Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

ôn tập giữa kỳ môn luật ngân sách nhà nước (kiểm tra 3 câu)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.12 KB, 24 trang )

1.1 Khái niệm NSNN

NSNN ra đời cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, Nhà nước bằng quyền lực chính trị và xuất
phát từ nhu cầu về tài chính để đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình đã đặt ra
những khoản thu, chi của NSNN. Điều này cho thấy chính sự tồn tại của Nhà nước, vai trò của
Nhà nước đối với đời sống kinh tế - xã hội là những yếu tố cơ bản quyết định sự tồn tại và tính
chất hoạt động của NSNN. Cho đến nay, thuật ngữ NSNN được phổ biến rộng rãi ở mọi quốc gia
tuy nhiên chưa có một khái niệm thống nhất cho NSNN. Hiện nay có 2 quan niệm phổ biến về
NSNN là:
“ NSNN là bản dự toán thu – chi tài chính của Nhà nước trong một khoảng thời gian xác định,
thường là một năm”.
“ NSNN là quỹ tiền tệ của Nhà nước”
Ở Việt Nam, Luật Ngân sách Nhà nước ngày 16/12/2002 có ghi: “ NSNN là toàn bộ các khoản
thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định và được thực hiện
trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Bên ngoài, hoạt động của NSNN biểu hiện đa dạng dưới hình thức các khoản thu và các khoản
chi tài chính của Nhà nước ở các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội. Các khoản thu, chi này được
tổng hợp trong một bảng dự toán thu chi tài chính được thực hiện trong một khoảng thời gian
nhất định. Các khoản thu mang tính chất bắt buộc của NSNN là một bộ phận các nguồn tài chính
chủ yếu được tạo ra thông qua việc phân phối thu nhập quốc dân được sáng tạo ra trong khu
vực sản xuất kinh doanh và các khoản chi chủ yếu của Ngân sách mang tính chất cấp phát phục
vụ cho đầu tư phát triển và tiêu dùng của xã hội. Như vậy, về hình thức có thể hiểu: NSNN là toàn
bộ các khoản thu chi của Nhà nước có trong dự toán, đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
phê duyệt (Quốc hội) và được thực hiện trong một năm để đảm bảo việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước.
Về nội dung, đằng sau hình thức biểu hiện ra bên ngoài của NSNN là một quỹ tiền tệ với các
khoản thu và các khoản chi của nó, NSNN là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá
trình phân phối các nguồn tài chính của xã hội để tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của
Nhà nước nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Vậy, về bản chất có thể xác định: NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với
quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước khi Nhà nước


tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của Nhà
nước trên cơ sở luật định.
1.2 Đặc điểm của Ngân sách Nhà nước
NSNN là một khâu quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia, biểu hiện các mối quan hệ kinh
tế của Nhà nước với các chủ thể khác như sau:
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các đơn vị hành chính sự nghiệp:
Là những quan hệ phát sinh trong quá trình phân phối lại các khoản thu nhập bằng việc NSNN
cấp kinh phí cho các đơn vị quản lý Nhà nước. Đồng thời, các đơn vị có hoạt động sự nghiệp có
các khoản thu phí và lệ phí, nguồn thu này một phần các đơn vị làm nghĩa vụ tài chính đối với
NSNN, một phần trang trải các khoản chi tiêu của mình để giảm bớt gánh nặng cho Ngân sách.


2.Những điểm mới trong luật ngân sách nhà nước năm 2015 (28/8)
(28/08/2015)
Ngày 25/6/2015, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XIII đã thông qua Luật Ngân sách nhà nước
(sửa đổi). Đây là đạo luật quan trọng tạo bước ngoặt mới trong quản lý ngân sách nhà nước theo
hành lang pháp lý mới đầy đủ và đồng bộ hơn, phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, xu hướng
hội nhập quốc tế, góp phần quan trọng vào tiến trình cải cách tài chính công theo hướng hiện đại.
Đảo đảm toàn diện, đồng bộ và chặt chẽ trong quản lý ngân sách nhà nước
Trên cơ sở tổng kết 13 năm thực hiện, để khắc phục các tồn tại, bất cập của Luật Ngân sách Nhà
nước (NSNN) năm 2002, Luật NSNN mới đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung quan trọng, như:
phạm vi NSNN (Điều 5), bội chi NSNN (khoản 4 Điều 4), mức dư nợ vay của ngân sách cấp tỉnh
(khoản 6 Điều 7), dự phòng NSNN (Điều 10), quỹ dự trữ tài chính (Điều 11)... Nội dung về phân
cấp quản lý NSNN phù hợp với phân cấp kinh tế - xã hội giữa các cấp chính quyền cũng được rà
soát để phù hợp với quy định hiện hành, đồng bộ với Luật Tổ chức chính phủ và Luật Tổ chức
chính quyền địa phương cũng được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 9.
Đặc biệt, Luật NSNN mới đã bám sát quy định tại Điều 55 của Hiến pháp năm 2013, đó là: “NSNN,
dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác do Nhà nước thống
nhất quản lý và phải được sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật.
NSNN gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, trong đó ngân sách trung ương giữ

vai trò chủ đạo, bảo đảm nhiệm vụ chi của quốc gia. Các khoản thu, chi NSNN phải được dự toán
và do luật định”. Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội tại điều 70, đó là: Quyết định chính sách cơ
bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia
các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định
mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán NSNN và phân bổ
ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán NSNN.
Thực hiện quy định của Hiến pháp về việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống NSNN và của nền
tài chính quốc gia, Luật NSNN mới đã thể hiện sự thống nhất xuyên suốt trong các quy định về
chính sách thu, chi ngân sách, định mức phân bổ ngân sách, bổ sung cân đối ngân sách, bổ sung có
mục tiêu và tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa ngân sách các cấp… Các chính sách,
chế độ, tiêu chuẩn về chi NSNN đều do trung ương ban hành và thực hiện thống nhất trong phạm
vi cả nước. Mọi khoản thu ngân sách được tập trung vào KBNN và do cơ quan có nhiệm vụ thu
NSNN thực hiện trên phạm vi toàn quốc. Mọi khoản chi NSNN chỉ được thực hiện khi có dự toán
được cấp có thẩm quyền giao và đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quy định.
Luật NSNN mới cũng đã bảo đảm tính đồng bộ với các Luật có liên quan trong hệ thống các luật
về tổ chức bộ máy nhà nước như Luật tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Kiểm toán
nhà nước, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Đầu tư công, Luật Quản lý nợ công…
Các nguyên tắc về cân đối, quản lý ngân sách nhà nước
Khác với Luật NSNN năm 2002, các nguyên tắc quản lý NSNN nằm rải rác ở nhiều điều luật khác
nhau. Lần này, Luật NSNN mới đã nhóm thành các nguyên tắc trong 4 điều luật cụ thể, đó là:
Nguyên tắc cân đối NSNN (Điều 7); Nguyên tắc quản lý NSNN (Điều 8): Nguyên tắc phân cấp quản
lý nguồn thu, nhiệm vụ chi và quan hệ giữa các cấp ngân sách (Điều 9); Nguyên tắc phân cấp
nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp ở địa phương (Điều 39). Đây là những nguyên tắc
xuyên suốt, bất di bất dịch trong quản lý NSNN đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội hiện
nay ở nước ta và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Theo thông lệ quốc tế, các khoản vay để bù đắp bội chi NSNN phải được bố trí trả nợ lãi theo phân
loại chi thường xuyên của NSNN (GFS 2001); còn các khoản trả nợ gốc được hạch toán riêng,
nhưng vẫn theo dõi và phản ánh đầy đủ trong cân đối NSNN hàng năm để thực hiện nghĩa vụ trả
nợ của Chính phủ với các tổ chức quốc tế và nhà đầu tư. Thực tế hiện nay, chi NSNN ở Việt Nam

vẫn bao gồm chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do Chính phủ vay, trong khi bội chi NSNN lại bao


gồm toàn bộ các khoản vay để bù đắp chênh lệch thu, chi NSNN; Như vậy, trong phương pháp và
cách thức xác định bội chi NSNN, phần vay sẽ phản ánh 2 lần trong chi ngân sách dẫn đến trùng
lắp: lần thứ nhất sử dụng nguồn vay để chi, lần thứ 2 là chi trả nợ gốc khi đến hạn. Do đó, mức bội
chi NSNN của Việt Nam thường cao hơn so với phương pháp tính bội chi ngân sách theo thông lệ
quốc tế.
Để phản ánh đúng bản chất các khoản vay, phù hợp với thông lệ quốc tế, tăng cường tính minh
bạch, Luật NSNN mới đã quy định tại một số điều, khoản như: khoản 12, Điều 4 quy định rõ: “Chi
trả nợ là nhiệm vụ chi của NSNN để trả các khoản nợ đến hạn phải trả, bao gồm khoản gốc, lãi,
phí và chi phí khác phát sinh từ việc vay”; Điều 5 về phạm vi NSNN đã quy định về thu, chi, bội chi
NSNN và tổng mức vay của NSNN (bao gồm vay để bù đắp bội chi NSNN và vay để trả nợ gốc của
NSNN); Điều 19 quy định thẩm quyền của Quốc hội quyết định tổng mức vay của NSNN và trả nợ
gốc các khoản vay của NSNN. Trong quá trình điều hành NSNN nếu có số tăng thu, tiết kiệm chi
ngân sách so với dự toán thì được sử dụng ưu tiên cho việc tăng chi trả nợ (bao gồm trả nợ gốc và
lãi (khoản 2 Điều 59). Cuối năm ngân sách nếu có kết dư của ngân sách trung ương và ngân sách
cấp tỉnh cũng phải bố trí chi trả nợ gốc và lãi các khoản vay của NSNN (Điều 72).
Như vậy, với quy định tại các điều, khoản nêu trên đã thể hiện các trường hợp chi trả nợ gốc và lãi
của NSNN. Đối với chi trả nợ gốc khi đến hạn được bố trí từ các khoản vay mới theo quy định của
pháp luật để thực hiện. Số bội chi được xác định bằng phần chênh lệch giữa số vay mới trừ đi chi
trả nợ gốc. Trường hợp số vay mới lớn hơn số chi trả nợ gốc tại thời điểm vay, thì phát sinh bội
chi NSNN. Việc vay nợ sẽ được quản lý và giám sát chặt chẽ, bội chi NSNN những năm tới (bao
gồm cả trái phiếu chính phủ) sẽ không bị tính trùng khoản chi trả nợ gốc, phản ánh đúng mức dư
nợ vay của Chính phủ, góp phần kiểm soát và giảm dần mức dư nợ công trong tương lai.
Quy định về bội chi ngân sách địa phương
Lần đầu tiên Luật NSNN mới quy định bội chi ngân sách địa phương (NSĐP) là một cấu phần
trong bội chi NSNN. Nói cách khác, bội chi NSNN bao gồm bội chi ngân sách trung ương (NSTW)
và bội chi NSĐP. Đây là điểm mới quan trọng để tăng cường kiểm soát bội chi NSNN. Nguồn bù
đắp bội chi NSNN từ việc vay trong nước và vay nước ngoài, bao gồm cả việc vay từ phát hành

trái phiếu chính phủ, công trái xây dựng Tổ quốc và các khoản vay trong nước khác theo quy định
của pháp luật (Điều 7).
Luật NSNN mới quy định chỉ NSĐP cấp tỉnh mới được phép bội chi. Bội chi NSĐP chỉ được sử dụng
để đầu tư các dự án thuộc kế hoạch đầu tư công 5 năm đã được Hội đồng Nhân dân (HĐND) cấp
tỉnh quyết định... Chính phủ quy định cụ thể điều kiện được phép bội chi NSĐP để bảo đảm phù hợp
với khả năng trả nợ của địa phương và tổng mức bội chi chung của NSNN. Bên cạnh đó, Luật
NSNN mới cũng đã nêu rõ những quy định về mức dư nợ vay của NSĐP.
Nguyên tắc thu, chi
Tại Điều 55 Hiến pháp quy định: “Các khoản thu, chi phải được dự toán và do luật định”. Đây là
một nguyên tắc trong quản lý NSNN, phù hợp với thông lệ quốc tế. Vì vậy, Luật NSNN mới đã quy
định: “Các khoản thu ngân sách thực hiện theo quy định của các luật thuế và chế độ thu theo quy
định của pháp luật” (khoản 3 Điều 8); “Các khoản chi ngân sách chỉ được thực hiện khi có dự toán
được cấp có thẩm quyền giao và phải bảo đảm đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi do cơ quan
có thẩm quyền quy định” (khoản 4 Điều 8)... Đồng thời, quy định hành vi bị cấm: xuất quỹ NSNN
tại Kho bạc Nhà nước mà không có trong dự toán đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định
(khoản 11 điều 18).
Thực hiện phân cấp, phân quyền
Luật NSNN mới đã thực hiện phân cấp, phân quyền khá đầy đủ, toàn diện, rõ ràng, phù hợp với
tình hình thực tế: Thẩm quyền của Quốc hội được quy định tại Điều 19, theo đó Quốc hội quyết
định bội chi NSNN, bao gồm bội chi NSTW và bội chi NSĐP, chi tiết từng địa phương và quyết định
nguồn bù đắp bội chi NSNN. Luật NSNN mới đã quy định một số thẩm quyền cho ý kiến và quyết
định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về NSNN tại Điều 20. Bên cạnh đó, Luật NSNN mới đã phân


