Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Đánh giá thực trạng và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp sau khi thực hiện chính sách “Dồn điền đổi thửa” trên địa bàn xã Đông Hà huyện Đông hưng tỉnh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.62 KB, 99 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài:
Thực hiện Nghị Quyết 10 của Bộ Chính trị năm 1988, đã đưa nền kinh tế
nông nghiệp, nông thôn nước nhà và của cả tỉnh nói chung, xã Đông Hà
huyện Đông hưng nói riêng có nhiều đổi thay. Thực hiện Luật đất đai năm
1993 và Nghị Định 64/CP của Chính phủ về giao đất nông nghiệp, cấp giấy
chứng nhận cho hộ gia đình cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài, tạo cho người
sử dụng đất an tâm và có kế hoạch đầu tư, cải tạo làm nâng cao hiệu quả sử
dụng đất. Song bên cạnh đó với thói quen của người dân trong quá trình thực
hiện việc giao nhận ruộng đất phải có tốt, xấu, trung bình dẫn đến tình trạng
ruộng đất giao bị nhỏ lẻ, manh mún.
Khái niệm đất nông nghiệp manh mún được hiểu:
Một là sự manh mún về ô thửa đối với một đơn vị sản xuất (thường là
nông hộ), một hộ gia đình, cá nhân có nhiều thửa ruộng, trên nhiều xứ đồng
và diện tích trên một thửa nhỏ. Hai là diện tích thẻ hiện trên một vùng sản
xuất, diện tích còn nhỏ không tương thích với lực lượng sản xuất và các yếu
tố về phương tiện sản xuất khác. Kiểu manh mún trên làm cho việc đầu tư,
cải tạo và việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất gặp khó khăn làm cho
công lao động bị tăng lên. hơn nữa việc tình trạng ruộng đất manh mún còn
làm khó khăn trong việc quản lý, quy hoạch và sử dụng đất đai.
Trong quá trình sử dụng đất, Đảng và Nhà nước cũng như người sử dụng
đất nhận thấy nhiều bất cập, hạn chế, nhất là việc áp dụng các biện pháp khoa
học, kỹ thuật vào sản xuất. Từ hạn chế trên Chính phủ đã ban hành chỉ thị số
10/1998/ CT - TTg ngày 20 tháng 2 năm 1998 và Chỉ thị số 18/1999 /CTTTg ngày 01 tháng 7 năm 1999, khuyến khích nông dân, Chính quyền địa
phương các cấp xây dựng phương án chuyển đổi ruộng đất từ thửa nhỏ manh
mún dồn thành những thửa lớn thuận tiện cho việc sản xuất nông nghiệp.

Đặng Tuấn


1
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp

Thực hiện Chỉ thị trên, Tỉnh Thái Bình đã có Nghị Quyết số 07-NQ/TU ngày
20 tháng 3 năm 2002 của ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình; Quyết định
số 18 của UBND tỉnh Thái Bình ngày 27 tháng 3 năm 2002; Hướng dẫn số
03/HD-LN ngày 17 tháng 4 năm 2002 của Sở Địa chính ( nay là Sở Tài
nguyên - Môi trường) - Nông nghiệp; hướng dẫn số 07 ngày 07 tháng 5 năm
2002 của UBND huyện Đông hưng về thực hiện việc dồn điền đổi thửa và cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp. Với mục tiêu phát triển
nông nghiệp nông thôn theo hướng Công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Để xác định mục đích, yêu cầu của công tác "Dồn điền đổi thửa đất nông
nghiệp" Mang lại cho hộ gia đình cá nhân sử dụng đất lợi ích như thế nào?
Cái gì được? và cái gì còn hạn chế? Về mặt phát triển kinh tế hộ gia đình, cá
nhân nói riêng, phát triển kinh tế - xã hội nói chung đã đáp ứng được như thế
nào. Để xác định những vấn đề nêu trên bản thân xin được nghiên cứu đề tài:
"

Đánh giá thực trạng và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp sau khi

thực hiện chính sách “Dồn điền đổi thửa” trên địa bàn xã Đông Hà huyện
Đông hưng tỉnh Thái Bình"
Với mong muốn làm rõ hơn cơ sở khoa học và ý nghĩa thực tiễn của công
tác dồn điền đổi thửa, từ thửa ruộng nhỏ thành thửa ruộng lớn, góp phần nâng
cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
1.2. Mục đích của đề tài:

1.2.1. Tìm hiểu thực trạng sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn xã Đông
Hà, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.
1.2.2. Đánh giá ảnh hưởng của chính sách “Dồn điền đổi thửa” đến hiệu
quả sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và công tác quản lý

Đặng Tuấn

2
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp

Nhà nước đối với đất nông nghiệp trên địa bàn xã Đông Hà- huyện Đông
hưng tỉnh Thái Bình.
1.2.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp dựa trên cơ sở kết quả nghiên cứu, góp phần thực hiện mục tiêu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Đặng Tuấn

3
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp

2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan về Chính sách quản lý và sử dụng đất nông nghiệp ở
Việt Nam trong bối cảnh lịch sử phát triển và những thay đổi gần đây.

