóm lại, sự chi phối của động từ tuy đã được các nhà nghiên cứu đề cập đến
nhưng đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống và
chuyên sâu về sự chi phối của động từ đối với các diễn tố chủ thể và đối thể
(chủ ngữ, bổ ngữ) trong tiếng Việt.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ đặc điểm chi phối của động
từ trong tiếng Việt đối với hình thức và ý nghĩa của các diễn tố, góp phần bổ
sung, làm phong phú hơn lí thuyết kết trị, tạo thêm tiền đề cho việc xây dựng,
hoàn thiện lí thuyết về thành phần câu; qua đó, góp phần nâng cao chất lượng
hiệu quả dạy học ngữ pháp tiếng Việt.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu và làm rõ thêm những vấn đề lý luận chung về động từ, lí
thuyết kết trị, diễn tố, chu tố, khái niệm chi phối, đặc điểm chi phối của động từ
với chủ ngữ và bổ ngữ.
- Tiến hành phân tích, miêu tả làm rõ đặc điểm chi phối của động từ đối
với hình thức và ý nghĩa của diễn tố chủ thể (chủ ngữ) và diễn tố đối thể (bổ
ngữ) trong tiếng Việt.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đặc điểm chi phối của động từ trong
tiếng Việt nhìn từ góc độ cú pháp (từ thuộc tính kết trị của từ).
4.2. Phạm vi nghiên cứu là sự chi phối của động từ đối với hai kiểu diễn tố:
diễn tố chủ thể và diễn tố đối thể trong tiếng Việt hiện đại. Nguồn ngữ liệu
được dựa vào để phân tích, miêu tả chủ yếu là những câu được rút ra từ một số
tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

5




5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu trên, chúng tôi sử dụng các
phương pháp nghiên cứu chính như sau:
5.1. Phương pháp phân tích

Phương pháp này được dùng để phân tích các đặc điểm chi phối của
động từ đối với các diễn tố xuất hiện trong câu văn mà chúng tôi sử dụng làm
cứ liệu; từ đó, tìm ra những kiểu chi phối của động từ đối với hình thức, ý
nghĩa của các diễn tố.
5.2. Phương pháp miêu tả
Phương pháp này dùng để miêu tả đặc điểm ý nghĩa và đặc điểm hình
thức của các diễn tố chịu sự chi phối của động từ. Về thủ pháp, luận văn sử
dụng các thủ pháp hình thức như lược bỏ, bổ sung, thay thế, cải biến.
6. Những đóng góp của luận văn
- Về mặt lí luận:
+ Góp phần làm rõ những vấn đề lí luận về sự chi phối của động từ: khái
niệm chi phối, các đặc điểm chi phối của động từ tiếng Việt đối với diễn tố chủ thể
và diễn tố đối thể nhìn từ góc độ kết trị chủ động của động từ - vị ngữ.
+ Chỉ ra được các kiểu chi phối cụ thể của động từ đối với diễn tố chủ
thể và diễn tố đối thể; qua đó, góp phần làm sáng tỏ thuộc tính kết trị chủ động
của động từ trong vai trò hạt nhân hay đỉnh cú pháp của câu.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử
dụng để biên soạn các tài liệu phục vụ cho việc dạy học ngữ pháp tiếng Việt
trong nhà trường.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Sự chi phối của động từ đối với diễn tố chủ thể (chủ ngữ)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

6





Chương 3: Sự chi phối của động từ đối với diễn tố đối thể (bổ ngữ)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

