Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Quản lý nguồn nhân lực bảo tàng dân tộc học Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.08 KB, 39 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 3
2. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 4
6. Bố cục đề tài ........................................................................................... 4
Chương 1: NGUỒN NHÂN LỰC TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA BẢO
TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM .............................................................. 5
1.1. Những vấn đề chung về nguồn nhân lực .......................................... 5
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực ................................................................... 5
1.1.2. Quản lý nguồn nhân lực ........................................................................ 7
1.1.3. Nguồn nhân lực trong hoạt động bảo tàng ........................................ 8
1.2. Khái quát về Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam .................................. 8
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển .......................................................... 8
1.2.2.Vai trò nguồn nhân lực với Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ....... 13
Chương 2: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC TẠI BẢO TÀNG DÂN
TỘC HỌC VIỆT NAM .................................................................................. 16
2.1. Cơ cấu nguồn nhân lực .................................................................... 16
2.1.1.Cơ cấu theo độ tuổi ............................................................................... 16
2.1.2. Cơ cấu theo giới tính ........................................................................... 17
2.2. Chất lượng nguồn nhân lực............................................................. 17
2.2.1. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ...................................................... 17
2.2.2. Năng lực ngoại ngữ và tin học ........................................................... 18
2.2.3. Năng lực thể chất ................................................................................. 19
2.3. Quản lý nguồn nhân lực tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ........ 19
2.3.1. Quy trình tuyển dụng cán bộ .............................................................. 19
2.3.2. Tổ chức và phân bố nguồn nhân lực ................................................. 21
1



2.3.3. Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ .................................................. 22
2.3.4. Chế độ đãi ngộ cán bộ ......................................................................... 24
2.4. Nhận xét ........................................................................................... 25
2.4.1.Ưu điểm .................................................................................................. 25
2.4.2. Nhược điểm ........................................................................................... 27
Chương 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN
NHÂN LỰC TẠI BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM ..................... 29
3.1. Phát huy, hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế quản lý .............. 29
3.1.1. Mô hình tổ chức ................................................................................... 29
3.1.2. Cơ chế quản lý ...................................................................................... 30
3.2. Hoàn thiện chính sách, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ bảo tàng .... 31
3.2.1. Tạo động lực về vật chất ..................................................................... 31
3.2.2. Tạo động lực về tinh thần ................................................................... 32
KẾT LUẬN ............................................................................................. 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 36
PHỤ LỤC ................................................................................................ 37

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Du khách khi đến Hà Nội có nhiều sự lựa chọn như Văn Miếu – Quốc Tử
Giám, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, chùa Một Cột, Hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc
Sơn, chùa Trấn Quốc… và Bảo tàng dân tộc học Việt Nam cũng là một điểm
đến không thể thiếu của du khách khi đến Hà Nội.
Bảo tàng được xem như “một giảng đường thứ hai”, là nơi lưu trữ rất nhiều
tài liệu có giá trị, những sách tham khảo, sách chuyên ngành, tài liệu, hiện vật
bảo tàng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc cung cấp những kiến

thức cho cán bộ, sinh viên và nhân dân. Từ khi thành lập cho đến nay, bảo tàng
Dân tộc học Việt Nam đã không ngừng thay đổi, cải tiến hoạt động của mình
nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách tham quan như tăng cường nguồn lực
thông tin, nâng cấp cơ sở, trang thiết bị, liên kết, chia sẻ với các bảo tàng trong
và ngoài nước…Đặc biệt bảo tàng rất quan tâm, chú trọng đến công tác phát
triển nguồn nhân lực, coi việc phát triển tổ chức, quản lý và sử dụng nguồn nhân
lực như một nhiệm vụ đặc biệt cần thiết của bảo tàng. Hiện nay, tại tất cả các
bảo tàng trên thế giới, nguồn nhân lực luôn có ảnh hưởng trực tiếp tới chất
lượng hoạt động và chiến lược phát triển của bảo tàng. Tuy nhiên, cho đến nay,
do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau mà hoạt động của bảo
tàng Dân tộc học Việt Nam vẫn đang đặt ra những vấn đề cần giải quyết. Một
trong số đó là việc cần tổ chức, quản lý và khai thác nguồn nhân lực một cách
hữu hiệu nhằm đáp ứng nhu cầu của người dùng tin trên cơ sở khai thác tối đa
nguồn lực hiện có.
Việc nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực tại bảo tàng trong giai đoạn
hiện nay là một việc làm hết sức cần thiết nhằm tìm ra các giải pháp để nâng cao
hiệu quả tổ chức, quản lý và khai thác nguồn nhân lực. Xuất phát từ lý do trên
nên em quyết định chọn đề tài: “Quản lý nguồn nhân lực tại Bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam” làm đề tài tiểu luận của mình.
3


2. Mục đích nghiên cứu
Nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực tại Bảo tàng Dân
tộc học Việt Nam.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá các vấn đề cơ sở lý luận về nguồn nhân lực
- Khảo sát thực trạng sử dụng, quản lý nguồn nhân lực tại bảo tàng, đưa ra
những đánh giá khách quan về mặt mạnh, hạn chế và nguyên nhân của những
hạn chế.

- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn
nhân lực tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nguồn nhân lực tại bảo tàng
- Phạm vi nghiên cứu: Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam từ năm 2010 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài thực hiện có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu.
- Phương pháp thống kê, khảo sát, đánh giá
- Phương pháp quan sát thực tế
- Phương pháp phỏng vấn
6. Bố cục đề tài
Chương 1: nguồn nhân lực trong hoạt động của bảo tàng Dân tộc học
Việt Nam
Chương 2: Thực trạng nguồn nhân lực tại bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại bảo
tàng Dân tộc học Việt Nam

4


Chương 1
NGUỒN NHÂN LỰC TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA BẢO TÀNG
DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề chung về nguồn nhân lực
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Có nhiều cách hiểu khác nhau về nguồn nhân lực xuất phát từ những góc
độ nghiên cứu khác nhau, do vậy có nhiều khái niệm về nguồn nhân lực.

