Đề bài: Phân tích ảnh hưởng của địa bàn và cộng đồng tới hoạt
động của 1 doanh nghiệp du lịch cụ thể.
I.Vấn đề nghiên cứu:
-Nghiên cứu về ảnh hưởng của địa bàn và cộng đồng tới hoạt động của
làng gốm Bát Tràng.
-Đối tượng và địa bàn:làng Bát Tràng
II.Mục đích nghiên cứu:
-Xác định quy mô của thị trường.
-Xác định các cơ sở kinh doanh trên địa bàn làng gốm Bát Tràng.
-Phân tích đặc điểm dân cư,cộng đồng tại làng gốm Bát Tràng.
-Những giá trị tài nguyên du lịch trên địa bàn.
-Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất-kinh tế.
-Các sự kiện văn hóa,xã hội,đối ngoại,ngoại giao..
-Đánh giá những khuynh hướng của địa bàn và cộng đồng,tạo cơ hội
thuận lợi cho kinh doanh hay những khó khăn thách thức.
-Đề xuất những giải pháp cho hoạt động của làng gốm Bát Tràng
III.Phướng pháp nghiên cứu:
-Bài làm dưới đây chủ yếu dựa theo phương pháp nghiên cứu tài liệu.
IV.Nội dung nghiên cứu:
1.Các cơ sở kinh doanh trên địa bàn:
1.1.Kinh doanh lưu trú:
-CÔNG TY CỔ PHẦN GỐM SỨ PHÚ VINH
Xưởng sản xuất : K 15 Khu Công Nghiệp Bát Tràng
Phòng trưng bày và giới thiệu sản phẩm : Giang Cao - Bát Tràng - Gia
Lâm - Hà Nội - Việt Nam
ĐT: 04.38742463- Fax: 04.38742818 - Email:
-CƠ SỞ SẢN XUẤT GỐM SỨ MINH QUANG
Xóm 6 Giang Cao - Bát Tràng- Gia Lâm - Hà Nội
Đt : 04 3 8742818 - 0962724477
--GỐM SỨ CAO CẤP MINH LONG
Đại lý phân phối Miền Bắc .
ĐT: 04 38742818 - 096 272 44 77
-GỐM SỨ MỸ NGHỆ CỔ TRUYỀN BÁT TRÀNG ANH OANH
Số 47, phố Gốm Giang Cao, Bát Tràng, Gia Lâm, Hà Nội
WEBSITE
1.2.Kinh doanh vận tải:
-Phương tiện chủ yếu là xe ôm.
Việc đi lại của khách hàng đến với Bát Tràng cũng như việc vận chuyển
hàng hóa từ Bát Tràng đi các nơi tiêu thụ, phụ thuộc nhiều vào một lực lượng
xe ôm chuyên nghiệp tại làng nghề Bát Tràng .
Để liên hệ vận chuyển bằng xe ôm hãy liên hệ theo :
Anh Sự , Đt ..01656933358
Anh Cảnh , Đt : ............
Anh Tùng , Đt:
-Xe thồ và xe lôi
-Xe tải
1.3.Kinh doanh nhà hàng:
-Nhà hàng ăn Minh Hương.
-Có rất nhiều những món ăn đặc sản:
+Canh măng mực,chè hạt hoa sói,su hào xào mực,…
2.Nguồn lực phát triển Bát Tràng:
2.1.Điều kiện tự nhiên:
-Bát Tràng là một làng gốm lâu đời và nổi tiếng trong lịch sử nước ta.
Làng gốm Bát Tràng nằm ở tả ngạn sông Hồng thuộc huyện Gia Lâm, Hà
Nội. Theo các thư tịch cổ, nghề gốm Bát Tràng xuất hiện từ thế kỷ XV dưới
thời Trần. Sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên ghi: Bát Tràng có
tên là Xã Bát, làng Bát từ đời nhà Trần. Như vậy, suốt hơn 500 năm nay, làng
nghề này vẫn giữ tên là Bát Tràng. Trong lịch sử, những loại gốm quý và độc
đáo của nước ta, nổi tiếng cả trong và ngoài nước như gốm men ngọc (thời
Lý, Trần), gốm hoa nâu hay gốm men nâu (cuối thời Trần - đầu thời Lê),
gốm men rạn (thời Lê - Trịnh) và gốm hoa lam (cuối thời Lê - thời Nguyễn)
đều đã được sản xuất ở Bát Tràng. Từ cuối thời Trần đến thời Lê và đầu thời
Nguyễn, một khối lượng lớn đồ gốm các loại của Bát Tràng đã được xuất
khẩu sang các nước trong khu vực như Nhật Bản, Malaixia, Thái Lan và một
số nước châu Âu như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp. Nhìn
chung, đồ gốm Bát Tràng là một trong những mặt hàng được người nước
ngoài ưa chuộng.
