Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

ôn tập kiểm tra cuối kỳ môn luật ngân sách (kết quả bài luận đạt điểm B+)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.76 KB, 12 trang )

3. Phân tích nội dung của nguyên tắc “tập trung, dân chủ, công khai, minh bạch” trong
quản lý và điều hành NSNN?
Thể hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trước hết là việc ban hành các quy định của pháp luật để
điều chỉnh về quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước do cơ quan quyền lực cao nhất đại diện cho mọi
tầng lớp nhân dân quyết định, đó là Quốc hội. Nguyên tắc tập trung dân chủ còn thể hiện từ việc phân
cấp ngân sách của trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách địa phương cũng phân theo 3 cấp là
tỉnh, huyện và xã. Các cấp ngân sách có tính độc lập tương đối với nhau, do đó căn cứ vào nguồn dự toán
thu, chi hằng năm được quốc hội quyết định ở trung ương và hội đồng nhân dân các cấp tại địa phương.
Việc quản lý, sử dụng ngân sách từng cấp được áp dụng phù hợp theo nhiệm vụ, yêu cầu và phù hợp từng
cấp quản lý và đúng theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. Nguyên tắc công khai minh
bạch là nguyên tắc có tính chi phối và ngự trị trong tất cả các hoạt động về ngân sách nhà nước. Thể hiện
ở những khâu như: lập dự toán thu, chi ngân sách hàng năm, phê duyệt dự toán, quyết toán ngân sách,
chế độ về kiểm toán và công tác thanh
kiểm tra. Tất cả đều được sự giám sát kiểm tra của nhân dân thông qua cơ quan đại diện đó là quốc hội
và hội đồng nhân dân các cấp trong việc chấp hành ngân sách. điều 13 luật ngân sách nhà nước 2002
quy định: “Dự toán, quyết toán, kết quả kiểm toán quyết toán ngân sách nhà nước, ngân sách các cấp, các
đơn vị dự toán ngân sách, các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ phải công bố công khai. Quy
trình, thủ tục thu, nộp, miễn, giảm, hoàn lại các khoản thu, cấp phát và thanh toán ngân sách phải được
niêm yết rõ ràng tại nơi giao dịch”
4. Trình bày các nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nứơc và nguyên tắc cân đối ngân sách
địa phương. Tại sao lại có sự khác biệt trong nguyên tắc cân đối NSNN và nguyên tắc cân đối NS
địa phương?
+ Nguyên tắc cân đối NSNN: Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí,
lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát
triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu,
chi ngân sách. (K1D8LNS) - Thu ngân sách nhà nước từ thuế, phí, lệ phí và một số khoản thu không mang
tính chất thuế như: thu lợi tức cổ phần nhà nước, thu từ cho thuê và bán tài sản thuộc sở hữu nhà nước…
là những khoản thu thường xuyên của nhà nước và được hình thành theo nguyên tắc không hoàn trả.
Các khoản thu này còn được gọi là các khoản thu trong cân đối ngân sách được sử dụng ưu tiên cho các
khoản chi tiêu dùng thường xuyên của chính phủ, phần còn lại sẽ dành cho chi đầu tư phát triển. - Thu từ
các khoản viện trợ và vay nợ của chính phủ. Nguồn thu này dùng để bù đắp số thiếu hụt của ngân sách


nhà nước do chênh lệch giữa tổng số chi và tổngsố thu trong cân đối ngân sách để đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế. Do đó, cáckhoản thu viện trợ và vay nợ của chính phủ được gọi là các khoản thu bù đắp
thiếuhụt của ngân sách.
Cơ chế cân đối ngân sách nhà nước này tạo ra thế chủ động rất lớn cho chính phủ cho phép giải quyết
trước hết các nhu cầu cấp bách để ổn định đời sống và trật tự xã hội, hơn nữa nó cũng vạch ra một ranh
giới rõ ràng về phạm vi tiêu dùng nằm trong giới hạn các khoản thu nhập do nền kinh tế tạo ra. Các
khoản thu bù đắp thiếu hụt (vay) chỉ phục vụ cho chi đầu tư phát triển nhằm đảm bảo khả năng trả nợ
cho chính phủ. + Nguyên tắc cân đối NSĐP: Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng
số chi không vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu đầu tư
xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư
trong kế hoạch 5 năm đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối
của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép huy động vốn trong nước và phải cân đối ngân sách
cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt
quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh(K3D8LNS)
Trong dự toán NSĐP luôn có sự cân bằng giữa thu và chi vì NSĐP nếu thu cố định không đủ thì có thu
điều tiết, thu điều tiết không đủ có bổ sung ngân sách nhà nước của cấp trên để cân đối thu chi. Trong khi
đó, NSTW để tạo ra sự cân bằng không có sự hỗ trợ của NSĐP mà phải xem xét điều chỉnh lại nguồn thu
và nguồn chi. Điều này cũng dẫn đến sự khác nhau trong nguyên tắc cân đối giữa hai cấp NS này. + Có sự
khác nhau vì: xuất phát từ nguyên tắc phân cấp quản lý, giữa cấp NSTW và NSĐP có nguồn thu, nhiệm vụ
chi khác nhau, để đảm bảo việc cân đối NS hợp lý thì cần có sự khác nhau trong nguyên tắc cân đối NSNN
và cân đối NSĐP


KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA THUẾ:
Thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước và sự phát triển tồn tại của nền kinh tế hàng
hoá tiền tệ. Nhà nước sử dụng thuế như một công cụ để phục vụ cho việc thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ của mình. Lịch sử càng phát triển, các hệ thống thuế khoá, các hình thức thuế khoá và pháp
luật thuế ngày càng đa dạng và hoàn thiện cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, các khoản đóng
góp của người dân cho Nhà nước được xác định và được quy định công khai bằng luật pháp của Nhà
nước .

Các khoản thuế đóng góp của dân tạo thành quỹ tiền tệ của Nhà nước. Cùng với sự hoàn thiện
chức năng của Nhà nước, phạm vi sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước ngày càng mở rộng. Nó không chỉ
đảm bảo chi tiêu để duy trì quyền lực của bộ máy Nhà nước, mà còn để chi tiêu cho các nhu cầu phúc lợi
chung và kinh tế. Như vậy gắn liền với Nhà nước, thuế luôn là một vấn đề thời sự nóng bỏng đối với các
hoạt động kinh tế xã hội và với mọi tầng lớp dân cư.
Có rất nhiều các quan điểm nhìn nhận thuế dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng đứng trên góc
độ tài chính, có thể xem xét thuế dưới khái niệm như sau:
Thuế là một trong những biện pháp tài chính bắt buộc nhưng phi hình sự của Nhà nước nhằm
động viên một số bộ phận thu nhập từ lao động, từ của cải, từ vốn, từ các chi tiêu hàng hoá và dịch vụ, từ
tài sản của các thể nhân và pháp nhân nhằm tập trung vào tay Nhà nước để trang trải các khoản chi phí
cho bộ máy nhà nước và các nhu cầu chung của xã hội. Các khoản động viên qua thuế được thể chế hoá
bằng luật.
Với nhận thức như vậy, có thể thấy rõ sự khác nhau giữa thuế với các hình thức phân phối khác dựa trên
những đặc điểm chủ yếu sau đây:


Đặc điểm thứ nhất : Thuế là một biện pháp tài chính của Nhà nước mang tính quyền lực,
tính cưỡng chế, tính pháp lý cao nhưng sự bắt buộc này là phi hình sự.
Quá trình động viên nguồn thu từ thuế của Nhà nước là quá trình chuyển đổi quyền sở hữu một bộ phận
thu nhập của các pháp nhân và thể nhân thành quyền sở hữu của Nhà nước. Do đó Nhà nước phải dùng
quyền lực để thực hiện quyền chuyển đổi. Tính quyền lực tạo nên sự bắt buộc là một tất yếu khách quan,
nhưng vì các hoạt động thu nhập của thể nhân và pháp nhân không gây cản trở cho xã hội nên tính bắt
buộc này là phi hình sự. Vì vậy có thể nói việc đánh thuế không mang tính hình phạt.
Đặc điểm này được thể chế hoá trong hiến pháp của mọi quốc gia, việc đóng góp thuế cho nhà nước được
coi là một trong những nghĩa vụ bắt buộc đối với công dân. Mọi công dân làm nghiã vụ đóng thuế theo
những luật thuế được cơ quan quyền lực tối cao quy định và nếu không thi hành sẽ bị cưỡng chế theo
những hình thức nhất định.
* Đặc điểm thứ hai: Thuế tuy là biện pháp tài chính của Nhà nước mang tính bắt buộc, song sự
bắt buộc đó luôn luôn được xác lập trên nền tảng kinh tế-xã hội của người làm nhiệm vụ đóng
thuế, do đó thuế bao giờ cũng chứa đựng các yếu tố kinh tế xã hội.