cấp cụ thể nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa NSTW và NSĐP (Điều 35, 36, 37, 38), đồng thời giao
HĐND cấp tỉnh căn cứ nguồn thu, nhiệm vụ chi của NSĐP đã được phân cấp để quyết định phân
cấp cụ thể nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp ở địa phương theo các nguyên tắc cụ
thể quy định tại Điều 39.
Đặc biệt, HĐND có quyền giao tăng chỉ tiêu thu NSNN trên địa bàn. Điều này phù hợp với thực tế
hiện nay khi Thủ tướng Chính phủ thực hiện giao dự toán thu NSNN trên địa bàn cho từng tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương...
Quy trình ngân sách, lịch biểu tài chính
Luật NSNN mới đã quy định thời gian lập dự toán NSNN bắt đầu từ 15/5 để phù hợp với Luật Đầu
tư công; đồng thời, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội với các cơ quan của
Chính phủ trong thảo luận dự toán NSNN thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách (giáo dục, y tế, quốc
phòng, an ninh, khoa học công nghệ...). Theo đó, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Dân tộc, các Ủy
ban của Quốc hội trong lĩnh vực phụ trách có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan hữu quan của
Chính phủ để lập dự toán NSNN ngành, lĩnh vực. Tại điều 44 đã quy định rõ về quy trình lập dự
toán NSNN.
Các khoản thu ngân sách nhà nước
Không chỉ số thu từ thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN, Luật NSNN mới đã khẳng định số thu từ
lệ phí và phí thực hiện nộp NSNN theo quy định của pháp luật. Lệ phí là khoản tiền mà tổ chức, cá
nhân phải nộp khi được cơ quan nhà nước hoặc tổ chức được ủy quyền phục vụ công việc quản lý
nhà nước. Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả (trao đổi ngang giá) khi được cung cấp
dịch vụ công. Vì vậy, cần thiết quy định thuế và lệ phí là khoản thu bắt buộc thuộc NSNN. Còn đối
với phí, chỉ thu vào NSNN đối với phần chênh lệch giữa thu và chi của một số loại phí; riêng học
phí, viện phí và khoảng hơn 10 loại phí khác dự kiến chuyển sang giá dịch vụ, là doanh thu của các
đơn vị cung cấp dịch vụ công, sẽ được quy định cụ thể và rõ ràng hơn trong Luật phí, lệ phí.
Luật NSNN mới quy định thu từ hoạt động xổ số kiến thiết và thu tiền sử dụng đất đều đưa vào
cân đối NSNN (như Luật NSNN năm 2002) nhưng không sử dụng để xác định tỷ lệ phần trăm (%)
phân chia nguồn thu giữa NSTW và NSĐP hoặc xác định số bổ sung cân đối từ NSTW cho NSĐP.
Ngoài ra, Luật NSNN mới còn quy định rõ các khoản thu NSNN bao gồm thu từ đầu tư ra nước
ngoài, thu từ cổ tức thuộc vốn cổ phần của Nhà nước và thu tiền bán vốn, tài sản Nhà nước sau
khi giảm trừ chi phí cổ phần hoá, thu lợi nhuận còn lại sau khi trích lập các quỹ theo quy định của
pháp luật tại các doanh nghiệp Nhà nước... để bảo đảm tính bao quát và toàn diện các khoản thu
NSNN.
Phạm vi chi ngân sách nhà nước cho các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà
nước
Hiện nay, có nhiều quỹ ngoài ngân sách, cần thu hẹp các quỹ, quản lý chặt chẽ hơn, bảo đảm sự
tập trung của NSNN, tránh sự chồng chéo trong quản lý. Các quỹ hiện nay chủ yếu được thành lập

theo quy định tại nhiều Luật và Nghị định có tính chất chuyên ngành nên với phạm vi điều chỉnh
đặc thù, Luật NSNN mới quy định nguồn thu nào thuộc phạm vi ngân sách thì phải nộp về NSNN
và điều kiện để NSNN hỗ trợ vốn điều lệ cho các quỹ nhằm hạn chế việc thành lập mới các quỹ
ngoài ngân sách.
Để hạn chế chi chuyển nguồn, Luật NSNN mới chỉ cho phép chuyển nguồn sang năm sau đối với
một số khoản chi như: mua sắm trang thiết bị, nguồn cải cách tiền lương, kinh phí tự chủ của các
đơn vị sự nghiệp công lập và cơ quan nhà nước, các khoản dự toán bổ sung sau 30/9 năm hiện
hành...
Bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu của ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới
Về bổ sung cân đối (khoản 8 Điều 9): Luật NSNN mới quy định: “Sau mỗi thời kỳ ổn định ngân
sách, các địa phương phải tăng khả năng tự cân đối, phát triển ngân sách địa phương, thực hiện
giảm dần số bổ sung từ ngân sách cấp trên hoặc tăng tỷ lệ phần trăm (%) nộp về ngân sách cấp
trên đối với các khoản thu phân chia giữa các cấp ngân sách”. Quy định trên nhằm tăng cường


trách nhiệm của các địa phương phát triển kinh tế, tăng quy mô ngân sách, góp phần bảo đảm cân
đối NSNN vững chắc.
- Về bổ sung có mục tiêu của ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới (khoản 3 Điều 40): Luật
NSNN mới quy định 4 trường hợp được ngân sách cấp trên bổ sung có mục tiêu. Số bổ sung có
mục tiêu từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới được xác định theo định mức phân bổ
ngân sách và các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách; khả năng ngân sách cấp trên và khả
năng cân đối ngân sách của từng địa phương cấp dưới, để hỗ trợ ngân sách cấp dưới trong các
trường hợp cụ thể.
Dự phòng ngân sách
Luật NSNN mới đã không quy định về dự phòng ngân sách tại một số bộ, ngành trung ương, vì cho
rằng nếu quy định thì sẽ mâu thuẫn với nguyên tắc giao, phân bổ ngân sách phải bảo đảm đủ,
đúng cho các cơ quan sử dụng NSNN theo nghị quyết của Quốc hội, quyết định của Thủ tướng
Chính phủ. Dự phòng NSNN là một khoản mục trong dự toán chi ngân sách chưa phân bổ đã được
cơ quan có thẩm quyền quyết định ở từng cấp ngân sách. Mức bố trí dự phòng từ 2% đến 4% tổng
chi ngân sách mỗi cấp. Dự phòng NSNN sử dụng để: Chi phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên

tai, thảm hoạ, dịch bệnh, cứu đói; nhiệm vụ quan trọng về quốc phòng, an ninh và các nhiệm vụ
cần thiết khác....
Luật cũng quy định: Chính phủ quy định thẩm quyền quyết định sử dụng dự phòng ngân sách
trung ương, định kỳ báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội việc sử dụng dự phòng ngân sách trung
ương và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Khắc phục một số vấn đề tồn tại trong điều hành ngân sách nhà nước hiện nay
- Về ứng trước dự toán năm sau (Điều 57): Để bảo đảm kỷ cương tài chính, Luật NSNN mới đã quy
định việc ứng trước dự toán năm sau: “Ngân sách trung ương, ngân sách cấp tỉnh và ngân sách
cấp huyện được ứng trước dựtoán ngân sách năm sau để thực hiện các dự án quan trọng quốc
gia, các dự án cấp bách của trung ương và địa phương thuộc kế hoạch đầu tư trung hạn nguồn
NSNN đã được cấp có thẩm quyền quyết định. Mức ứng trước không quá 20% dự toán chi đầu tư
xây dựng cơ bản năm thực hiện của các công trình xây dựng cơ bản thuộc kế hoạch đầu tư trung
hạn nguồn NSNN đã được phê duyệt...”.
- Về thưởng vượt thu: Luật NSNN đã quy định về thưởng cho ngân sách địa phương tại khoản 4
điều 59 như sau: “Trường hợp ngân sách trung ương tăng thu so với dự toán từ các khoản thu
phân chia giữa ngân sách trung ương với ngân sách địa phương, ngân sách trung ương trích một
phần theo tỷ lệ không quá 30% của số tăng thu thưởng cho các địa phương có tăng thu nhưng
không vượt quá số tăng thu so với mức thực hiện năm trước...”.
- Về chuyển nguồn ngân sách: Để hạn chế chi chuyển nguồn, Luật NSNN mới đã quy định tại khoản
3 Điều 64, chỉ cho phép chuyển nguồn sang năm sau đối với một số khoản chi như: mua sắm trang
thiết bị, nguồn cải cách tiền lương, kinh phí tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập và cơ quan
nhà nước, các khoản dự toán bổ sung sau 30/9 năm hiện hành, kinh phí nghiên cứu khoa học,
khoản tăng thu, tiết kiệm chi của các ngành, địa phương; đối với chi đầu tư phát triển thì thực
hiện chuyển nguồn sang năm sau theo quy định của Luật Đầu tư công.
Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi
Theo quy định của Luật NSNN mới thì thu NSTW được hưởng theo phân cấp chiếm bình quân
khoảng 66-70% tổng thu NSNN, nếu tính cả bội chi NSNN chiếm khoảng 70-75% tổng nguồn thu
NSNN, thu NSĐP theo phân cấp (chưa kể số bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu từ NSTW cho
NSĐP) chiếm bình quân khoảng 25-30% tổng nguồn NSNN, do vậy, NSTW đã chiếm vai trò chủ
đạo, đúng như quy định của Hiến pháp năm 2013. Một số nguồn thu lớn tiếp tục là nguồn thu của

NSTW nhưng đồng thời chuyển khoản thu thuế TNDN của các đơn vị hạch toán tập trung thành
khoản thu phân chia giữa NSTW và NSĐP. Nội dung này được thể hiện tại Điều 35, Điều 37 của
Luật NSNN mới.
Quy định về quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra


Để quản lý hiệu quả việc sử dụng ngân sách, Luật NSNN mới đã giao Chính phủ quy định việc thực
hiện quản lý ngân sách theo kết quả thực hiện nhiệm vụ (khoản 15 Điều 25); đồng thời, tại khoản
1 điều 61 quy định: “Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách chịu trách nhiệm về việc quản lý, sử
dụng ngân sách theo dự toán được giao, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, bảo đảm hiệu quả,
tiết kiệm, đúng chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách”.
Ngoài những nội dung nêu trên, Luật NSNN mới đã sử dụng thuật ngữ “Kế hoạch tài chính 5 năm”
cho phù hợp với Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm. Đồng thời, bổ sung làm rõ về nội dung,
ý nghĩa, thủ tục lập Kế hoạch tài chính 5 năm (Điều 17). Quy định phương pháp xây dựng kế hoạch
tài chính - NSNN 3 năm theo phương thức cuốn chiếu, được lập cho năm dự toán và 2 năm dự báo
(Điều 43). Luật NSNN mới đã dành 2 Điều (điều 15 và điều 16) để quy định về công khai ngân sách
và giám sát ngân sách của cộng đồng. Luật NSNN mới cũng đã quy định việc kế toán, quyết toán
thu, chi NSNN tại điều 13, quy định về quản lý ngân quỹ nhà nước tại điều 62... Bên cạnh đó, theo
Luật NSNN mới, thời kỳ ổn định ngân sách được quy định với thời gian 5 năm, trùng với kỳ kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm. Luật NSNN mới có hiệu lực từ năm ngân sách 2017.
3.Luật NSNN (sửa đổi) được Quốc hội thông qua ngày 25/6/2015, có hiệu lực từ năm ngân
sách 2017 (sau đây gọi tắt là Luật NSNN năm 2015), thay thế Luật NSNN số 01/2002/QH11
(sau đây gọi tắt là Luật NSNN năm 2002). Luật NSNN năm 2015 tiếp tục kế thừa các quy
định của Luật NSNN hiện hành bảo đảm tính thống nhất của NSNN và vai trò chủ đạo của
ngân sách trung ương (NSTW); tăng cường phân cấp quản lý ngân sách, phát huy tính chủ
động của ngân sách các cấp chính quyền địa phương trong quản lý và sử dụng NSNN. Đồng
thời, khắc phục những tồn tại về phân cấp quản lý NSNN của Luật NSNN năm 2002, Luật
NSNN năm 2015 có một số nội dung thay đổi như sau:
Về phân cấp nguồn thu giữa NSTW và ngân sách địa phương (NSĐP), Luật NSNN năm 2015
bổ sung, sửa đổi một số nội dung sau:

