Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Những đóng góp của triều Lý với lịch sử dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.59 KB, 20 trang )

Mục lục

Vấn đề 1:Những đóng góp của vương triều Lý trong lịch sử dân tộc
1.Khái quát chung về vương triều Lý(1009-1225)
- Việc hình thành nhà Lý gắn liền với sự kiện Lý Công Uẩn thay ngôi Lê
Long Đĩnh. Các bộ sử cổ của Việt Nam như Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn
thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục thống nhất chép rằng tháng 10
năm 1009, vua nhà Tiền Lê là Long Đĩnh mất, các con còn nhỏ, quan Điện tiền
chỉ huy sứ là Lý Công Uẩn được sự ủng hộ của Chi nội là Đào Cam Mộc cùng
thiền sư Vạn Hạnh đã lên ngôi hoàng đế; các quan trong triều đều nhất trí suy
tôn.
- Hơn 1 năm sau khi lên ngôi vua, tháng 7 âm lịch năm 1010, Lý Thái
Tổ tiến hành dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La (Hà Nội). Ông đã ban
hành Chiếu dời đô vào mùa xuân năm 1010.
- Việc tìm đất, nghị bàn đến việc chuẩn bị để dời đô diễn ra tương đối khẩn
trương nhưng điều đó cũng đã thể hiện sự trưởng thành, ý chí, tư duy của người
cầm quyền của giai cấp thống trị.
- Ngay từ thời Lý Thái Tổ đến các vị hoàng đế tiếp theo là Thái Tông và
Thánh Tông, nhà Lý tập trung giải quyết những vấn đề lớn sau:
1


Củng cố nội trị: Phát triển kinh tế, đặc biệt là nông nghiệp; ban hành Hình

1.

thư, hệ thống pháp luật đầu tiên từ khi giành độc lập sau thời Bắc thuộc, xác lập
hệ thống giáo dục khoa cử có hệ thống.
Củng cố cương vực cai trị, vươn rộng quyền lực đến những vùng xa. Nhà

2.



Lý Dùng chính sách hôn nhân, gả công chúa cho các tù trưởng địa phương để
thắt chặt mối quan hệ. Với những nơi không thần phục, vua cử các hoàng tử
hoặc thân chinh đi đánh dẹp. Chính sử ghi nhận ba vị vua đầu triều Lý đã nhiều
lần xuất quân các châu như Vị Long, Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên, Định
Nguyên, Trệ Nguyên, Thất Nguyên, Văn, Hoan, Diễn, Phong v.v. Lớn nhất là
biến loạn họ Nùng những năm 1038-1041.
Bảo vệ biên giới các phía: giải quyết những xung đột nhỏ xảy ra vùng

3.

biên với nhà Tống, và thường có liên quan tới các tù trưởng địa phương; đánh
lui những cuộc tấn công cướp phá của Nam Chiếu, Chiêm Thành
Nhà Lý là triều đại mở đầu cho nền độc lập tự chủ ổn định lâu dài và đặt
nền móng cho sự phát triển của dân tộc Đại Việt trong suốt lịch sử hàng ngàn
năm sau.
Với dụng ý xây dựng, phát triển một đất nước giàu mạnh, hùng cường,
pháp chế quốc gia đi vào nề nếp, quy củ, mở mang dân trí, đào tạo nhân tài đã
trở thành những việc làm có ý nghĩa lịch sử trong truyền thống dựng nước và
giữ nước của dân tộc ta nhà Lý tập trung phát triển giáo dục xây dựng Văn miếu
(1072), mở Quốc Tử Giám (1076)….Và nhắc đến những thành tựu đó, không
thể không nhắc đến vai trò hết sức to lớn của Phật giáo, một tôn giáo đã có quá
trình gắn bó, đồng hành cùng dân tộc suốt chiều dài lịch sử. Sự ổn định, vững
bền của vương triều Lý, chắc chắn có dấu ấn và sự đóng góp tích cực của Phật
giáo.
2.Đóng góp của vương triều Lý trong lịch sử dân tộc
Vương triều Lý: là một vương triều đã đóng góp nhiều thành tựu cho lịch
sử nước nhà ở một số lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, kiến

2



trúc…Những thành tựu đó của vương triều Lý - những trang vàng mang dấu ấn
của nhà Lý sẽ còn mãi với đất nước, với Thăng Long - Hà Nội.
2.1.Việc đổi mới đế đô
Mùa thu năm 1010, Lý Thái Tổ có một quyết định lịch sử, chọn thành Đại
La kinh đô cũ do Cao Biền xây dựng nằm ven sông Tô Lịch, làm kinh đô mới
cho vương triều Lý. Bởi Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) nằm trong miền núi non
hiểm trở, mang tính phòng thủ cao đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình trong
buổi đầu dựng nước. Còn "…thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vươngở vào nơi
trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, đúng vị trí các hướng nam bắc
đông tây, rất tiện cho sự nhìn sông dựa núi; địa thế vừa rộng vừa bằng phẳng,
đất đai lại cao và thoáng; dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật
cũng rất mực phong phú, tốt tươi. Ngắm khắp nước Việt ta, chỉ có nơi đây là
"thắng địa". Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước, xứng đáng
là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời" (Trích Chiếu dời đô_vua Lý
Công Uẩn). Đó là một sự kiện quan trọng, đánh dấu bước chuyển mình của vận
mệnh dân tộc, đánh dấu sự cai trị dựa vào sức mạnh kinh tế và lòng dân hơn là
sức mạnh quân sự để phòng thủ như các triều đại trước. Sự phát triển không
ngừng của Đại La - Thăng Long - Hà Nội hơn 1000 năm lịch sử đã minh chứng
sự đúng đắn và sáng suốt cho quyết định dời đô của vua Lý Công Uẩn
2.2.Về tư tưởng
Đưa Phật giáo phát triển trở thành quốc giáo trong thiên hạPhật giáo thời
kỳ này giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, nó được giai cấp phong kiến
Việt Nam sử dụng vào việc ổn định trật tự xã hội, phát triển chế độ phong kiến,
dựng nước và giữ nước.
Các vua Lý đều tôn sùng Phật giáo. Do nhận thấy được những giá trị mà
Phật giáo đã và sẽ đem lại cho đất nước nên ngay từ khi lên ngôi, vua Lý Công
Uẩn đã cho xây dựng một chính quyền sùng Phật và thân dân, đề cao tư tưởng từ
bi, bác ái.