Bước vào thời kỳ đổi mới (1986 đến nay), trong cơ chế thị trường, nghề
gốm của Bát Tràng không chỉ tạo công ăn việc làm trong xã, mà còn thu hút
hàng ngàn lao động làm thuê từ các tỉnh khác đến, như Hải Dương, Hưng
Yên, Bắc Ninh... Những năm gần đây, xuất khẩu của làng gốm Bát Tràng đạt
khoảng 20 triệu USD hàng năm. Hiện nay, Bát Tràng có hơn 200 công ty, xí
nghiệp sản xuất kinh doanh dịch vụ gốm.
Thời gian qua, nhiều khách trong và ngoài nước đến làng gốm Bát
Tràng tham quan, tìm hiểu cách thức chế tác các sản phẩm gốm. Với nhiều
khách du lịch, đó là cơ hội để có được những món đồ lưu niệm mang nhiều ý
nghĩa kinh tế - văn hóa của một làng nghề truyền thống. Với doanh nhân, họ
có thể tìm thấy ở đó những cơ hội đầu tư kinh doanh.
- Như vậy, làng gốm Bát Tràng còn ẩn chứa những tiềm năng du lịch rất
lớn. Thực sự nó đã trở thành di sản văn hóa của dân tộc và hàm chứa những
tiềm năng để mở mang phát triển du lịch và các hoạt động dịch vụ khác. Do
vậy, việc xem xét và đánh giá những tiềm năng du lịch của các làng nghề
truyền thống nói chung có ý nghĩa thực tiễn đối với sự tồn tại và phát triển
của nó trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
hiện nay.
Kinh nghiệm cho thấy, để khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch đối
với các làng nghề cần có những biện pháp tác động tích cực từ phía Nhà
nước. Đó là việc tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của làng
nghề; sự hỗ trợ của Nhà nước về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý; sự gắn
kết các hoạt động thương mại, du lịch, sản xuất của làng nghề đặt trong quá
trình phát triển mang tính tổng thể của Hà Nội. Trong đó cần chú ý bảo lưu,
phát huy nghề truyền thống gắn với những sắc thái văn hóa đa dạng của địa
phương để tạo môi trường thuận lợi thu hút khách du lịch cả trong và ngoài
nước.
Tóm lại, trong thời kỳ đổi mới, làng nghề truyền thống Bát Tràng có
nhiều lợi thế để phát triển. Sự phát triển của làng nghề sẽ góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tăng thêm thu nhập và tạo thêm nhiều việc
làm mới làm thay đổi diện mạo kinh tế - xã hội nông thôn. Việc bảo tồn và
phát triển làng nghề sẽ tăng thêm sức mạnh cội nguồn, để mỗi người Việt
Nam yêu quý, trân trọng, giữ gìn di sản, bản sắc văn hóa Việt Nam và còn
làm tăng những giá trị văn hóa truyền thống của Thủ đô Hà Nội trong quá
trình hội nhập quốc tế./.
2.2.Tài nguyên thiên nhiên:
-Sông Hồng là dòng sông mẹ đã bồi đắp nên nền văn minh sông Hồng -
một trong 36 nền văn minh của thế giới. Dòng sông được bắt nguồn từ
dãy
núi Ngụy Sơn thuộc tỉnh Vân Nam - Trung Quốc. Đây là hệ thống sông
lớn
nhất miền Bắc nước ta, đoạn chảy qua Hà Nội dài 91km, thuộc phần hạ
lưu
nên có lẽ là nơi hội tụ được những gì trù phú nhất. Đồng thời, đây cũng
là
dòng sông gắn liền với sự hình thành và phát triển của đất nước ta, nó đã
từng
chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử quan trọng, bao sự đổi thay của đất
nước.