+ Yếu tố kinh tế thể hiện : Hệ thống thuế trước hết phải kể đến thu nhập bình quân đầu người của một
Quốc gia, cơ cấu kinh tế, thực tiễn vận động của cơ cấu kinh tế đó, cũng như chính sách, cơ chế quản lý
của Nhà nước. Cùng với yếu tố đó còn phải kể đến phạm vi, mức độ chi tiêu của Nhà nước nhằm thực
hiện các chức năng kinh tế của mình.
+ Yếu tố xã hội thể hiện : Hệ thống thuế phải dựa trên phong tục, tập quán của quốc gia, kết cấu giai cấp
cũng như đời sống thực tế của các thành viên trong từng giai đoạn lịch sử. Mặt khác thuế còn thực hiện
phân phối lại thu nhập xã hội đảm bảo công bằng xã hội.
Như vậy mức động viên qua thuế trong GDP của một quốc gia phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước và các vấn đề kinh tế, xã hội của quốc gia đó.


* Đặc điểm thứ ba: Thuế là một khoản đóng góp không mang tính chất hoàn trả trực tiếp. Nghiã
là khoản đóng góp của công dân bằng hình thức thuế không đòi hỏi phải hoàn trả đúng bằng số
lượng và khoản thu mà nhà nước thu từ công dân đó như là một khoản vay mượn. Nó sẽ được
hoàn trả lại cho người nộp thuế thông qua cơ chế đầu tư của Ngân sách nhà nước cho việc sản
xuất và cung cấp hàng hoá công cộng.
Đặc điểm này làm nổi rõ sự khác nhau giữa thuế và lệ phí. Lệ phí được coi là một khoản đối giá giữa Nhà
nước với công dân, khi công dân thừa hưởng những dịch vụ công cộng do nhà nước cung cấp phải trả
một phần thu nhập của mình cho nhà nước. Tuy nhiên việc trao đổi này thường không tuân thủ theo hình
thức trao đổi ngang giá dựa trên quy luật của thị trường.
Tóm lại, Thuế là một biện pháp kinh tế của mọi Nhà nước, nó được thực thi khi hoạt động kinh tế tạo ra
thu nhập hoặc sử dụng nguồn thu nhập tạo ra. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường vai trò của Nhà
nước ngày càng trở nên quan trọng thì vai trò của thuế cũng chiếm vị trí không thể thiếu được trong
công tác quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Vai trò của Thuế trong nền kinh tế thị trường:
Sử dụng cơ chế thị trường để giải quyết 3 vấn để cơ bản của nền kinh tế (sản xuất cái gì, như thế nào, cho
ai) là phát kiến vĩ đại của nhân loại, cơ chế thị trường thông qua những yếu tố của nó đã tạo ra động lực
thúc đẩy sản xuất phát triển, kích thích tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng hiệu quả, thúc đẩy
quá trình xã hội hoá sản xuất, đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung hoá sản xuất.
Bên cạnh những ưu điểm đó, cơ chế thị trường có nhược điểm là gây cho xã hội những lãng phí về lao

động, tài nguyên, vốn dẫn đến độc quyền thủ tiêu cạnh tranh. Với cơ chế phân phối qua thị trường
thường khoét sâu hố ngăn cách giữa người giầu và người nghèo, tạo sự bất ổn định về kinh tế xã hội.
Từ những ưu, nhược điểm đó cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình kinh tế -xã hội để
phát huy những mặt tích cực của cơ chế thị trường và hạn chế tối đa những nhược điểm của chúng. Để
quản lý, điều hành vĩ mô nền kinh tế xã hội, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ như: Kế hoặch hoá, pháp
luật, các chính sách tài chính tiền tệ..vv.. Trong các công cụ trên thì chính sách tài chính tiền tệ đóng vai
trò quan trọng nhất và Thuế là một công cụ quan trọng trong chính sách tài chính tiền tệ, thuế được nhà
nước sử dụng để thực hiện vai trò quản lý vĩ mô kinh tế xã hội.
Có thể thấy rõ vai trò của Thuế nổi bật ở các mặt sau:
* Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước:
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc
dân.Tất cả các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước đều được đáp ứng qua các nguồn thu từ thuế, phí và các
hình thức thu khác như: vay mượn, viện trợ nước ngoài, bán tài nguyên quốc gia, thu khác..vv.. Song thực
tế các hình thức thu ngoài thuế đó có rất nhiều hạn chế, bị ràng buộc bởi nhiều điều kiện. Do đó thuế
được coi là khoản thu quan trọng nhất vì khoản thu này mang tính chất ổn định và khi nền kinh tế càng
phát triển thì khoản thu này càng tăng. ở nước ta, Thuế thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu của Ngân
sách Nhà nước từ năm 1990. Điều này được thể hiện qua tỷ trọng số thuế trong tổng thu ngân sách .
Qua biểu trên ta thấy số thu thuế và phí đã chiếm phần chủ yếu trong tổng thu NSNN và tăng nhanh qua
các năm, đã bảo đảm về cơ bản yêu cầu chi thường xuyên ngày càng tăng của NSNN, giảm bội chi ngân
sách, giảm lạm phát, từng bước góp phần ổn định trật tự xã hội, giành một phần để tăng chi cho tích luỹ.
Như vậy, chứng tỏ thuế là nguồn thu quan trọng nhất của NSNN.
* Thuế, một công cụ góp phần điều chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước:
Chính sách thuế được đặt ra không chỉ nhằm mang lại số thu đơn thuần cho ngân sách mà yêu cầu cao
hơn là qua thu góp phần thực hiện chức năng việc kiểm kê, kiểm soát, quản lý hướng dẫn và khuyến
khích phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông đối với tất cả các thành phần kinh tế theo hướng phát triển


của kế hoạch nhà nước, góp phần tích cực vào việc điều chỉnh các mặt mất cân đối lớn trong nền kinh tế
quốc dân.
Ngày nay, hướng vào việc xử lý các mục tiêu của kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ trọng tâm của mọi chính phủ.

Sự thành công hay thất bại của việc quản lý Nhà nước, nền kinh tế là giải quyết các mục tiêu của kinh tế
vĩ mô. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, người ta thường xác định 4 mục tiêu cơ bản của kinh tế vĩ
mô mà mọi chính phủ phải theo đuổi. Bốn mục tiêu đó là:
- Đảm bảo thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế một cách hợp lý .
- Tạo được công ăn việc làm đầy đủ cho người lao động.
- ổn định giá cả, tiền tệ, chống lạm phát.
-Thực hiện sự cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
Với 4 mục tiêu trên ta có thể thấy rõ Thuế là một công cụ hết sức quan trọng nhằm biến 4 mục tiêu đó
thành hiện thực.
Thuế kích thích sự tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm:
Để thực hiện các mục tiêu này, một trong những công cụ quan trọng mà nhà nước sử dụng là chính sách
thuế. Nội dung điều tiết của thuế gồn hai mặt: Kích thích và hạn chế. Nhà nước đã sử dụng chính sách
thuế một cách linh hoạt trong từng thời kỳ nhất định, bằng việc tác động vào cung-cầu nhằm điều
chỉnh chu kỳ kinh doanh- một đặc trưng vốn có của nền kinh tế thị trường.
Khi nền kinh tế suy thoái, tức là khi đầu tư ngừng trệ, sản xuất và tiêu dùng đều giảm thì nhà nước dùng
thuế để kích thích đầu tư và khuyến khích tiêu dùng.