Đối với phân cấp nguồn thu: (i) Khoản thuế thu nhập doanh nghiệp đơn vị hạch toán toàn ngành,
theo Luật NSNN năm 2002 là khoản thu NSTW hưởng 100%; Luật NSNN năm 2015 quy định là
khoản thu phân chia giữa NSTW và NSĐP; (ii) Quy định toàn bộ tiền thu từ xử phạt vi phạm hành
chính, phạt, tịch thu khác phải nộp vào NSNN và phân cấp rõ do cơ quan nhà nước thuộc cấp nào
thu thì ngân sách cấp đó hưởng (Luật NSNN năm 2002 chưa quy định rõ, dẫn đến có khoản xử
phạt vi phạm hành chính nộp toàn bộ vào NSNN, có khoản để lại một phần cho đơn vị thực hiện xử
phạt vi phạm hành chính để trang trải chi phí, phần còn lại nộp ngân sách); (iii) Phân định cụ thể
và rõ ràng đối với các khoản thu hồi vốn của Nhà nước đầu tư tại các tổ chức kinh tế; thu cổ tức,
lợi nhuận được chia tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có
vốn góp của Nhà nước do cơ quan nhà nước đại diện chủ sở hữu; thu phần lợi nhuận sau thuế còn
lại sau khi trích lập các quỹ của doanh nghiệp nhà nước do cơ quan nhà nước đại diện chủ sở hữu.
Cụ thể: NSTW hưởng các khoản thu hồi vốn của ngân sách trung ương đầu tư tại các tổ chức kinh
tế; thu cổ tức, lợi nhuận được chia tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên có vốn góp của Nhà nước do bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan
khác ở trung ương đại diện chủ sở hữu; thu phần lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các
quỹ của doanh nghiệp nhà nước do bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác
ở trung ương đại diện chủ sở hữu; NSĐP hưởng các khoản thu hồi vốn của ngân sách địa phương
đầu tư tại các tổ chức kinh tế; thu cổ tức, lợi nhuận được chia tại công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có vốn góp của Nhà nước do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đại
diện chủ sở hữu; thu phần lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ của doanh nghiệp
nhà nước do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đại diện chủ sở hữu.
Về thu từ hoạt động xổ số kiến thiết (XSKT): Trước năm 2007 và theo quy định của Luật NSNN
hiện hành, nguồn thu từ hoạt XSKT được đưa vào NSNN và thực hiện cân đối ngân sách như đối
với các khoản thu thuế, phí và lệ phí. Tuy nhiên, việc cân đối này không phù hợp với tính chất
nguồn thu xổ số là để kiến thiết. Do vậy, Văn kiện đại hội Đảng lần thứ X đã chỉ rõ "Sử dụng nguồn
thu từ XSKT để đầu tư các công trình phúc lợi về giáo dục, y tế; việc phân bổ đầu tư đối với từng


công trình cụ thể do HĐND tỉnh, thành phố quyết định; không đưa nguồn thu này thành một
nguồn thu thường xuyên, ổn định của NSNN". Trên cơ sở đó Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành

Nghị quyết số 68/2006/QH11 khóa XI về dự toán NSNN năm 2007 đã quy định "Từ năm 2007, số
thu từ XSKT không đưa vào cân đối NSNN; thực hiện quản lý số thu, chi này qua NSNN". Qua tổng
kết đánh giá thực hiện Luật NSNN, cho thấy cần thiết phải đưa vào cân đối ngân sách, nhưng để
đầu tư cho các công trình phúc lợi xã hội. Để quản lý chặt chẽ thống nhất, đầy đủ nguồn thu, chi
NSNN từ hoạt động XSKT, Luật NSNN năm 2015 quy định: thu từ hoạt động XSKT là nguồn thu
NSĐP được hưởng 100%; đồng thời, Luật NSNN năm 2015 quy định nguồn thu XSKT không sử
dụng để xác định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia nguồn thu giữa NSTW và NSĐP hoặc xác định số
bổ sung cân đối từ NSTW cho NSĐP, để cân đối tương ứng trở lại cho địa phương đầu tư các công
trình phúc lợi xã hội.
Về phân cấp nhiệm vụ chi giữa NSTW và NSĐP:
Luật NSNN năm 2015 vẫn cơ bản kế thừa Luật NSNN năm 2012 và thực hiện theo pháp luật về tổ
chức chính quyền địa phương. Riêng chi nghiên cứu khoa học cho các cấp chính quyền địa
phương, Luật NSNN năm 2015 quy định chỉ phân cấp nhiệm vụ nghiên cứu khoa học cho cấp tỉnh,
còn các cấp huyện, xã không có nhiệm vụ chi cho nghiên cứu khoa học. Trong phân cấp nhiệm vụ
chi đối với thị xã, thành phố thuộc tỉnh phải có nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng các trường phổ
thông công lập các cấp, điện chiếu sáng, cấp thoát nước, giao thông đô thị, vệ sinh đô thị và các
công trình phúc lợi công cộng khác.
Về bội chi NSĐP:
Luật NSNN năm 2015 đã thay đổi rất cơ bản về nội dung này, theo đó quy định ngân sách cấp tỉnh
được bội chi và bội chi của ngân sách cấp tỉnh được tổng hợp vào bội chi NSNN, do Quốc hội quyết
định (Luật NSNN năm 2002 cho phép ngân sách cấp tỉnh được phép huy động bản chất là vay
nhưng không quy định là bội chi). Đồng thời, để bảo đảm quản lý chặt chẽ việc vay nợ của ngân
sách cấp tỉnh, phù hợp khả năng trả nợ, đảm bảo quản lý chặt chẽ ở từng địa phương, góp phần
bảo đảm an toàn nợ công và phù hợp với thông lệ quốc tế và để khuyến khích các địa phương tăng
thu, Luật NSNN năm 2015 đã quy định khống chế mức giới hạn vay của NSĐP tính trên số thu
NSĐP được hưởng theo phân cấp, thay vì khống chế mức huy động trên chi đầu tư XDCB như Luật
NSNN 2002 (đối với thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh không vượt quá 60% số thu
NSĐP được hưởng theo phân cấp; đối với các địa phương có số thu NSĐP được hưởng theo phân
cấp lớn hơn chi thường xuyên của NSĐP không vượt quá 30% thu ngân sách được hưởng theo
phân cấp; đối với các địa phương có số thu NSĐP được hưởng theo phân cấp nhỏ hơn hoặc bằng

chi thường xuyên của NSĐP không vượt quá 20% thu ngân sách được hưởng theo phân cấp).
Về mối quan hệ giữa các cấp ngân sách, Luật NSNN năm 2015 có bổ sung, sửa đổi một số
nội dung sau:
Luật NSNN năm 2015 tiếp tục quy định không được dùng ngân sách của cấp này để chi cho nhiệm
vụ của cấp khác và không được dùng ngân sách của địa phương này để chi cho nhiệm vụ của địa
phương khác; đồng thời, bổ sung quy định cụ thể trong Luật các trường hợp đặc biệt được dùng
ngân sách cấp mình chi cho nhiệm vụ của ngân sách cấp khác và dùng ngân sách của địa phương
mình để chi cho nhiệm vụ của địa phương khác như sau: (i) Ngân sách cấp dưới hỗ trợ cho các
đơn vị thuộc cấp trên quản lý đóng trên địa bàn trong trường hợp cần khẩn trương huy động lực
lượng cấp trên khi xảy ra thiên tai, thảm hoạ, dịch bệnh và các trường hợp cấp thiết khác để bảo
đảm ổn định tình hình kinh tế - xã hội, an ninh và trật tự an toàn xã hội của địa phương; (ii) các
đơn vị cấp trên quản lý đóng trên địa bàn khi thực hiện chức năng của mình, kết hợp thực hiện
một số nhiệm vụ theo yêu cầu của cấp dưới; (iii) sử dụng dự phòng ngân sách địa phương để hỗ
trợ các địa phương khác khắc phục hậu quả thiên tai, thảm hoạ nghiêm trọng.
Về số bổ sung cân đối trong thời kỳ ổn định ngân sách, Luật NSNN năm 2015 đã bổ sung nguyên
tắc căn cứ khả năng cân đối của ngân sách cấp trên, cơ quan có thẩm quyền quyết định tăng thêm
số bổ sung cân đối ngân sách từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới so với năm đầu thời
kỳ ổn định (Luật NSNN năm 2002 quy định số bổ sung cân đối từ NSTW cho NSĐP được ổn định


bằng số tuyệt đối trong suốt thời kỳ ổn định ngân sách, dẫn đến các địa phương có nguồn thu thấp
sẽ rất khó khăn).
Về số bổ sung có mục tiêu từ ngân sách câp trên cho ngân sách cấp dưới, để khắc phục tồn tại và
đảm bảo tính chủ động của NSĐP, Luật NSNN năm 2015 bổ sung quy định cụ thể 04 nhóm nhiệm
vụ được ngân sách cấp trên bổ sung có mục tiêu: (i) Thực hiện các chính sách, chế độ mới do cấp
trên ban hành chưa được bố trí trong dự toán ngân sách của năm đầu thời kỳ ổn định ngân sách;
(ii) Thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình, dự án khác của cấp trên,
phần giao cho cấp dưới thực hiện; (iii) Hỗ trợ chi khắc phục thiên tai, thảm hoạ, dịch bệnh trên
diện rộng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp dưới; (iii) Hỗ trợ thực hiện một số
chương trình, dự án lớn, đặc biệt quan trọng có tác động lớn đến phát triển kinh tế - xã hội của

địa phương. Mức hỗ trợ được xác định cụ thể cho từng chương trình, dự án. Tổng mức hỗ trợ vốn
đầu tư phát triển hàng năm của ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương quy định tại
điểm này tối đa không vượt quá 30% tổng chi đầu tư XDCB của NSTW.
Về cơ chế hỗ trợ hụt thu cho NSĐP: Luật NSNN năm 2002 quy định trong trường hợp thu NSĐP
không đạt dự toán được cấp có thẩm quyền quyết định thì tuỳ theo mức hụt thu, UBND báo cáo
HĐND hoặc Thường trực HĐND điều chỉnh hoặc sắp xếp lại các khoản chi, sử dụng các nguồn lực
tài chính hợp pháp tại địa phương để bù đắp số hụt thu. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực
hiện nếu NSĐP hụt thu (giảm lớn do những nguyên nhân khách quan: dự án nhà máy đi vào hoạt
động chậm hơn dự kiến kế hoạch; Nhà nước thay đổi chính sách thu, thực hiện miễn giảm thuế,...)
mà NSTW không hỗ trợ thì địa phương sẽ rất khó khăn. Thực tế trong những năm qua đối với
những địa phương bị hụt thu NSĐP do nguyên nhân khách quan, Chính phủ đã báo cáo Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Quốc hội hỗ trợ một phần cho địa phương bị hụt thu, tuy nhiên do chưa được
quy định trong Luật NSNN năm 2002 nên khi tổ chức thực hiện chưa đủ cơ sở pháp lý. Để bảo đảm
cơ sở pháp lý trong quá trình tổ chức thực hiện bù hụt thu cho NSĐP do các nguyên nhân khách
quan, Luật NSNN năm 2015 quy định: Kết thúc năm ngân sách, trường hợp NSĐP hụt thu so với
dự toán cấp trên giao do nguyên nhân khách quan, sau khi đã điều chỉnh giảm một số khoản chi
và sử dụng các nguồn tài chính hợp pháp khác của địa phương mà chưa bảo đảm được cân đối
NSĐP thì ngân sách cấp trên hỗ trợ ngân sách cấp dưới theo khả năng của ngân sách cấp trên.
Về điều chỉnh nguồn thu trong trường hợp thu ngân sách có biến động tăng đột biến trong thời kỳ
ổn định ngân sách: Hiện nay, có nhiều dự án đầu tư lớn trong các lĩnh vực điện tử, luyện thép, lọc
dầu, điện hạt nhân,... Khi các dự án này đi vào hoạt động sẽ phát sinh nguồn thu ngân sách lớn; vì
vậy, cần thiết phải bổ sung vào Luật NSNN năm 2015 quy định: Trong thời kỳ ổn định ngân sách,
các địa phương được sử dụng nguồn tăng thu hàng năm mà ngân sách địa phương được hưởng
theo phân cấp để tăng chi thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng,
an ninh. Trường hợp đặc biệt có phát sinh nguồn thu từ dự án mới đi vào hoạt động trong thời kỳ
ổn định ngân sách làm ngân sách địa phương tăng thu lớn thì số tăng thu phải nộp về ngân sách
cấp trên. Chính phủ trình Quốc hội, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp
quyết định thu về ngân sách cấp trên số tăng thu này và thực hiện bổ sung có mục tiêu một phần
cho ngân sách cấp dưới để hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng ở địa phương theo dự án được cấp có
thẩm quyền phê duyệt.