Từ góc độ kinh tế, các nhà nghiên cứu cho rằng: “Nguồn nhân lực là tổng
thể những tiềm năng của con người (trước hết và cơ bản nhất là tiềm năng lao
động), của một quốc gia (một vùng lãnh thổ) có trong một thời kỳ nhất định”.
Từ góc độ khoa học quản lý thì “nguồn nhân lực được hiểu là nguồn tài
nguyên nhân sự và các vấn đề nhân sự trong một tổ chức cụ thể; nghĩa là toàn bộ
đội ngũ cán bộ, công nhân viên của tổ chức với tư cách vừa là khách thể trung
tâm của các nhà quản trị, vừa là chủ thể hoạt động và là động lực phát triển của
các doanh nghiệp nói riêng, của mọi tổ chức nói chung”.
Từ góc độ dân số học thì “nguồn nhân lực được hiểu là dân số trong độ tuổi
lao động, trong đó nhấn mạnh dân số có khả năng lao động đang có việc làm,
tức là đang hoạt động kinh tế và đang không có việc làm”.
Nói cách khác thì “nguồn nhân lực của một tổ chức được hình thành trên cơ
sở của các cá nhân có vai trò khác nhau và được liên kết với nhau theo những
mục tiêu nhất định”.
Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn
lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao
động, có khả năng tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể
lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động, còn gọi là vốn con
người.
Như vậy, dù diễn đạt theo nhiều góc độ khác nhau, theo các phương pháp
tiếp cận khác nhau nhưng giữa các định nghĩa về nguồn nhân lực vẫn còn những
điểm chung để từ đó ta có thể xác định nguồn nhân lực chính là:
5


“Nguồn nhân lực hay tài nguyên nhân lực… ở cấp độ vĩ mô hay vi mô đều
là nguồn lực con người.
Là nguồn lực con người, nguồn nhân lực được hiểu là tiềm năng lao động
của một nước, một địa phương, một tổ chức… bao hàm toàn bộ khả năng về thể
lực, trí lực và nhân cách, đáp ứng yêu cầu của xã hội nói chung, của địa phương,

của tổ chức… nói riêng” .
Có thể thấy rằng nguồn nhân lực có phạm vi rộng lớn, bao gồm lực lượng
lao động và những người ngoài tuổi lao động nhưng có tham gia lao động.
Nguồn nhân lực là nguồn lực cơ bản của mỗi quốc gia, là tổng thể tiềm năng lao
động của con người. Xét trên tổng thể: “Nguồn nhân lực là tiềm năng lao động
của con người trên các mặt số lượng, cơ cấu (ngành nghề và trình độ đào tạo, cơ
cấu theo vùng miền, cơ cấu theo ngành kinh tế) và chất lượng bao gồm phẩm
chất và năng lực (trí lực, tâm lực, thể lực, kỹ năng nghề nghiệp) đáp ứng nhu cầu
phát triển kinh tế, xã hội trong phạm vi quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương hay
ngành, và năng lực cạnh tranh trong phạm vi quốc gia và thị trường lao động
quốc tế”.
Từ những cách hiểu về nguồn nhân lực nói chung thì ta có thể hiểu được
“nguồn nhân lực của tổ chức văn hóa nghệ thuật là một bộ phận của nguồn lực
xã hội, là toàn bộ đội ngũ cán bộ, viên chức, nghệ sĩ, diễn viên đang làm việc
với tất cả khả năng vốn có của mình về thể lực, trí lực, phẩm chất đạo đức đặc
biệt là khả năng sáng tạo nghệ thuật”.
Ở nước ta, vấn đề nguồn nhân lực hiện đang là một trong những vấn đề
trọng tâm. Trong văn kiện Đại hội biểu toàn quốc IX (2001) của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã nêu rõ: “Nguồn lực con người là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội,
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự
phát triển đất nước trong thời kỳ Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa. Nguồn lực
con người là điểm cốt yếu nhất của nội lực đất nước, do đó phải bằng mọi cách
phát huy yếu tố con người và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Phát triển
con người và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực được chọn là một trong
hai khâu đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội”
6


1.1.2. Quản lý nguồn nhân lực
Hiện nay, khái niệm quản lý nguồn nhân lực được nhìn nhận ở nhiều khía

cạnh khác nhau:
Trước hết thì “quản lý là một sự điều tiết cao, mang tính xã hội. Nó luôn là
một hoạt động có hướng đích giữa chủ thể quản lý đối với khách thể quản lý,
khiến các hoạt động trong xã hội phải tự giác tuân thủ theo những đường hướng
mà Đảng và Nhà nước lãnh đạo vạch ra”.
Bên cạnh đó, quản lý nguồn nhân lực bao gồm tất cả các quyết định và hoạt
động quản lý có ảnh hưởng tới bản chất mối quan hệ giữa các tổ chức và cá nhân.
Mục tiêu hàng đầu của quản lý nguồn nhân lực là giúp tổ chức đạt được những số
lượng phù hợp vào đúng vị trí và đúng thời điểm nhằm hoàn thành mục tiêu của tổ
chức.
Theo Werther và Davis (1996) thì: Quản lý nguồn nhân lực là tìm mọi cách
tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người trong tổ chức hoàn thành tốt các mục tiêu
chiến lược và các kế hoạch của tổ chức, tăng cường cống hiến cho mọi người
theo hướng phù hợp với chiến lược của tổ chức.
Quản lý nguồn nhân lực là quản lý xã hội, một trong những loại hình quản
lý. Nó được thực hiện theo một quá trình bao gồm các hoạt động: tuyển chọn, sử
dụng, đào tạo, phát triển và duy trì con người của tổ chức. “Như vậy quản lý
nguồn nhân lực cũng chính là cách thức tác động của chủ thể quản lý (cơ quan,
tổ chức, người lãnh đạo…) lên đối tượng quản lý (nguồn nhân lực) sao cho đối
tượng được quản lý (tức là nguồn nhân lực) thực hiện có hiệu quả các mục tiêu
đặt ra của chủ thể quản lý”.
Đối với các tổ chức văn hóa thì quản lý nguồn nhân lực được hiểu là sự tổ
chức sử dụng và điều hành mọi thành viên trong tổ chức một cách có hiệu quả
nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức trên cơ sở tạo mọi điều kiện thuận lợi cũng
như đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao cho việc phát huy năng
lực sáng tạo của họ.
7


1.1.3. Nguồn nhân lực trong hoạt động bảo tàng

Nguồn nhân lực là thuật ngữ dùng chung dùng để chỉ tất cả người làm việc
trong một cơ quan, đơn vị, tổ chức hay tất cả lao động trong một xã hội.
Nguồn nhân lực bảo tàng cũng nằm trong nguồn nhân lực xã hội, được hiểu
là tổng số những người trong độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật có
khả năng tham gia lao động, có đầy đủ trí lực và thể lực, trình độ chuyên môn để
hoàn thành và phát triển các công việc của nghề bảo tàng.
Trong giai đoạn hiện nay, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động bảo
tàng, tạo khả năng kiểm soát và tra cứu thông tin một cách đầy đủ nhất và chính
xác qua hệ thống hiện vật là cách thức hữu hiệu để mọi người có thể khai thác
nguồn tri thức phong phú được lưu giữ tại bảo tàng.
Hoạt động bảo tàng là một lĩnh vực ngày càng có vai trò quan trọng trong
xã hội hiện đại, xã hội thông tin. Cũng như trong các hoạt động khác của con
người, nguồn nhân lực luôn được coi là yếu tố then chốt quyết định chất lượng
và hiệu quả của hoạt động bảo tàng. Nguồn nhân lực trong hoạt động bảo tàng
có những đặc thù riêng, mang tính chất lao động gắn với thông tin, dữ liệu được
lưu giữ và phản ánh qua từng hiện vật bảo tàng. Đặc thù của nguồn thông tin này
là có thể bị hao mòn qua quá trình sử dụng, nhưng càng được sử dụng thì nó lại
càng có giá trị và càng sản sinh ra nhiều thông tin mới. Cán bộ bảo tàng với tư
cách là cầu nối trung gian giữa khách tham quan và tài liệu, hiện vật. Lao động
trong hoạt động bảo tàng mang tính chất lao động trí óc, đòi hỏi tư duy, tri thức
và kinh nghiệm. Vì vậy chất lượng, trình độ của cán bộ bảo tàng có vai trò quyết
định đến chất lượng hoạt động bảo tàng.
1.2. Khái quát về Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Loại hình bảo tàng dân tộc học rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn về nhiều
phương diện trên qui mô quốc gia cũng như ở từng địa phương, bởi vì Việt Nam
có tới 54 dân tộc. Cho nên, ngay từ năm 1981 Nhà nước đã chủ trương hình
thành một Bảo tàng Dân tộc học đặt tại thủ đô Hà Nội. Công trình Bảo tàng Dân
8