3


Ông cho xây dựng chùa trong cả nước, độ dân làm sư, cử sứ thần sang
nước Tống xin kinh Tam tạng… Từ đó các tín đồ Phật giáo phát triển cả về số
lượng và chất lượng, hình thành nhiều trung tâm Phật giáo lớn như Đại La, Hoa
Lư.
Nhận thức được vai trò to lớn của những nhân sỹ Phật giáo như vậy nên
các vị vua nhà Lý luôn tìm cách để trọng dụng, tranh thủ đức tài của họ vào
công cuộc trị nước. Những vị như thiền sư Vạn Hạnh, Đa Bảo, Giác Hải, Mãn
Giác, Viên Chiếu, Quốc sư Minh Không, Viên Thông, Thông Biện… không chỉ
làm rạng danh Phật giáo đồ mà còn là những bậc quân sự lỗi lạc, phò trợ các bậc
quân vương gìn giữ vương quyền chính thể, để lại tiếng thơm lưu danh muôn
đời. Chính vì +vậy mà chùa chiền còn là nơi đào tạo trí thức của đất nước.
 Có thể nói đây là đóng góp quan trọng nhất của vương triều Lý bởi
đóng góp này đã có nhiều tác động tích cực đến tất cả mọi lĩnh vực của đất nước
ta từ chính trị - xã hội đến kinh tế, văn hóa, và quân sự.
2.3.Về kinh tế -chính trị-quân sự
Cuối thời tiền Lê ( tức thời Lê Ngọa Triều), đất nước rơi vào tình thế khủng
hoảng, vua và quan ăn chơi sa đọa, nhân dân sống trong cảnh lầm than, cực khổ.
Điều này báo hiệu cho sự sụp đổ của triều đại Tiền Lê và thay thế là một vương
triều mới.
Sau khi vua Lê Long Đĩnh mất (Lê Ngọa Triều mất), không có con trai nối
ngôi, Lý Công Uẩn lên ngôi và lập ra nhà Lý (1010). Việc nhà Lý thành lập
không những không gây ra sự bất đồng trong triều đình, sự phản đối trong nhân
dân mà ngược lại nhân dân hết lòng ủng hộ, quan lại trong triều đều quy phục,
như đánh giá của của những người xưa “Giành ngôi một cách hòa bình ngay
trong khủng hoảng, tránh được can qua”.
Sự thành lập của vương triều Lý đã chấm dứt thời kì khủng hoảng vào cuối

thời Tiền Lê, đưa đất nước bước sang một thời kì mới – thời kì phát triển thịnh
vượng.
-Về kinh tế
4


Nông nghiệp: Kinh tế thời nhà Lý chủ yếu dựa vào nông nghiệp, vì thế
trong suốt thời gian của triều đại này, có nhiều việc làm của các vua hay
các chiếu chỉ liên quan đến vấn đề bảo vệ và phát triển nông nghiệp. Nhà Lý áp
dụng chính sách ngụ binh ư nông, cho binh lính thay nhau về làm ruộng, có tác
dụng phát triển sản xuất nông nghiệp, sức lao động không bị thiếu. Binh sĩ thay
nhau nghỉ 1 tháng 1 lần về cày ruộng tự cấp.
Nhà Lý khuyến khích nhân dân khai khẩn đất hoang, tăng gia sản xuất; tổ
chức lễ “cày tịch điền”; đại xá cho thiên hạ: "đốt giềng lưới, bãi ngục tụng”,
“đốt hết hình cụ”, xuống chiếu cho những kẻ trốn tránh phải về quê cũ làm ăn,
những người mồ côi, góa chồng, thiếu thuế lâu năm đều tha cho cả để họ tập
trung sản xuất; xóa thuế và tô hai đợt, mỗi đợt 3 năm. Xóa cả thuế và tô là việc
làm biểu hiện của một xã hội cực thịnh, một nền tài chính vững vàng.
Thủ công nghiệp:Do những chính sách khuyến khích tăng cường sản xuất
của các vua nhà Lý đã tạo thêm điều kiện cho thủ công nghiệp phát triển.
Nhà nước có công xưởng gọi là "Cục bách tác", chuyên chế tạo binh khí,
đồ trang sức, đóng thuyền, đúc tiền, đúc chuông, xây dựng cầu cống, cung điện
chùa đền v.v... Thợ làm trong các xưởng này đều tuyển lựa những tay thợ giỏi
trong dân gian. Các thợ chế tạo vũ khí cũng rất tài năng, đã chế tạo nhiều loại
súng lớn nhỏ.
Nghề dệt lụa, nuôi tằm, ươm tơ vốn là nghề cổ truyền của dân tộc ta.
Những thợ dệt giỏi, ngoài việc dệt lụa thường để cung cấp cho người dân
dùng, đã dệt gấm vóc, thảm gấm.
Nghề làm đồ gốm cũng rất tinh xảo.
Nghề làm đồ trang sức bằng vàng, bạc, thêu đan, đúc đồng, rèn sắt,

nhuộm vải, làm giấy, khắc bản in gỗ v.v.
Nghề khai mỏ cũng được phát triển.
Riêng nghề in sách ở nước ta phải chờ đến cuối thế kỷ XI do thiền sư Tín
Học sáng thiết và thực thiện