7




Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Động từ
1.1.1. Khái niệm động từ
Động từ là từ loại có số lượng lớn và là một trong hai từ loại cơ bản của
tiếng Việt. Với số lượng lớn và đặc điểm ý nghĩa, đặc điểm hoạt động ngữ pháp
phức phức tạp nhất, động từ giữ vai trò ngữ pháp quan trọng trong việc tổ chức,
cấu tạo câu trong tiếng Việt. Phạm vi hoạt động của động từ khá rộng và đa dạng.
Do đó, động từ là từ loại đã thu hút sự chú ý quan tâm đặc biệt của nhiều nhà
nghiên cứu. Vai trò của động từ đã được Nguyễn Kim Thản khẳng định: “Trong
câu, động từ gần như là trung tâm của các mối quan hệ của các từ, nó không
những có mối quan hệ tường thuật với từ chỉ chủ thể mà còn có quan hệ chính phụ
với những từ chỉ đối tượng, chỉ hoàn cảnh, trạng thái... đặt sau nó” [51, 97].
Theo “Từ điển tiếng Việt”, động từ là “từ chuyên biểu thị hành động,
trạng thái hay quá trình, thường làm vị ngữ trong câu” [43, 346].
Trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” (tập 1), Diệp Quang Ban cho rằng: “
Động từ là những từ biểu thị ý nghĩa khái quát về quá trình - ý nghĩa quá trình
thể hiện trực tiếp đặc trưng vận động của thực thể. Đó là ý nghĩa hành động, ý
nghĩa trạng thái được khái quát hóa trong mối liên hệ với vận động của thực thể
trong thời gian và không gian” [2, 90].
Theo cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” của Trung tâm khoa học xã hội và

Nhân văn quốc gia, các tác giả của cuốn sách cho rằng: “Động từ là từ có ý
nghĩa khái quát về hoạt động, trạng thái.”[63, 88].
Trong luận văn này, động từ được xác định theo các tiêu chí sau: Về mặt
ý nghĩa, chỉ hoạt động (hành động hay trạng thái), có khả năng được bổ sung ý
nghĩa thời thể (thời gian, mệnh lệnh, phương thức...). Về mặt hình thức, động
từ có khả năng thay thế bằng những từ nghi vấn “làm gì”, “làm sao”, có khả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

8




năng kết hợp với các phó từ chỉ thời gian, mệnh lệnh, kết quả...(đã, sẽ, đang,
hãy, đừng, chớ, xong, rồi...). Trên cơ sở cách hiểu này, chúng ta có thể đưa ra
cách hiểu khái quát về động từ như sau: Động từ là một từ loại thực từ dùng để
chỉ hoạt động (hành động, trạng thái) của sự vật, hiện tượng.
1.1.2. Vấn đề phân loại động từ, các tiểu loại động từ
Về vấn đề phân loại động từ, đã có nhiều chuyên khảo đề cập đến. Trong
luận văn này, chúng tôi xin trình bày một cách ngắn gọn, khái quát một số ý
kiến chính về vấn đề phân loại động từ.
Thứ nhất: Cách phân loại động từ dựa vào ý nghĩa và hình thức ngữ pháp
(đặc điểm hoạt động ngữ pháp)
Dựa vào cách phân loại này, động từ được chia làm hai nhóm: động từ thực từ và động từ ngữ pháp (bán thực từ).
Động từ thực từ là những động từ có ý nghĩa cụ thể, chân thực - ý nghĩa
hoạt động, có khả năng độc lập thay thế bằng các từ nghi vấn như: làm gì? làm
sao? có khả năng độc lập làm vị ngữ trong câu (ví dụ: ăn, đọc, đánh, nói, viết,
đi, chạy, ốm...).
Động từ ngữ pháp được hiểu là những động từ không có ý nghĩa cụ thể,
chân thực. Nhóm động từ này đã bị hư hóa, trống nghĩa từ vựng, chúng mang ý

nghĩa trừu tượng, khái quát. Vì vậy, các động từ này hầu như không có khả
năng độc lập thay thế bằng từ nghi vấn và nói chung, không có khả năng độc
lập làm vị ngữ. Động từ ngữ pháp được chia làm hai nhóm cơ bản là động từ
tình thái và động từ quan hệ. Động từ tình thái là những động từ biểu thị hoạt
động khái quát về khả năng, ý chí. Dựa vào ý nghĩa, có thể chia động từ tình
thái thành các nhóm chính sau:
- Nhóm động từ chỉ sự cần thiết: cần, nên, phải, cần phải...
- Nhóm động từ chỉ khả năng: có thể, không thể, dám...
- Nhóm động từ chỉ ý định: định, toan, muốn...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