tộc học được chính thức phê duyệt luận chứng kinh tế - kỹ thuật ngày 14-12-1987
và được Nhà nước cấp đất để xây dựng: năm 1987 - 2.500m2, năm 1988 9.500m2, đến năm 1990 Thủ tướng Chính phủ có quyết định giao toàn bộ 3,27 ha.
Bảo tàng bắt đầu được cấp vốn chuẩn bị đầu tư vào năm 1986. Công việc
xây dựng móng triển khai từ cuối năm 1989. Theo luận chứng kinh tế - kỹ thuật,
tổng kinh phí để xây dựng là 27 tỷ đồng, chưa kể khoảng 4 tỷ đồng cho việc sưu
tầm hiện vật, tư liệu và tổ chức trưng bày
Suốt nhiều năm, Ban quản lý công trình Bảo tàng và Phòng Bảo tàng là
một bộ phận của Viện Dân tộc học. Ngày 24-10-1995, Thủ tướng Chính phủ ra
quyết định về việc thành lập Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (trực thuộc
Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, nay là Viện Khoa học xã
hội Việt Nam).
Ngày 12 tháng 11 năm 1997, đúng vào dịp Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 7
các nước có sử dụng tiếng Pháp họp tại Hà Nội, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị
Bình và Tổng thống Cộng hòa Pháp Jacques Chirac đã cắt băng khai trương Bảo
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam toạ lạc bên đường Nguyễn Văn Huyên ở
quận Cầu Giấy, cách trung tâm thủ đô Hà Nội chừng 8 km. Đây vốn là vùng đất
ruộng của cư dân sở tại. Tất cả các công trình cơ sở hạ tầng đều mới được xây
dựng cùng với quá trình hình thành Bảo tàng. Đường Nguyễn Văn Huyên và
đường Nguyễn Khánh Toàn chạy qua phía trước Bảo tàng cũng đều mới được
xây dựng.
Công trình Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam do kiến trúc sư Hà Đức Lịnh
(người dân tộc Tày, thuộc Công ty Xây dựng nhà ở và công trình công cộng, Bộ
Xây dựng) thiết kế. Nội thất công trình do Bà kiến trúc sư Véronique Dollfus
(người Pháp) thiết kế.
Những năm trước đây, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam có 2 khu vực chính:
- Khu thứ nhất bao gồm nhà trưng bày, văn phòng và cơ sở nghiên cứu, thư
viện, hệ thống kho bảo quản, hệ thống các bộ phận kỹ thuật, hội trường... Các
khối nhà liên hoàn với nhau, có tổng diện tích 2.480m2, trong đó 750 m2 dùng
làm kho bảo quản hiện vật.

9


-Khu thứ 2 là khu trưng bày ngoài trời, rộng khoảng 2 ha, bắt đầu xây dựng
năm 1998 và hoàn thành công trình trưng bày cuối cùng trong năm 2006.
Bên cạnh đó, hiện nay Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được cấp thêm hơn
1 ha đất, nâng diện tích khuôn viên của Bảo tàng lên gần 4,4 ha. Tại phần đất
mở rộng này, từ giữa năm 2007 bắt đầu xây dựng một tòa nhà 4 tầng mang tên
“nhà Cánh diều”, để giới thiệu về văn hóa các dân tộc ngước ngoài, chủ yếu là
các dân tộc ở Đông Nam Á. Đây là khu trưng bày thứ 3 của Bảo tàng.
Mười năm đầu mở cửa, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã đón tiếp khoảng
1.200.000 lượt khách tham quan, trong đó có trên 530.000 khách quốc tế đến từ
hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ. Số du khách đến Bảo tàng ngày càng gia tăng,
năm 2007 đạt 337.000 lượt người, trong 6 tháng đầu năm 2008 – hơn 210.000
lượt người…
Có thể nói, Bảo tàng này là một trung tâm trưng bày và lưu giữ quí giá về
văn hoá của đủ 54 dân tộc. Tính đến năm 2000 đã tích luỹ được 15.000 hiện vật,
42.000 phim (kèm ảnh màu), 2190 phim dương bản, 273 băng ghi âm các cuộc
phỏng vấn, âm nhạc, 373 băng video và 25 đĩa CDRom. Đồng thời, đây là một
trung tâm nghiên cứu dân tộc học với những chuyên gia về các dân tộc, các lĩnh
vực chuyên ngành. Người ta đến đây không chỉ để tham quan, giải trí, mà còn để
tìm hiểu, nghiên cứu về các dân tộc, các sắc thái văn hoá đa dạng và đặc sắc của
từng tộc, từng vùng cũng như những giá trị truyền thống chung của các dân tộc.
Vì vậy, từ nhân dân khắp các miền trong nước đến khách nước ngoài, từ học
sinh, sinh viên đến nhà khoa học đều có thể tìm thấy sự hấp dẫn ở đây.
Hiện vật của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam không phải chỉ là những cổ
vật đắt tiền, mà chủ yếu bao gồm nhiều thứ rất bình thường trong đời sống hàng
ngày của người dân như: con dao, cái gùi, chiếc khố, ống sáo, cái tẩu, tấm
chiếu... Chúng phản ánh mọi khía cạnh văn hoá vật thể và phi vật thể của cộng
đồng dân cư, thể hiện tiêu biểu mọi mặt cuộc sống và mọi sáng tạo văn hoá của

họ. Bởi vậy, trong Bảo tàng này, hiện vật rất phong phú, có thể hình thành được
nhiều sưu tập theo các tiêu chí khác nhau. Bảo tàng có 54 bộ sưu tập về từng dân
10