5


Thương nghiệp:Thương nghiệp nước ta buổi ấy cũng rất phát đạt nhờ
chính sách mở mang giao thông vận tải thủybộ của nhà Lý như đào vét sông
ngòi, đắp đường, làm cầu.
=>Việc lưu thông hàng hóa và trao đổi sản phẩm nhờ đó được mở
rộng. Thăng Long, ngay từ khi Lý Thái Tổ mới dời đô về đây, nó không những
chỉ là trung tâm của chính trị và văn hóa của cả nước, đồng thời cũng là trung
tâm kinh tế quan trọng, nơi cửa ngõ thu hút người ở khắp bốn phương lũ lượt
kéo về tụ họp buôn bán tấp nập ở chợ cửa Đông.
-Chính trị:Về thể chế chính trị, đã có sự phân cấp quản lý rõ ràng hơn và
sự cai trị đã dựa nhiều vào pháp luật hơn là sự chuyên quyền độc đoán của cá
nhân.
Chính sách đối nội:Đối với dân:nhà Lý thực hiện chính sách vì dân,
thương dân, gần dân, thương dân như con.
Khi đang tại vị, Lý Thái Tổ - vị vua đầu triều nhà Lý đã cho xây cung Long
Đức ở phía đông thành Thăng Long, giữa khu vực dân cư sinh sống và buôn bán
để Thái tử Lý Phật Mã ở, tạo cho Thái tử có điều kiện tìm hiểu đời sống dân
sinh, với mong muốn người kế nghiệp tương lai sẽ gần dân, hiểu dân và sau này
có những chính sách thân dân, vì dân.
Năm 1029, vua Lý Thái Tông cho sửa sang điện Càn Nguyên và đổi tên là
điện Thiên An. Hai bên tả hữu đặt hai lầu chuông đối xứng nhau, tạo điều kiện
cho dân ai có việc kiện tụng, oan uổng thì đến đánh chuông, nhà vua sẽ đích
thân xem xét xử lý. Năm 1033, nhà vua lại cho đúc quả chuông nặng một vạn

cân (khoảng 6 tấn), treo ở lầu chuông, để tiếng chuông vang thấu tai vua. Ngoài
ra vào lễ cày Tịch Điền, vua còn trực tiếp xuống cày ruộng để hòa mình vào dân,
làm gương cho dân chúng. Việc làm đó là một minh chứng cho chính sách thân
dân của vị vua thứ hai của Nhà Lý.
Lý Thánh Tông nổi tiếng là một minh quân. Ngài có lòng thương dân như
con. Sử gia còn chép: "Nhân một năm trời rét đậm, Thánh Tông bảo các quan
hầu cận rằng: Trẫm ở trong cung ngự sưởi than thú, mặc áo hồ cừu mà còn rét
6


thế này. Huống chi những tù phạm giam trong ngục, phải trói buộc, cơm không
có mà ăn, áo không có mà mặc; vả lại có người xét hỏi chưa xong, gian ngay
chưa rõ, nhỡ rét quá mà chết thì thật thương tâm lắm. Nói rồi vua truyền cho lấy
chăn chiếu cho tù nằm, và mỗi ngày cho hai bữa ăn".
Đối với tù trưởng dân tộc thiểu số miền núi:Chính sách rằng ràng buộc
tầng lớp thống trị miền núi là quan hệ hôn nhân (gả con gái cho các châu mục, tù
trưởng có thế lực để lôi kéo họ).


Nhà Lý có những chính sách thương dân, được nhân dân tin tưởng và tồn tại
trong thời gian khá dài.
Chính sách đối ngoại: Nhà Lý trong suốt thời đại của mình liên tục phải
đối phó với những mưu đồ bành trướng, thôn tính hoặc cướp phá của các nước
láng giềng như nhà Tống ở phía Bắc, Chiêm Thành, Chân Lạp ở phía Nam, Đại
Lý ở Tây bắc hoặc những cuộc nổi loạn lẻ tẻ của các dân tộc thiểu số. Quan hệ
với nhà Tống mang tính chất nước nhỏ thần phục nước lớn, tuy rằng trong giai
đoạn khoảng những năm 1075-1076, Lý Thường Kiệt và Tông Đản đã từng đem
quân tấn công nhà Tống ở các châu Ung, châu Khâm. Đại Lý không còn là một
quốc gia hùng mạnh như trong giai đoạn thế kỷ 8, thế kỷ 9 nên các cuộc giao
tranh mang tính chất lẻ tẻ và phần thua thông thường thuộc về người Đại Lý.

Quan hệ với Chiêm Thành thì nhà Lý dường như lại đóng vai trò của một nước
lớn. Quan hệ với Chân Lạp khá bình thường, với chính sách ngoại giao khá
mềm dẻo, nhà Lý đã giữ vững và mở rộng được lãnh thổ của mình. Năm 1097,
ban hành Hội Điển qui định các phép tắc chính trị.
-Quân đội:Nhà Lý được xây dựng có hệ thống đã trở nên hùng mạnh,
ngoài chính sách Ngụ binh ư nông, các Hoàng đế nhà Lý chủ trương đẩy mạnh
các lực lượng thủy binh, kỵ binh, bộ binh, tượng binh....cùng số lượng lớn vũ
khí giáo, mác, cung, nỏ,khiên và sự hỗ trợ công cụ công thành như máy bắn đá,
những kỹ thuật tiên tiến nhất học hỏi từ quân sự Nhà Tống. Việc trang bị đầu tư
và quy mô khiến quốc lực dồi dào, có đủ khả năng thảo phạt các bộ tộc man di ở
biên giới, cũng như quốc gia kình địch phía Nam là Chiêm Thành hay cướp phá
7