9




- Nhóm động từ chỉ ý chí: quyết, nhất quyết, cố, cố gắng...
- Nhóm động từ chỉ nhu cầu tự nhiên: buồn (trong buồn ngủ), thèm...
Động từ quan hệ là những động từ biểu thị quan hệ giữa chủ thể và nội
dung nêu ở những từ sau nó. Đó là quan hệ giữa các thực thể, các quá trình hay
các đặc trưng. Nhóm động từ này được chia nhỏ như sau:
- Động từ chỉ quan hệ đồng nhất hiểu rộng (gồm cả quan hệ chức
nghiệp): là, làm...
- Động từ chỉ quan hệ sở hữu: có, còn
- Động từ chỉ quan hệ biến hóa theo thời gian: thành, trở thành, trở nên...
- Động từ chỉ quan hệ nhân quả: làm, khiến...
- Động từ chỉ quan hệ định vị: ở
Các động từ thực từ được chia tiếp thành động từ chủ động và động từ
không chủ động. Động chủ động là những động từ chỉ hoạt động có chủ ý, xuất
phát từ chủ thể và chủ thể có thể điều khiển hành động theo ý muốn, ví dụ: ăn,

đọc, đánh, nói, viết, đi, chạy... Động từ không chủ động là những động từ chỉ
hoạt động không xuất phát từ chủ thể, chủ thể không điều khiển được hoạt
động theo ý muốn của mình, ví dụ: tan, cháy, đổ, vỡ... Tiếp tục phân chia động
từ chủ động, ta có động từ tác động và động từ không tác động. Động từ tác
động được hiểu là những động từ biểu thị những hoạt động tác động đến đối thể
mà kết quả của những hoạt động đó làm cho đối tượng bị thay đổi về phương
diện nào đó (nảy sinh, tiêu biến, thay đổi về vị trí) như: xây, đắp, ăn, đập, phá...
Động từ không tác động là động từ biểu thị hoạt động không tác động đến đối
thể như: chạy, bơi, đi, nhảy... Tìm hiểu động từ tác động, chúng ta sẽ thấy
nhóm động từ này có hai hoạt động đối lập: hoạt động tạo ra đối tượng (động từ
tạo tác) như: xây, đắp, đào, vẽ, nặn... và hoạt động làm chuyển biến đối tượng
về mặt nào đó (động từ chuyển tác) như: đốt, chặt, phá, đánh... Động từ không
tác động được chia thành: động từ chỉ hoạt động chuyển động như: đi, chạy,
nhảy... và động từ chỉ hoạt động không chuyển động như: ngủ, nghĩ... Giữa các
động từ tác động và động từ không tác động có một vài nhóm có đặc tính trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

10




gian. Đó là những động từ tuy cũng chỉ hoạt động hướng tới đối thể nhưng
không thực sự tác động vào đối thể. Tiêu biểu cho các nhóm đó là động từ chỉ
sự chuyển động có huớng như: ra, vào, lên, xuống... Động từ tác động về cơ
bản, phù hợp với động từ ngoại huớng (ngoại động), còn động từ không tác
động về cơ bản, phù hợp với động từ nội huớng (nội động) theo cách phân loại
truyền thống.
Như vậy, căn cứ vào ý nghĩa và hình thức ngữ pháp, chúng ta thấy động
từ được chia thành nhiều tiểu loại, mỗi tiểu loại lại có những dấu hiệu đặc trưng

riêng về ý nghĩa và hoạt động ngữ pháp.
Thứ hai: Phân loại động từ dựa vào đặc điểm chi phối
Đặc điểm chi phối của động, từ theo cách hiểu chung, (áp dụng cho cả
ngôn ngữ biến hình và ngôn ngữ không biến hình) là khả năng của động từ đòi
hỏi sự có mặt và quy định đặc tính (ý nghĩa và hình thức) của các bổ ngữ.
Dựa vào đặc điểm chi phối, động từ được chia thành hai loại chính: động
từ nội hướng (nội động) và động từ ngoại hướng (ngoại động). Động từ nội
hướng là động từ không chi phối bổ ngữ (ví dụ: nằm, ngủ, thức, đánh...) còn
động từ ngoại hướng là động từ có khả năng chi phối các bổ ngữ (ví dụ: ăn,
đọc, vẽ, viết, đánh, đọc...) Tuy nhiên, sự phân loại động từ theo cách này vẫn
còn tồn tại những vấn đề chưa dứt khoát, rõ ràng. Đó là sự có mặt của những
động từ trung tính (ví dụ: có, còn, gật, lắc...) hoặc những động từ mang dấu
hiệu đặc trưng cho cả động từ nội hướng lẫn động từ ngoại hướng.
Thứ ba: Phân loại động từ theo kết trị
Cách phân loại này dựa vào số lượng và đặc tính của các diễn tố xuất
hiện bên động từ. Với cách phân loại này, động từ được chia thành: động từ
không đòi hỏi diễn tố (động từ vô trị: mưa, nắng, sáng, tối...) và động từ đòi hỏi
diễn tố. Tiếp tục phân chia động từ đòi hỏi diễn tố, ta có động từ đòi hỏi một
diễn tố (động từ đơn trị: thức, ngủ...), động từ đòi hỏi hai diễn tố (động từ song
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