tộc, như: về người Thái, về người Hmông, về người Gia Rai... Phân chia theo
công dụng, có các sưu tập về y phục, các đồ trang sức, về nông cụ, về ngư cụ, về
vũ khí, về đồ gia dụng, về nhạc cụ... Lại có tập hợp riêng về các hiện vật tôn
giáo-tín ngưỡng, cưới xin, ma chay hay nhiều hoạt động tinh thần, xã hội khác.
Trên cơ sở đó, Bảo tàng tổ chức trưng bày và xuất bản sách ảnh theo các dạng thức
sưu tập khác nhau, bổ ích và lý thú đối với mọi đối tượng, mọi trình độ học vấn.
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được triển khai theo nhiều quan niệm mới
phù hợp với sự tiến bộ khoa học và kỹ thuật. Trước hết đó là quan niệm Bảo
tàng dành cho tất cả mọi người. Quan niệm này được thể hiện trong cả kiến trúc
lẫn trong kỹ thuật trưng bày. Bảo tàng có lối đi riêng thích hợp cho thương binh
hay những người khuyết tật phải di chuyển bằng xe đẩy và có thang máy để họ
lên xem tầng hai. Các bậc lên xuống đều có tay vịn cho người già yếu tiện đi lại.
Trong trưng bày, kế thừa kinh nghiệm của nhiều bảo tàng trên thế giới,
BTDTHVN đã không chọn chữ in mà chọn chữ viết thường cho tất cả các bài
viết để người xem ở các lứa tuổi có thể đọc dễ dàng và không mỏi mắt. Các tấm
pa nô cũng được treo ở tầm cao có tính toán phù hợp với cả lứa tuổi thiếu nhi.
Phần trưng bày của Bảo tàng có hiện vật, có ảnh, bài viết, có băng hình, có các
tư liệu tham khảo... mà người xem tuỳ trình độ và nhu cầu khác nhau có thể khai
thác nhiều hay ít.
Bảo tàng lấy hiện vật làm trung tâm vì hiện vật phản ánh những sinh hoạt
đời thường của nhân dân các dân tộc. Vậy nên một quan điểm xuyên suốt là:
trang trí thật đơn giản, không cầu kỳ, để người xem có thể cảm thụ nhiều nhất
cái hay, cái đẹp, cái tinh tế của mỗi hiện vật rất bình dị, đời thường. Trong Bảo
tàng không có tranh minh hoạ. Nếu cần minh chứng cho những sinh hoạt nào đó thì
Bảo tàng chỉ dùng ảnh hay băng hình phản ánh cuộc sống thực của các dân tộc.

Phần trưng bày thường xuyên của Bảo tàng hiện nay chỉ trưng bày một số
lượng hiện vật hạn chế: gần 700 hiện vật khối và 280 ảnh. Quan điểm chủ đạo là
không tham đưa quá nhiều hiện vật vào trong các tủ trưng bày, bởi sẽ gây cảm
giác thừa ứ hoặc khó tiếp cận được một cách tập trung.
11


Phương pháp bố trí nội dung trong trưng bày của Bảo tàng là kết hợp giữa
cộng đồng ngôn ngữ và vùng lãnh thổ. Hầu hết hiện vật trưng bày là hiện vật
gốc, được lựa chọn và chủ yếu phô bày trong 97 tủ kính lớn nhỏ khác nhau: có
loại tủ 1 mặt, có loại 4 mặt, có tủ chứa nhiều hiện vật, có tủ chỉ đặt 1 hoặc vài ba
hiện vật. Trong số đó, hơn 50 tủ có bài viết giới thiệu kèm theo. Mỗi hiện vật
đều có phụ đề ghi rõ tên gọi hiện vật, đồng thời cho biết dân tộc và xứ sở sản
sinh ra nó. Bảo tàng cũng sử dụng manơcanh, bản đồ, biểu đồ, sách cứng, ảnh,
phim video, băng âm thanh, một số mô hình và 33 pa nô trong trưng bày. Mặc
dù diện tích không lớn, nhưng trong nhà vẫn có một số điểm nhấn được trưng
bày theo hình thức tái tạo về một tập tục hay một nét văn hoá nào đó. Người
xem có thể hiểu được nội dung tái tạo không chỉ thông qua hệ thống hiện vật,
mà còn có cả phim video.
Bảo tàng chủ trương tăng cường lời giải thích để phục vụ người xem. Hơn
100 bài viết trên panô và gắn với tủ kính hoặc với tái tạo đều cố gắng cung cấp
những thông tin cần thiết và ảnh minh hoạ, nhiều pa nô có cả bản đồ. Tuy nhiên,
do hạn chế về khuôn khổ nên phải viết dưới dạng ngắn gọn và cô đọng. Với mục
đích phục vụ cả khách nước ngoài, các bài viết đó cũng như các phụ đề của hiện
vật không chỉ dùng tiếng Việt, mà còn in bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Vì vậy,
dù không cần thuyết minh viên giới thiệu, người xem vẫn có thể hiểu được đáng
kể về các phần, các tủ, các hiện vật trưng bày.
Bảo tàng cố gắng tìm các giải pháp kỹ thuật hiện đại trong phương pháp thể
hiện trưng bày như việc sử lý ánh sáng, dùng đèn chuyên dụng chiếu vào từng
hiện vật hay từng bộ phận của hiện vật làm nổi lên vẻ đẹp cần gây sự chú ý quan

sát. Trong điều kiện hiện nay, Bảo tàng đã lựa chọn phương án thông khí cho
toàn bộ khu trưng bày. Từng tủ kính đều được lắp hệ thống thông khí để đảm
bảo cho hiện vật không bị mốc.
Đối với khu ngoài trời, do đất hẹp nên Bảo tàng chỉ có thể dựng 9 công
trình kiến trúc dân gian cùng một số hiện vật lớn như: Nhà rông của người Ba
Na, nhà sàn dài của người Ê Đê, nhà sàn của người Tày, nhà nửa sàn nửa đất của
12


người Dao, nhà trệt lợp ván pơmu của người Hmông, nhà ngói của người Việt,
nhà trệt của người Chăm, nhà trình tường của người Hà Nhì, nhà mồ của người
Gia Rai. Xen giữa các công trình kiến trúc dân gian đó là cây xanh các loại, các
lối đi ngoằn ngoèo và cả con suối uốn khúc chảy suốt 4 mùa, có cầu bắc nối đôi
bờ. Những trưng bày ở phần này đang từng bước được thực hiện.
Phần trưng bày trong nhà hiện nay chiếm trọn tòa nhà hai tầng có dáng mô
phỏng hình Trống Đồng - một biểu tượng chung của nền văn minh Việt Nam
cũng như nhiều nước khác trong khu vực , Chiếc cầu đá granit dẫn vào tòa nhà
bảo tàng tạo cảm giác như chúng ta bước leen căn nhà sàn phổ biến ở nhiều
vùng. Sảnh lớn của bảo tàng thể hiện không gian bao quát của đất nước , mặt nền
được trang trí bằng đá granit với biểu trưng theo hình thể của tổ quốc có đất liền
và biển cả; trên cao có cánh diều tượng trưng cho bầu trời .
1.2.2.Vai trò nguồn nhân lực với Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là cơ quan trực thuộc Viện hàn lâm khoa
học xã hội Việt Nam trong. Bảo tàng được xem như một giảng đường mở rộng
của những người yêu thích sự tìm hiểu và khám phá nguồn tri thức vô tận của
các tộc người trên khắp đất nước. Từ khi thành lập đến nay, bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam luôn có những cải tiến trong các hoạt động của mình nhằm nâng
cao chất lượng phục vụ, đáp ứng tối đa nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu của các đối
tượng khách tham quan khác nhau. Bên cạnh những biện pháp như tăng cường
nguồn lực thông tin, đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị, áp dụng khoa học công

nghệ vào hoạt động bảo tàng... Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam cũng đã đặc biệt
quan tâm tới việc phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Từ lâu, bảo tàng đã xác định con người là chủ thể của mọi hoạt động trong
xã hội. Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một “tài nguyên đặc
biệt”, một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Trong lĩnh vực hoạt động, đội ngũ
cán bộ bảo tàng là một trong 4 yếu tố cơ bản để hình thành nên một bảo tàng.