Hiện nay, dòng sông không chỉ được khai thác để phát triển kinh tế,
giao
thông mà nó còn mới được đưa vào khai thác để phát triển du lịch
Bát Tràng nằm ở tả ngạn dòng sông Hồng, xưa kia dòng sông này được
người dân khai thác phát triển giao thông thủy nội địa, xây dựng các
cảng bốc
dỡ hàng hóa thì hiện nay nó lại đem lại cho Bát Tràng một tiềm năng
mới:
Tiềm năng phát triển du lịch. Khi các tour du lịch Bát Tràng bằng đường
thủy
được lập ra du khách sẽ được ngắm nhìn dòng sông Hồng, các làng ven
sông,
nghe thuyết minh về dòng sông cùng các dấu tích lịch sử mà nó mang
trong
mình, sau đó là ghé thăm làng gốm Bát Tràng. Đây chính là một tiềm
năng
góp phần thúc đẩy du lịch tại làng gốm Bát Tràng phát triển đặc biệt khi
mà
cảng du lịch ở Bát Tràng được hoàn thành vào năm 2009
2.2.1 Tài nguyên du lịch nhân văn.
a. Đình làng
Đình nằm trong quần thể di tích của làng gốm Bát Tràng, được xây
dựng vào năm 1720 dưới đời vua Lê Dụ Tông, với kiến trúc nguy nga,
bề thế.
Đình quay về hướng Tây nhìn ra dòng sông Hồng đỏ nặng phù sa. Đình
có
kiến trúc kiểu chữ Nhị: Phía sau là hậu cung - nơi thờ 6 vị thần được suy
tôn
là Lục Vị Thành Hoàng, phía trước là tòa Đại Bái gồm 5 gian 2 chái.
Chính
giữa tòa Đại Bái là hương án thờ Công đồng, bên trên treo 2 bức đại tự
sơn
son thếp vàng: "Thiên địa kì hợp đức" - trong cuộc sống luôn lấy chữ
Đức làm
đầu, đây cũng chính là tôn chỉ của làng bao đời nay. Và bức đại tự:
"Hiếu
nghĩa cấp công" - đây là tấm biển vua Tự Đức ban cho dân làng Bát
Tràng khi
nhà Nguyễn xây thành Hà Nội vì nghĩa lớn dân làng Bát Tràng đã cạy
gạch
sân đình đem nộp cho triều đình. Hai bên hương án có đôi câu đối ghi
dấu
tích con dân làng Bát: "Bồ di thủ nghệ khai đình vũ - Lan nhiệt tâm
hương bái
thánh thần" (Đem nghề từ làng Bồ ra khởi dựng đền miếu - Lòng thành
như
hương lan dâng cúng thánh thần).
b. Chùa Kim Trúc:
Chùa còn có tên gọi khác là chùa Bát. Đây là ngôi chùa chính của làng
Bát Tràng, chùa nằm bên cửa sông Bắc Hưng Hải. Chùa có kiến trúc
kiểu nội
công ngoại quốc với 74 chiếc cột đá, trong chùa có bức tượng hộ pháp
cao
hơn 5m. Năm 1958 hưởng ứng lời kêu gọi của nhà nước vì nghĩa lớn cả
làng
Bát Tràng đã di dời chùa đến một vị trí khác để nhường đất cho công
trình đai
thủy nông lớn nhất thời bấy giờ để tưới tiêu cho 3 tỉnh - công trình đại
thủy
nông Bắc Hưng Hải.
c. Đền làng (hay còn gọi là đền Mẫu):
Đền ra đời muộn hơn so với đình và chùa, đền được xây dựng vào cuối
thế kỉ XVIII. Đền thờ Mẫu Bản Hương - mẫu nghi của làng. Theo
truyền
thuyết dân gian hiện còn lưu giữ tại làng "Mẫu là người con gái họ Trần
Đồng
Tâm - Bát Tràng, dung nhan xấu xí. Bà mất khi còn rất trẻ, sau khi mất
thường hiển linh hiện lên giúp đỡ dân làng. Xác bà được thiêu thành tro
rồi
thả giữa dòng sông Hồng, tro trôi dạt vào đâu người dân ở đấy hớt tro
đem về
đắp thành tượng để thờ. Mẫu được vua Quang Trung sắc phong công
chúa,
tên thụy Trần Mỹ Tín. Hiện làng Bát Tràng còn lưu giữ được sắc phong
vào
đời vua Khải Định (1921). Đền được dựng ở đầu làng quay về phía Tây
Nam
nhìn ra sông Nhị Hà (sông Hồng).