thường xuyên, bảo vệ thành công lãnh thổ và thậm chí mở rộng hơn vào
năm 1069, khi Hoàng đế Lý Thánh Tông chinh phạt Chiêm Thành và thu về
đáng kể diện tích lãnh thổ. Quân đội nhà Lý còn vẻ vang hơn khi đánh bại quân
đội của Vương quốc Đại Lý, Đế quốc Khmer và đặc biệt là sự kiện danh
tướng Lý Thường Kiệt dẫn quân đội đánh phá vào lãnh thổ nhà Nhà Tống vào
năm 1075, dẫn đến Trận Như Nguyệt xảy ra trên đất Đại Việt và quân đội hùng
mạnh của nhà Tống hoàn toàn thất bại.
2.4.Về văn hóa- xã hội
- Về xã hội:Ngay từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta khoảng đầu công
nguyên đã đem theo tư tưởng bình đẳng và từ bi rất thích hợp với khối đại đoàn
kết toàn dân và mở rộng tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau của dân Việt.
Nhờ tư tưởng coi trọng đạo Phật cùng những chính sách khích lệ sự phát
triển của Phật giáo mà tinh thần vô ngã, vị tha, bình đẳng ấy càng thấm sâu vào
tiềm thức của cư dân Đại Việt và tạo nên mối đoàn kết dân tộc sâu sắc giữa vua
quan với người dân bình thường, giữa tướng lĩnh với binh lính.
-Về Văn hóa- giáo dục

Triều Lý là triều đại đầu tiên xây dựng trường học ở nước ta.Sự hưng thịnh
của Phật giáo song song với sự lớn mạnh dần của tư tưởng Nho giáo trong giáo
dục ,khoa cử tuyển chọn quan lại ngày càng mở rộng.
Trong nước, mặc dù các vị Hoàng đế đều sùng bái Phật giáo, nhưng ảnh
hưởng của Nho giáo cũng rất cao, với việc mở các trường đại học đầu tiên
là Văn miếu (1070)
Năm 1075, Nhà Lý mở khoa thi đầu tiên trong lịch sử để chọn người hiền
tài không có nguồn gốc xuất thân là quý tộc ra giúp nước và Trạng nguyên đầu
tiên là Lê Văn Thịnh.
Tới năm 1076, Người đứng đầu nhà Lý đã quyết định xây nhà Quốc Tử
giám kề sau Văn Miếu, để làm nơi cho các hoàng tử và con các vị đại thần đến
học. Việc mở trường dạy học, cho dù ý tưởng ban đầu chỉ là để con cái hoàng
gia có nơi "nấu sử sôi kinh" cũng đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong sự
nghiệp giáo dục của Nhà Lý, của đất nước.Sau này các triều vua Trần, Lê...đã
8


tiếp tục phát triển Văn Miếu - Quốc Tử Giám thành trường Đại học đầu tiên, là
trung tâm giáo dục của cả nước.
-Về pháp luật: Nhà Lý được xác định là nhà nước đầu tiên ở Việt
Nam chính thức có hệ thống pháp luật từ khi giành độc lập sau thời Bắc
thuộc mà thời nhà Ngô, nhà Đinh và nhà Tiền Lê trước đó chưa có.
Cơ quan chuyên trách pháp luật của nhà Lý là Bộ Hình và Thẩm hình viện.
Đảm nhận chức vụ này thường là á tướng kiêm nhiệm. Trong một số trường
hợp, vua đích thân xử án như vụ kiện.
Năm 1042, Lý Thái Tông ban hành sách Hình thư, đây là sách Luật đầu
tiên của một triều đại Việt Nam, có thể coi như tổng hợp của luật dân sự, luật
hình sự, luật tố tụng hình sựvà luật hôn nhân gia đình ngày nay. Hình thư gồm
có 3 quyển, đã bị thất truyền sau thời kỳ phá hủy văn hóa Đại Việt của nhà
Minh vào đầu thế kỷ 15.

Trừ 10 tội nặng gọi là thập ác (bất trung, bất hiếu, bất kính, bất nghĩa...),
nhà Lý cho ban hành thể lệ chuộc tội: những người già trên 70 tuổi, trẻ con dưới
15 tuổi, người có nhược tật, những người họ nhà vua và người có công nếu
phạm tội có thểchuộc tội bằng tiền, tùy theo tội nặng nhẹ thì nộp tiền với mức
độ nhiều ít khác nhau.
Việc ra đời của Hình thư cũng như các cơ quan Bộ Hình và Thẩm hình
được xem là bước tiến trong việc tổ chức quản lý của nhà nước thời Lý, tuy hiệu
lực vẫn còn hạn chế.
Do sùng bái đạo Phật của triều đại này mà các hình phạt nói chung không
quá nghiêm khắc. Pháp luật bảo vệ nguồn thu nhập của triều đình, đảm bảo dân
đinh là sức lao động chủ yếu mà triều đình sử dụng. Để đảm bảo sản xuất nông
nghiệp, việc giết trâu bò được quy định chặt chẽ. Người giết trâu bò bừa bãi
không theo quy định bị xử tội nặng.
Pháp luật nhà Lý phản ánh và chấp nhận sự xuất hiện của chế độ tư hữu
ruộng đất, chỉ rõ sự phân biệt đẳng cấp xã hội, trong đó quý tộc quan liêu được
hưởng đặc quyền.
9