13


Cán bộ bảo tàng là yếu tố quan trọng hàng đầu, vai trò của họ rất lớn.
Nhiệm vụ của người cán bộ bảo tàng vô cùng đa dạng, phức tạp. Họ chính là
người lựa chọn, xử lý, bảo quản, sắp xếp tài liệu, hiện vật theo một trật tự nhất
định, giới thiệu chúng với khách tham quan khi họ có nhu cầu.
Trong mối quan hệ với khách tham quan, cán bộ bảo tàng là người có tổ
chức mối quan hệ giữa tài liệu, hiện vật và khách tham quan, nghiên cứu nhu
cầu tìm hiểu thông tin, từ đó tuyên truyền giới thiệu một cách tích cực những
thông tin mà hiện vật chứa đựng đến với người tham quan, hướng dẫn khách
tham quan tìm hiểu hiện vật, tài liệu phù hợp với nhu cầu, đồng thời tạo ra các
dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu khách tham quan.
Cán bộ bảo tàng là người tổ chức, tạo điều kiện tốt nhất cho việc phối hợp
thành công mối quan hệ giữa con người với thông tin, làm cho việc khai thác, sử
dụng thông tin hiện vật có hiệu quả, làm tăng giá trị của thông tin chứa đựng
trong từng hiện vật.
Đội ngũ cán bộ bảo tàng không chỉ đơn thuần là trông coi, lưu giữ tài liệu,
hiện vật mà phải là người hướng dẫn, định hướng cho khách tham quan, cung
cấp cho họ những hiểu biết nhất định về hiện vật, những nguồn thông tin cần
khai thác. Cán bộ bảo tàng cũng cần phải nghiên cứu, sưu tầm thêm thông tin,
hiện vật để bổ sung và làm phong phú hơn cho kho cơ sở của bảo tàng.
Ngày nay, tuy nhiều khâu trong công tác bảo tàng, máy móc đã giúp con

người giải phóng sức lao động nhưng vẫn không thể thay thế hoàn toàn con
người. Tất cả các công đoạn tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đều gắn chặt
với yếu tố con người, từ khâu nghiên cứu, sưu tầm tại thực địa, đưa hiện vật
nhập kho, bổ sung thông tin cho hiện vật, cho hiện vật nhập kho, đưa hiện vật
lên trưng bày, bảo quản hiện vật…. Bất cứ công đoạn nào cũng đều cần tới tinh
thần trách nhiệm, sự tận tụy, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghiệp
vụ….của người cán bộ bảo tàng. Với những công việc có sự tham gia của máy
móc, con người vẫn giữ vai trò quan trọng. Con người vận hành, điều khiển hoạt
động của máy móc, thực chất máy móc hoạt động theo ý chí, mệnh lệnh của con
14


người. Cũng chính con người kiểm tra, giám sát, đánh giá chất lượng công việc
do máy móc tiến hành.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo bảo tàng là những người có trình độ cao, có năng
lực quản lý, họ vừa là một bộ phận trong yếu tố nguồn nhân lực. Cán bộ lãnh
đạo là đại diện hợp pháp của bảo tàng, đồng thời là những người đề ra các chủ
trương, đường lối, đưa ra các kế hoạch hoạt động của bảo tàng. Thêm vào đó, họ
có quyền quản lý, chỉ đạo các cán bộ dưới quyền thực hiện những chủ trương,
đường lối, kế hoạch của mình. Đây là bộ phận nhân lực đầu não, có vai trò vô
cùng quan trọng trong bảo tàng.
Song song với công tác xử lý nghiệp vụ và công tác phục vụ, cán bộ của
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam còn tham gia tích cực vào nhiều công trình
nghiên cứu khoa học về lĩnh vực văn hóa. Chính tinh thần nghiêm túc, tận tụy
trong nghiên cứu khoa học của những cán bộ này cùng những thành quả nghiên
cứu rất có giá trị của họ đã là nguồn động viên, khích lệ tinh thần cho những cán
bộ khác hăng say đóng góp công sức vào công cuộc nghiên cứu khoa học của
cán bộ Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.

15



Chương 2
THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC TẠI BẢO TÀNG
DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM
2.1.Cơ cấu nguồn nhân lực
2.1.1.Cơ cấu theo độ tuổi
Độ tuổi là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến chất lượng công việc.
Mỗi độ tuổi khác nhau sẽ có những đặc điểm về tâm sinh lý khác nhau. Bởi vậy,
việc phân tích độ tuổi nguồn nhân lực giúp cho hoạt động quản lý đạt hiệu quả
cao hơn. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam có số lượng cán bộ tương đối đông
đảo. Theo thống kê hiện nay, bảo tàng có 52 cán bộ ở các độ tuổi khác nhau.
Nhóm cán bộ dưới độ tuổi 30 chiếm khoảng 20%. Đây là những cán bộ trẻ,
mới được đào tạo nên những kiến thức mà học có được khá mới, có tính cập
nhật và khả năng nắm bắt những tiến bộ khoa học của họ cũng nhanh hơn. Bản
thân họ có sức trẻ, sự năng động, nhiệt tình, có nhiều sáng kiến trong công việc.
Nhưng ở họ lại thiếu kinh nghiệm thực tiễn nên có thể còn gặp nhiều khó khăn
trong công việc. Tuy nhiên, trải qua thời gian công tác, họ sẽ tích lũy được thêm
kinh nghiệm, trình độ ngày càng được nâng cao.
Nhóm có độ tuổi từ 30 – 50 chiếm tỷ lệ khoảng 70% so với tổng số cán bộ
của bảo tàng. Cán bộ ở độ tuổi này là những người đã có kinh nghiệm công tác,
đồng thời vẫn ở độ tuổi trẻ trung, năng động, có sức khỏe, lại được đào tạo bài
bản, là nguồn nhân lực quý báu của bảo tàng. Cán bộ từ 40 – 50 tuổi là những
người đã đạt được độ chín về nghề nghiệp. Sau nhiều năm công tác, họ đã tích
lũy được nhiều kinh nghiệm trong công việc, có kỹ năng kỹ xảo thành thục, có
năng lực giải quyết những công việc có tính chất phức tạp.
Những cán bộ trên 50 tuổi chiếm khoảng 10% đều là những cán bộ kỳ cựu,
giàu kinh nghiệm, đa số đảm trách những nhiệm vụ quan trọng trong bảo tàng.
Những kinh nghiệm của họ là nguồn kiến thức vô giá đối với lớp cán bộ trẻ. Tuy
nhiên, những cán bộ ở độ tuổi này đã bắt đầu gặp phải những vấn đề về sức

khỏe, những biến đổi về tâm sinh lý, sự nhiệt tình, năng động trong công việc đã
bắt đầu có dấu hiệu giảm sút.
16