Về thẩm quyền quyết định ngân sách địa phương, Luật NSNN năm 2015 kế thừa Luật NSNN
năm 2012 về thẩm quyền của HĐND, UBND các cấp trong việc Quyết định NSĐP, đồng thời,
bổ sung một số nội dung sau:
Về các khoản thu phân chia cho ngân sách xã, thị trấn: Để tăng cường quyền hạn cho HĐND cấp
tỉnh trong việc quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa
phương phù hợp với thực tế của địa phương, Luật NSNN năm 2015 quy định: ngân sách xã, thị
trấn được phân chia nguồn thu từ thuế nhà đất, thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh, thuế
sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình, lệ phí trước bạ nhà đất để bảo đảm chủ động thực
hiện các nhiệm vụ chi của xã. Việc quyết định tỷ lệ phần trăm (%) cho ngân sách xã hưởng do
HĐND cấp tỉnh quyết định theo tình hình thực tế tại địa phương.


Bổ sung các nguyên tắc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp ở địa phương
và xác định số bổ sung cân đối ngân sách, bổ sung có mục tiêu và tỷ lệ phần trăm (%) phân chia
các khoản thu giữa ngân sách các cấp để làm căn cứ cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định
phân cấp phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp ở địa phương và xác định số
bổ sung cân đối ngân sách, bổ sung có mục tiêu và tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu
giữa ngân sách các cấp.
NS
4.Bội chi và xử lý bội chi
Điều 7. Nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước
Nguyên nhân bội chi NSNN:
Có 2 nhóm nguyên nhân cơ bản gây ra bội chi NSNN:
- Nhóm nguyên nhân thứ nhất là tác động của chu kỳ kinh doanh. Khủng hoảng làm cho thu nhập
của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên, để giải quyết những khó khăn mới về kinh tế
và xã hội. Điều đó làm cho mức bội chi NSNN tăng lên. ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà
nước sẽ tăng lên, trong khi chi không phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi NSNN.
Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội chi chu kỳ.
- Nhóm nguyên nhân thứ hai là tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà nước. Khi Nhà
nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng mức bội chi NSNN.

Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và tiêu dùng của Nhà nước thì mức bội chi NSNN sẽ
giảm bớt. Mức bội chi do tác động của chính sách cơ cấu thu chi gây ra được gọi là bội chi cơ cấu.
Trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai lớn,...), tổng hợp của bội chi
chu kỳ và bội chi cơ cấu sẽ là bội chi NSNN.
Các giải pháp xử lý bội chi NSNN:
Vấn đề thiếu hụt ngân sách thường làm đau đầu các chính trị gia giữa một bên là phát triển bền
vững, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế với một bên là nguồn lực có hạn. Đòi hỏi các chính
trị gia phải lựa chọn để phù hợp với yêu cầu phát triển thực tế và sự phát triển trong tương lai.
Từ sự lựa chọn đó họ đưa ra mức bội chi "hợp lý", bảo đảm nhu cầu tài trợ cho chi tiêu cũng như
đầu tư phát triển kinh tế, đồng thời bảo đảm cho nợ quốc gia ở mức hợp lý. Bội chi NSNN được
hiểu một cách chung nhất là sự vượt trội về chi tiêu so với tiền thu được trong năm tài khóa hoặc
thâm hụt NSNN do sự cố ý của chính phủ tạo ra nhằm thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô. Có nhiều
cách để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ thuế, phí, lệ phí; giảm chi ngân
sách; vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài; phát hành tiền để bù đắp chi tiêu;... Sử dụng phương
cách nào, nguồn nào tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và chính sách kinh tế tài chính trong từng
thời kỳ của mỗi quốc gia.
Bội chi NSNN tác động đến kinh tế vĩ mô phụ thuộc nhiều vào các giải pháp nhằm bù đắp bội chi
NSNN. Mỗi giải pháp bù đắp đều làm ảnh hưởng đến cân đối kinh tế vĩ mô. Về cơ bản, các quốc gia
trên thế giới thường sử dụng các giải pháp chủ yếu nhằm xử lý bội chi NSNN như sau:
Thứ nhất: Nhà nước phát hành thêm tiền. Việc xử lý bội chi NSNN có thể thông qua việc nhà
nước phát hành thêm tiền và đưa ra lưu thông. Tuy nhiên, giải pháp này sẽ gây ra lạm phát nếu
nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi NSNN. Đặc biệt, khi nguyên nhân bội
chi NSNN là do thiếu hụt các nguồn vốn đối ứng để đầu tư cho phát triển gây "tăng trưởng nóng"
và không cân đối với khả năng tài chính của quốc gia.
Thứ hai: Vay nợ cả trong và ngoài nước. Để bù đắp thâm hụt NSNN, nhà nước có thể vay nợ nước
ngoài và trong nước. Việc vay nợ nước ngoài quá nhiều sẽ kéo theo vấn đề phụ thuộc nước ngoài
cả về chính trị lẫn kinh tế và làm giảm dự trữ ngoại hối quá nhiều khi trả nợ, làm cạn dự trữ quốc
gia sẽ dẫn đến khủng hoảng tỷ giá. Vay nợ trong nước sẽ làm tăng lãi suất, và cái vòng nợ - trả lãi
- bội chi sẽ làm tăng mạnh các khoản nợ công chúng và kéo theo gánh nặng chi trả của NSNN cho
các thời kỳ sau...

Thứ ba: Tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế. Việc tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế có thể sẽ


bù đắp sự thâm hụt NSNN và giảm bội chi NSNN. Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp cơ bản để
xử lý bội chi NSNN, bởi vì nếu tăng thuế không hợp lý sẽ dẫn đến làm giá cả hàng hóa tăng gây
ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân, nghiêm trọng hơn sẽ triệt tiêu động lực của
các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất kinh doanh và làm mất đi khả năng cạnh tranh của
nền kinh tế đối với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ tư: Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ NSNN. Đây là một giải
pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi NSNN
và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những
dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế - xã hội,
đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt
khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của
các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực
sự cần thiết.
Thứ năm: Tăng cường vai trò quản lý nhà nước nhằm bình ổn giá cả, ổn định chính sách vĩ mô và
nâng cao hiệu quả hoạt động trong các khâu của nền kinh tế. Để thực hiện vai trò của mình, nhà
nước sử dụng một hệ thống chính sách và công cụ quản lý vĩ mô để điều khiển, tác động vào đời
sống kinh tế - xã hội, nhằm giải quyết các mối quan hệ trong nền kinh tế cũng như đời sống xã hội,
nhất là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với
giữ gìn môi trường v.v.. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi lạm phát là một vấn nạn của các
nước trên thế giới, vấn đề tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với quản lý NSNN nói chung và
xử lý bội chi NSNN nói riêng có ý nghĩa vô cùng cấp thiết.
5. Chu trình ngân sách
Câu 1: chu trình ngân sách nhà nước:
Ngân sách nhà nước (NSNN) là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực
hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
Năm ngân sách hay còn gọi là năm tài chính, là giai đoạn mà trong đó dự toán thu – chi tài chính

của Nhà nước
đã được phê chuẩn có hiệu lực thi hành.
Để có dự toán ngân sách nhà nước cho năm ngân sách phải có khâu lập dự toán ngân sách nhà
nước – lập ngân
sách nhà nước và nó thực hiện trước khi năm ngân sách bắt đầu. Ở nước ta, thời gian lập dự toán
ngân sách nhà
nước ở cơ sở là từ tháng 6. Bộ Tài chính tổng hợp trình chính phủ trong tháng 10 và Quốc hội
quyết định dự
toán ngân sách nhà nước trước ngày 30 – 11 năm trước. Then chốt của một chu trình ngân sách
là khâu chấp
hành ngân sách của chu trình đó mà thời gian chấp hành ngân sách trùng với năm ngân sách. Sau
khi năm ngân
sách kết thúc, phải đánh giá tình hình chấp hành ngân sách, đó là khâu quyết toán ngân sách nhà
nước.
Tóm lại, một chu trình ngân sách nhà nước có ba khâu nối tiếp nhau là: lập ngân sách, chấp
hành ngân sách và
quyết toán ngân sách nhà nước. Trong một năm ngân sách, đồng thời có cả ba khâu: chấp hành
ngân sách của
chu trình hiện tại, quyết toán ngân sách của chu trình trước và lập ngân sách của chu trình sau:
2.Nội dung chủ yếu của chu trình Ngân sách nhà nước
2.1. Lập ngân sách nhà nước
Hình thành ngân sách là quá trình bao gồm các công việc lập ngân sách, phê chuẩn ngân sách và
thông báo


ngân sách.
Trong chu trình ngân sách, lập ngân sách là công việc khởi đầu có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ
các khâu của
chu trình quản lý ngân sách. Lập Ngân sách thực chất là dự toán các khoản thu – chi đúng đắn, có
cơ sở khoa

học, cơ sở thực tiễn sẽ có tác dụng quan trọng đối với kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội nói chung
và thực hiện
ngân sách nói riêng.
Vì vậy, để phát huy vai trò tích cực của kế hoạch ngân sách, trong thực tiễn, khi lập ngân sách
phải đáp ứng các
yêu cầu nhất định và dựa vào những căn cứ nhất định với những phương pháp và trình tự có tính
khoa học và
thực tiễn.
· Yêu cầu lập NSNN:
- Bảo đảm việc xây dựng dự toán thu chi NSNN dựa trên hệ thống chế độ, chính sách và tiêu chuẩn
định
mức đúng đắn, phù hợp với thực tiễn kinh tế, xã hội đang vận động.
- Bảo đảm việc xây dựng dự toán thu chi ngân sách tiến hành đúng với trình tự và thời gian quy
định.
- Bảo đảm mối quan hệ đúng đắn giữa kế hoạch hiện vật và kế hoạch giá trị thông qua việc thiết
lập dự
toán thu chi của NSNN trong bối cảnh cung cầu, giá cả có sự biến động.
· Căn cứ lập NSNN:
Thực chất dự toán ngân sách là sự phản ánh nhu cầu động viên, phân phối và sử dụng nguồn vốn
NSNN
nhằm đáp ứng một cách tích cực các dự án phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu chi tiêu của bộ
máy nhà nước.
Vì vậy, để dự toán ngân sách biến thành hiện thực, khi lập dự toán phải dựa vào những căn cứ sau
đây:
- Lập dự toán ngân sách trước hết phải dựa vào phương hướng, chủ trương, nhiệm vụ phát triển
kinh tế,
văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng của Đảng và Nhà nước. Dựa vào căn cứ này, đảm bảo cho việc
lập dự toán NSNN xác định được mục tiêu và nhiệm vụ cần động viên khai thác nguồn thu của
ngân
sách cũng như việc phân phối và sử dụng quỹ ngân sách có trọng tâm, trọng điểm, đảm bảo được

yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả.
- Lập dự toán ngân sách còn phải dựa vào các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của
Nhà
nước trong niên độ kế hoạch.
- Lập dự toán ngân sách phải dựa vào hệ thống các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức thu –
chi
của NSNN. Đây là căn cứ cụ thể đảm bảo việc lập dự toán có cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý.
- Ngoài ra, việc lập dự toán NSNN phải căn cứ vào kết quả phân tích thực hiện dự toán Ngân sách
trong
thời gian qua. Đây là căn cứ quan trọng bổ sung những kinh nghiệm cần thiết cho việc lập dự toán
trong kỳ kế hoạch.
· Trình tự lập NSNN:
Lập ngân sách là công việc quan trọng, song việc hình thành ngân sách còn phải thực hiện xét