2.3.Kết cấu hạ tầng:
-Làng Bát Tràng có 752 hộ với 2.900 nhân khẩu, trong đó có 1.600
người ở độ tuổi lao động, 90% tham gia sản xuất và kinh doanh gốm sứ. Sản
xuất, kinh doanh gốm sứ ở làng nghề chủ yếu theo quy mô hộ gia đình. Tuy
nhiên, đến nay đã có 52 doanh nghiệp, công ty ra đời.
Gốm Bát Tràng xuất khẩu chủ yếu sang các thị trường châu Âu, Hàn
Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hoa Kỳ. Doanh thu làng nghề năm 2008 đạt
khoảng 150 tỷ đồng. Có những năm cao điểm đạt tới 250 tỷ đồng. Có doanh
nghiệp xuất khẩu đạt doanh số 1 triệu USD. Thu nhập bình quân của lao động
Bát Tràng năm 2008 đạt 60 triệu đồng/người/năm
- Hiện nay, trên địa bàn xã Bát Tràng (Gia Lâm) có hơn 1.000 lò gốm
lớn, nhỏ. Sản phẩm gốm của Bát Tràng không chỉ thu hút khách du lịch trong
nước, mà cả khách du lịch nước ngoài mỗi khi đến Hà Nội. Theo Ban quản lý
chợ gốm sứ Bát Tràng, trung bình hàng tháng, chợ gốm Bát Tràng đón 25-30
nghìn lượt khách trong nước, 5-6 nghìn lượt khách quốc tế. Mặc dù năm
2009, được coi là năm khó khăn của nền kinh tế, nhiều làng nghề đều rơi vào
hoàn cảnh khó khăn, sản xuất giảm sút, nhưng tại khu vực chợ gốm Bát
Tràng khách đến tham quan vẫn khá tập nập, cho dù không phải là ngày cuối
tuần. Từ khách nội thành tới khách du lịch ở các tỉnh khác, và tất nhiên,
không thể vắng những du khách nước ngoài. Lượng khách đến tham quan
chợ gốm từ Tết ra đến giờ vẫn đông lắm, cả khách nước ngoài, khách các nơi
khác đến, rồi học sinh, sinh viên các trường đại học cũng đi xe bus đến.
2.4.Tiềm năng phát triển du lịch:
-Gốm Bát Tràng là tên gọi chung cho các loại đồ gốm được sản xuất tại
làng Bát Tràng, thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Theo các cụ cao
niên kể lại: có nhiều giả thuyết về sự ra đời của làng gốm Bát Tràng, trong đó
có một số giả thuyết đáng được quan tâm là làng được hình thành từ thời Hậu
Lê, từ sự liên kết chặt chẽ giữa 5 dòng họ làm gốm nổi tiếng của làng Bồ Bát
như Trần, Vương, Nguyễn, Lê, Phạm với họ Nguyễn ở đất Minh Tràng.
Các mặt hàng gốm men ngọc, men hoa lan, men rạn của Bát Tràng rất
đặc biệt, không lẫn với gốm xứ Thổ Hà, Phù Lãng, Hương Canh… Để làm ra
đồ gốm, người thợ gốm phải trải qua nhiều công đoạn như chọn đất, xử lý,
pha chế đất, tạo dáng, hoa văn, phủ men, cuối cùng là nung sản phẩm…
-Người thợ gốm quan niệm sản phẩm gốm không khác nào một cơ thể
sống, có sự kết hợp hài hòa của Ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và
trong đó còn mang cả yếu tố tinh thần, sự sáng tạo của con người. Tất cả hòa
vào nhau để tạo nên sản phẩm gốm Bát Tràng đặc biệt, hài hòa về bố cục,
màu sắc thanh nhã, cùng với sự tinh tế của hồn người.
-Làng Bát Tràng có 752 hộ với 2.900 nhân khẩu, trong đó có 1.600
người ở độ tuổi lao động, 90% tham gia sản xuất và kinh doanh gốm sứ. Sản
xuất, kinh doanh gốm sứ ở làng nghề chủ yếu theo quy mô hộ gia đình. Tuy
nhiên, đến nay đã có 52 doanh nghiệp, công ty ra đời.
-Gốm Bát Tràng xuất khẩu chủ yếu sang các thị trường châu Âu, Hàn
Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hoa Kỳ. Doanh thu làng nghề năm 2008 đạt
khoảng 150 tỷ đồng. Có những năm cao điểm đạt tới 250 tỷ đồng. Có doanh
nghiệp xuất khẩu đạt doanh số 1 triệu USD. Thu nhập bình quân của lao động
Bát Tràng năm 2008 đạt 60 triệu đồng/người/năm.