2.1.2. Cơ cấu theo giới tính
Do đặc thù của ngành bảo tàng nên cũng giống với nhiều bảo tàng khác
trong cùng hệ thống, số lượng cán bộ nữ chiếm tỷ lệ lớn hơn cán bộ nam trong
cơ cấu giới tính của đội ngũ cán bộ tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Thực tế cho thấy tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, thậm chí có những
phòng hoàn toàn không có cán bộ nam giới như phòng Giáo dục, phòng trưng
bày ngoài trời. Sự tế nhị và khả năng giao tiếp mềm mỏng, nữ giới có thể phục
vụ khách tham quan với hiệu quả cao hơn. Ngay cả trong các khâu xử lý kỹ
thuật nghiệp vụ, sự cẩn thận, tỉ mỉ của nữ giới cũng góp phần nâng cao chất
lượng xử lý, đáp ứng yêu cầu chính xác, đầy đủ hơn so với nam giới..
2.2. Chất lượng nguồn nhân lực
2.2.1. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam có trình độ
tương đối cao về chuyên môn nghiệp vụ. Số lượng thạc sĩ sau 10 năm chỉ tăng
34 người, là mức tăng nhanh. Hiện tại, nhiều cán bộ bảo tàng nhận thấy trình độ
của mình chưa đáp ứng được nhu cầu của công việc nên họ đã tham gia các khóa
học đào tạo thạc sĩ, nghiên cứu sinh để nâng cao trình độ.
Về phần số lượng cử nhân tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam bao gồm
những cán bộ tốt nghiệp hệ chính quy và tại chức của các trường đại học, cao
đẳng trong và ngoài nước thuộc chuyên ngành đào tạo bảo tàng cũng như
chuyên ngành khác.
Giai đoạn từ năm 2007- 2011, số lượng cán bộ ở trình độ cử nhân của bảo
tàng giảm xuống nhanh chóng. Lý do của hiện tượng này là do tổng số lượng
cán bộ của bảo tàng có sự suy giảm lớn, bên cạnh đó một số cử nhân đã tham gia
các khóa đào tạo sau đại học và trở thành thạc sỹ.

Số lượng cán bộ thuộc những trình độ khác trong những năm qua có xu
hướng tăng cao. Đến năm 2015, số lượng cán bộ ở trình độ này lên tới 11 người.
bao gồm các phó giáo sư và tiễn sĩ, một số cán bộ đang trong thời gian hoàn
thành chương trình học nghiên cứu sinh của mình.
17


Xét về trình độ chuyên môn, tính từ năm 2010 đến nay, nhìn chung nguồn
nhân lực của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã có những thay đổi. Trước
những đòi hỏi ngày càng cao của ngành bảo tàng, Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam đã có những đầu tư nhất định trong việc đào tạo lại nguồn nhân lực ở
những trình độ cao hơn.
Xét về cơ cấu ngành đào tạo, theo thống kê, cán bộ có trình độ sau đại học
chiếm tỷ lệ cao nhất so với các ngành khác. Đây có thể coi là một thành tựu
đáng kể của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Có được kết quả như vậy là do
chính sách tuyển dụng của bảo tàng vẫn rất chú trọng những người được đào tạo
về bảo tàng và luôn được nâng cao về trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
2.2.2. Năng lực ngoại ngữ và tin học
Trong bối cảnh hiện nay, khả năng sử dụng ngoại ngữ thành thạo của
nguồn nhân lực tác động không nhỏ đối với sự phát triển của hoạt động bảo
tàng. Nó giúp ta vượt rào cản ngôn ngữ để tiếp cận, nắm bắt, học hỏi kinh
nghiệm các nghiệp vụ đổi mới, tiên tiến trên thế giới; tăng cường khả năng hội
nhập, giao lưu, hợp tác quốc tế; phát triển kỹ năng xử lý, tổ chức và khai thác
thông tin bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau.
Mặt khác, bảo tàng thu hút đông đảo khách tham quan không chỉ trong
nước mà khách quốc tế. Do đó, nếu cán bộ bảo tàng không biết tiếng Anh thì sẽ
không thể thao tác, giao tiếp và xử lý được. Đây chính là nguyên nhân trên buộc
đội ngũ cán bộ bảo tàng phải thông thạo ít nhất một ngoại ngữ thông dụng.
Ngoài tiếng Anh là loại ngôn ngữ phổ biến, thì ngày nay còn có thêm tiếng
Trung Quốc, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Nhật....

Bên cạnh ngoại ngữ thì tin học cũng là một phần quan trọng với hoạt động
của bảo tàng và từng cán bộ. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin
hiện nay, việc tin học hóa hoạt động bảo tàng là một điều tất yếu. Khả năng làm
việc với máy tính và thực hiện các thao tác công việc với phần mềm là kỹ năng
thường ngày trực tiếp đến các hoạt động của bảo tàng. Hiện đại hóa bảo tàng
gắn liền với việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động bảo tàng
18


khiến cho khả năng sử dụng máy tính, các kiến thức về tin học ngày càng chiếm
vị trí quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu công việc. Cán bộ bảo tàng cần phải có
khả năng sử dụng các phần mềm thông dụng phục vụ công việc hàng ngày cũng
như khả năng sử dụng các phần mềm văn bản, xử lý số liệu sưu tầm…
2.2.3. Năng lực thể chất
Công tác bảo tàng là một công việc vất vả cả về trình độ chuyên môn và thể
chất. Cán bộ bảo tàng thường xuyên ngồi hàng giờ liên tục xử lý nghiệp vụ một
lượng lớn tài liệu, hiện vật, khai thác thông tin, sau đó phải vận chuyển, khuân
vác, bó, sắp xếp theo những quy tắc nhất định; bộ phận kho và bảo quản thì phải
thường xuyên xử lý hàng ngàn tài liệu, hiện vật khác nhau. Điều này đòi hỏi cán
bộ bảo tàng không những cần trình độ chuyên môn cao, kỹ năng, kỹ xảo thành
thục mà còn cần một sức khỏe tốt, bền bỉ, dẻo dai.
Nhận thấy sức khỏe của người lao động là tài sản quý báu của bảo tàng,
trong những năm qua, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã có chính sách nhằm
nâng cao năng lực thể chất cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên của mình như
tiến hành khám sức khỏe định kỳ, hỗ trợ kinh phí khám chữa bệnh cho cán bộ,
đầu tư các trang thiết bị bảo hộ lao động, các máy móc hiện đại nhằm giảm bớt
sự vất vả cho cán bộ. Bên cạnh đó bảo tàng còn tích cực phát động phong trào
thể dục thể thao, tổ chức các hội thao dành cho đội ngũ cán bộ bảo tàng.
2.3. Quản lý nguồn nhân lực tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
2.3.1. Quy trình tuyển dụng cán bộ