Bằng việc giảm thuế đánh vào sản xuất, giảm thuế đối với hàng sản xuất ra để khuyến khích tạo
lợi nhuận, kích thích việc đầu tư vào sản xuất.
Bằng việc giảm thế đánh vào tiêu dùng nhằm khuyến khích tiêu dùng.
Để hạn chế và gây áp lực đối với việc lưu giữ vốn không đưa vào đầu tư, có thể tăng thuế đánh
vào thu nhập về tiền gửi tiết kiệm và thu nhập về tài sản dự trữ, từ đó sẽ khuyến khích việc đưa vốn vào
đầu tư, sản xuất kinh doanh.
Khi nền kinh tế hưng thịnh, để ngăn chặn nguy cơ một nền kinh tế “nóng” phát triển dẫn đến lạm
phát và khủng hoảng thừa thì nhà nước dùng thuế để giảm tốc độ đầu tư ồ ạt và giảm bớt mức tiêu dùng
của xã hội. Song việc tăng thuế phải được xem xét trong một giới hạn cho phép để đảm bảo vừa tăng

nguồn thu cho NSNN vừa điều chỉnh cơ cấu ngành nghề hợp lý.
Như vậy, có thể thấy sự tác động của thuế có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế, đến việc điều tiết
kinh tế thị trường của Nhà nước. Thông qua thuế, Nhà nước thực hiện định hướng phát triển sản xuất.
Chính sách thuế có định hướng phân biệt, có thể góp phần tạo ra sự phát triển cân đối hài hoà giữa các
ngành, các khu vực, các thành phần kinh tế, làm giảm bớt chi phí xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường xảy ra các chu kỳ kinh doanh đó là chu kỳ dao động lên xuống về mức độ
thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát, sự ổn định nền kinh tế với tình trạng có đầy đủ công ăn việc làm, lạm phát
ở mức thấp để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững là hướng phấn đấu nỗ lực của mọi chính phủ
nhằm san bằng chu kỳ kinh doanh, đưa giá cả về mức ổn định.
Thuế thực hiện vai trò tái phân phối các nguồn tài chính, góp phần đảm bảo công bằng xã hội:
Kinh tế thị trường làm ra tăng sự phân hoá giàu nghèo, sự phân hoá này có những khi bất hợp lý và làm
giảm tính hiệu quả kinh tế-xã hội. Do vậy, cần phải có những biện pháp phân phối lại của cải xã hội nhằm
hạn chế sự phân hoá này, làm lành mạnh xã hội.


Nhà nước dùng thuế để điều tiết phần chênh lệch giữa người giàu và người nghèo, thông qua việc trợ
cấp hoặc cung cấp hàng hoá công cộng. Thông qua thuế thu nhập, Nhà nước thực hiện vai trò điều chỉnh
vĩ mô trong lĩnh vực tiền lương và thu nhập, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo và tiến tới công bằng xã
hội. Một khía cạnh khác của chính sách thuế nhằm điều chỉnh thu nhập là các khoản thuế đánh vào tiêu
dùng: Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế Giá trị gia tăng.
Với những hàng hóa dịch vụ thiết yếu việc giảm thuế sẽ có lợi cho người nghèo hơn và sự chênh lệch về
thu nhập cũng được giảm bớt. Trái lại những mặt hàng xa xỉ, cao cấp việc tăng thuế sẽ góp phần phân
phối lại một bộ phận thu nhập của người giàu trong xã hội. Tuy nhiên, khi sử dụng công cụ thuế để điều
chỉnh thu nhập, mức thu nên xây dựng hợp lý tránh tình trạng điều tiết quá lớn làm giảm khát vọng làm
giàu của nhà kinh doanh và giảm khả năng tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Thuế là công cụ kiềm chế lạm phát:
Nguyên nhân của lạm phát có thể do cung cầu làm cho giá cả hàng hoá tăng lên hoặc do chi phí đầu vào
tăng. Thuế được sử dụng để điều chỉnh lạm phát, ổn định giá cả thị trường. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì
nhà nước dùng thuế để điều chỉnh bằng cách giảm thuế đối với các yếu tố sản xuất, giảm thuế thu nhập
để kích thích đầu tư sản xuất ra nhiều khối lượng sản phẩm nhiều hơn. Đồng thời tăng thuế đối với hàng

hoá tiêu dùng để giảm bớt cầu. Nếu lạm phát do chi phí tăng, gia tăng thất nghiệp, sự trì trệ của tốc độ
phát triển kinh tế, giá cả đầu vào tăng, nhà nước dùng thuế hạn chế tăng chi phí bằng cách cắt giảm thuế
đánh vào chi phí, kích thích tăng năng suất lao động.
Thuế góp phần bảo hộ sản xuất trong nước và tạo điều kiện hoà nhập nền kinh tế thế giới:
Bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước tránh khỏi sự cạnh tranh khốc kiệt từ bên ngoài được coi là hết
sức cần thiết đối với các nước. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua thuế xuất nhập khẩu. Để kích
thích sản xuất trong nước phát triển, kích thích sản xuất hàng hoá xuất khẩu, nhà nước đánh thuế rất
thấp hoặc không đánh thuế vào hàng xuất khẩu. Khuyến khích xuất khẩu hàng hoá đã qua chế biến, hạn
chế xuất khẩu nguyên liệu thô. Đánh thuế nhập khẩu thấp đối với hàng hoá máy móc thiết bị trong nước
chưa sản xuất được và đánh thuế nhập khẩu cao đối với hàng hoá máy móc thiết bị trong nước đã sản
xuất được hoặc hàng hoá tiêu dùng xa xỉ.
Hiện nay, xu hướng hội nhập kinh tế đang phát triển mạnh mẽ ở trong khu vực và trên thế giới. Sự ưu
đãi, các hiệp định về thuế, tính thông lệ quốc tế của chính sách thuế có thể làm gia tăng sự hoà nhập kinh
tế giữa một số quốc gia với khu vực và cộng đồng quốc tế.
Trước sự đổi mới mạnh mẽ của cơ chế thị trường đòi hỏi hàng loạt các chính sách kinh tế, tài chính phải
thay đổi cho phù hợp, trong đó có chính sách thuế khoá. Kỳ họp thứ XI Quốc hội khoá IX nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt nam đã thông qua hai luật thuế quan trọng là Luật thuế Giá trị gia tăng và Luật
thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày 01/01/1999 thay thế cho Luật thuế doanh thu, lợi tức.
Vấn đề đặt ra là ngành thuế cũng như các đối tượng sản xuất kinh doanh phải nắm vững và thực hiện
nghiêm chỉnh 2 luật thuế này giúp cho Thuế ngày càng có sức khả thi, hiệu quả hơn trong nền kinh tế thị
trường.