- Người Bát Tràng ngoài cái nhạy bén, tinh tế, còn tiềm ẩn tình yêu da
diết với nghề. Họ đã lao động không mệt mỏi để tạo nên một thế giới gốm đa
dạng, sống động, lấp lánh sắc màu. Sản phẩm gốm Bát Tràng có nhiều kiểu
dáng, mẫu mã và chủng loại. Theo chức năng sử dụng, sản phẩm gốm chia
thành các nhóm: gốm gia dụng, đồ thờ tự, gốm mỹ thuật, gốm xây dựng và
gốm trang trí... Đồ gốm Bát Tràng được sản xuất theo lối thủ công, thể hiện
tài năng sáng tạo của người thợ lưu truyền qua nhiều thế hệ. Gốm Bát Tràng
đa phần được làm thủ công, có nét riêng là cốt đầy, chắc và khá nặng. Lớp
men trắng ngà, đục, lối vẽ trên sản phẩm Bát Tràng thiên về ám tả nên được
khách hàng đánh giá cao về mặt nghệ thuật. Vì vậy, sản phẩm gốm cổ của
Bát Tràng trở thành những báu vật có giá trị kinh tế, kỹ thuật, mỹ thuật cao
được giới sưu tầm đồ cổ hết sức quan tâm và có giá trên thị trường và được
lưu giữ tại nhiều bảo tàng trong nước và quốc tế.
-Bộ mặt Làng nghề Bát Tràng ngày nay đã có nhiều thay đổi nhanh
chóng, nhiều ngôi nhà mới khang trang hiện đại, những showroom gốm sứ
trang trí đẹp, bề thế thu hút nhiều du khách đến chiêm ngưỡng. Chợ gốm sứ
tràn ngập sản phẩm đa dạng, phong phú về chủng loại, mẫu mã mới như:
tranh sứ, tượng các loại, ấm chén bát đĩa, vò lọ hoa, đồ trang sức gốm…
Ngắm những mặt hàng gốm sứ thủ công mỹ nghệ của các nghệ nhân, thợ giỏi
Bát Tràng hôm nay, ta càng thán phục tài hoa, sức sáng tạo bay bổng của các
nghệ nhân - những con người đã sai khiến được đất và lửa để tạo nên những
tác phẩm gốm sứ mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
-Thấy rõ tiềm năng, thế mạnh của làng nghề Bát Tràng, UBND thành
phố Hà Nội hết sức quan tâm đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ
tầng xã hội đồng bộ cho làng nghề. Nhiều dự án hạ tầng giao thông, điện,
nước sạch, cảng du lịch, cụm sản xuất làng nghề tập trung đã hoàn thành
đang đi vào khai thác sử dụng có hiệu quả tích cực. Nhiều dự án đầu tư phát
triển du lịch gắn với vùng Bát Tràng đã và đang được vận hành mạnh mẽ.
-Từ những thành công trong đầu tư phát triển của làng nghề gốm sứ Bát
Tràng, sẽ được đúc kết lại những bài học kinh nghiệm quý báu cho việc phát
triển nhân rộng mô hình phát triển làng nghề truyền thống gắn với du lịch đối
với thành phố Hà Nội nói riêng và đối với cả nước nói chung.
3.Đề xuất giải pháp hoạt động:
3.1. Bảo tồn những giá trị truyền thống của làng nghề:
-Làng nghề là một thực thể vật chất và tinh thần được tồn tại cố định về
mặt địa lý, ổn định về nghề nghiệp hay một nhóm các nghề có mối liên hệ
mật thiết với nhau để làm ra một sản phẩm, có bề dày lịch sử và được tồn tại
lưu truyền trong dân gian. Khái niệm về làng nghề theo cách nhìn văn hoá
bao gồm các nội dung cụ thể, như:
- Là một địa danh gắn với một cộng đồng dân cư có một nghề truyền
thống lâu đời được lưu truyền và có sức lan toả mạnh mẽ.
- Ổn định về một nghề hay một số nghề có quan hệ mật thiết với nhau
trong quá trình sản xuất ra một loại sản phẩm.
- Có một đội ngũ nghệ nhân và thợ có tay nghề cao, có bí quyết nghề
nghiệp được lưu truyền lại cho con cháu hoặc các thế hệ sau.