3.Kết luận
Nhờ những đóng góp trên, Đời sau xem sử ba đời vua Lý Thái Tổ, Lý Thái
Tông, Lý Thánh Tông kế tục nhau trong việc dựng nước và giữ nước, những
việc làm đó đều đặn thu được thành tựu, không hề thất bát, suy bại; vua sau đã
thay nhưng vua trước như thể vẫn còn; nước Đại Cồ Việt trở thành Đại Việt tuần
tự đi lên không bị suy sút, thua thiệt.
Những đóng góp to lớn của nhà Lý đã cho thấy chính sác cai trị đúng đắn
và yêu thương dân như con của các vua triều Lý .Điều đó cho thấy một chính
sách, tư tưởng nhất quán của các vua Lý. Cả ba vua đầu tiên của nhà Lý đều có
tài văn võ kiêm toàn, kính Phật yêu dân.
Ba vị vua Lý này là những người đặt nền tảng cho một nhà Lý tồn tại bền

vững hơn 200 năm, là triều đại đầu tiên truyền nối được lâu dài trong lịch sử
Việt Nam, đưa nhân dân vào cuộc sống quy củ, nề nếp,đưa đất nước vào thời kỳ
phát triển hưng thịnh, ổn định, lâu dài .

10


Vấn đề 2: Nhận thức mới về vương triều Nguyễn trong lịch sử dân tộc
1.Khái quát chung về vương triều Nguyễn
1.1.Sự thành lập
Vương triều Nguyễn được thành lập năm 1802 sau khi Nguyễn Ánh ( vua
Gia Long sau này ) đánh bại nhà Tây Sơn và lập ra triều Nguyễn
Sau khi đánh bại thế lực chúa Nguyễn ở Đàng Trong, vua Lê-chúa Trịnh ở
Đàng Ngoài, đánh tan quân xâm lược Chiêm tại trận Rạch Gầm – Xoài Mút và
đại phá 29 vạn quân Thanh ở phía Bắc, triều Tây Sơn đã bảo vệ vững chắc nền
độc lập chủ quyền của dân tộc, xóa bỏ tình trạng chia cắt đất nước kéo dài gần 2
thế kỷ, bước đầu lập lại nền thống nhất quốc gia.
Khi mà công cuộc khôi phục đất nước còn dang dở, vua Quang Trung đột
ngột qua đời ( năm 1792 ), Quang Toản lên ngôi khi còn nhỏ tuổi. Sau công
cuộc thống nhất đất nước, xóa bỏ sự cát cứ từ thời vua Quang Trung, thì đến bây
giờ, ngay trong chính triều Tây Sơn đã hình thành lên sự cát cứ, chia cắt trong
chính nội bộ triều đình. Điều này khiến cho nhà Tây Sơn nhanh chóng suy yếu.
Cuộc chiến tranh Nguyễn Ánh - Tây Sơn đã thay đổi tính chất và chuyển
hóa thành cuộc đấu tranh giữa hai thế lực phong kiến mà thất bại của Nguyễn
Lữ, rồi Nguyễn Nhạc và Quang Toản là thất bại của những chính quyền phong
kiến đã suy yếu và mất lòng dân.
Chính điều này đã giúp cho Nguyễn Phúc Ánh, hậu duệ của các chúa
Nguyễn nắm bắt cơ hội, tập trung binh lực tiến công, lần lượt chiếm được Gia
Định, rồi Quy Nhơn, Phú Xuân… Giữa năm 1802, Nguyễn Ánh đưa quân ra
Bắc, chiếm được Thăng Long, bắt được vua Quang Toản. Triều Tây Sơn sụp đổ.

1-6-1802 :Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Gia Long, lập ra
vương triều Nguyễn, đóng đô ở Phú Xuân, đặt quốc hiệu là Việt Nam.
Sự phát triển của vương triều Nguyễn có thể được chia ra làm hai giai đoạn
riêng biệt: Giai đoạn độc lập ( từ năm 1802- đến năm 1858 ) và giai đoạn bị đế

11


quốc Pháp xâm lăng và đô hộ ( từ 1858- 1945). Và kết thúc khi Bảo Đại thoái vị
( 25-8-1945).
1.2.Bộ máy chính quyền nhà Nguyễn
Bộ máy nhà nước thời nhà Nguyễn cơ bản vẫn giữ nguyên hệ thống quan
chế và cơ cấu chính quyền trung ương như các triều đại trước đó.
Nhà Nguyễn trong nửa đầu thế kỷ XIX đã thiết lập một hệ thống cai trị từ
trung ương tới địa phương với các chính sách đối nội, đối ngoại… theo nguyên
tắc tập trung mọi quyền hành vào tay Hoàng đế và củng cố quyền lực của vương
triều.
1.3.Tình hình kinh tế -xã hội-văn hóa.
-Kinh tế: Vào nửa đầu thế kỉ XIX, nhà Nguyễn ra sức phục hồi nền kinh tế
trên cơ sở coi trọng ruộng đất và sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, trong giai
đoạn suy tàn của chế độ phong kiến, nhiều chính sách của nhà Nguyễn không
còn ý nghĩa tích cực, làm cho nền kinh tế vốn đã trì trệ lại càng thêm bế tắc.
-Xã hội: Đời sống nhân dân lâm vào tình trạng khốn cùng. Mâu thuẫn xã
hội dưới thời Nguyễn ngày càng gay gắt, dẫn đến sự bùng nổ của hàng loạt cuộc
khởi nghĩa nông dân rộng lớn, làm cho tình hình xã hội ngày càng rối ren phức
tạp.
Nạn cường hào địa chủ cướp đoạt ruộng đất làm cho người dân không có
ruộng để sản xuất. Vỡ đê, lụt lội, dich bệnh xảy ra liên miên, khiến dân chúng
lầm than, mất mùa đói kém, đời sống nhân dân cực khổ. Thêm vào đó, quan lại
tham nhũng trắng trợn, cướp bóc của nhân dân; “quan coi dân như kẻ thù, dân sợ

quan như cọp”, ngày đục tháng khoét của dân cho đầy túi riêng.
 Mâu thuẫn giữa nhân dân và nội bộ quan lại triều đình ngày càng trở lên sâu sắc

và phức tạp.
-Văn hóa: Nhà Nguyễn cho thi hành chính sách độc tôn Nho giáo, hạn chế
Phật giáo và cấm đạo Thiên chúa, nhưng đời sống văn hóa tư tưởng ở nước ta
đầu thế kỉ XIX vẫn phát triển phong phú và đa dạng.
12