duyệt, phê
chuẩn và thông báo ngân sách. Quá trình đó được thực hiện theo trình tự sau:
2.2. Chấp hành Ngân sách nhà nước
Sau khi ngân sách được phê chuẩn và năm ngân sách bắt đầu, việc thực hiên ngân sách được triển
khai. Nội
dung của quá trình này là tổ chức thu NSNN và bố trí cấp kinh phí của NSNN cho các nhu cầu đã
được phê
chuẩn. Việc chấp hành NSNN thuộc về tất cả pháp nhân và thể nhân dưới dự điều hành của Chính
phủ, trong đó
Bộ Tài Chính có vị trí quan trọng.
· Tổ chức chấp hành dự toán thu:
Mục tiêu của chấp hành dự toán thu là trên cơ sở không ngừng bồi dưỡng phát triển nguồn thu,
tìm mọi
biện pháp động viên khai thác, đảm bảo tỷ lệ động viên chung mà Quốc hội đã được phê chuẩn,
đáp ứng nhu

cầu chi tiêu của Nhà nước đã được hoạch định trong dự toán chi.
Để đạt được mục tiêu đó, việc tổ chức chấp hành dự toán thu phải thực hiện đồng bộ các biện
pháp sau
đây:
- Xác lập, hoàn thiện hệ thống chính sách, chế độ động viên thích hợp, vừa đảm bảo khuyến khích
hoạt
động sản xuất kinh doanh, vừa đảm bảo mức động viên của Nhà nước.
- Nâng cao công tác tuyên truyền chính sách, chế độ thu làm cho mọi thành viên thấy rõ trách
nhiệm của
mình trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với NSNN.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy theo nguyên tắc thống nhất, nâng cao hiệu lực của bộ máy, đảm bảo
gọn nhẹ,
hiệu quả cao.
- Đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý thu từ khâu lập kế hoạch, giao kế hoạch thu đến khâu tổ
chức
công tác đôn đốc thu nộp, công tác kế hoạch kế toán thu.
- Tăng cường công tác bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ của cán bộ quản lý thu; đồng thời xử lý các
mối
quan hệ giữa các cơ quan chức năng liên quan đến công tác thu nộp của NSNN.
· Tổ chức chấp hành dự toán chi:
Mục đích của việc chấp hành dự toán chi là đảm bảo đầy đủ, kịp thời nguồn kinh phí của ngân
sách cho
hoạt động của bộ máy nhà nước và thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội đã được hoạch
định trong năm kế
hoạch. Thực chất của việc chấp hành dự toán chi là tổ chức việc cấp phát kinh phí sao cho tiết
kiệm và đạt hiệu
quả cao.
Để đạt được mục đích đó, trong việc chấp hành dự toán chi cần phải thực hiện các yêu cầu và nội
dung
cơ bản sau đây:

- Thực hiện cấp, phát kinh phí trên cơ sở hệ thống các định mức, tiêu chuẩn. Nhằm đạt được yêu
cầu
này, cần rà soát bổ sung những định mức mới, xóa bỏ những định mức lạc hậu, đảm bảo cho hệ
thống định mức, tiêu chuẩn có tính khoa học, tính thực tiễn cao.
- Bảo đảm việc cấp phát kinh phí theo kế hoạch được duyệt. Do đó, cần phải quy định lại chế độ lập



duyệt kế hoạch cấp phát hàng quý vừa đơn giản, vừa khoa học đảm bảo cấp phát theo kế hoạch
với
thứ tự ưu tiên được quy định bằng pháp luật. Đồng thời phải thực hiện nghiêm ngặt khoản dự trữ
kinh phí để xử lý khi có nhu cầu đột xuất hoặc mất cân đối giữa thu chi trong quá trình chấp hành.
- Triệt để thực hiện nguyên tắc thanh toán trực tiếp, nghĩa là, mọi khoản kinh phí cho trả từ ngân
sách
phải do Kho bạc trực tiếp thanh toán. Nguyên tắc này phải được áp dụng cả trong lĩnh vực xây
dựng
cơ bản có sử dụng vốn của NSNN
- Đổi mới phương thức cấp phát vốn của ngân sách nhà nước theo hướng nhanh, gọn, dễ kiểm tra.
- Đổi mới cơ chế cấp phát theo hướng giảm các kênh cấp phát, tập trung vào một ít đầu mối. Đặc
biệt là
cải tiến cơ chế cấp phát vốn xây dựng cơ bản nhằm đảm bảo gọn nhẹ, dễ kiểm tra, nâng cao trách
nhiệm của các đơn vị làm nhiệm vụ vấp phát và đơn vị sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
· Xây dựng dự thu – chi quý, tháng
- Dự toán thu – chi quý, tháng thực chất là kế hoạch tiến độ thực hiện nhiệm vụ của dự toán thu –
chi
năm. Dự toán thu – chi quý, tháng có ý nghĩa quan trọng trong việc chấp hành ngân sách. Thông
qua
việc lập dự toán thu – chi quý, tháng có thể đánh giá được khả năng hoàn thành dự toán ngân
sách
nhà nước, tìm ra được những mặt yếu kém, tồn tại để tìm biện pháp khắc phục.

- Yêu cầu xây dựng dự toán thu – chi quý, tháng có thể đánh giá được khả năng phát triển nguồn
thu
quý, tháng trên cơ sở phân tích các hoạt động kinh tế, dự kiến khả năng hình thành các nguồn thu
mới, đồng thời xác định được tiến độ, phạm vi mức độ cần tiến hành cấp phát phạm vi vốn của
ngân
sách nhà nước trong điều kiện khả năng thu còn bị hạn chế.
2.3. Quyết toán ngân sách nhà nước
Quyết toán ngân sách nhà nước là khâu cuối cùng trong chu trình quản lí NSNN. Thông qua quyết
toán NSNN
có thể cho ta thấy bức tranh toàn cảnh về hoạt động kinh tế - xã hội của Nhà nước trong thời gian
qua, hình
dung được hoạt động NSNN với tư cách là công cụ quản lí vĩ mô của Nhà nước. Từ đó rút ra
những kinh nghiệp
cần thiết trong việc điều hành NSNN. Do đó, yêu cầu của quyết toán NSNN làm đảm bảo tính chính
xác, trung
thực và kịp thời.
Để đáp ứng được các yêu cầu đó, cần tập trung cải tiến, hoàn thiện các công việc sau đây:
- Soát xét toàn bộ chế độ hiện hành về kế toán và quyết toán ngân sách, đảm bảo cho quyết toán
nhanh
gọn, chính xác, trung thực.
- Đổi mới quá trình lập, báo cáo, phê chuẩn quyết toán và tổng quyết toán NSNN theo hướng tăng
cường
trách nhiệm của các đơn vị, cơ quan, địa phương nâng cao vai trò của cơ quan tài chính, Chính
phủ
và quyền lực của Quốc hội. Thực hiện việc quyết toán từ cơ sở lên. Gắn chặt giữa cơ quan chuẩn
chi,


cơ quan cấp phát, cơ quan quản lí trong quá trình thực hiện và tổng quyết toán NSNN, đảm bảo
cho

số quyết toán là số thực thu, thực chi theo đúng mục lục NSNN.
- Nâng cao vai trò của Quốc hội trong việc xem xét, phê chuẩn quyết toán và tổng quyết toán
NSNN.
Để có một chu trình ngân sách hợp lí, phản ánh đầy đủ quá trình hoạt động của NSNN cần phải coi
trọng
và không ngừng cải tiến các khâu trong chu trình đó nhằm làm cho hoạt động của NSNN ngày
càng lành
mạnh.
Câu 2: Trong 3 giai đoạn của chu trình ngân sách, giai đoạn nào quan trọng nhất? Chứng
minh?
Lập dự toán NSNN là quá trình xây dựng và quyết định dự toán thu, chi NS của NN trong thời hạn
1 năm.
Quá trình ngân sách bao gồm 3 khâu hay 3 giai đoạn chính: lập DTNSNN, chấp hành NSNN và
quyết toán
NSNN.
¬ Lập DTNSNN là khâu đầu tiên và là giai đoạn khởi đầu trong 1 quá trình NS của mỗi quốc gia.
đây là
khâu quan trọng của quá trình ngân sách, tạo tiền đề, cơ sở cho các khâu tiếp theo. Nếu việc lập
DTNSNN được tiến hành trên cơ sở có đầy đủ căn cứ khoa học và phù hợp với thực tiễn, bảo đảm
đúng
tiến độ, thời gian quy định thì việc tổ chức thực hiện và quyết toán NSNN sẽ có chất lượng hơn.
Ngược
lại nếu quá trình lập DTNSNN không được thực hiện tốt thì k những việc thực hiện NSNN thiếu
minh
bạch, kém hiệu quả mà còn làm cho quá trình quyết toán NSNN gặp nhiều khó khăn, phức tạp.
¬ Trong quản lý NSNN, chấp hành NSNN là khâu tiếp theo khâu lập NSNN trong chu trình quản lý
NSNN (lập – chấp hành – quyết toán NSNN). Chấp hành NSNN là quá trình sử dụng tổng hợp các
biện
pháp về kinh tế - tài chính và hành chính nhằm biến các chỉ tiêu thu, chi đã được ghi trong kế
hoạch (dự

toán NSNN) trở thành hiện thực; bao gồm việc tổ chức thu NSNN (theo dự toán năm và theo quy
định
của các Luật Thuế) và tổ chức chi (phân bổ và giao dự toán; kiểm soát chi theo quy định của
Luật). Qua
đó, góp phần thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Như vậy, có thể nói chấp hành
NSNN
là khâu quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định đến một chu trình quản lý NSNN.
Câu 3: Quy trình lập, phân bổ dự toán Thu - Chi NSNN
Bước 1: Ban hành hướng dẫn và thông báo số kiểm tra dự toán NS:
Bước 2: Lập dự toán và tổng hợp dự toán NSĐP:
Bước 3: Thảo luận dự toán với Bộ Tài chính:
Bước 4: Phân bổ dự toán ngân sách địa phương (hoàn thành trước 25/10):
Bước 5: Tổng hợp dự toán ngân sách địa phương (hoàn thành trước ngày 31/10):
Bước 6: Xem xét, báo cáo UBND tỉnh để trình Thường trực HĐND tỉnh (trước 15/11):
Bước 7: Điều chỉnh phương án phân bổ dự toán ngân sách địa phương (trước 25/11):
Bước 8: Chuẩn bị các biểu mẫu giao dự toán:
Bước 9: Công khai dự toán (chậm nhất sau 60 ngày HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết về dự toán
ngân


Bước 10: Lưu hồ sơ
1.2. Một số kết quả cụ thể trong chấp hành NSNN
a. Về phân bổ và giao dự toán NSNN
- Trên cơ sở dự toán được Thủ tướng Chính phủ, UBND các cấp giao, các cơ quan nhà nước ở
trung
ương và địa phương đã tiến hành phân bổ và giao dự toán cho các đơn vị trực thuộc trước ngày
31/12 năm trước (trừ trường hợp đặc biệt theo quy định của Luật); Luật NSNN cũng đã quy định
chuyển từ việc cấp phát ngân sách theo hạn mức kinh phí sang cấp phát theo dự toán, chuyển từ
việc giao dự toán chi tiết theo từng mục sang giao dự toán theo nhóm mục,… Qua đó, đã cải cách
mạnh mẽ thủ tục hành chính trong khấu chấp hành NSNN, tiết kiệm thời gian và công sức cho các

đơn vị chủ quản; đồng thời, các đơn vị chi tiêu cũng sớm được phân bổ và giao dự toán để chủ
động chi tiêu ngay từ những ngày đầu năm ngân sách. Ngoài ra, điều này cũng tạo thuận tiện, đơn
giản thủ tục hành chính cho cả KBNN và đơn vị dự toán trong quá trình kiểm soát chi NSNN, song
vẫn đảm bảo kiểm soát chặt chẽ các khoản chi tiêu NSNN theo chế độ quy định.
- Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn Luật về điều chỉnh dự toán và tạm cấp kinh phí đã tạo sự
chủ
động, linh hoạt cho các đơn vị trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ, đảm bảo bố trí kinh
phí phù hợp
với nhu cầu thực tế và tiến độ triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao; đồng thời, đảm
bảo có đủ kinh
phí cho các đơn vị hoạt động ngay từ những ngày đầu năm, đặc biệt là các nhu cầu chi an sinh xã
hội (lương,
phụ cấp lương,…) và các nhu cầu chi cần thiết cấp bách khác khi chưa được cấp có thẩm quyền
phân bổ và giao
dự toán NSNN.
b. Về tổ chức thu và phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi NSNN
- Luật NSNN cũng đã phân định rõ hơn quyền hạn và nhiệm vụ của các đơn vị, cá nhân trong công
tác
hành thu NSNN; thông qua đó, tạo ra sự phối hợp, kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan
quản lý và đối tượng nộp NSNN. Từ đó, một mặt nâng cao được uy tín và hiệu lực của các cơ quan
quản lý nhà nước, đặc biệt là cơ quan thu; mặt khác, nhân dân và các cơ quan bảo vệ pháp luật
cũng có thể dễ dàng kiểm tra giám sát đối với cơ quan thu và KBNN, giúp cho công tác hành thu
NSNN ngày càng được công khai và minh bạch.
- Với quy định các khoản thu NSNN phải được nộp trực tiếp vào KBNN (trừ một số khoản thu phí,
lệ
phí, thu thuế đối với các hộ kinh doanh không cố định thì cơ quan thu có thể trực tiếp thu) đã giúp
cho việc
tập trung nhanh, đầy đủ, kịp thời các khoản thu vào NSNN.
- Luật NSNN (năm 2002) chỉ quy định phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa NSTW với NSĐP và
giao