Bảo tàng căn cứ vào những văn bản quy phạm pháp luật về tuyển dụng lao
động như Nghị định số 116/2003/NĐ-CP về việc tuyển dụng viên chức phải căn
cứ vào nhu cầu công việc, vị trí công tác và theo chỉ tiêu biên chế được giao và
Nghị định 117/2003/NĐ-CP về việc tuyển dụng và quản lý cán bộ, công chức
trong cơ quan Nhà nước.
Quy trình tuyển dụng được thực hiện một cách công khai, minh bạch. Bảo
tàng Dân tộc học Việt Nam công bố rộng rãi trên website về chỉ tiêu, yêu cầu,
thời gian tuyển .
19


Bảo tàng căn cứ vào tình hình thực tiễn công việc rồi từ đó lập báo cáo
trình lên cơ quan cấp trên để đề xuất xin cấp trên tuyển dụng.
Việc tuyển dụng nhân lực mới được tiến hành dựa trên các căn cứ sau:
- Căn cứ vào khối lượng công việc thực tế tại các tổ công tác so sánh với
số lượng, chất lượng làm việc hiện thời thực hiện các công việc đó. Bảo tàng có
thể định mức số lượng cán bộ đáp ứng cho công việc ở các bộ phận. Qua sự so
sánh đó, có thể xác định được các bộ phận dư thừa hay thiếu hụt cán bộ. Sự
thiếu hụt về cán bộ tại các vị trí tạo ra nhu cầu về nhân lực của cơ quan và đòi
hỏi phải có sự tuyển dụng bổ sung.
Đối tượng tuyển dụng của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam gồm những
người tốt nghiệp đại học chuyên ngành về bảo tàng, nhân học, dân tộc học (hệ
chính quy). Ưu tiên những người có văn bằng Thạc sĩ trở lên, những người tốt
nghiệp ở nước ngoài, đúng chuyên ngành.
Ngay sau thời hạn thu nộp hồ sơ kết thúc, phòng tổ chức cán bộ sẽ tập hợp
danh sách, tiến hành xét duyệt hồ sơ rồi lên lịch tổ chức phỏng vấn trong thời
gian sớm nhất và sẽ báo cho từng ứng viên qua điện thoại. Kết quả trúng tuyển
sẽ căn cứ vào kết quả điểm phỏng vấn và kết quả xét hồ sơ, cộng điểm ưu tiên
(nếu có). Danh sách kết quả sẽ xếp từ cao xuống thấp.
Ứng viên được tuyển sẽ có 3 tháng thử việc, sau đó được ký hợp đồng lao

động 6 tháng, được đảm bảo các chế độ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo
hiểm thất nghiệp, được hưởng lương theo quy định và các chế độ theo quy định
của nội bộ trường, nếu được đơn vị quản lý trực tiếp đề nghị ký hợp đồng sau 3
tháng thử việc. Sau đó, họ sẽ được ký hợp đồng 6 tháng hoặc 1 năm.
Cán bộ khi mới vào làm thường được phân công công việc linh hoạt từ bộ
phận này sang bộ phận khác, nhằm cung cấp cho cán bộ mới những kinh nghiệm
làm việc của nhiều bộ phận khác nhau trong cơ quan. Những kinh nghiệm và
kiến thức thu được trong quá trình đó sẽ giúp cho họ có khả năng thích ứng với
mọi bộ phận, giúp cán bộ mới thực hiện được những công việc cao hơn trong
tương lai. Mặt khác, qua giai đoạn luân chuyển này, cán bộ quản lý sẽ đánh giá
20


được khả năng, trình độ của cán bộ mới qua thực tế để bố trí công việc phù hợp
với khả năng của họ, phát huy tối đa tiềm năng của họ trong công việc.
2.3.2. Tổ chức và phân bố nguồn nhân lực
Tổ chức và phân bố nguồn nhân lực là sắp xếp công việc cho cán bộ, bố trí
cán bộ vào các vị trí làm việc nhất định, mục tiêu là để đáp ứng yêu cầu của việc
phục vụ người dùng tin, làm cho các nhu cầu trưởng thành và phát triển của cá
nhân phù hợp với yêu cầu của cơ quan.
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam tổ chức nhân sự theo mô hình quản lý trực
tuyến chức năng.

Giám đốc bảo tàng

Phó giám đốc bảo
tàng

Phó giám đốc bảo
tàng


Trưởng phòng (7)*

Giám đốc (2)**
)

Phó trưởng
phòng***

Nhân viên
* Đứng đầu mỗi phòng là trưởng phòng (7 trưởng phòng).
** Riêng Thư viện và Phòng quản lý khoa học và đào tạo đứng đầu là
Giám đốc.
21


*** Một số phòng đứng đầu là Phó trưởng phòng (chưa có trưởng phòng)
đó là: Phòng Dân tộc âm nhạc và phim dân tộc học, Phòng Bảo tàng ngoài trời,
Phòng Nghiên cứu và sưu tầm vùng Trường Sơn - Tây Nguyên.
Các phòng chuyên môn, nghiệp vụ
- Phòng Nghiên cứu và sưu tầm vùng Đồng bằng và biển
- Phòng Nghiên cứu và sưu tầm vùng miền núi miền Bắc
- Phòng Nghiên cứu và sưu tầm vùng Trường Sơn - Tây Nguyên
- Phòng Nghiên cứu và sưu tầm khu vực Đông Nam Á
- Phòng Giáo dục
- Phòng Bảo tàng ngoài trời
- Phòng Trưng bày
- Phòng Kiểm kê, bảo quản và phục chế
- Thư viện
- Phòng Lưu trữ tư liệu và thiết bị nghe nhìn

- Phòng Dân tộc âm nhạc và phim dân tộc học
- Phòng Quản lý khoa học và Đào tạo
- Phòng Hành chính - Tổng hợp
2.3.3. Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ
+ Quản lý bằng các văn bản pháp quy:
Giống như tất cả cán bộ ngành bảo tàng trong cả nước, cán bộ quản lý Bảo
tàng Dân tộc học Việt Nam đã vận dụng các văn bản pháp quy của Nhà nước về
ngành bảo tàng để quản lý điều hành công việc:
- Quyết định số 428/TCCP-VC ngày 02 tháng 6 năm 1993 của Bộ trưởng –
Trưởng Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ ngạch
công chức ngành Văn hóa – Thông tin, trong đó có ngành bảo tàng.
- Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14-12-2004 của Chính phủ “Về chế
độ lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang” quy định
ngạch lương của viên chức bảo tàng nằm trong nhóm gồm 8 bậc. Như vậy, cán
bộ bảo tàng được hưởng lương tương đương viên chức các ngành khác.
22


2.3.5. Chế độ đào tào
Quá trình học tập làm cho người lao động nắm vững hơn về công việc của
mình, là những hoạt động học tập để nâng cao trình độ, kỹ năng của người lao
động để thực hiện nhiệm vụ lao động có hiệu quả hơn.
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã tiến hành đào tạo với nhiều hình thức:
+ Đào tạo trong thời gian thử việc
Đối với tất cả các cán bộ mới, khi bắt đầu công việc ở vị trí nào đó, đều
được cán bộ phụ trách có kinh nghiệm chỉ dẫn nhiệt tình, tỉ mỉ. Nhân viên mới
sẽ được tạo điều kiện để quan sát, trao đổi học hỏi những kinh nghiệm của cán
bộ phụ trách. Từ đó, giúp họ định hướng được công việc mà họ sắp làm và bước
đầu thiết lập được những kỹ năng nghiệp vụ nhằm hoàn thành tốt công việc mà
họ được đảm nhiệm.