Tục thờ cúng tổ tiên và tôn thờ các anh hùng dân tộc, những người có công
với làng, với nước trở thành phổ biến trong toàn xã hội. Đình, chùa, đền được
tôn tạo hoặc xây dựng ở khắp mọi nơi.
 Việc các vua triều Nguyễn ra những chỉ dụ cấm đạo, giết giáo dân, giáo sĩ cũng

đã góp phần tạo cớ cho thực dân Pháp thực hiện âm mưu xâm lược vũ trang ở
nước ta.

2.Những nhận thức mới về đóng góp của vương triều Nguyễn trong
lịch sử dân tộc.
Trong lịch sử dân tộc, có những triều đại từng bị coi là ngụy triều, ngoại kỷ
như nhà Hồ, vương triều Mạc, và điều đó đã ăn sâu vào tiềm thức, được coi là
những đánh giá “chính thống” với lịch sử dân tộc. Ngày nay , chúng ta đã có
những cái nhìn có thiện cảm hơn và công bằng hơn với các triều đại ấy.
Nhưng có lẽ, chưa có triều đại nào lại có sự tranh luận quyết liệt như vương
triều Nguyễn.
Cần thiết phải khẳng định công lao của các chúa Nguyễn và vương triều
Nguyễn trong việc mở mang bờ cõi, thống nhất đất nước, phát triển giáo dục,
văn hóa. Những gì được coi là "tội" của các vua, chúa Nguyễn cũng phải được
xem xét lại cho thật công bằng.

2.1.Nhà Nguyễn với công cuộc thống nhất và xác lập chủ quyền thống
nhất đất nước.
Sau cách mạng tháng Tám, nhiều quan điểm có khuynh hướng phê phán
vương triều Nguyễn bằng hành động cầu viện tư bản Pháp, phong kiến Xiêm để
tiến hành cuộc chiến tranh chống Tây Sơn và kết thúc bằng sự đầu hàng quân
xâm lược Pháp.
Nhưng điều đó cũng không thể phủ nhận việc Vương triều Tây Sơn đã xóa
bỏ được tình trạng chia cắt đất nước suốt hơn 200 năm, điều đó lịch sử đã ghi
nhận. Nhưng ngay trong chính vương triều Tây Sơn, đã nảy sinh ra tư tưởng cát
13


cứ và chuyên quyền. Bằng chứng là trong một quốc gia, không chỉ tồn tại một
triều đình thống nhất, ngoài Phú Xuân, nơi đóng đô của vua Quang Trung và
vương triều Tây Sơn, chúng ta vẫn biết tới Trung ương hoàng đế Nguyễn Nhạc
và thành hoàng đế ở Quy Nhơn, Đông Định Vương Nguyễn Lữ trấn thủ đất Nam
kỳ. Trong một quốc gia mà có sự phân chia quyền lực và lãnh thổ như vậy thì
chưa thể coi là thống nhất hoàn toàn được.
Công lao của vương triều Tây Sơn đúng nhất có lẽ là chấm dứt sự chia cắt
đất nước suốt hơn 200 năm và đặt nền móng cho việc thống nhất lãnh thổ, còn
việc thống nhất lãnh thổ đất nước chính thức phải là xác lập dưới vương triều
Nguyễn, khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế.
Nguyễn Ánh đã xác lập được lãnh thổ Việt Nam rộng lớn, bao gồm cả một
bộ phận lãnh thổ Ai Lao và Cao Miên lúc bấy giờ, trải dài từ Hà Giang tới mũi
Cà Mau. Và thống nhất quyền lực tập trung vào tay mình, vương triều Nguyễn
xứng đáng được nhận định là vương triều hoàn thành công cuộc thống nhất đất
nước về mặt lãnh thổ. Và điều đó ngày nay, chúng ta nên thẳng thắn ghi nhận sự
đóng góp lớn lao đó của vương triều Nguyễn.
Bên cạnh đó, lịch sử cũng ghi nhận công lao của vương triều Nguyễn trong
công cuộc xác lập và quản lý biển đảo của dân tộc, trong đó có quần đảo Hoàng

Sa, Trường Sa.
Các tài liệu còn được lưu giữ đến ngày nay đã khẳng định ít nhất là từ thế
kỷ XVII, các triều đình phong kiến Việt Nam đã xác lập chủ quyền và quản lý,
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời khơi thác và làm chủ Biển
Đông. Sách “Đại Nam nhất thống chí” triều Nguyễn có chép: “ Phía Đông có
dải đảo cát nằm ngang ( Hoàng Sa đảo ) liền với biển xanh làm hào che, phía
Tây khống chế vùng Sơn Man có lũy đá dài chồng chất giữu cho vững vàng,
phái Nam kề bên tình Bình Định, có sườn núi Bến Đá làm mũi chặn ngang, phía
Bắc tiếp giáp tỉnh Quảng Nam, có ghềnh sa có thể làm giới hạn”.
Dưới triều nhà Nguyễn, các vua nhà Nguyễn cũng đã cho thiết lập địa giới
hành chính ở 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
14