HĐND tỉnh quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp chính quyền địa
phương; đồng thời, cũng quy định khoản thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hàng hóa – dịch vụ trong
nước và phí xăng dầu là khoản thu phân chia giữa NSTW và NSĐP. Vì vậy, đã trao quyền chủ động
cho các địa phương trong việc quyết định phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi phù hợp với điều kiện
cụ thể của từng địa phương; đồng thời, nó cũng khuyến khích các địa phương tăng cường công
tác quản lý tài chính – ngân sách, phấn đấu tăng thu ngân sách, sử dụng ngân sách tiết kiệm, hiệu
quả, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của
từng địa phương và của cả nước.
c. Về kiểm soát và điều hành NSNN
- Về kiểm soát chi của KBNN: Thực hiện Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn dưới Luật, hệ thống


KBNN trực thuộc Bộ Tài chính đã thực hiện nhiệm vụ kiểm soát chi thường xuyên và chi đầu tư
XDCB thuộc
NSNN với khối lượng lên tới hàng trăm ngàn tỷ đồng mỗi năm. Qua kiểm soát chi NSNN, KBNN đã
ngăn chặn và từ chối thanh toán nhiều khoản chi NSNN chưa đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức
quy định với khối lượng lên tới hàng trăm tỷ đồng mỗi năm; từ đó, giúp cho công tác quản lý
NSNN ngày càng đi vào nề nếp, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.
- Về chi ứng trước dự toán NSNN: Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn quy định về chi ứng
trước dự
toán NSNN năm sau đã tạo sự chủ động về nguồn trong việc thực hiện các nhiệm vụ chi phát sinh
cần thiết cấp bách, đặc biệt là một số chương trình, dự án, nhiệm vụ chi thuộc lĩnh vực an ninh,
quốc phòng; các nhiệm vụ chi cấp bách để khắc phục hậu quả lũ lụt, thiên tai; một số công trình,
dự án đầu tư xây dựng cơ bản quan trọng cấp bách mang tầm quốc gia,… Qua đó, góp phần đưa
nhanh các công trình đầu tư xây dựng cơ bản vào sử dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn
NSNN và thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển tại các địa phương cũng như trong cả nước.
+ Tại một số năm gần đây (đặc biệt là những năm 2009, năm 2012,…), khi nền kinh tế suy giảm,
rơi vào
tình trạng giảm phát, việc sử dụng nguồn vốn ứng trước dự toán NSNN, đặc biệt là ứng trước
NSNN trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản đã có tác dụng dẫn dắt, thúc đẩy các nguồn vốn đầu

tư khác trong toàn xã hội, góp phần kích cầu, giải quyết hàng tồn kho và tháo gỡ khó khăn cho các
doanh nghiệp. Qua đó, đã góp phần sớm đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi tình trạng suy giảm,
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, tăng cường và đảm bảo ổn định an sinh – xã hội.
+ Trong quá trình tổ chức điều hành NSNN, một số công trình dự án đầu tư xây dựng cơ bản tuy
đã
được bố trí kế hoạch vốn, nhưng chậm giải ngân theo tiến độ kế hoạch, nên cũng có một lượng
vốn “tạm thời nhàn rỗi” trong khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, việc ứng trước dự toán NSNN
cho một số công trình, dự án
khác cần đẩy nhanh tiến độ từ nguồn vốn “tạm thời nhàn rỗi” nêu trên cũng góp phần nâng cao
hiệu quả sử
dụng vốn NSNN.
- Về chi chuyển nguồn: Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn Luật cũng đã cho phép các nhiệm vụ
chi
đã được bố trí dự toán, nhưng chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa hết được chuyển nguồn năm
trước sang năm sau sử dụng tiếp đã tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn cho các đơn vị trong quá
trình quản lý, điều hành; đồng thời, cũng khắc phục được tình trạng “chạy chi” vào cuối năm như
những năm trước đây, góp phần giảm bớt tình trạng căng thẳng đột biến về tồn quỹ NSNN cũng
như khả năng thanh khoản của KBNN.
- Về thông tin, kế toán và báo cáo: Trên cơ sở Luật NSNN, kế toán NSNN và nghiệp vụ KBNN đã
được
hoàn thiện, bao quát và phản ánh đầy đủ, kịp thời các hoạt động thu, chi NSNN cũng như các hoạt
động nghiệp KBNN. Qua đó, kịp thời cung cấp các thông tin về tài chính – ngân sách cho các cấp
chính quyền, cơ quan quản lý từ trung ương đến địa phương phục vụ cho quản lý và điều hành
hiệu quả ngân sách các cấp; đồng thời, nó cũng góp phần vào công cuộc cải cách hành chính trong
lĩnh vực tài chính – ngân sách theo hướng tập trung đầu mối, đơn giản quy trình thủ tục, xác định
rõ trách nhiệm và tăng cường tính chủ động cho các đơn vị. Ngoài
ra, kế toán NSNN và nghiệp vụ KBNN cũng góp phần từng bước định hình kế toán nhà nước, lấy
kế toán
NSNN làm trung tâm; đồng thời, cũng tạo dựng cơ sở cho việc xây dựng và triển khai dự án xây
dựng hệ thống

thông tin quản lý ngân sách – kho bạc (TABMIS).


2. Một số tồn tại, hạn chế
2.1. Đánh giá chung
- Hệ thống NSNN còn mang tính lồng ghép, NSNN bao gồm NSTW và NSĐF, nên quy trình ngân
sách
khá phức tạp (Quốc hội quyết định dự toán NSNN bao gồm cả NSTW và NSĐP, sau đó HĐND lại
quyết định
NSĐP trên cơ sở dự toán Quốc hội quyết định,…); thời gian xây dựng dự toán ngân sách tương đối
dài, nhưng
thời gian cho mỗi cấp ngân sách lại ngắn, phụ thuộc lẫn nhau, nên hiệu quả hạn chế, trách nhiệm
của từng cấp
chưa thực sự rõ ràng, nhất là chưa thực sự đảm bảo quyền tự chủ của cấp dưới.
- Quy định về phạm vi thu, chi ngân sách chưa rõ ràng. Bên cạnh đó, còn tình trạng nhiều quỹ tài
chính
nhà nước nằm ngoài NSNN và chúng được điều chỉnh bởi các văn bản khác nhau (quỹ bảo trì
đường bộ, quỹ
bảo vệ môi trường, quỹ viễn thông công ích,…); điều này một mặt làm giảm tính thống nhất của
NSNN; mặt
khác, làm cho quỹ NSNN bị cắt khúc, phân tán và nhiều khi gây căng thẳng giả tạo.
- Bội chi và phương pháp xác định bội chi NSNN, xác định nghĩa vụ nợ của Chính phủ chưa phù
hợp
với thông lệ quốc tế ,phạm vi tính bội chi NSNN chưa đầy đủ (như các khoản vay bằng trái phiếu
Chính phủ
cho y tế, giáo dục, giao thông, thủy lợi,… chưa được tính vào bội chi NSNN).
- Luật NSNN hiện hành chưa quy định xây dựng kế hoạch tài chính – ngân sách 5 năm, kế hoạch
đầu tư
trung hạn, nên đã hạn chế tính dự báo của NSNN, hạn chế tính chủ động của các Bộ, ngành, địa
phương trong

việc xây dựng kế hoạch và bố trí nguồn lực thực hiện một cách hiệu quả nhất; đặc biệt còn tình
trạng ban hành
nhiều chính sách, chế độ mới vượt quá khả năng của ngân sách. Cơ sở lập, phân bổ và quản lý
ngân sách chưa
thực sự gắn với kết quả hoàn thành nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị, chưa có tiêu chí đánh giá và
giám sát kết
quả thực hiện nhiệm vụ.
- Luật NSNN hiện hành chưa có quy định về thẩm quyền quyết định các giải pháp điều hành ngân
sách
trong các trường hợp khẩn cấp (lạm phát…), nên thiếu cơ sở pháp lý khi thực hiện.
- Luật NSNN hiện hành chưa quy định cụ thể trách nhiệm báo cáo, giải trình của các Bộ, cơ quan
trung
ương, UBND cấp dưới và các cơ quan, đơn vị dự toán cấp I ở địa phương,… trong khi các đơn vị
này được
Quốc hội, HĐND và UBND các cấp giao dự toán ngân sách để thực hiện nhiệm vụ chính trị của
mình, nên chưa
đề cao trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị này trong quản lý, sử dụng NSNN.
- Một số quy định về chấp hành, quyết toán NSNN còn chưa hợp lý, chưa đầy đủ, kỷ luật về quản lý
ngân sách chưa nghiêm như: thời hạn cuối cùng về điều chỉnh dự toán NSNN; về quản lý, sử dụng
dự phòng
NSNN; về chấp hành quy định giao dự toán cho các đơn vị chi tiêu trước 31/12 hàng năm,…
- Luật NSNN hiện hành còn có nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ chung của quốc tế, cụ thể
một số


điểm chủ yếu như:
+ Về hệ thống ngân sách, hầu hết các nước không tổ chức ngân sách các cấp lồng ghép với nhau;
các
nước quy định chỉ cấp hành chính có dân bầu (HĐND) thì mới là cấp ngân sách; đồng thời, ngân
sách từng cấp

do Quốc hội, HĐND từng cấp quyết định. Do vậy, nó đảm bảo nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp
ngân sách
được quy định rõ ràng hơn; đơn giản hóa khâu lập, chấp hành, quyết toán ngân sách,…
+ Về bội chi và phương pháp tính bội chi ngân sách: Thông lệ chung, bội chi được xác định bằng
chênh
lệch thu, chi; trong đó, thu không bao gồm thu vay và chi không gồm chi trả nợ gốc; đồng thời,
phản ánh đầy đủ
các khoản vay thuộc nghĩa vụ nợ của Chính phủ vào cân đối NSNN.
+ Về trách nhiệm báo cáo, giải trình: Các nước đều quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm báo cáo
giải
trình của các cơ quan, đơn vị được giao trực tiếp quản lý, sử dụng ngân sách, cơ quan tài chính
trong từng khâu
của quy trình quản lý ngân sách.
II. Đề xuất một số định hướng sửa đổi, bổ sung Luật NSNN trong khâu chấp hành NSNN
Từ những phân tích, đánh giá tồn tại nêu trên, việc sửa đổi bổ sung Luật NSNN trong thời gian tới
là cần
thiết nhằm hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách tài chính phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế thị
trường định
hướng XHCN, đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước nói chung và ngân sách nói riêng trong việc
động viên, phân
bổ, sử dụng nguồn lực của Nhà nước. Cụ thể:
1. Một số định hướng sửa đổi chung về Luật NSNN
- Về hệ thống NSNN: Cần hướng tới giảm bớt và xóa bỏ hệ thống ngân sách lồng ghép, Luật NSNN
(sửa
đổi) quy định theo hướng: NSNN bao gồm NSTW và NSĐP; NSĐP bao gồm ngân sách của đơn vị
hành chính các cấp có HĐND và UBND. Quốc hội quyết định dự toán và phân bổ NSTW; phê chuẩn
quyết toán NSTW, xem xét báo cáo tổng hợp dự toán và quyết toán NSNN. HĐND quyết định dự
toán NSĐP; quyết định ngân sách cấp mình và phê chuẩn quyết toán NSĐP.
- Về phạm vi NSNN: Xác định rõ phạm vi thu, chi NSNN đối với các khoản phí, lệ phí theo hướng:
toàn