GIẢI PHÁP THU THUẾ HIỆU QUẢ, CHỐNG GIAN LẬN

• Công tác tuyên truyền, hỗ trợ: Chi cục thuế có nhiều sáng tạo trong công tác truyên truyền như: nội
dung tuyên truyền được đổi mới, đảm bảo thống nhất trong đó trọng tâm là tuyên truyền, giáo dục pháp
luật thuế và đặc biệt chú trọng đến phổ biến nội dung các luật thuế mới được sửa đổi, ban hành. Ngoài
ra, Chi cục còn tích cực hỗ trợ người nộp thuế, đảm bảo thủ tục nhanh chóng không gây phiền hà cho
doanh nghiệp cũng như người nộp thuế
. • Công tác tổ chức cán bộ: Chi cục thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn, tổ chức giao lưu với các chi

cục khác, khuyến khích cán bộ tự học hỏi nâng cao trình độ vì vậy trình độ cán bộ được nâng lên đáng kể,
góp phần quản lý thu ngân sách đạt kết quả tốt. Bên cạnh đó, chi cục đã kiên quyết xử lý những cán bộ vi
phạm 10 điều kỷ luật của ngành. • Công tác quản lý đối tượng nộp thuế: thực hiện công việc này đã giúp


Chi cục tính toán được số lượng và ngành nghề kinh doanh của đối tượng nộp thuế trong kỳ một cách
chính xác.
• Công tác kiểm tra: công tác kiểm tra được chi cục chú trọng nhằm tăng cường hiệu quả của công tác
quản lý thuế. Chi cục tiến hành song song 2 biện pháp kiểm tra: - Kiểm tra tại cơ quan thuế: việc kiểm tra
bao gồm kiểm tra hồ sơ khai thuế và kiểm tra căn cứ tính thuế để xác định số thuế phải nộp. Nó có tác
dụng nhất định trong việc ngăn ngừa và xử phạt các doanh nghiệp vi phạm. - Kiểm tra tại trụ sở người
nộp thuế: cơ quan thuế cũng có thể quyết định kiểm tra tại trụ sở của người nộp thuế. Tại đây, cán bộ
thuế tiến hành kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của các chứng từ, báo cáo tài chính và các tài liệu có liên
quan khác để xác định thuế GTGT đầu ra, thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và số thuế GTGT phải nộp
trong kỳ của doanh nghiệp.
• Công tác hoàn thuế: công tác hoàn thuế tại Chi cục được tiến hành theo đúng quy định, kịp thời tạo điều
kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong hoạt động của mình. Đồng thời qua đó Chi cục cũng phát hiện và
xử lý kịp thời các đơn vị cố tình gian lận thuế.
Các giải pháp về cải cách luật thuế GTGT
• Về mức thuế suất: thuế suất GTGT chỉ nên áp dụng thống nhất một thuế suất cho tất cả các loại hàng
hoá và lĩnh vực hoạt động (trừ thuế suất 0% cho hàng hoá xuất khẩu). Việc áp dụng thống nhất một thuế
suất sẽ góp phần tạo ra sự công bằng giữa các đối tượng nộp thuế theo các phương pháp khác nhau và
hạn chế được tình trạng gian lận thuế của các đơn vị phải chịu thuế suất cao.
• Về quy định thẩm quyền cho cơ quan thuế: luật thuế nên bổ sung theo hướng tăng cường quyển lực cho
cơ quan thuế. Cụ thể là cơ quan này có thêm quyền điều tra hành chính và khởi tố đối với các các doanh
nghiệp có biểu hiện vi phạm luật thuế. Nếu điều này được thực hiện thì sẽ đẩy nhanh tiến độ cũng như
chất lượng của việc ngăn chặn và xử lý tình trạng gian lận thuế .
• Về hình thức xử phạt đối với đối tượng vi phạm luật thuế: bên cạnh các hình thức khuyến khích người
dân tự nguyện tuân thủ luật thuế, các cơ quan liên quan cũng cần duy trì các biện pháp cưỡng chế đủ
mạnh trong quá trình thực thi. Trong các hình thức phạt cần thể hiện được tính nghiêm minh của pháp

luật, đảm bảo công bằng cho các đối tượng nộp thuế, có tính nêu gương cho người khác. Cần phối hợp
giữa toà án, đơn vị quản lý thu thuế và cơ quan cưỡng chế thi hành để đảm bảo tính nghiêm minh của
luật thuế. Các giải pháp cụ thể để chống gian lận thuế GTGT đối với các doanh nghiệp NQD tại Chi cục
thuế Thanh Hóa Giải pháp trong công tác quản lý đối tượng nộp thuế
• Chi cục nên tiến hành phân loại các doanh nghiệp, xác định cụ thể những doanh nghiệp chưa thực hiện
nghiêm túc chế độ hóa đơn, chứng từ theo quy định để từ đó có các biện pháp tư vấn, hỗ trợ cho các
doanh nghiệp này. Bên cạnh đó cần phải xử phạt nghiêm những doanh nghiệp cố tình vi phạm chế độ kế
toán, hóa đơn, chứng từ.
• Tăng cường sự phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, chính quyền địa phương nhằm kiểm tra việc đăng
ký kinh doanh, cấp mã số thuế cho các doanh nghiệp; tăng cường quản lý lĩnh vực kinh doanh, hình thức
kế toán áp dụng, ngành nghề kinh doanh, quy mô kinh doanh, địa điểm kinh doanh của các doanh nghiệp.
• Tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế: công việc này sẽ giúp cho nhân dân hiểu biết
về chính sách chế độ của nhà nước để họ thấy rằng đóng thuế không chỉ là “nghĩa vụ” mà còn là “quyền”
của mỗi công dân. Giải pháp trong công tác quản lý căn cứ tính thuế
• Tăng cường quản lý hóa đơn chứng từ: đặc thù của sắc thuế GTGT là việc khấu trừ và hoàn thuế mà
hiệu quả thực hiện lại phụ thuộc lớn vào công tác quản lý hóa đơn, do vậy công tác này có ý nghĩa rất lớn
trong vấn đề chống trốn, lậu thuế GTGT. • Tăng cường kiểm tra doanh thu: doanh thu là căn cứ quan
trọng ảnh hưởng tới việc xác định số thuế phải nộp của doanh nghiệp. Do vậy, một trong những cách để
hạn chế tình trạng thất thu thuế doanh nghiệp là kiểm tra chặt chẽ doanh thu để xác định doanh thu tính
thuế. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế: công tác thanh tra, kiểm tra không
những nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật thuế đảm bảo cho luật thuế
được thực hiện nghiêm mà còn góp phần tăng thu cho NSNN, nâng cao ý thức, trách nhiệm của người
nộp thuế. Một số giải pháp khác
• Xây dựng kế hoạch thu thuế hàng năm hợp lý: Việc xây dựng kế hoạch thu hợp lý đóng một vai trò rất
quan trọng vào việc chống gian lận thuế nói chung cũng như thuế GTGT nói riêng.
• Tổ chức tốt công tác cán bộ: Chi cục cần phải tiến hành đào tạo bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ cán
bộ, công chức cả về công tác nghiệp vụ, chuyên môn đặc biệt là kỹ năng quản lý, kỹ năng vận động quần
chúng.