11




trị: ăn, đọc, đánh...), động từ đòi hỏi ba diễn tố (động từ tam trị: tặng, biếu,
cấm, bắt...).
Cách phân loại động từ theo kết trị rất gần với cách phân loại động từ
theo đặc điểm chi phối nhưng có tính khái quát cao hơn. Với cách phân loại

động từ theo đặc điểm chi phối, thuộc tính cú pháp được chú ý chỉ là khả năng
kết hợp về phía sau của động từ (kết hợp với diễn tố đối thể). Với cách phân
loại động từ theo lí thuyết kết trị, thuộc tính cú pháp được chú ý gồm cả khả
năng kết hợp về phía trước (với diễn tố chủ thể) và khả năng kết hợp về phía
sau của động từ (với diễn tố đối thể).
Phân tích các cách phân loại động từ trên đây, chúng tôi thấy cả ba cách
phân loại đều có cơ sở khoa học và có giá trị thực tiễn. Việc lựa chọn cách phân
loại nào còn tùy thuộc vào quan điểm, mục đích của người học tập, giảng dạy,
nghiên cứu. Trong luận văn này, chúng tôi lựa chọn cách phân loại thứ ba
nhưng vẫn sử dụng kết quả của cách phân loại thứ nhất và thứ hai khi phân
tích, miêu tả đặc điểm chi phối của động từ.
1.2. Vài nét về lí thuyết kết trị, khái niệm diễn tố, chu tố
1.2.1. Vài nét về lí thuyết kết trị
1.2.1.1. Khái niệm kết trị
Thuật ngữ kết trị (hóa trị, ngữ trị, tiếng Pháp: valence, tiếng Nga:
valentnost) vốn được dùng trong ngành hóa học để chỉ thuộc tính kết hợp của
các nguyên tử với một số lượng xác định các nguyên tử khác. Thuật ngữ này
mới chỉ được dùng rộng rãi trong ngôn ngữ học từ cuối những năm bốn mươi
của thế kỉ XX để chỉ khả năng kết hợp của các lớp từ hoặc các lớp hạng đơn vị
ngôn ngữ nói chung.
Theo cách hiểu hẹp, kết trị chỉ là thuộc tính kết hợp của động từ hoặc
một số từ loại nhất định. Với cách hiểu này, kết trị của động từ được hiểu là
khả năng của động từ kết hợp vào mình các thành tố bắt buộc (bổ ngữ, chủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