bộ các khoản lệ phí do cơ quan nhà nước quản lý được nộp vào NSNN; phí do cơ quan nhà nước
thu đượcnộp toàn bộ vào NSNN; phí không gắn với kết quả trực tiếp cua cơ quan nhà nước, đơn vị
sự nghiệp công lập và phí thu từ các dịch vụ do nhà nước đầu tư cho các doanh nghiệp, thì sau khi
trừ đi chi phí là khoản thu của NSNN; phí gắn trực tiếp với kết quả hoạt động của đơn vị (học phí,
viện phí,…) là giá dịch vụ và không ghi thu, ghi chi NSNN.Ngoài ra, cũng cần quy định cụ thể trong
Luật NSNN sửa đổi để hạn chế phát sinh các quỹ tài chính nhà nước nằm ngoài NSNN.
- Về bội chi và phương pháp xác định bội chi NSNN: Quy định rõ trong Luật NSNN (sửa đổi), bội
chi
NSTW là chênh lệch giữa thu và chi NSTW; trong đó, chi NSTW không bao gồm chi trả nợ gốc;
đồng thời, bội chi NSTW được bù đắp bằng vay nợ trong và ngoài nước (bao gồm cả vay phát
hành công trái, trái phiếu cho giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục,…; song không bao gồm các
khoản vay về cho vay lại – đây là nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ).
- Về trách nhiệm giải trình và đánh giá kết quả, hiệu quả chi NSNN:
+ Bổ sung quy định trong Luật NSNN sửa đổi về trách nhiệm báo cáo, giải trình của các Bộ, cơ
quan


trung ương và các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương trước Quốc hội, Chính phủ; chế độ báo
cáo giảitrình
của các đơn vị dự toán và UBND cấp dưới trước HĐND, UBND cấp trên về hiệu quả chi NSNN
trong khâu lập, phân bổ, chấp hành và quyết toán thu, chi NSNN. Quy định rõ các Bộ, cơ quan
trung ương phải báo cáo giải trình trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và các cơ quan của
Quốc hội; các cơ quan, đơn vị ở địa phương phải báo cáo giải trình trước HĐND, UBND cấp tỉnh về
các vấn đề có liên quan của ngành mình, đơn vị mình trong việc lập, chấp hành và quyết toán thu,
chi NSNN.
+ Bổ sung quy định hàng năm, các cơ quan, đơn vị sử dụng NSNN được Thủ tướng Chính phủ,
UBND
các cấp giao dự toán và UBND cấp dưới phải báo cáo kết quả thực hiện ngân sách gắn với việc
thực hiện nhiệm
vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương mình. Các cơ quan nhà nước được phân công quản lý ngành,

lĩnh vực,
chương trình mục tiêu quốc gia có trách nhiệm tổng hợp, báo cáo kết quả thực hiện ngân sách
gắn với việc thực hiện nhiệm vụ của ngành, lĩnh vực, chương trình mục tiêu quốc gia.
HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
Phân biệt thuế suất 0% và không chịu thuế GTGT
Đối tượng không chịu thuế GTGT:
Là những loại vật tư, hàng hoá dùng cho các lĩnh vực như: Khuyến khích sản xuất nông nghiệp
phát triển; Hỗ trợ tư liệu sản xuất trong nước không sản xuất được; Dịch vụ liên quan thiết thực,
trực tiếp đến cuộc sống người dân và không mang tính kinh doanh; Liên quan đến nhân đạo.....
Thuế suất 0% :
Là loại thuế áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu; hoạt động xây dựng, lắp đặt công trình
của doanh nghiệp chế xuất; hàng bán cho cửa hàng bán hàng miễn thuế; vận tải quốc tế; hàng
hoá, dịch vụ thuộc diện không chịu thuế GTGT khi xuất khẩu, trừ một số trường hợp khác
*** Giống nhau : chủ thể không phải nộp một khoản tiền thuế.
*** Khác nhau :
* Với hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng:
- Cơ sở kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT không phải thực
hiện nộp thuế GTGT.
- Cơ sở kinh doanh không được khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hoá,
dịch vụ sử dụng cho sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế giá
trị gia tăng theo quy định mà phải tính vào nguyên giá tài sản cố định, giá trị nguyên vật liệu
hoặc chi phí kinh doanh.
* Với hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT với thuế suất 0%:
- Vì vẫn thuộc đối tượng chịu thuế nên hàng tháng cở sở kinh doanh hàng hoá, dịch vụ phải kê
khai và có nghĩa vụ nộp thuế đầy đủ đúng hạn vào Ngân sách nhà nước.
- Được khấu trừ và hoàn thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho việc sản xuất
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế.
KÊ KHAI TỔNG HỢP ĐẤT PHI NÔNG NGHIỆP
trong trường hợp nào hộ gia đình, cá nhân phải lập tờ khai thuế sử dụng đất phi nông
nghiệp tổng hợp?

Trả Lời:
* Tại tiết c.2, khoản 1, Điều 18 của TT số 156/2013/TT-BTC hướng dẫn như sau:
c.2.1) Đối với đất ở
c.2.1.1) Trường hợp người nộp thuế có quyền sử dụng đất đối với 01 (một) thửa đất hoặc nhiều
thửa đất tại cùng một quận, huyện nhưng tổng diện tích đất chịu thuế không vượt hạn mức đất


ở tại nơi có quyền sử dụng đất thì người nộp thuế thực hiện lập tờ khai thuế cho từng thửa đất,
nộp tại UBND cấp xã và không phải lập tờ khai thuế tổng hợp.
c.2.1.2) Trường hợp người nộp thuế có quyền sử dụng đất đối với nhiều thửa đất ở tại các quận,
huyện khác nhau nhưng không có thửa đất nào vượt hạn mức và tổng diện tích các thửa đất
chịu thuế không vượt quá hạn mức đất ở nơi có quyền sử dụng đất thì người nộp thuế phải thực
hiện lập tờ khai thuế cho từng thửa đất, nộp tại UBND cấp xã nơi có đất chịu thuế và không phải
lập tờ khai tổng hợp thuế.
c.2.1.3) Trường hợp người nộp thuế có quyền sử dụng đất đối với nhiều thửa đất ở tại
các quận, huyện và không có thửa đất nào vượt hạn mức nhưng tổng diện tích các thửa
đất chịu thuế vượt quá hạn mức đất ở nơi có quyền sử dụng đất: người nộp thuế phải
thực hiện lập tờ khai thuế cho từng thửa đất, nộp tại UBND cấp xã nơi có đất chịu thuế
và lập tờ khai tổng hợp thuế nộp tại Chi cục Thuế nơi người nộp thuế chọn để làm thủ
tục kê khai tổng hợp.
c.2.1.4) Trường hợp người nộp thuế có quyền sử dụng đất đối với nhiều thửa đất ở tại các quận,
huyện khác nhau và chỉ có 01 (một) thửa đất vượt hạn mức đất ở nơi có quyền sử dụng đất thì
người nộp thuế phải thực hiện lập tờ khai thuế cho từng thửa đất, nộp tại UBND cấp xã nơi có
đất chịu thuế và phải lập tờ khai tổng hợp tại Chi cục Thuế nơi có thửa đất ở vượt hạn mức.
c.2.1.5) Trường hợp người nộp thuế có quyền sử dụng đất đối với nhiều thửa đất ở tại các quận,
huyện và có thửa đất vượt hạn mức đất ở nơi có quyền sử dụng đất thì người nộp thuế phải thực
hiện lập tờ khai thuế cho từng thửa đất và nộp tại UBND cấp xã nơi có đất chịu thuế; đồng thời
lựa chọn Chi cục Thuế nơi có đất chịu thuế vượt hạn mức để thực hiện lập tờ khai tổng hợp.
c.2.1.6) Chậm nhất là ngày 31 tháng 3 của năm dương lịch tiếp theo, người nộp thuế lập Tờ khai
tổng hợp thuế theo mẫu số 03/TKTH-SDDPNN gửi Chi cục Thuế nơi người nộp thuế thực hiện kê

khai tổng hợp và tự xác định phần chênh lệch giữa số thuế phải nộp theo quy định với số thuế
phải nộp trên Tờ khai người nộp thuế đã kê khai tại các Chi cục Thuế nơi có đất chịu thuế.
c.2.2) Đối với đất phi nông nghiệp chịu thuế
Người nộp thuế nộp hồ sơ khai thuế tại Chi cục Thuế nơi có đất chịu thuế hoặc tại tổ chức, cá
nhân được cơ quan thuế ủy quyền theo quy định của pháp luật.
. Vai trò của chính sách thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
Thuế là công cụ chủ yếu để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và là công cụ điều tiết vĩ mô
của Nhà
nước đối với nền kinh tế, ngoài ra thuế còn là công cụ điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã
hội và thực
hiện kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
có những vai trò
cơ bản sau:
- Đóng góp vào nguồn thu ngân sách Nhà nước, góp phần đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước như
xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình công cộng, thực hiện chính sách an sinh xã hội, duy trì quân
đội, bộ máy hành chính nhà nước…
- Góp phần điều tiết cung cầu bất động sản và bình ổn giá cả thị trường bất động sản. Trên thực
tế cho thấy,
để tránh tình trạng đầu cơ bất động sản và tăng giá bất động sản để kiếm lời thì việc áp dụng
chính sách thuế sử dụng đất phi nông nghiệp là biện pháp tối ưu. Bởi lẽ, nếu một chủ thể có
quyền sử dụng một diện tích lớn đất phi nông nghiệp thì gần như người đó có quyền ấn định giá
cả thị trường bất động sản trong vùng. Chính vì vậy, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp sẽ làm
hạn chế việc đầu cơ quá nhiều đất đai, bởi với người tích trữ càng nhiều đất thì càng phải đóng
nhiều thuế và nếu đất đó khó có thể sinh lợi như đầu tư vào lĩnh vực khác thì chủ thể có quyền sử
dụng đất sẽ không đầu cơ đất (vì phải đóng thuế) và chuyển sang đầu tư vào lĩnh vực khác có


khả năng sinh lợi cao hơn, nhanh hơn.
- Góp phần tăng cường quản lý Nhà nước đối với việc sử dụng bất động sản. Việc đánh thuế sử

dụng đất phi
nông nghiệp cũng là một cách điều tiết thu nhập, tránh tình trạng một người có quyền sử dụng
nhiều đất nhưng không sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả.
- Góp phần chống tham nhũng. Cùng với các đạo luật khác, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
góp phần làm
minh bạch tài sản của người dân, làm cho Nhà nước có thể quản lý được đất đai, nhà cửa của
cán bộ công chức, tránh được các giao dịch bất động sản “ngầm” (tặng cho, đưa hối lộ bằng
quyền sử dụng đất ở những địa điểm đẹp ). Pháp luật về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp quy
định mức thuế mà chủ sử dụng đất phải nộp hàng năm, nếu không nộp thì phải chịu chế tài hành
chính hoặc hình sự.
- Giúp nhà nước kiểm soát hoạt động kinh doanh bất động sản, đảm bảo thị trường bất động sản
phát triển
lành mạnh. Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp góp phần làm cho các giao dịch bất động sản cũng
trở nên minh bạch hơn, hợp đồng thực hiện nhanh hơn và hạn chế được các giao dịch ngầm. Bởi
lẽ nếu không đăng ký sang tên quyền sử dụng đất kịp thời thì người chuyển nhượng phải chịu
thuế đối với cả đất đã chuyển nhượng.
- Là công cụ quan trọng để điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong sử dụng và
chuyển dịch bất
động sản. Do giá đất tính thuế được xây dựng trên cơ sở lý thuyết địa tô, nên giá đất tính thuế ở
những khu vực khác nhau, vị trí khác nhau, trục đường giao thông khác nhau thì có số thuế phải
nộp khác nhau. Tức là mức thuế phải nộp căn cứ vào khả năng sinh lợi của đất, đất có vị trí sinh
lợi cao, giao thông thuận tiện thì phải đóng thuế cao hơn đất ở vị trí không có khả năng sinh lợi,
mức độ tiện ích thấp. Đồng thời pháp luật thuế nhà đất quy định người có quyền sử dụng diện
tích đất phi nông nghiệp lớn (vượt hạn mức quy định) thì phải đóng thuế nhiều hơn người có
quyền sử dụng diện tích nhỏ (trong hạn mức).
Dự án Nghị quyết về việc miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp nếu được thông qua
tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII thì ước tính tổng số thuế miễn, giảm đối với nông
dân rất lớn - được coi là nguồn vốn rất quan trọng tái đầu tư vào khu vực nông nghiệp,
nông thôn và tạo động lực thu hút các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư
sản xuất nông nghiệp

Việc miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp trong 10 năm tới theo dự thảo Nghị quyết sẽ tiếp
tục tạo môi trường đầu tư thuận lợi trong việc thu hút vốn đầu tư quốc tế, trong việc huy động
các nguồn lực đầu tư ở trong nước vào sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội, trong đó
có lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Việc miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp sẽ khuyến khích
tổ chức, cá nhân đầu tư vào nông nghiệp. Do thực hiện thu thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với
diện tích đất vượt hạn mức sẽ khuyến khích sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả; hạn chế
việc bỏ hoang đất, đồng thời các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân phải tính toán hiệu quả sử dụng
đất nhằm đảm bảo có thu nhập khá hơn. Qua đó thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Tránh trục lợi
Tuy nhiên để đạt được các mục tiêu đề ra Ủy ban Tài chính - Ngân sách đề nghị: Rà soát quá
trình thực thi việc miễn, giảm; căn cứ vào tình hình mới, đặc biệt là những định hướng mới của
Đảng và Nhà nước trong phát triển kinh tế nông nghiệp để có điều chỉnh phù hợp: Miễn, giảm
thuế thực chất là chính sách ưu đãi về thuế. Vì vậy, việc miễn, giảm cần có trọng tâm, trọng điểm,
tập trung vào lĩnh vực cụ thể, tránh ưu đãi dàn trải, kém hiệu quả. Cần phân loại đối tượng được
miễn, giảm thuế theo mục đích sử dụng đất (đất trồng lúa, làm muối, trồng cây ăn quả, cây công
nghiệp...), phân kỳ sử dụng đất (mới đưa vào sử dụng hoặc đã canh tác lâu năm) để có chính
sách miễn, giảm phù hợp.