• Tăng cường sự phối hợp của Chi cục với các cơ quan có liên quan: để cho công tác chống gian lận thuế
có hiệu quả cao thì cần phải có sự phối hợp đồng bộ của Chi cục với các cấp, các
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC THẤT THU THUẾ Ở VIỆT
NAM
3.1. Về cơ chế, chính sách:
- Tổng cục Thuế chủ trì phối hợp với các đơn vị trong Bộ, các Cục Thuế, khẩn trương thực hiện rà soát,
xây dựng, sửa đổi, bổ sung các cơ chế chính sách về thuế đảm bảo hành lang pháp lý phục vụ tốt cho công
tác thanh tra, kiểm tra chống thất thu, giảm nợ đọng thuế.
- Quy định riêng về thời hạn thanh tra đối với hoạt động chuyển giá.
- Quy định về quyền điều tra cho cơ quan thuế; bổ sung thêm quy định về ngưỡng kê khai thông tin giao
dịch liên kết để đơn giản hoá cho người nộp thuế trong việc kê khai và phù hợp với điều kiện Việt Nam.
- Xây dựng chế tài xử phạt đủ mạnh để đảm bảo tính răn đe.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu đầy đủ, chính xác nhằm tập trung công tác thanh tra kiểm tra vào các doanh
nghiệp có dấu hiệu bất thường
- Phối hợp với lực lượng của các bộ ngành sao cho nâng cao hiệu quả quản lý doanh nghiệp và chống
thất thu ngân sách Nhà nước.
- Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, xây dựng cơ chế xác định chính xác giá trị tài tham chiếu khi xác định
giá hàng hoá bán ra, hỗ trợ cho các Cục Thuế trong đấu tranh chống chuyển giá.
3.2. Về quy trình nghiệp vụ:
- Tổ chức rà soát, tổng kết, đánh giá để hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung các quy trình nghiệp vụ quản lý thuế,
đảm bảo đáp ứng yêu cầu thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý thuế.
3.3. Về công tác tổ chức, đánh giá, tổng kết:
- Tập trung sáu lĩnh vực chủ yếu: kiểm tra, thanh tra chống chuyển giá đối với các loại hình
doanh nghiệp trên địa bàn; hoàn thuế, khấu trừ thuế GTGT; thu thuế đối với lĩnh vực bất động
sản, thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; quản lý thu thuế đối với hàng hoá biên mậu theo Quyết
định số 139/2009/QĐ-TTg ngày 23/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ ở các địa phương có biên
giới đường bộ; chống thất thu đối với kinh doanh thương mại, dịch vụ du lịch, khai thác mỏ; chống thất
thu đối với những loại hình kinh doanh mới phát sinh như thương mại điện tử, kinh doanh qua mạng
- Thủ trưởng cơ quan thuế các cấp phải tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và thường xuyên kiểm tra, kiểm
soát, đôn đốc thực hiện đối với công tác thanh tra, kiểm tra, chống thất thu, nợ đọng thuế đảm bảo hoàn

thành được kế hoạch thanh tra, kiểm tra và thu nợ thuế đã đề ra và thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo
định kỳ.
- Đối với công tác quản lý nợ thuế: Cơ quan thuế các cấp triển khai đồng bộ các biện pháp thu hồi nợ
đọng thuế, đôn đốc, cưỡng chế nợ thuế theo đúng thủ tục, trình tự quy định của pháp luật. Cục trưởng
Cục Thuế các tỉnh, thành phố căn cứ nhiệm vụ thu nợ thuế Tổng cục Thuế giao, giao chỉ tiêu thu nợ cho
từng đơn vị, cụ thể hoá theo từng tháng, từng quý và từng nhóm nợ thuế.
- Đẩy mạnh việc thanh tra, kiểm tra công tác hoàn thuế giá trị gia tăng
- Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng và phát triển kỹ thuật quản lý rủi ro trong công tác thanh tra, kiểm tra,
phân loại người nợ thuế, các khoản nợ thuế ở mức độ cao hơn và hiệu quả tốt hơn như:
3.5. Về công tác miễn, giảm, hoàn thuế:
- Cơ quan thuế các cấp tổ chức xử lý miễn, giảm, hoàn thuế kịp thời, đúng quy định của pháp luật thuế,
tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế. Tăng cường công tác hậu kiểm để đảm bảo việc hoàn thuế,
xử lý miễn, giảm, gia hạn thuế chặt chẽ, đúng đối tượng, đúng chính sách pháp luật của Nhà nước. Khi
phát hiện các trường hợp đề nghị hoàn thuế sai, kê khai miễn, giảm thuế không đúng quy định, cơ quan
thuế có biện pháp truy thu ngay tiền thuế vào ngân sách nhà nước, nếu có yếu tố cấu thành tội phạm thì
chuyển cơ quan có chức năng điều tra truy cứu trách nhiệm hình sự.
3.6. Về thực hiện các kết luận, kiến nghị sau thanh tra, kiểm toán:
- Cơ quan thuế các cấp phải trả lời đầy đủ, kịp thời, các khiếu nại, kiến nghị của người nộp thuế đối với
các kết luận, thanh tra, kiểm tra của cơ quan thuế theo đúng quy định thời gian của pháp luật, đúng chức
trách nhiệm vụ được giao. Đối với những vấn đề, vụ việc người nộp thuế chưa đồng tình với ý kiến trả lời
của cơ quan thuế xử lý trực tiếp thì cơ quan thuế cấp trên phải có trách nhiệm làm rõ vấn đề theo nguyên
tắc phải tổng hợp đầy đủ thông tin từ đơn vị quản lý thuế trực tiếp. Đối với các vấn đề phức tạp liên quan
đến các ngành khác thì phải xin ý kiến tham gia để giải quyết kịp thời dứt điểm.
- Tổ chức thực hiện nghiêm túc các kết luận của cơ quan Kiểm toán Nhà nước, thanh


tra. Khẩn trương xử lý dứt điểm các vi phạm, tồn tại trong lĩnh vực thuế đã được cơ
quan kiểm toán, thanh tra, phát hiện, kiến nghị. Truy thu đầy đủ, kịp thời vào ngân sách
nhà nước đối với số tiền phát hiện qua thanh tra, kiểm tra của cơ quan kiểm toán và
thanh tra. Triển khai thực hiện tốt Chỉ thị số 05/CT-BTC ngày 21/12/2011 của Bộ Tài

chính về thực hiện nghiêm chính sách tài khoá và các kết luận, kiến nghị của cơ quan
kiểm toán, thanh tra và văn bản hướng dẫn của Tổng cục Thuế.
3.7. Về nguồn nhân lực để thực hiện nhiệm vụ:
- Tổng cục Thuế khẩn trương xây dựng đề án biên chế, định biên đối với ngành Thuế đến năm 2020 đảm
bảo có căn cứ khoa học. Đổi mới mạnh mẽ hơn nữa công tác thi tuyển và xét tuyển công chức trong thời
gian tới theo hướng xã hội hoá, chuyên sâu, chuyên nghiệp, mạnh dạn ký hợp đồng, giao cho Học viện Tài
chính tổ chức khâu thi tuyển, phúc tra… Kịp thời xây dựng trình Bộ các phương án về tuyển dụng công
chức Tổng cục Thuế năm 2012 trên cơ sở thông báo biên chế ngành thuế của Bộ, nhu cầu
thực tế, số lượng công chức nghỉ hưu.
- Cục Thuế các tỉnh, thành phố phải tổ chức bố trí, cơ cấu lại nguồn nhân lực thực tế để bảo đảm tăng tỷ
lệ cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra. Phấn đấu đến 31/12/2012 số cán bộ chuyên làm công tác
thanh tra, kiểm tra tăng 2-3% so với thời điểm đầu năm, đồng thời trưng dụng 5-6% số cán bộ ở các bộ
phận khác tham gia công tác thanh tra, kiểm tra.

CÁC NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT THUẾ
1.

Nguyên tắc công bằng
Công bằng là một yêu cầu rất quan trọng trong việc xây dựng luật thuế. Tính công bằng của luật thuế thể
hiện ở hai mặt pháp lý và kinh tế.
Theo các nhà kinh tế, tính công bằng của thuế được xem xét ở hai giác độ, công bằng theo chiều ngang và
công bằng theo chiều dọc. Công bằng theo chiều ngang là các đối tượng có tình trạng và khả năng nộp
thuế ngang nhau thì phải được đối xử về thuế như nhau. Công bằng theo chiều dọc là sự đối xử về thuế
khác nhau đối với các đối tượng có tình trạng và khả năng đóng thuế khác nhau. Tính công bằng về thuế
còn được các nhà kinh tế xem xét ở khía cạnh khả năng đóng thuế, lợi ích của người nộp thuế. Theo quan
niệm này, công dân chỉ đóng thuế theo tỉ lệ tương ứng với những lợi ích mà họ nhận được từ nhà nước
và họ chỉ đóng thuế theo khả năng của họ. Xét ở khía cạnh lý luận, những quan điểm này rất hợp lý và thể
hiện quan điểm nhân văn cũng như dân chủ của chính sách thuế, tránh được tình trạng tận thu thuế,
cũng như đòi hỏi nhà nước phải chú ý đến việc cung cấp các lợi ích công cộng tương ứng với sự đóng góp
của nhân dân. Tuy nhiên trên thực tế, có một số khó khăn khi vận dụng các quan điểm này. Xuất phát từ