Trong một số thư tịch cổ của Việt Nam như “thiên nam tứ chí lộ đồ thư”của
Đỗ Bá Công Đạo đã nhắc đến quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa được dâng lên
chúa Trịnh và được chúa Trịnh chỉ đạo biên soạn.
Triều Nguyễn còn cho thiết lập các đội Hoàng Sa và Bắc Hải để thăm dò,
khai thác ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đội Hoàng Sa: ra đời vào khoảng thế kỉ XVII-XVIII ở vùng đất An VĩnhQuảng Ngãi, thành lập được 70 dân binh qua quá trình lựa chọn thu lượm sản
vật từ các tàu bị đắm và sinh vật quí. Đội Hoàng Sa phụ trách đo đạc, xem xét
thủy trình ở vùng biển Hoàng Sa, do thám và giữ gìn vùng biển, trình báo về
hiện tượng thổ phỉ ngoài biển cho vua chúa biết để giải quyết _ thời vua Gia
Long
Đội Bắc Hải: do đội Hoàng Sa quản lý, bổ trợ giúp cho đội Hoàng Sa.
Các hoạt động đo đạc và vẽ bản đồ trên vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa
được duy trì.Năm 1815: vua Gia Long 14 thường xuyên lệnh cho dân binh ra đo
đạc vùng biển này. Thời vua Minh Mạng hạ tuần tháng giêng cho người ra
Hoàng Sa xem xét,đo đạc và vẽ bản đồ.
Các vua triều Nguyễn còn cho làm những việc thiết thực như: cắm cột mốc,

xây dựng miếu, bia, trồng cây ở vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa để thiết lập chủ
quyền biển đảo của quốc gia.
Một việc được coi là khá tiến bộ dưới thời vua Tự Đức đó là cho đưa thông
tin 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa “Khải đông thuyết
ước”.
Hoạt động thực thi chủ quyền của vua Gia Long ở Hoàng Sa, Trường Sa
không chỉ được lưu giữ, ghi chép lại trong các bộ sách chính sử của triều đình
mà còn được nhiều người phương Tây chứng thực và đề cao: “Năm 1816, vua
Gia Long đã cho cắm cờ chính thức giữ chủ quyền ở Hoàng Sa và không có ai
tranh giành với ông ta”..

15


 Những điều trên có thể chứng tỏ rằng quần đảo Hoàng sa,Trường Sa thuộc chủ

quyền Việt Nam từ rất lâu rồi.
2.2.Tiến bộ trong “Hoàng Việt luật lệ” dưới triều Nguyễn.
Cũng như các vương triều khác, nhà Nguyễn ngay sau khi thành lập đã lo
việc soạn thảo luật lệ. Vua Gia Long đã sai Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn
Thành biên soạn bộ luật “ Hoàng Việt luật lệ” ( Luật Gia Long ). Công việc biên
soạn được tiến hành dưới sự chỉ đạo trực tiếp của vua Gia Long. Bộ luật bao
gồm 6 nội dung chính, tương ứng với Lục Bộ thời bấy giờ.
Bộ luật được xây dựng trên cơ sở tham khảo đối chiếu với bộ luật Hồng
Đức thời Lê và “Đại Thanh luật lệ” của Trung Quốc.
Đã có một thời gian dài, chúng ta đánh giá bộ”Hoàng Việt luật lệ” là sự sao
chép gần như nguyên mẫu của bộ luật nhà Thanh. Điều đó vô hình chung đã làm
cho những giá trị của bộ luật này bị phủ nhận.
Ngày nay, chúng ta cần có cái nhìn đúng đắn, cần ghi nhận những đóng góp
của bộ luật cuối cùng của thời phong kiến này.

Ta phải ghi nhận rằng, mặc dù là có sự sao chép và học tập từ những bộ
luật khác, nhưng “ Hoàng Việt luật lệ” có căn cứ vào tình hình trong nước và
dân tộc Việt Nam để chọn lọc và biên soạn. Vì vậy, nó vẫn mang bản sắc riêng
và chiếm giữ vai trò quan trọng trong lịch sử pháp luật Việt Nam.
Tiếp theo, có thể thấy pháp luật thời kỳ nào cũng đề cập đến vấn đề bảo vệ
chủ quyền quốc gia, mà việc bảo vệ chủ quyền chính là xuất phát từ yêu cầu bảo
vệ chế độ vương quyền của Nho giáo. Có thể nói, luật Gia Long là sự thể hiện
tập trung nhất tư tưởng Nho giáo trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
Về mặt thời đại, chúng ta cần ghi nhận rằng, bộ luật Gia Long ra đời khi
đất nước vừa mới thống nhất, các thế lực phong kiến âm mưu nổi lên, mong
muốn chia cắt đất nước, nạn cướp bóc, tham ô quan lại… diễn ra phức tạp. Do
vậy, bộ luật Gia Long ra đời đã góp phần hạn chế sự phản kháng của các thế lực

16


đương thời, qua đó tình hình chính trị đất nước dần đi vào trạng thái ổn định về
mọi mặt.
Tư tưởng nhân đạo trong luật Gia Long thể hiện rõ nhất ở những quy định
mang tính nhân văn như: Chính sách khoa hồng đối với người phạm tội, bảo vệ
người già và trẻ em; giúp đỡ những người tàn tật và cô quả, những người có
hoàn cảnh khó khăn và những người phạm tội tuy chưa bị phát giác đã đi tự thú.
Đây là những điều mà đến ngày nay, trong luật pháp của Việt Nam, cũng có sự
kế thừa và học hỏi.
Điểm tiến bộ trong bộ luật Gia Long là có qui định bảo vệ quyền lợi của
người phụ nữ, nhân phẩm người phụ nữ được đề cao và tôn trọng. Pháp luật
nghiêm cấm và có những hình phạt đối với những hành vi lừa gạt để kết hôn.
Ngay từ thế kỉ XIX, phần nào đó, luật Gia Long cũng là kinh nghiệm cho luật
pháp ngày nay, trong việc bình đẳng giới và tôn trọng người phụ nữ trong xã hội
hơn.