12





ngữ) và các thành tố tự do (trạng ngữ). Với vai trò hạt nhân, động từ quy định
số lượng và đặc tính của các thành tố có quan hệ với nó. Cách dùng thuật ngữ
kết trị theo nghĩa hẹp gắn với tên tuổi của nhà ngôn ngữ học người Pháp L.Tesnière, người sáng lập ra lí thuyết kết trị.
Cách hiểu hẹp về kết trị cũng được nhà ngôn ngữ học Liên xô (cũ) là
S.D.Kasnelson xác định trong các công trình nghiên cứu của mình. Theo
S.D.Kasnelson, kết trị là thuộc tính của lớp từ nhất định kết hợp vào mình
những từ khác (dẫn theo Nguyễn Văn Lộc [34]). Tác giả này cũng cho rằng:
mỗi từ về nguyên tắc đều có khả năng kết hợp với những từ nhất định nào đó
nhưng như thế không có nghĩa là tất cả các từ đều có kết trị mà chỉ là những từ
có khả năng tạo ra các “ô trống” đòi hỏi làm đầy trong các phát ngôn mới có
kết trị. Kết trị của động từ được xác định theo số lượng các vị trí mở - các ô
trống bao quanh từ mà theo S.D.Kasnelson, ở động từ có không quá bốn vị trí.
Theo cách hiểu rộng, kết trị được coi là thuộc tính kết hợp của các đơn vị
ngôn ngữ cùng cấp độ. Theo cách hiểu này thì kết trị của từ được xác định dựa
vào toàn bộ các mối quan hệ cú pháp có thể có đối với nó. Kết trị của từ theo
nghĩa rộng được hiểu là khả năng của các từ loại thực từ tạo ra xung quanh
mình các vị trí mở cần hoặc có thể làm đầy bởi các thành tố cú pháp (thực từ)
nhất định. Trong luận văn này, chúng tôi hiểu kết trị theo cách hiểu rộng. Với
cách hiểu này, kết trị của động từ được hiểu là khả năng của động từ tham gia
vào các mối quan hệ cú pháp nói chung. Đó là thuộc tính kết hợp cú pháp của
động từ với tư cách là đại diện của từ loại, tiểu loại.
1.2.1.2. Các kiểu kết trị
Kết trị của từ hiểu như là thuộc tính kết hợp cú pháp của nó là phạm trù
phức tạp, không thuần nhất. Bởi vậy, có thể phân loại kết trị của từ thành
những kiểu khác nhau. Dưới đây, là một số cách phân loại cơ bản:
a. Kết trị nội dung và kết trị hình thức
* Kết trị nội dung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

13





Kết trị nội dung là sự kết hợp về mặt ngữ nghĩa giữa từ mang kết trị và
các diễn tố, chu tố. Kết trị nội dung thường được xác định theo đặc điểm về ý
nghĩa cú pháp (các kiểu nghĩa như chủ thể, đối thể, công cụ, nguyên nhân...)
của các diễn tố, chu tố và gắn chặt với ý nghĩa của từ mang kết trị. Vì kết trị nội
dung gắn với nghĩa của từ nên sự thay đổi về ý nghĩa của từ sẽ kéo theo sự thay
đổi kết trị nội dung của nó. Chẳng hạn, động từ “chạy” trong tiếng Việt vốn có
ý nghĩa nội hướng và khi được dùng với nghĩa vốn có của mình, “chạy” không
thể có kết trị đối thể (Ví dụ: Nó đang chạy trên đường). Nhưng khi được dùng
với nghĩa ngoại hướng, “chạy” hoàn toàn có thể có các kết trị đối thể như các
động từ ngoại hướng khác (Ví dụ: Nó chạy thóc vào nhà).
* Kết trị hình thức
Kết trị hình thức của từ là mối quan hệ (sự kết hợp) về hình thức giữa từ
mang kết trị và các yếu tố bổ sung (ở động từ là các diễn tố, chu tố). Nếu kết trị
nội dung chỉ gắn với mặt nghĩa của từ thì kết trị hình thức gắn với hình thức
ngữ pháp của từ. Sự đối lập giữa kết trị nội dung và kết trị hình thức được bộc
lộ rõ rệt trong ngôn ngữ biến hình. Ví dụ trong tiếng Nga, hình thức động từ
“chitaju” về mặt kết trị nội dung, đòi hỏi hai diễn tố bắt buộc là chủ thể và đối
thể hoạt động. Nhưng khi xác định các yếu tố làm đầy các vị trí bên hình thức
của động từ này, chúng ta không thể chỉ chú ý đến ý nghĩa từ vựng - ngữ pháp
của từ. Ta chỉ có thể nói: “Ja chitaju knigu” chứ không thể nói: “On chitaju
kniga”. Cấu trúc sau sở dĩ không chấp nhận được là vì giữa các từ không có sự
phù hợp về hình thức ngữ pháp, tức là thiếu kết trị hình thức.
Với các ngôn ngữ không biến hình như tiếng Việt, tiếng Hán... trong
thành phần cấu tạo của từ không có các yếu tố hình thái dùng để biểu thị quan
hệ cú pháp (quan hệ hình thức) nhưng từ thực tế này, không ai lại nghĩ rằng khi
kết hợp từ trong các ngôn ngữ biến hình, chỉ cần chú ý đến ý nghĩa từ vựng và