sự hoàn trả không trực tiếp của thuế, rất khó để cân đong đo đếm xem một người có nhận được những
lợi ích công cộng tương đương với sự đóng góp của họ hay không. Ở những trường hợp mà mục tiêu của
thuế là nhằm điều tiết thu nhập, rút ngắn khoảng cách giữa người giàu và người nghèo thì việc xác định
mức độ tương thích giữa sự đóng góp và lợi ích nhận được này còn phải được phân tích kỹ lưỡng hơn vì
một số lợi ích công cộng mà người giàu nhận được từ nhà nước sẽ khác so với một số lợi ích mà người
nghèo được hưởng. Hoặc có một số lợi ích giống nhau nhưng người giàu sẽ có điều kiện để hưởng nhiều
hơn và ngược lại. Áp dụng việc đánh thuế dựa trên khả năng đóng thuế của người dân sẽ gặp rất nhiều
khó khăn đối với các quốc gia mà ở đó nhà nước không thể quản lý được tất cả các khoản thu nhập
(chính thức, không chính thức) của người dân.
Về mặt pháp lý, pháp luật Việt Nam luôn luôn hướng đến sự công bằng, bình đẳng. Nguyên tắc
này cũng được công nhận trong Hiếp pháp Việt Nam. Theo đó, mọi cá nhân đều bình đẳng trước pháp
luật, không bị phân biệt đối xử. Nguyên tắc công bằng này được đảm bảo bằng việc gắn chặt chính sách
thuế với chế độ dân chủ và nhà nước pháp quyền
2. Nguyên tắc khả thi
Nguyên tắc khả thi rất quan trọng trong việc xây dựng bất kỳ một đạo luật nào. Đối với luật thuế, nguyên
tắc khả thi thể hiện ở những điểm sau:
– Nguyên tắc khả thi đòi hỏi luật thuế phải tính đến khả năng đóng thuế của người dân từ đó đưa ra
cách thức điều chỉnh thích hợp. Nhà nước không thể bắt người dân đóng thuế khi họ không có khả năng
đóng góp. Khả năng đóng góp của người dân thể hiện ở chỗ người dân chỉ phải đóng thuế khi mà thu
nhập chịu thuế của họ là khoản thu nhập còn dư ra sau khi chi cho những nhu cầu cần thiết. Thông
thường các quốc gia tính toán và đưa ra những định mức chi tiêu cần thiết áp dụng chung cho mọi người
dân. Nếu thu nhập của họ không vượt quá định mức này, họ không phải đóng thuế. Khả năng đóng thuế


của người dân còn thể hiện ở chỗ người dân có tiền để đóng thuế hay không mặc dù xét về sự giàu có về
tài sản, họ có thể rất giàu. Lúc này nhà nước phải xem xét có đánh thuế hay không, nếu đánh thuế thì
những người này sẽ làm gì để không phải đóng thuế hoặc phải làm gì để có tiền đóng thuế và từ đó đưa
ra qui định phù hợp với ý chí của nhà nước (trong thời điểm đó).
– Nguyên tắc khả thi cũng thể hiện ở việc thi hành luật thuế. Cơ quan thuế phải có khả năng xác định
đúng đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, số thuế phải thu. Ngòai ra, cơ quan thuế cũng phải có khả

năng phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp trốn thuế, tránh thuế.
3. Nguyên tắc rõ ràng, đơn giản và dễ hiểu
Đóng thuế là nghĩa vụ của người dân vì vậy người dân có quyền được “hiểu” pháp luật thuế của nhà
nước. Việc người dân hiểu được luật sẽ khuyến khích họ chấp hành luật và giảm tình trạng không công
bằng. Thông thường, người dân cần được biết những vấn đề sau:
– Họ có phải là đối tượng nộp thuế/chịu thuế không?
– Nếu có, họ phái nộp thuế/chịu thuế bao nhiêu?
– Khi nào thì họ phải nộp thuế/chịu thuế
– Chuyện gì sẽ xảy ra khi họ không đóng thuế?
Nguyên tắc đơn giản, dễ hiểu phải được thể hiện ở cả khía cạnh kinh tế lẫn pháp lý. Thông thường
cơ quan thuế quan tâm nhiều đến số tiền thuế thu được cho ngân sách, nhưng người chịu thuế luôn
muốn biết xem ngòai thuế, họ còn phải chịu thêm chí phí liên quan nào nữa hay không ví dự như chi phí
thuê khai thuế, chi phí xin giấy phép ưu đãi đầu tư, thời gian mà họ phải bỏ ra để hoàn thành nghĩa vụ
thuế đối với nhà nước, vv…Giảm bớt các chi phí liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ thuế rất quan trọng
trong việc cải cách thuế. Hầu hết các quốc gia đều mong muốn luật thuế của mình đơn giản và dễ hiểu. Ví
dụ như trong chiến dịch tranh cử tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 2004-2008, cả Kerry và Bush đều hứa là sẽ
đơn giản hóa luật thuế. Điều này rất được người dân Mỹ hoan nghênh vì luật thuế liên bang của Mỹ đã
gần 60.000 trang20. Sự phức tạp của luật thuế do nhiều yếu tố như sự phát triển của các lọai hình kinh
tế, sự phát triển của các nguồn thu nhập, qui trình làm luật, vv…
Tuy nhiên, nếu một luật thuế quá đơn giản cũng không phải luôn luôn là một điểm tích cực.
Thuronyi đã chỉ ra rằng ở những nước đang phát triển có luật thuế rất đơn giản và với luật thuế như thế,
các nước này không thể điều chỉnh những giao dịch phức tạp21. Cơ quan quản lý thuế không thể đưa ra
được hướng dẫn thích hợp cho người nộp thuế, người chịu thuế hoặc cơ quan quản lý thuế không có khả
năng kiểm tra những giao dịch đó dẫn đến tình trạng trốn, tránh thuế và thất thu ngân sách.
4. Nguyên tắc ổn định
Nguyên tắc ổn định được hiểu là luật thuế phải được ban hành và thực thi trong thực tiễn trong
một khoảng thời gian thích hợp, hạn chế việc sửa đổi bổ sung thường xuyên và khi thay đổi phải có kế
họach và thời hạn để các đối tượng có liên quan chuẩn bị. Sự ổn định của pháp luật thuế là một đòi hỏi
chính đáng của người thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Theo Giáo trình quản lý tài chính công,
Học viện Tài chính thì sự ổn định của hệ thống thuế là điều kiện quan trọng để ổn định môi trường đầu tư

kinh doanh, đảm bảo điều kiện để các thể nhân và pháp nhân lựa chọn kinh doanh và quyết định hình
thức đầu tư22. Nếu nhà đầu tư không chắc chắn về nghĩa vụ thuế của họ đối với nhà nước, họ sẽ không
thể tính toán chính xác lợi nhuận của họ. Tính ổn định cần được bảo đảm trong việc xác định đối tượng
chịu thuế, đối tượng nộp thuế, thuế suất, thời gian nộp thuế, chế tài khi vi phạm nghĩa vụ về thuế, vv…
Tuy nhiên, sự không ổn định cũng có điểm tích cực trong việc ngăn ngừa trốn thuế và tránh thuế.
Một số người vì biết rõ những chế tài mà họ sẽ bị áp dụng khi trốn thuế lại trốn thuế vì có thể chế tài quá
nhẹ và họ cũng biết rằng khả năng phát hiện hành vi trốn thuế của cơ quan quản lý thuế là không nhiều.
Ngược lại, sự không ổn định của chế tài tại có thể làm cho người ta sợ mà không trốn thuế.
5. Nguyên tắc hiệu quả
Nguyên tắc này đòi hỏi sự kiểm tra của cơ quan lập pháp xem mục tiêu ban hành luật thuế có
được đảm bảo không. Việc kiểm tra phải được tiến hành xuyên suốt trong quá trình áo dụng luật thuế .
Nếu mục tiêu của việc ban hành luật thuế là nhằm mục tiêu tăng thu cho ngân sách nhà nước thì quốc
hội phải kiểm tra xem số tiền thuế thu được có nhiều hơn chi phí mà nhà nước phải bỏ ra để thu thuế hay
không23. Chi phí tổ chức quản lý thu thuế càng thấp và số thuế tập trung vào ngân sách càng lớn thì hiệu
quả của hệ thống thuế càng cao
CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN CỦA THUẾ (THAM KHẢO)