2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1981
Lịch sử cách mạng giải phóng dân tộc và lịch sử phát triển kinh tế của
Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ với các vấn đề sử dụng đất đai. những mâu
thuẫn trong chính sách đất đai ( vấn đề tiếp cận đất đai, sở hữu và sử dụng đất
đai) đã diễn ra trong suốt thời kỳ là thuộc địa của thực dân pháp; thời kỳ chiến
tranh chống Mỹ và các chính sách của Chính phủ từ sau ngày thống nhất đất
nước năm 1975.
Trước ngày khai sinh nước Việt Nam độc lập (năm 1945), đất nông
nghiệp được chia thành 2 loại chính: Đất sở hữu cộng đồng và đất tư hữu.
Khu vực nông thôn được chia thành hai tầng lớp dựa trên tính chất sở hữu của
đất đai đó là địa chủ và tá điền. Tầng lớp địa chủ chiếm khoảng 2% tổng dân
nhưng chiếm hữu khoảng 50% tổng diện tích đất, trong khi đó 59% hộ nông
dân là tá điền không có đất và di làm thuế cho tầng lớp địa chủ. Sau năm1945,
Chính phủ đã thực hiện chính sách phân chia lại ruộng đất giảm bớt thuế cho
nông dân nghèo và tá điền. Kết thúc chiến tranh với thực dân pháp( năm
1954) miền Bắc thực hiện chính sách cải cách ruộng đất,mục đích là công hữu
hoa ruộng đất của địa chủ người Việt và người Pháp tiến hành chia lại ruộng
đất cho hộ nông dân chưa có hoặc có ít ruộng đất với khẩu hiệu "người cày có
ruộng" . Giai đoạn tiếp theo của chính sách cải cách ruộng đất đó là miền Bắc
chuyển sang giai đoạn sở hữu tập thể đất nông nghiệp dưới hình thức hợp tác
xã từng khâu (bậc thấp) và hợp tác xã toàn phần (bậc cao).
Đến năm 1960, khoản 86% hộ nông dân và 68% tổng diện tích đất nông
nghiệp đã vào hợp tác xã bậc thấp. Trong hợp tác xã này người nông dân vẫn
sở hữu đất đai và tư liệu sản xuất, ở hình thức hợp tác xã bậc cao, nông dân
Đặng Tuấn

4
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH



Khoá luận tốt nghiệp

góp chung đất đai và tư liệu sản xuất khác như ( trâu, bò, gia súc và các công
cụ sản xuất khác) vào hợp tác xã với sự quản lý chung. Từ năm 1961 đến năm
1975, có khoảng 20.000 hợp tác xã bậc cao đã ra đời với sự tham gia của hơn
80% hộ nông dân.
Miền nam, chính phủ của chính quyền sài gòn cũ thực hiện chương trình
cải cách điền địa dưới một hình thức khác, thông qua một hình thức quản lý
thuê đất; quy định về mức hạn điền ( năm 1956) và chương trình phân chia lại
đất đai ( năm 1970) kết quả là khoảng 1.3 triệu ha đất nông nghiệp được phân
chia lại cho hơn một triệu hộ nông dân vào năm 1970 và quá trình này được
biết đến với khẩu hiệu "ruộng đất về tay người cày" và hoàn thành vào cuối
năm 1974. sau hi thống nhất đất nước năm 1975, chính phủ Việt nam tiếp tục
phát triển xã hơn nữa theo hướng tập thể hóa.
Sau năm 1975 ở miền Bắc, các hợp tác xã (HTX) nông nghiệp mở rộng
quy mô từ HTX toàn nông thôn đến HTX toàn xã. ở miền nam, nông dân vẫn
được phép hoạt động dưới hình thức thị trường tự do đến tận năm 1977 đến
năm 1978 sau đó cũng từng bước đi theo hướng tập thể hóa. Kết quả thực
hiện mô hình kinh tế tập thể khác nhau ở các vùng, cụ thể ở vùng đồng bằng
sông Cửu long, chỉ có khoảng 6% số hộ nông dân tham gia HTX nông
nghiệp. Khác với miền Bắc, ở miền Nam hộ nông dân vẫn là đơn vị sản xuất
cơ bản mặc dù họ tham gia HTX nông nghiệp. Họ sử dụng chung lao động và
các nguồn lực sản xuất nhưng họ tự quyết định trong vấn đề sử dụng các đầu
vào sản xuất và áp dụng công nghệ. Sau năm 1975, nền kinh tế Việt Nam nói
chung và nông nghiệp nói riêng phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của
cuộc chiến tranh để lại và những hậu quả từ những chính sách trong thời kỳ
kinh tế kế hoạch hóa tập trung và thời kỳ kinh tế trong nông nghiệp. Trong
thời kỳ sở hữu tập thể trong nông nghiệp, sản xuất giảm do người nông dân
thiếu động cơ làm việc, sản lượng nông nghiệp tăng hàng năm ở mức rất thấp