- Sản phẩm vừa có ý nghĩa kinh tế để nuôi sống một bộ phận dân cư và
quan trọng hơn là nó mang những giá trị vật thể và phi vật thể phản ánh được
lịch sử, văn hoá và xã hội liên quan tới chính họ.
-Ngày nay, để bảo tồn nghề thủ công truyền thống trước tiên cần phải
giải quyết vấn đề nhận thức. Từ cấp vĩ mô là Chính phủ và các Bộ, ngành ở
trung ương tới vi mô là các cấp chính quyền địa phương và cộng đồng cư dân
ở cơ sở.
- Nhiều giá trị văn hóa của làng nghề thủ công truyền thống dần bị mai
một, bí quyết nghề nghiệp bị thất truyền cùng với sự ra đi của các nghệ nhân
lớn tuổi. Vai trò của nghệ nhân và thợ thủ công lành nghề đối với nghề và
làng nghề là rất lớn. Không có nghệ nhân thì không có làng nghề, hay ít nhất
cũng không có làng nghề nổi tiếng. Chính tài năng của những người thợ nghệ nhân với những đôi “bàn tay vàng” của họ đã tạo nên những sản phẩm
quý giá, tinh xảo, những sản phẩm văn hóa có sức sống lâu dài và tiêu biểu
cho những nét độc đáo của làng nghề địa phương và của cả dân tộc. Chính
những người thợ - nghệ nhân đã giữ cho làng nghề tồn tại và phát triển. Vì
vậy, cần có chính sách tôn vinh nghệ nhân, doanh nhân và những người thợ
tài năng. Trong bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống ở nước ta hiện
nay, việc khuyến khích những nghệ nhân, những người thợ tài năng dạy nghề,
truyền nghề cho các thế hệ sau nhằm tiếp tục nuôi dưỡng ngành nghề truyền
thống, góp phần tạo thêm những sản phẩm mới ngày càng đa dạng đáp ứng
yêu cầu tiêu dùng xã hội và xuất khẩu cũng là một cách thức tôn vinh những
con người tài hoa ấy.
- Những ý nghĩa văn hóa truyền thống của mỗi sản phẩm không được
các thế hệ sau tiếp thu và phát huy một cách đúng mực dẫn đến mất bản sắc
nghề. Thậm trí còn có xu hướng thương mại hóa, chỉ hướng tới mục tiêu lợi
nhuận làm cho giá trị văn hóa của sản phẩm thủ công truyền thống bị suy
giảm, thương hiệu của làng nghề bị phai mờ.
- Song hành với nhận thức của người thợ thủ công là nhận thức của các
cấp chính quyền địa phương. Các nhà quản lý, hoạch định chính sách từ trung
ương tới địa phương cần xem xét kỹ và nắm vững được những đặc thù của
làng nghề thủ công truyền thống trước khi ban hành một chính sách, đầu tư
cho các hoạt động bảo tồn, phục hồi và phát triển các làng nghề đó. Đặc thù
của một làng nghề thủ công truyền thống thường được thể hiện ở những mặt
cơ bản sau:
+ Sự liên kết cộng đồng, hợp tác tương trợ trong sản xuất với tinh thần
cạnh tranh lành mạnh.
+ Là những sản phẩm đơn chiếc được chế tác bằng phương pháp thủ
công với chất liệu, công nghệ truyền thống và những bí quyết, kỹ năng nghề
nghiệp đặc sắc của cộng đồng (có thể từng hộ kinh tế gia đình, từng nghệ
nhân). Các sản phẩm đó phải hàm chứa những tri thức dân gian hoặc tri thức
địa phương.
+ Có thương hiệu cho các mặt hàng và loại hình sản phẩm.
+ Ngày nay, nhu cầu xã hội đã có nhiều thay đổi, đặc biệt là nhu cầu
xuất khẩu, tất yếu mẫu mã, chủng loại sản phẩm của làng nghề thủ công
truyền thống cần được thay đổi và thích nghi mới mong có chỗ đứng trong thị
trường. Còn ngược lại, thì làng nghề thủ công truyền thống sẽ bị “hiện đại
hóa”, những đặc trưng cơ bản của làng nghề sẽ dần bị mai một, thậm trí còn
bị biến dạng thành “cụm công nghiệp hiện đại” của địa phương.