"Thuế là một phần thu nhập mà mỗi một tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước theo luật dịnh để đáp

ứng nhu cầu chi tiêu theo chức năng của nhà nước; người đóng thuế được hưởng hợp pháp phần thu nhập còn lại''
Để góp phần thúc đẩy sản xuất, mở rộng lưu thông hàng hóa dịch vụ khuyến khích nền kinh tế quốc dân, đông viên
phần thu nhập của người tiêu dùng và ngân sách nhà nước và chánh được những nhược điểm của thuế doanh thu ''thuế
đánh chồng lên thuế'' và thuế lợi tức. Việc ra 2 loại thuế mới- thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế GTGT đã làm cho
nguồn thu của ngân sách lớn, khuyến khích nền kinh tế phát triển, các thành viên doanh nghiệp không phải đóng mà
chỉ là người thu hộ Nhà nước, đồng thời với việc miễn thuế đã làm cho nền kinh tế nước ta vân động liên tục. Việc ra
2 loại thuế mới đã làm cho nền kinh tế nước ta hội nhập với các nước trên thế giới, giúp việc trao đổi mua bán được
thuận tiện hơn. Việc ra hai loại thuế mới là tất yếu khách quan, phù hợp với tình hình kinh tế của nước ta.
Công bằng với mọi ngành nghề, sản phẩm, dịch vụ, tạo mặt bàng kinh doanh. VAT, thuế thu nhập DN góp phần đổi
mới tư duy về cơ chế nộp thuế, hạn chế đối tượng chốn thuế

I-Các yếu tố cấu thành một sắc thuế
. Tên gọi của luật thuế
Đây là yếu tố không thề thiếu của bất kỳ loại thuế nào để phân biệt giữa các loại thuế. Tên gọi xác định một cách
chính thức một loại thuế được ban hành. Thông thường tên gọi của một loại thuế nên ngắn gọn và nêu lên được đối
tượng, phạm vi của loại thuế đó vì đây là hai vấn đề mà người nộp thuế quan tâm trước hết.
2. Đối tượng chịu thuế
Đối tượng chịu thuế là mục tiêu tác động của thuế. Thông thường đối tượng chịu thuế là các hàng hóa, dịch vụ, thu
nhập hay tài sản. Thông thường, tên gọi của các loại thuế thường hay được bắt nguồn từ đối tượng chịu thuế như thuế
thu nhập cá nhân, thuế thu nhập công ty, thuế doanh thu…
3. Đối tượng không chịu thuế
Đối tượng không chịu thuế không là mục tiêu tác động của thuế. Đối tượng không thộc diện chịu thuế thường là các
hàng hóa, dịch vụ, thu nhập hay tài sản được liệt kê trong danh sách các đối tượng không thuộc diện chịu thuế do luật
thuế quy định.
4. Người nộp thuế
Người nộp thuế là các tổ chức và cá nhân có trách nhiệm phải nộp thuế theo luật định. Tùy thuôc vào tính chất trực
thu hay gián thu của thuế, người nộp có thể là người chịu thuế hay chỉ là người có trách nhiệm pháp lý phải nộp khoản
tiền thuế đã nhận của người chịu thuế vào kho bạc Nhà nước. Sự khác biệt này cũng xảy ra do tổ chức thu thuế theo
cách ủy quyền.Về mặt kỹ thuật, thay vì liệt kê người nộp thuế, nhằm tạo sựu rõ ràng, luật thuế chú trọng hơn đến việc
giải thích các trường hợp không nộp thuế.
Tại Mỹ, đã có những tranh cãi rất dữ dội về người nộp thuế. Các cổ đông, đối tác tham gia thành lập các loại hình
công ty cho rằng” công ty” không phải là người nộp thuế mà người nộp thuế là các cổ đông, đối tác bỏ vốn hoặc góp
vốn thành lập công ty. Do đó, lợi nhuận của công ty chỉ chịu thuế thu nhập cá nhân – không chịu thuế thu nhập công
ty, người nộp thuế sẽ là các cá nhân, đối tác. Vì vậy,tại Mỹ các công ty đều không phải nộp thuế thu nhập công ty trừ
loại hình công ty cổ phần đại chúng là phải nộp thuế thu nhập công ty. Ngoại lệ này cũng gây ra những tranh cãi tương
tự như trên. Nhưng luật thuế Liên bang đã quy định công ty cổ phần thong thường là người nộp thuế. Rõ ràng vấn đề
tranh cãi này phần nào vẫn chưa được giải quyết một cách thấu đáo.
5. Cơ sở thuế
Mỗi loại thuế có cơ sở thuế khác nhau. Tuy nhiên, luật thuế thường sử dụng các cơ sở thuế như: doan thu, giá trị hay
thu nhập chịu thuế… Khi soạn thảo một loại thuế Chính phủ cần phải xác định cơ sở thuế để những người nộp thuế
không thể dễ dàng tránh né hoặc che giấu, bất động sản là một cơ sở thuế xuất sắc bởi vì người chủ sở hữu không thể

di chuyển hoặc giấu đi được vì quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản gắn liền với hồ sơ quản lý của cơ quan công
quyền. Ngược lại, động sản là một cơ sở thuế tồi do tính di động của nó.
6. Thuế suất
Thuế suất là mức thu hay suất thu thuế, được tính trên cơ sở thuế. Có nhiều hình thức thuế suất được sử dụng, nhằm
thực hiện yêu cầu đặt ra cho một loại thuế và mỗi hình thức đều có những ưu nhược điểm nhất định, do đó khó có thể
có một hình thức tối ưu để áp dụng chung cho cả hệ thống thuế. Lý do cơ bản là: các yêu cầu đặt ra cho cả hệ thống và
một sắc thuế thay đổi theo biến động của nền kinh tế - xã hội nói chung. Thuế suất cũng giống như cơ sở thuế là một
trong hai biến số trong hàm số xác định số thu thuế vào ngân sách Nhà nước T = B × r. Quan hệ về mặt toán học này
gợi ý cho các Chính phủ có thể tăng số thu thuế bằng cách tăng mức thuế suất trong việc soan thảo hệ thống thuế.

6.1 . Thuế suất tuyệt đối
Với hình thức này, mức thu được quy định bằng một con số tuyệt đối, với đơn vị tính bằng tiền
như một số loại thuế ở Việt Nam: thuế Môn bài, thuế Nhập khẩu đối với ô tô đã qua sử dụng, thuế Bảo vệ
môi trường hoặc đơn vị tính bằng hiện vật như thuế Sử dụng đất nông nghiệp tính bằng kg thóc/ ha/
năm ( tuy nhiên thu thuế bằng tiền qua việc quy định đơn giá thóc tính thuế).
Thuế suất tuyệt đối thường ổn định trong một thời gian dài. Thuế tuyệt đối có ưu điểm: đơn giản,
dễ hiểu và dễ tính toán. Ngoài ra, thuế suất tuyệt đối có một ưu điểm vượt trội hơn nhiều so với các loại
thuế suất tỷ lệ đó là việ áp dụng thuế suất tuyệt đối sẽ ngăn chặn được hiệ tượng gian lận về thuế thong
qua việc chuyển giá. Nhà nước chủ động trong kiểm soát số thuế, người nộp chủ động trong việc tính


toán số thuế. Mặt khác, do ổn định theo thời gian, người nộp thuế có sự an tâm và từ đó nổ lực trong
hoạt động nhằm gia tăng phần thu nhập sau thuế. Tuy nhiên, hình thức thuế suất tuyệt đối trường hợp
bằng tiền, có nhược điểm là dễ bị lạc hậu khi giá cả thị trường gia tăng. Mặt khác, thu thuế với số tuyệt
đốichưa tạo nên sự công bằng thật sự trong điều tiết thu nhập của người nộp thuế.
6.2 . Thuế suất tỷ lệ cố định
Với hình thức này, thuế suất quy định bằng tỷ lệ % tính trên cơ sở thuế, tỷ lệ này cố định, không
phụ thuộc vào cơ sở thuế. Hình thức này có ưu điềm tương tự như thuế tuyệt đối và khắc phục được
nhược điểm bị tác động bởi giá cả của thuế tuyệt đối. Thuế suất tỷ lệ cố định được sử dụng khá phổ biến:
thuế Gia trị gia tăng, thuế Tiêu thụ đặc biệt, thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu…Tuy nhiên, do tính chất cố