ý nghĩa từ vựng - ngữ pháp của từ là đủ. Chẳng hạn, động từ “đọc” trong tiếng
Việt, về kết trị nội dung đòi hỏi hai diễn tố là chủ thể và đối thể hoạt động, các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

14




từ “tôi”, “sách” về mặt từ vựng - ngữ pháp có thể làm đầy các vị trí bên động
từ này. Nếu nói “Tôi đọc sách”, thì hoàn toàn có thể chấp nhận được. Nhưng
nếu nói “Tôi sách đọc” thì ta chỉ có một chuỗi từ hỗn độn vô nghĩa vì ở cấu
trúc này không có sự phù hợp về hình thức ngữ pháp (vị trí) giữa các từ. Trong
câu “Trong cuộc sống của mỗi con người đều mong muốn được sung sướng,
hạnh phúc”, ta nhận thấy người viết có chủ ý đặt nhóm danh từ “mỗi con
người” làm chủ ngữ (diễn tố chủ thể) của động từ vị ngữ “mong muốn”, tức là
xác lập mối quan hệ chủ vị giữa động từ “mong muốn” và nhóm danh từ trên.
Nhưng ngược lại với ý định của người viết, mối quan hệ chủ vị ở đây đã không
được hiện thực hóa. Nhân tố cản trở sự hiện thực hóa mối quan hệ chủ vị ở đây
là hình thức ngữ pháp của từ (trong tiếng Việt, chủ ngữ về hình thức ngữ pháp,
không những phải chiếm vị trí trước vị ngữ mà còn phải không được dẫn nối
bởi quan hệ từ). Trong khi đặt câu, nếu chỉ chú ý đến kết trị nội dung (khả năng
kết hợp ngữ nghĩa) mà không chú ý đến kết trị hình thức (phù hợp về hình thức
ngữ pháp) của từ, người viết rất dễ phạm sai lầm như trường hợp trên đây.
Khẳng định vai trò của mặt hình thức trong sự tổ hợp của từ trong tiếng
Việt, các sách ngữ pháp khi nói về sự kết hợp của hai thành tố A và B nào đó
thường không chỉ đặt ra và trả lời câu hỏi : “A và B có khả năng kết hợp với
nhau hay không ?” mà còn đặt ra và trả lời các câu hỏi khác : “Nếu A và B kết
hợp được với nhau thì kết hợp theo trật tự nào? Kết hợp theo phương thức
nào ?” Đề cập đến trật tự kết hợp và phương thức kết hợp thực chất là đề cập

đến mặt hình thức ngữ pháp của từ theo nghĩa rộng, tức là đề cập đến kết trị
hình thức của từ.
Như vậy, kết trị nội dung và kết trị hình thức có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau nhưng không phải luôn tương ứng với nhau theo kiểu “một đối một”.
Vì kết trị nội dung phụ thuộc chặt chẽ vào mặt nghĩa của từ nên là phạm trù
mang tính phổ quát. Kết trị hình thức, trái lại, vì gắn với đặc tính của từ trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

15




mỗi ngôn ngữ cụ thể nên là phạm trù mang tính đặc thù; nghĩa là trong các
ngôn ngữ khác nhau, đặc biệt là trong các ngôn ngữ khác loại hình, kết trị hình
thức của từ thể hiện khác nhau.
Sự không trùng nhau giữa kết trị nội dung và kết trị hình hình thức còn
có thể thấy trong từng ngôn ngữ, thậm chí ở từng từ. Trong tiếng Nga, kết trị
điểm đến (kết trị nội dung) của động từ “vstupat” (bước vào) tương ứng với hai
kết trị hình thức.
So sánh hai cấu trúc:
Vstupat na fakulchet (bước vào khoa)
Vsutupat v universichet (bước vào trường)
Trong tiếng Việt, một kết trị nội dung tương ứng với một vài kết trị hình
thức cũng không phải là hiện tượng hiếm (so sánh: “đấu tranh vì tự do” và
“đấu tranh cho tự do”; “nói cho nó biết “và “nói để nó biết”...).
Những đặc điểm riêng của kết trị nội dung và kết trị hình thức, sự không
trùng nhau giữa hai kiểu kết trị này cho phép khi miêu tả kết trị của từ, có thể
xem xét theo từng mặt một. Chẳng hạn, phân tích kết trị của từ theo mặt nội
dung, có thể phân biệt các kiểu cụ thể như: kết trị chủ thể, đối thể, công cụ,