- Bảo tồn làng nghề thủ công truyền thống còn đặt ra yêu cầu bảo lưu và
giải quyết hài hòa các loại nguồn vốn để làng nghề có thể tiếp tục phát triển
bền vững, đó là:
+ Vốn kinh tế (đất đai, nhà xưởng, thiết bị, dụng cụ sản xuất);
+ Vốn văn hóa (di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, công nghệ truyền
thống, bí quyết, kỹ năng nghề nghiệp và người nắm giữ các bí quyết nghề
nghiệp.v.v.);
+ Vốn xã hội (sự liên kết cộng đồng, sự hợp tác tương trợ, chữ tín giữa
các thành viên trong cộng đồng).
- Trước đây, trong các làng nghề thủ công thường tồn tại hai loại hoạt
động sản xuất chính là hoạt động nông nghiệp và hoạt động phi nông nghiệp
(thủ công và buôn bán). Trong đó, sản xuất thủ công chiếm vị trí chủ đạo.
Nhưng hiện nay, ngoài các loại hoạt động sản xuất cơ bản nói trên, trong các
làng nghề còn xuất hiện thêm loại hình dịch vụ du lịch sinh thái. Bảo lưu
được các nguồn vốn, mở rộng các hoạt động phi nông nghiệp là định hướng
cần theo đuổi.
- Là một loại hình di sản văn hóa có tính liên ngành cao và có quan hệ
mật thiết với đời sống sinh hoạt hàng ngày, cho nên hoạt động bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa trong làng nghề thủ công truyền thống chỉ có thể hiệu
quả khi giải quyết vấn đề hài hòa giữa bảo tồn với phát triển. Sản phẩm làm
ra vừa phải chứa đựng những yếu tố văn hóa truyền thống, tiếp thu những
tinh hoa của cha ông vừa phải đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của xã hội
đương đại. Một sản phẩm thủ công không rõ nguồn gốc, xuất xứ, không biết
ý nghĩa, không biết bối cảnh làm ra nó thì giá trị của nó sẽ giảm đi hơn rất
nhiều so với những sản phẩm hội đủ các yếu tố này.
- Đánh giá đúng vị trí, vai trò của nghề thủ công trong công cuộc công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước rồi đưa ra những chủ trương, chính sách
phù hợp, có tính liên ngành không chỉ giúp cho việc hỗ trợ cho nghề thủ công
được phát triển một cách bền vững mà còn góp phần vào việc thúc đẩy sự
phát triển ổn về kinh tế, xã hội. Nghề thủ công truyền thống không chỉ là tài
sản vô giá do cha ông để lại mà còn là động lực cho phát triển kinh tế, xã hội
3.2. Cải tạo và nâng cấp hệ thống đường giao thông phục vụ khách du
lịch bao gồm đường giao thông thủy bộ từ Hà Nội sang mạng lưới kết hợp cải
tạo nâng cấp thoát nước ở bên trong làng Bát Tràng
- Xây dựng, sử chữa, nâng cấp, mở rộng tuyến đường bộ dài khoảng 10
km từ chân cầu Chương Dương đến làng gốm Bát Tràng. Cùng với nó là việc
xây dựng hệ thống đèn cao áp chiếu sáng trên đoạn đường này.
- Nâng cấp cảng đường sông tại làng gốm Bát Tràng thành làng gốm du
lịch. Ước tính cảng đưa vào khai thác sẽ đón khoảng 200000 lượt khách hàng
năm. Cảng Bát Tràng sẽ là một trong những bến đỗ của tour du lịch sinh thái,
văn hóa di chuyển bằng tàu thủy trên sông Hồng. Từ trung tâm Hà Nội, nếu
theo đường thủy có thể xuất phát từ bến Chương Dương dọc theo sông Hồng
đến bến đình Bát Tràng ( nơi xây cảng du lịch Bát Tràng).
- Phải có các kế hoạch và dự án cụ thể xây dựng bờ kẻ sông Hồng phía
tây làng để ngăn xói lở vì dòng sông Hồng đã gây ra sự xói mòn, sạt lở rất
nghiêm trọng cho làng gốm Bát Tràng khiến cho diện tích của làng đã hẹp,
nay lại còn hẹp hơn.
- Đường làng ngõ xóm đã được bê tông hóa nhưng chưa có hệ thống
cống rãnh phù hợp nên đường xá vẫn thường xuyên bị ngập úng, nước thải bị
ứ đọng. Chính vì vậy cần phải nâng cấp hệ thống cống rãnh thoát nước để
tránh bị ngập úng, nhất là vào mùa mưa.