Trên thực tế, việc quản lý và sử dụng đất đai, trong đó có đất nông nghiệp những năm qua còn
nhiều hạn chế. Nhiều diện tích đất nông nghiệp được sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp, tình
trạng hoang hóa, lãng phí tài nguyên đất đai diễn ra ở một số địa phương. Đặc biệt, việc sử dụng
đất ở một số nông, lâm trường đang là vấn đề bức xúc trong dư luận do không kiểm soát được
quỹ đất, buông lỏng quản lý dẫn đến trục lợi từ đất đai, thất thoát nguồn thu cho NSNN. Vì vậy,
để bảo đảm hiệu quả thực tế của chính sách miễn, giảm thuế, đi đôi với việc ban hành chính sách,
cần rà soát, đánh giá thực trạng sử dụng đất nông nghiệp, đặc biệt là đất nông trường, lâm
trường. Đồng thời cần quy định rõ trong Dự thảo Nghị quyết về việc chỉ thực hiện miễn, giảm
thuế cho diện tích đất nông nghiệp được sử dụng đúng mục đích; kiên quyết thu hồi và áp dụng
các chế tài xử lý theo quy định của pháp luật đối với diện tích đất bỏ hoang hóa, sử dụng sai mục
đích, lãng phí

CÓ NÊN BÕ THUẾ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP KHÔNG
Hiện nay, toàn bộ nguồn thu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp để lại cho ngân sách địa phương.
Do đó, những người ủng hộ việc thu thuế cho rằng đây là nguồn thu chủ yếu của nhiều tỉnh, đặc
biệt là các tỉnh miền núi. Nguồn thu này tạo cho chính quyền địa phương thế chủ động trong việc
sắp xếp kế hoạch chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội qua nguồn thu từ nội lực của địa phương
mình. Tuy nhiên, ý kiến đề nghị bãi bỏ thì lý giải, hầu hết nông dân hiện nay chỉ trông cậy vào thu
nhập tạo ra từ lao động nông nghiệp (vốn rất thấp) để trang trải mọi nhu cầu chi tiêu trong cuộc
sống. Do đó việc bỏ sắc thuế này sẽ giúp bà con nông dân có điều kiện cải thiện đời sống, tạo hiệu
ứng kích cầu đáng kể, đồng thời từng bước rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và
nông thôn...
Có hiệu lực từ đầu năm 1994, Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp đã trải qua 7 năm triển khai
thực hiện, với số thu bình quân mỗi năm 1.600-1.800 tỷ đồng, chiếm khoảng 2,6% tổng số thu
ngân sách. Tuy nhiên, để thu được thuế của khoảng 12.000 hộ nông dân, hàng năm ngân sách
trung ương phải chi tới 4,5% tổng số thu thuế sử dụng đất nông nghiệp, để đảm bảo kinh phí
nuôi một bộ máy hành chính cồng kềnh, bao gồm cán bộ thuế xã, phường và cán bộ ủy nhiệm
thu, hội đồng tư vấn thuế các cấp...
Thời gian qua, Chính phủ đã nhiều lần ban hành chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất nông
nghiệp theo từng mùa vụ cho những địa phương gặp thiên tai. Để thực hiện chính sách này,
người ta thường căn cứ vào tỷ lệ thiệt hại thông qua việc tính toán phần diện tích đất bị thiệt
hại, mức độ thiệt hại, tỷ lệ miễn giảm thuế... Khối lượng công việc này khá lớn và phức tạp, trong
khi trình độ cán bộ thuế cấp xã còn nhiều hạn chế. Do đó không ít rắc rối đã xảy ra trong quá
trình xem xét miễn giảm thuế cho nông dân. Mặt khác, sắc thuế này đã bộc lộ nhiều hạn chế, đặc
biệt là sự thiếu thống nhất giữa các địa phương trong hình thức thu (thu bằng thóc hay thu tiền
theo giá thóc, trong khi giá lúa thay đổi luôn)... Tình trạng này còn tạo dư luận về sự thiếu công
bằng khi thực thi Luật Thuế đất nông nghiệp.
Tuy nhiên, những người ủng hộ việc xóa bỏ sắc thuế này còn phải tính đến chức năng khác của
Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp. Vì người dân khi phải đóng thuế sẽ có trách nhiệm hơn với
đồng ruộng của mình, tránh tình trạng bỏ đất hoang hóa hoặc sử dụng sai mục đích. Ngoài ra,
còn phải cân nhắc việc bù đắp khoản thâm hụt do miễn thuế. Một số chuyên gia tài chính cho
rằng ngân sách nhà nước có thể được bù đắp từ khoản tăng thu, là hiệu quả của chính sách kích

cầu trong nông dân qua việc xóa bỏ thuế nông nghiệp. Tuy nhiên, tính toán hiệu quả của việc
tăng thu này là bài toán rất khó.
Luật Thuế sử dụng đất mà Bộ Tài chính đang nghiên cứu, xây dựng sẽ thay thế cho Luật Thuế sử
dụng đất nông nghiệp và Pháp lệnh Thuế nhà đất.
Tham khảo


(baodautu.vn) Vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về chủ trương có nên tiếp tục chính sách
miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp (SDĐNN) nữa hay không; miễn, giảm cho đối
tượng nào khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội đưa vấn đề này ra thảo luận vào chiều nay.
Theo Dự thảo Nghị quyết về việc miễn, giảm thuế SDĐNN thì Nhà nước sẽ tiếp tục miễn thuế
SDĐNN đối với diện tích đất sản xuất nông nghiệp trong hạn mức của hộ gia đình, cá nhân nông
dân được Nhà nước giao đất; xã viên hợp tác xã sản xuất nông nghiệp nhận đất giao khoán ổn
định; nông trường viên, lâm trường viên nhận đất giao khoán ổn định của nông trường, lâm
trường để sản xuất nông nghiệp và hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp có quyền sử dụng
đất nông nghiệp góp ruộng đất để thành lập hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Nhà nước miễn
thuế trên toàn bộ diện tích đất sản xuất nông nghiệp đối với hộ nghèo; hộ gia đình, cá nhân sản
xuất nông nghiệp ở các xã đặc biệt khó khăn. Cũng theo Dự thảo này, Nhà nước tiếp tục giảm
50% số thuế SDĐNN đối với diện tích đất sản xuất nông nghiệp của các đối tượng không thuộc
diện được miễn thuế và diện tích đất sản xuất nông nghiệp vượt hạn mức của hộ gia đình, cá
nhân được miễn thuế. Như vậy, so với Nghị quyết 15/2003/QH11 thì chính sách miễn, giảm mới
không có gì thay đổi, tuy nhiên, khi thảo luận về Dự thảo này, các thành viên Ủy viên Thường vụ
Quốc hội vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Không hoàn toàn đồng ý với đề xuất của Bộ Tài chính
(cơ quan xây dựng Dự thảo), ông Phùng Quốc Hiển, Chủ nhiệm Ủy ban Ủy ban Tài chính - Ngân
sách đề nghị miễn toàn bộ số thuế SDĐNN đối với diện tích làm muối và trôầng lúa (không phân
biệt trong hay ngoài hạn mức). “Chính sách này sẽ góp phần giảm bớt khó khăn cho diêm dân và
nông dân trong điều kiện diêm dân và nông dân vẫn là những người có thu nhập thấp nhất đồng
thời khuyến khích người dân trồng lúa để giữ vững an ninh lương thực”, ông Hiển kiến nghị.
Không dừng lại ở đó, nhiều đại diện của Ủy ban Ủy ban Tài chính - Ngân sách (cơ quan thẩm tra
Dự thảo Nghị quyết) còn đề nghị miễn toàn bộ số thuế phải nộp với tất cả các đối tượng SDĐNN

đúng mục đích chứ không chỉ bó hẹp với đất trồng lúa và làm muối với lý do số thu SDĐNN
không đáng kể (năm 2010 chỉ thu được 31 tỷ đồng). “Trên thực tế tại những vùng trung du, miền
núi, ven biển có rất nhiều diện tích đất không thể trồng lúa và cũng không thể làm muối, người
nông dân phải canh tác các loại cây công nghiệp, nông nghiệp ngắn ngày khác như lạc, đậu,
ngô… thậm chí còn có thu nhập thấp hơn trồng lúa mà đánh thuế vượt hạn mức là chưa công
bằng và không khuyến khích người dân tăng gia sản xuất”, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, ông
Trần Đình Đàn bày tỏ quan điểm đồng tình với đa số thành viên Ủy ban Ủy ban Tài chính - Ngân
sách. Cùng quan điểm này, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, ông Lê Quốc Dung cho
rằng, nếu miễn toàn bộ thuế SDĐNN đối với diện tích đất sử dụng đúng mục đích sẽ khuyến khích
tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất nông nghiệp, tạo ra sản phẩm cho xã hội. “Ở các đầm phá, vùng
ven biển, người dân khai thác phần mặt nước để nuôi trồng thủy sản, góp phần giải quyết công
ăn việc làm, tăng thu nhập và đóng góp không nhỏ vào giá trị sản xuất nông nghiệp hàng năm
cho đất nước mà vẫn đánh thuế thì không khuyến khích người dân đầu tư vào lĩnh vực này, do
nuôi trồng thủy hải sản gặp không ít rủi ro”, ông Dung phát biểu. “Chính phủ đang theo đuổi
chính sách bảo đảm cho người trồng lúa có lãi tối thiểu 30%, vì vậy trong chính sách mới chúng
ta nên miễn toàn bộ thuế SDĐNN đối với diện tích sử dụng đúng mục đích”, Trưởng ban Dân
nguyện của Quốc hội, ông Trần Thế Vượng lên tiếng. Ở quan điểm ngược lại, ông Nguyễn Văn
Thuận, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật lại cho rằng, chỉ nên miễn thuế SDĐNN đối với đối tượng
chính sách, người nghèo, vùng sâu, vùng xa. “Chúng ta càng miễn thuế thì tình trạng bỏ hoang
hóa đất đai diễn ra càng mạnh vì người dân không sản xuất cũng chẳng mất gì. Điều này tạo áp
lực cho các đô thị do người dân đổ về đô thị “kiếm ăn” ngày một đông”, ông Vượng lý luận. Ông
Ksor Phước, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội cho biết, quá trình tích tụ đất đai ở khu vực
Tây Nguyên và miền Trung hiện nay khá phổ biến, có không ít người sở hữu hàng chục hecta cao


su, hồ tiêu, cà phê, cây điều có thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm. “Với những người có thu
nhập cao mà Nhà nước vẫn giảm 50% diện tích đất vượt hạn điền là không phù hợp với thực
tiễn. Toàn bộ diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức phải thu 100% thuế SDĐNN vì tích tụ
ruộng đất quá lớn không có lợi cho xã hội”, ông Phước nói. Trong khi đó, Bộ trưởng Bộ Tài chính,
ông Vũ Văn Ninh cho biết thêm, hiện đã có nhiều “đại gia” bỏ tiền mua trang trại, đầu tư vào

trồng cây công nghiệp dài ngày có thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm mà không thu thì thiếu
công bằng. Lấy ví dụ về nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào nông nghiệp
tại khu vực Tây Nguyên liên tục kê khai lỗ vì bán sản phẩm thô với giá rẻ cho công ty mẹ khiến
Nhà nước mất thuế, người dân mất đất sản xuất, ảnh hưởng đến tình hình an ninh xã hội, bà
Trương Thị Mai, Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội đề nghị Bộ Tài chính và Ủy
ban Ủy ban Tài chính - Ngân sách phải cân nhắc việc giảm thuế SDĐNN đối với doanh nghiệp.



×