nguyên nhân... Theo mặt hình thức, có thể phân biệt các kiểu kết trị trực tiếp,
gián tiếp... Tuy nhiên, kết trị nội dung và kết trị hình thức là hai mặt gắn bó
chặt chẽ với nhau nên không thể miêu tả kết trị nội dung và kết trị hình thức
một cách hoàn toàn tách biệt nhau.
b. Kết trị bắt buộc và kết trị tự do
* Kết trị bắt buộc
Kết trị bắt buộc là khả năng của các từ loại tạo ra xung quanh mình các
vị trí mở cần làm đầy bởi các thành tố bắt buộc (ở động từ là các diễn tố).
Đặc điểm của diễn tố với tư cách là thành tố thể hiện kết trị bắt buộc của
động từ:
Về nghĩa: Nghĩa của các diễn tố phụ thuộc chặt chẽ vào nghĩa của động
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

16




từ và chỉ được xác định xét trong mối quan hệ với nghĩa của động từ. Ví dụ,
trong cấu trúc “Nam đọc sách ở thư viện.”, nghĩa chủ thể và đối thể hoạt động
của các diễn tố “Nam” và “sách” (thành tố bắt buộc) chỉ được xác định trong
mối quan hệ với nghĩa của động từ “đọc”.
Về vai trò đối với việc tổ chức cấu trúc: Các diễn tố quan trọng hơn hẳn
thành tố tự do (chu tố). Sự xuất hiện của các diễn tố là do nghĩa của động từ đòi
hỏi. Việc lược bỏ diễn tố chỉ cho phép trong điều kiện ngữ cảnh hoặc tình
huống nói năng nhất định.
Về mặt phân bố (vị trí): Diễn tố vì gắn với động từ chặt chẽ hơn nên
thường đứng sát động từ.
* Kết trị tự do
Kết trị tự do là khả năng của các từ loại tạo ra xung quanh mình các vị trí

mở cần làm đầy bởi các thành tố tự do (ở động từ là các chu tố).
Đặc điểm của chu tố với tư cách là thành tố thể hiện kết trị tự do của
động từ:
Về nghĩa: Nghĩa của chu tố độc lập tương đối với nghĩa động từ. Trong
cấu trúc “Nam đọc sách ở thư viện.”, nghĩa vị trí, địa điểm của chu tố “ở thư viện”
(thành tố tự do) có thể được xác định một cách độc lập với nghĩa nghĩa của động
từ “đọc”.
Về vai trò đối với việc tổ chức cấu trúc: Các chu tố không quan trọng bằng
các diễn tố. Sự xuất hiện của các chu tố chỉ phản ánh khả năng của động từ được
xác định rõ thêm về nghĩa và phụ thuộc chủ yếu vào mục đích giao tiếp.
Về mặt phân bố (vị trí): Chu tố thường không gắn bó chặt chẽ với động
từ như diễn tố và nếu sau động từ có xuất hiện cả diễn tố lẫn chu tố thì chu tố
thường đứng sau diễn tố, tức là đứng xa động từ hạt nhân hơn.
Mặc dù sự đối lập giữa kết trị bắt buộc và tự do là rất rõ nhưng cần thấy
ranh giới giữa chúng không phải lúc nào cũng rõ ràng, dứt khoát. Có thể so
sánh hai câu sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