3.3. Làm cảng du lịch:
- Nâng cấp cảng đường sông tại làng gốm Bát Tràng thành làng gốm du
lịch. Ước tính cảng đưa vào khai thác sẽ đón khoảng 200000 lượt khách hàng
năm. Cảng Bát Tràng sẽ là một trong những bến đỗ của tour du lịch sinh thái,
văn hóa di chuyển bằng tàu thủy trên sông Hồng. Từ trung tâm Hà Nội, nếu
theo đường thủy có thể xuất phát từ bến Chương Dương dọc theo sông Hồng
đến bến đình Bát Tràng ( nơi xây cảng du lịch Bát Tràng).
3.4. Xây dựng khu dịch vụ dành cho khách tham quan
- Tiến hành xây dựng, mở rộng, nâng cấp hệ thống cơ sở nhà hàng phục
vụ nhu cầu ăn uống của du khách, đảm bảo được số lượng cũng như chất
lượng phục vụ
- Hiện nay, Bát tràng chưa có hệ thống nhà nghỉ để phục vụ nhu cầu lưu
trú của du khách. Đây là một hạn chế lớn mà Bát Tràng cần khắc phục ngay
để có thể thu hút được khách du lịch đến với mình. Cần xây dựng nhà nghỉ
đạt tiêu chuẩn để phục vụ nhu cầu của du khách.
- Bát tràng cần xây dựng khu vui chơi, giải trí để phục vụ nhu cầu vui
chơi, giải trí của du khách.
3.5. Xây dựng khu trung tâm thương mại và bảo tàng gốm sứ
Nhà sưu tầm Trần Ngọc Lâm từng chia sẻ: Làng nghề truyền thống này
chưa có một không gian cho lịch sử làng nghề cũng như lưu giữ cái hồn cốt
của nghề "Khách du lịch, người nước ngoài đến đây không chỉ vì cần mua
một sản phẩm mà họ muốn biết thêm những giá trị văn hóa. Muốn phát triển
du lịch phải gắn với văn hóa" do đó việc xây dựng khu trung tâm thương mại
và bảo tàng gốm sứ là rât quan trọng và cần thiết.
3.6. Chính sách của Đảng và Nhà nước
- Bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống là yêu cầu khách
quan, cấp bách và có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội và xây dựng nông thôn mới. Trong thời gian tới, để bảo tồn và phát
triển các làng nghề cần tập trung một số vấn đề cơ bản sau:
+Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối
với quá trình bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống. Sự lãnh đạo
đúng đắn của các cấp uỷ đảng là nhân tố có ý nghĩa quyết định hàng đầu đến
thắng lợi trong quá trình thực hiện bảo tồn, phát triển các làng nghề. Định
hướng phát triển cần phải xuất phát từ đặc điểm tình hình cụ thể của mỗi địa
phương, mỗi làng nghề, gắn với sự phát triển chung của các lĩnh vực công
nghiệp, nông nghiệp, du lịch,... Các tổ chức cơ sở đảng phải coi đây là một
trong những nhiệm vụ chính trị trung tâm, là tiêu chí cơ bản để đánh giá mức
độ hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo của mỗi tổ chức đảng. Các cấp ủy đảng
phân công các đồng chí cấp ủy có trình độ, có tâm huyết theo dõi, chỉ đạo
hoạt động sản xuất - kinh doanh của các làng nghề. Kịp thời phát hiện và đề
xuất với cấp có thẩm quyền giải quyết dứt điểm những vướng mắc, khó khăn
nảy sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh của các làng nghề. Các tổ chức
cơ sở đảng quan tâm, chăm lo bồi dưỡng, phát triển đảng viên mới hướng vào
những quần chúng ưu tú, giỏi nghề và yêu nghề trong các làng nghề. Thực tế
cho thấy, địa phương nào tổ chức đảng thường xuyên được củng cố, có chủ
trương lãnh đạo bảo tồn, phát triển làng nghề sát đúng, ở đó các làng nghề
truyền thống phát triển tốt, bộ mặt nông thôn được cải thiện, góp phần tăng
cường sự tin tưởng, gắn bó của nhân dân vào cấp ủy và chính quyền địa
phương; mối quan hệ giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn được củng cố
vững chắc.
.
-