+ Đào tạo tại chỗ
Đây là một hoạt động khá thường xuyên và hiệu quả. Đó là việc tổ chức
các buổi hội thảo chuyên môn định kỳ hàng năm. Trong đó, các cán bộ được cử
đi tham dự các lớp tập huấn sẽ giảng lại về nội dung đã được đào tạo cho các
cán bộ không được tham dự. Ngoài ra, những cán bộ có khả năng tốt trong việc
áp dụng vào thực tiễn thì sẽ truyền đạt kinh nghiệm và hướng dẫn cán bộ khác
trong suốt quá trình làm việc, cũng như giúp đỡ đồng nghiệp chỉnh lý những sai
sót thường mắc phải trong quá trình áp dụng..
+ Cử cán bộ đi đào tạo
Ngoài việc thực hiện đào tạo nhân viên tại nơi làm việc Bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam còn gửi nhân viên đi đào tạo ở các cơ sở ngoài cơ quan, đi học tập
kinh nghiệm ở các bảo tàng lớn trong nướcvà quốc tế. Cụ thể:
Khuyến khích nhân viên tự nâng cao trình độ ở bên ngoài.
Gửi nhân viên tham gia các khóa học các chứng chỉ, học nâng cao, học cao
học, nghiên cứu sinh…
Cử cán bộ đi học tập, dự các buổi hội thảo, hội nghị về nghiệp vụ bảo tàng
do ICOM (Liên minh bảo tàng thế giới) tổ chức. Trong xu thế hội nhập, hợp tác,
23


bảo tàng đã và đang mở rộng liên kết với nhiều bảo tàng trong khu vực và trên
thế giới trong việc đào tạo, cấp chứng chỉ quốc, nâng cao trình độ.
2.3.4. Chế độ đãi ngộ cán bộ
Các chính sách đãi ngộ người lao động nói chung và lao động trong lĩnh
vực bảo tàng nói riêng phải đảm bảo cho người lao động có những quyền lợi
chính đáng về chính trị, về tinh thần và đảm bảo đời sống vật chất.
Nhận thức được điều này, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã tích cực hoàn
thiện công tác tổ chức sắp xếp cơ cấu, đề bạt cán bộ. Mặt khácbảo tàng luôn
chăm lo tạo điều kiện phát huy năng lực cán bộ, dành nhiều thuận lợi cho cán bộ
tham gia thi tuyển công chức, nâng lương, xét tuyển nhân viên hợp đồng vào

biên chế, đề bạt người mới có năng lực, đạo đức vào các vị trí quan trọng.
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam luôn thực hiện chế độ tiền lương, các chế
độ phụ cấp, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội... cho các cán bộ theo đúng bộ luật
lao động và luật cán bộ, công chức. Công chức, viên chức của bảo tàng được
hưởng lương theo chức danh được quy định trong Hệ thống bảng lương hành
chính sự nghiệp và được tăng lương theo định kỳ 2 – 3 năm một lần. Việc sắp
xếp lương căn cứ theo trình độ, chức danh, thâm niên công tác của từng cán bộ.
Ngoài tiền lương, cán bộ của bảo tàng còn được hưởng một số phụ cấp theo quy
định của Nhà nước.
Để tăng thêm thu nhập, từng bước cải thiện đời sống cho đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức một cách chính đáng để cán bộ an tâm công tác, bảo tàng
đã chủ động tạo việc làm thêm ngoài giờ và trích một phần nguồn thu nhập từ
hoạt động kinh doanh sự nghiệp và hoạt động ngoài chuyên môn để hỗ trợ cán
bộ, nhân viên. Bên cạnh đó, bảo tàng còn có tiền động viên tinh thần cho cán bộ
vào những dịp lễ lớn trong năm và còn tổ chức đi tham quan, du lịch, các hoạt
động ngoài trời cho các cán bộ.
Các chế độ khen thưởng, kỷ luật, ốm đau, thai sản, nghỉ hưu, nghỉ mất sức
đều tuân thủ theo các quy định của Nhà nước. Các chính sách thi đua, khen
thưởng, có chế độ đãi ngộ hợp lý sẽ là một trong những yếu tố quan trọng giúp
24


đội ngũ cán bộ bảo tàng gắn bó hơn với nghề, năng động và sáng tạo trong công
việc.
2.4. Nhận xét
2.4.1.Ưu điểm
+ Cơ cấu độ tuổi của cán bộ Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam trẻ, năng
động có năng lực chuyên môn, nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm cao.
Đa số cán bộ Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được đào tạo khá bài bản, tỷ
lệ cán bộ tốt nghiệp đại học và sau đại học chiếm đa số, số nhân lực chưa được

đào tạo nghiệp vụ chiếm tỷ lệ không lớn. Đặc biệt, trình độ nguồn nhân lực tại
của bảo tàng hiện đang dần được nâng cao.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam có trình độ cao,
tận tụy với công việc, luôn đề cao việc hoàn thiện.
+ Đội ngũ cán bộ được tuyển chọn và sử dụng tương đối hợp lý
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam có các chính sách tuyển chọn nhân viên
tương đối hợp lý, công khai minh bạch, thông báo tuyển dụng được phổ biến
rộng rãi trên website, thu hút nhiều ứng viên tham gia dự tuyển. Thực tế, bảo
tàng đã tuyển chọn được đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, trẻ trung, có kiến
thức vững vàng về nghiệp vụ.
Bố trí sắp xếp đội ngũ cán bộ theo chức danh rõ ràng. Việc bố trí cán bộ
theo từng tổ công tác và được quản lý nhất quán từ trên xuống dưới cũng như
việc thường, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
+ Quan tâm đến việc đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã rất quan tâm đến việc đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ, công nhân viên. Đồng thời, khuyến khích cán bộ tự trau
dồi nâng cao trình độ. Bảo tàng đã mở các lớp đào tạo, nâng cao nghiệp vụ dành
cho cán bộ và cũng đã cử các đoàn cán bộ đi học tập tại các đơn vị khác ở trong
nước và ra nước ngoài.
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam cũng đã tổ chức những hội nghị, hội thảo
khoa học, những buổi tọa đàm, tư vấn, giải đáp thắc mắc, và mời những chuyên
gia đầu ngành có uy tín tới nói chuyện, giảng dạy, truyền đạt kinh nghiệm.
25


×