định, thu nhập của người chịu thuế cũng chưa thật sự được điều tiết công bằng.
6.3 . Thuế suất tỷ lệ lũy tiến
Đây là hình thức, theo đó thuế suất quy định theo tỷ lệ % và tăng dần theo sự gia tăng của cơ sở
thuế, như vậy biểu thuế sẽ có nhiều bậc thuế. Thuế suất lũy tiến gồm lũy tiến toàn phần và từng phần.
Thuế suất lũy tiến toàn phần áp dụng cách tính là lấy toàn bộ thu nhập chịu thuế nhân với % thuế suất
tương ứng.
Tính thuế với biểu thuế lũy tiến từng phần phức tạp hơn, đòi hỏi phải chia thu nhập thành từng
phần ( ứng với các bậc thuế), tính thuế cho từng phần và tổng hợp lại để có số thuế cho toàn bộ thu nhập
chịu thuế ( để thuận tiện cho việc tính thuế, thường sử dụng công thức tính sẵn). Như vậy, % thuế suất
trên biểu thuế lũy tiến từng phần không phải là thuế suất thực( thuế suất này gọi là thuế suất biên).
Thu61 thu nhập cá nhân là minh họa cho hình thức thuế suất lũy tiến từng phần.
Thuế suất lũy tiến có ưu điểm lớn là điều tiết công bằng thu nhập của đối tượng chịu thuế trên cả
hai khía cạnh: công bằng về số thuế và công bằng về thu nhập còn lại sau thuế. Tuy nhiên, hình thức này
phức tạp trong tính toán và không dễ dàng trong hướng dẫn về phía cơ quan thuế. Trong trường hợp lũy
tiến từng phần, do thuế suất trên biểu thuế không là thuế suất thực nên thường gây ngộ nhận rằng thuế
cao.
Theo cấu trúc mức thuế suất lũy tiến trong ví dụ của chúng ta, cá nhân C với $100.000 thu nhập
chịu thuế có nghiã vụ nộp $12.000 tiền thuế. Nếu cá nhân C kếm thêm 1 đồng đô la nữa, mà đồng đô la
này chịu sự tác động của mức thuế suất 16%. Tuy nhiên, một sự thật là cá nhân C đang trong khung thuế
biên 16% không có nghĩa là chị ta sẽ nộp 16% trên thu nhập của chị ta cho Chính phủ. $12.000 tiền thuế
của chị chia cho $100.000 thu nhập chịu thuế là một mức thuế suất trung bình chỉ ở mức 12%. Cũng như
thế, cá nhân B có mức thuế suất biên 10%, hưng mức thuế suất trung bình của chị ta là 7.8%($3.500 thuế
chia cho $45.000 thu nhập chịu thuế) [1, tr36].
Các mục tiêu, yêu cầu của chính sách thuế nói chung và của từng luật thuế có thể thực hiện được
thông qua thuế suất. Sự quan tâm của người nộp thuế, trên thực tế tập trung vào yếu tố này. Những sửa
đổi về phía Nhà nước thường xảy ra đối với thuế suất. Điều này cho thấy: thuế suất là “ yếu tố trung tâm”
trong các yếu tố cấu thành luật thuế và là “ linh hồn” của luật thuế.
Vệc ấn định thuế suất cho một loại thuế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thuế suất phải phù hợp
với khả năng đóng góp, đồng thời phải khuyến khích hoạt động kinh doanh từ đó góp phần giải quyết 02
yêu cầu cơ bản của cả hệ thống thuế: thu nhập cho ngân sách Nhà nước và tăng trưởng kinh tế.

6.4 . Thuế suất tỷ lệ lũy thoái
Mức thuế suất bậc thang giảm xuống khi cơ sở thuế tăng lên. Các nhà hoạch định chiến lược thuế
cho rằng các mức thuế suất lũy thoái là không công bằng bởi vì chúng thay thế bằng một gánh nặng thuế
lớn hơn tương ứng lên vai những cá nhân có căn cứ tính thuế thấp hơn. Tuy nhiên, tính lũy thoái của
thuế không luôn luôn rõ ràng từ cấu trúc mức thuế suất của chúng.
7. Miễn thuế, giảm thuế
Số thuế được miễn hoặc giảm, thực chất là số phải nộp, nhưng được để lại cho người nộp thuế,
như vậy yếu tố này hoàn toàn khác với trường hợp không chịu thuế quy định trong luật thuế.
Trên thực tế có những yếu tố hay hoàn cảnh khách quan hoặc chủ quan, gây tác động bất lợi cho
người nộp thuế. Có thể dẫn đến sự thiệt hại về tài sản, sút giảm thu nhập; trong khi thuế suất thường áp
dụng chung không tính đến từng trường hợp cụ thể và thường ổn định trong một thời gian dài. Khi đó,
chính yếu tố miễn giảm sẽ hỗ trợ để tạo sự công bằng trong điều tiết thu nhập giữa các tổ chức và cá
nhân. Mục đích miễm giảm trong trường hợp này còn mang ý nghĩa hỗ trợ cho người nộp thuế khi gặp
khó khăn trong đời sống.


Trên góc độ kinh tế, chính sách thuế còn được Nhà nước sử dụng như công cụ nhằm điều tiết vĩ
mô nền kinh tế. Theo đó, thuế cần đảm bảo yêu cầu kích thích sự tăng trường của nền kinh tế, tất nhiên
phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đã hoạch định. Các quy định miễn giảm thuế có tác
dụng trong việc khuyến khích đầu tư mới hay theo chiều sâu; khuyến khích đầu tư vào những ngành
nghề hoặc vùng lãnh thổ, từ đó góp phần cơ cấu lại nền kinh tế. Ngoài ra, miễn giảm thuế cũng rất hữu
hiệu trong việc khuyến khích xuất khẩu.
Như vậy yếu tố miễn giảm cho phép Nhà nước sử dụng công cụ thuế một cách linh hoạt hơn,
ngoài ra còn “mềm hóa” yếu tố thuế suất, giúp chính sách thuế có thể tiếp cận đến các trường hợp cụ thể.
Tuy nhiên, cần lưu ý, miễn giảm thuế tuy có tác động tích cực, cũng có những tác động tiêu cực
như: làm phức tạp luật thuế; tăng quyền lực cho cơ quan thuế, do đó bị lợi dụng nhằm mục đích trục lợi
không hợp pháp; làm giảm tính chặt chẽ của luật thuế. Vì vậy, cần thận trọng khi sử dụng. Mặt khác cần
lưu ý: để kích thích kinh tế hay để hổ trợ cho người nộp thuế khi gặp khó khăn, Nhà nước không phải chỉ
có duy nhất công cụ thuế.


Kết dư ngân sách
2015 Khoản 12 điều4Xử lý kết dư, điều 72
2002 điều 63
Khác nhau từ điều 63 và 72, ưu tiên trả lãi gốc ngân hàng cho các khoản vay
Nhằm giảm tiền khi vay bù đắp bội chi, giảm gánh nặng tiền lãi phát sinh



×