17




(1) Tôi tắm cho con.
(2) Nó trông nhà cho mẹ.
Trong hai cấu trúc trên đây, từ “ con” và “mẹ” đều chỉ kẻ được quan tâm,
phục vụ. Nhưng từ “con” ở cấu trúc (1) có nhiều đặc tính của thành tố bắt buộc,
còn từ “mẹ” ở cấu trúc (2) lại có nhiều đặc tính của thành tố tự do. Khó có thể
cho rằng, trong trường hợp trên đây, ta có hai kiểu kết tố khác hẳn nhau (một
thuộc kết tố bắt buộc, một thuộc kết tố tự do); còn nếu cho rằng trong trường

hợp trên đây chỉ có một kết tố duy nhất chỉ kẻ được quan tâm phục vụ thì khi
miêu tả kết trị của động từ, kiểu kết tố này lại cần được xem xét cả trong phạm
vi kết trị bắt buộc lẫn tự do với hành động và hoàn cảnh và điều đó cũng tạo
nên sự phức tạp trong miêu tả kết trị.
c. Kết trị chủ động và kết trị bị động
* Kết trị chủ động
Kết trị chủ động là khả năng kết hợp của từ với tư cách là thành tố chính,
thành tố giữ vai trò chi phối (thành tố tạo ra các vị trí mở).
* Kết trị bị động
Kết trị bị động là khả năng của từ tham gia vào mối quan hệ cú pháp với tư
cách là thành tố phụ thuộc, thành tố bị chi phối (thành tố làm đầy các vị trí mở).
1.2.2. Khái niệm diễn tố, chu tố, các kiểu diễn tố
1.2.2.1. Khái niệm diễn tố, chu tố
Theo L. Tesnière, động từ là trung tâm của câu, nó biểu thị cái tương tự
như một vở kịch nhỏ với các vai diễn (các diễn tố, bổ ngữ) và hoàn cảnh (chu
tố, trạng ngữ). Trở lại ví dụ như đã nói, động từ biểu thị quá trình ( frappe đánh trong Alfred frappe Bernanrd). Các diễn tố chỉ người hay vật tham gia
vào quá trình với tư cách bất kì (chủ động hay bị động). Chẳng hạn, trong câu
trên, các diễn tố là Alfred và Bernanrd. Các diễn tố (actant) có những đặc điểm
chung là:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

18




+ Đều phụ thuộc vào động từ, là kẻ thể hiện kết trị của động từ, kể cả
diễn tố chủ thể (chủ ngữ).
+ Đều có tính bắt buộc, nghĩa là sự xuất hiện của chúng do nghĩa của

động từ đòi hỏi và việc lược bỏ chúng sẽ làm cho nghĩa của động từ trở nên
không xác định.
+ Về hình thức, chúng được biểu hiện bằng các danh từ hoặc các yếu tố
tương đương. (Các yếu tố này theo L. Tesnière, gồm đại từ, động từ nguyên
dạng và mệnh đề phụ bổ ngữ mà ông gọi là mệnh đề phụ diễn tố).
Cùng nằm trong phần cấu trúc của câu động từ, bên cạnh các diễn tố còn
có các chu tố (circonstant).
+ Xét về nghĩa, các chu tố biểu thị hoàn cảnh (thời gian, vị trí, phương
thức...) trong đó quá trình được mở rộng. Ví dụ, trong câu: Alfred fourve
toujours son nez partout (Anphret ở đâu cũng luôn ngoáy cái mũi của mình), có
hai chu tố là toujours (luôn luôn) và partout (ở mọi nơi).
+ Xét về cấu tạo, các chu tố luôn luôn là trạng từ (thời gian, vị trí, phương
thức ...) hoặc yếu tố tương đương (trong đó có các mệnh đề phụ ); ngược lại,
trong câu, các trạng từ luôn đảm nhiệm chức năng chu tố. Ví dụ, trong câu
Alfred parl bien (Anphret nói hay), từ bien (hay) sẽ là chu tố.
+ Xét về chức năng, chu tố cũng phụ thuộc trực tiếp vào động từ. Quan
niệm này của L. Tesnière khác với quan niệm truyền thống coi trạng ngữ là
thành phần phụ của cả nòng cốt câu (chủ ngữ, vị ngữ).
Như vậy, theo quan niệm của L. Tesnière, ta có thể hiểu diễn tố là thành
phần phụ bắt buộc của câu (chủ ngữ và bổ ngữ); còn chu tố là trạng ngữ hay
các yếu tố tự do trong câu.
1.2.2.2. Các kiểu diễn tố
Các diễn tố (actants) theo cách hiểu của L. Tesnière là các thành tố phụ thể
hiện kết trị bắt buộc của động từ. Chúng gồm hai kiểu chính là diễn tố chủ thể
(Sujet) và diễn tố đối thể (Obijet).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

19





×