2.3.Giá trị của cải cách Minh Mạng.
Trong lịch sử phong kiến của Việt Nam, các triều đại đều đề ra những cải
cách nhằm củng cố vương triều và canh tân đất nước.
Cải cách hành chính của vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mạng được coi
là 2 cuộc cải cách có quy mô toàn quốc và đạt hiệu quả nhất.
Vua Minh Mạng là vị vua thứ hai của triều Nguyễn, người đặt nền móng
cho cả vương triều, cũng là người để lại cho hậu thế nhiều bài học về trị quốc, là
người xây dựng được bộ máy nhà nước hoàn chỉnh.
Về tư tưởng chống tham nhũng, ông đã có thái độ kiên quyết, xử phạt
nghiêm minh. Vua không được chỉ vì quyền lợi cá nhân, dòng tộc mà phải gắn
với quyền lợi thiết thực của nhân dân.
Trong tiêu dùng cá nhân, mặc dù quyền hành tất cả nằm trong tay, nhưng
ông luôn nhắc nhở không được lạm dụng của công. Ngay như công việc khánh

17


tiết ở triều đình, ông nhắc nhở phải tiết kiệm, cho đó là tiền bạc công sức của
dân “không phải thiên hạ đóng góp để cung phụng một người”.
Vua Minh Mạng luôn cho rằng chỉ có những người có quyền hành trong tay
mới nảy sinh tham nhũng. Chính vì vậy ông chủ trương phải làm trong sạch bộ
máy, kiên quyết trừng trị những kẻ tham nhũng ức hiếp nhân dân.
Trong lịch sử ông là người đầu tiên nhấn mạnh nhất đến nguy cơ tham
nhũng. Giặc chẳng ở đâu xa mà ở ngay trong nội bộ của mình. Chống tham
nhũng như chống giặc là mệnh lệnh, là lương tâm của người đứng đầu bộ máy
nhà nước. Đây thực sự là bước tiến lớn, một quan điểm đúng đắn để xây dựng
một nhà nước hùng mạnh.
Tư tưởng “dân là gốc nước, dân không yêu mến thì làm sao có giàu sang
lâu bền” là quan điểm xuyên suốt trong tư tưởng trị vì của Minh Mạng.
Việc chống tham nhũng không phải ngày nay mới có, mà ngay trong lịch

sử, các triều đại cũng rất coi trọng việc này. Nhưng phải tới thời Minh Mạng,
việc chống tham nhũng mới thực sự đạt được nhiều thành công. Ngày nay, việc
chống tham nhũng trong bộ máy quan liêu nên nhìn nhận, học tập và có những
sự đánh giá công bằng, ghi nhận những tiến bộ trong việc chống tham nhũng từ
thời vua Minh Mạng. Những việc làm chống tham nhũng của vua Minh Mạng sẽ
còn có những giá trị tích cực cho cuộc chiến chống tham nhũng ngày nay.
Sau cuộc cải cách Minh Mạng, lần đầu tiên đơn vị hành chính “tỉnh” xuất
hiện ở Việt Nam, đây là cơ sở cho việc xác lập địa giới hành chính ngày nay. Và
đơn vị hành chính cũng đã được chia thành 4 cấp như ngày nay. Các đơn vị
tổng, trấn, dinh được bãi bỏ. Thay vào đó là bộ máy hành chính TW- Tỉnh –
Huyện – Xã mà ngày nay chúng ta vẫn áp dụng.
Nhà Nguyễn đã thực hiện công cuộc cải cách hành chính theo xu hướng
đơn giản, hợp lý, hiệu quả, chú trọng xây dựng đội ngũ quan lại có năng lực, đáp
ứng yêu cầu của đất nước.

18


Vương triều Nguyễn, với những đóng góp trong cải cách hành chính và
canh tân đất nước, cần được ghi nhận đúng đắn hơn về công lao ấy. Điều đó là
điều mà lịch sử cần có cái nhìn trung thực và công tâm hơn nưã.
3.Tổng kết
“ Lịch sử chỉ có một, nhưng cái nhìn thì đa chiều”.
Đây được coi là quan điểm khá đúng đắn khi bàn tới triều Nguyễn trong
lịch sử dân tộc Việt Nam. Khi có nhiều quan điểm,ý kiến bàn về công, tội của
triều Nguyễn trong việc để mất nước hay là thống nhất lãnh thổ Việt Nam.
Qua những nguồn tài liệu phong phú hơn, và góc nhìn có độ lùi thời gian
cần thiết, chúng ta có thể thấy quan điểm phủ định mọi thành tựu của vương
triều Nguyễn trước đây là quá bất công và thiếu khách quan. Chúng ta không thể
phủ nhận rằng vương triều Nguyễn đã để lại cho dân tộc những giá trị di sản to

lớn như: cố đô Huế, nhã nhạc cung đình Huế… thực tế đã chứng minh cái nhìn
trước đây về vương triều Nguyễn là sai lệch.
Đã đến lúc chúng ta cần có cái nhìn công bằng – khách quan – trung thực
hơn về vương triều Nguyễn, một vương triều vừa có công, vừa có tội trong lịch
sử dân tộc.

19


20



×