Đặng Tuấn

5
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp

2%Cùng thời điểm này dân số tăng rất nhanh (2,2 - 2,35%/năm) đã dẫn đến
việc phải nhập khẩu bình quân hơn một triệu tấn lương thực mỗi năm trong
suốt thời kỳ sau chiến tranh. Điều đó đã dẫn đến một bộ phận lớn dân số sống
trong tình trạng nghèo và đói.
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1988
Sự thay đổi cơ chế quản lý và sử dụng đất trong lĩnh vực nông nghiệp bắt
đầu bằng chỉ thị 100 của ban Bí thư Trung ương Đảng hay còn gọi là Khoán
100. Dưới chính sách khoán 100, các HTX giao đất nông nghiệp đến hộ nông
dân và người lao động. Những người này có trách nhiệm trong ba khâu của
quá trình sản xuất. Sản xuất vẫn dưới sự quản lý của HTX, cuối vụ hộ nông
dân được trả thu nhập bằng thóc dựa trên sản lượng sản xuất ra và ngày công
đóng góp trong 3 khâu của quá trình sản xuất. Đất đai vẫn thuộc sở hữu của
nhà nước và dưới sự quản lý của HTX. Mặc dù còn đơn giản nhưng khoán
100 đã trở thành bước đột phá trong quá trình hướng tới nền kinh tế thị
trường. Sự ra đời của khoán 100 đã có những ảnh hưởng đáng kể đến sản xuất
nông nghiệp, đặc biệt đối với sản xuất lúa gạo, tăng 6.3%/ năm. Đầu năm
1988, sản xuất lương thực không đáp ứng được yêu cầu nên đã dẫn đến tình
trạng một loạt các mâu thuẫn cũng gia tăng trong khu vực nông thôn, đặc biệt
là mối quan hệ đất đai bởi sự "cào bằng" về phân chia và điều chỉnh đất đai.
Điều này hiển nhiên dặt ra yêu cầu một cuộc cải cách mới trong chính sách
đất đai. Để giải quyết các vấn đề trên, chính sách đổi mới trong nông nghiệp
đã được thực hiện theo tinh thần của nghị Quyết 10 của Bộ chính Trị vào

tháng 4 năm 1988. Với sự ra đời của nghị quyết 10 thường được biết đến với
tên khoán 10, người nông dân được giao đất nông nghiệp sử dụng từ 10- 15
năm và lần đầu tiên hộ nông dân được thừa nhận như một đơn vị kinh tế tự
chủ trong nông nghiệp. Bắt đầu từ thời kỳ này, các tư liệu sản xuất ( máy
móc, trâu, bò, gia súc và công cụ khác) được sở hữu dưới hình thức cá thể.

Đặng Tuấn

6
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp

Một khía cách khác của chính sách này đó là người nông dân ở miền Nam
được giao lại đất họ đã sở hữu trước năm 1975
Tuy nhiên cùng với khoán 10 chưa có luật tương ứng dẫn đến một số quyền
sử dụng đất như chuyển nhượng, cho thuê hoặc thừa kế chưa được luật pháp
hóa và thừa nhận. Một loạt các vấn đề khác nẩy sinh liên quan đến sản xuất
chẳng hạn như trạm điện, hệ thống giao thông nông thôn, thị trường,… mà
trước đây thuộc trách nhiệm quản lý của các HTX nông nghiệp. để giải quyết
các vấn đề này luật đất đai năm 1993 đã ra đời.
2.1.3. Sự phát triển của quản lý ruộng đất sau thời kỳ đổi mới
Trong suốt thời kỳ đổi mới, một loạt các chính sách và văn bản luật trong
lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt liên quan đến vấn đề sử dụng đất
đai đã ra đời. Những chính sách quan trọng nhất là luật đất đai năm 1993, sau
đó là luật đất đai sửu đổi, bổ sung năm 1998 và năm 2001; Luật đất đai mới
năm 2003; nghị định 64/NĐ-CP năm 1993 và nghị định 02/NĐ-CP năm 1994
về quy định trong phân bố đất rừng và đất nông nghiệp. Bên cạnh đó cũng có
hàng loạt các chính sách liên quan trực tiếp hoặc hỗ trợ gián tiếp đến vấn đề

về đất đai. Theo luật đất đai 1993, hộ nông dân được giao quyền sử dụng
ruộng đất lâu dài với 5 quyền: quyền chuyển nhượng, quyền chuyển đổi,
quyền cho thuê, quyền thừa kế và quyền thế chấp. Người có nhu cầu sử dụng
được giao đất trong thời hạn 20 năm đối với cây hàng năm, 50 năm đối với
cây lâu năm. Việc giao đất sẽ được tiến hành lại tại thời điểm cuối chu kỳ
giao đất nếu như người sử dụng đất vẫn có nhu cầu sử dụng. Luật đất đai cũng
quy định mức hạn điền đối với hộ nông dân, cụ thể đối với cây hàng năm là:
2ha ở miền Bắc và các tỉnh miền Trung; 3 ha đối với các tỉnh phía Nam; đối
với cây lâu năm quy định tối đa là 10 ha đối với các xã vùng đồng bằng và 30
ha đối với vùng trung du và miền núi.Cùng với việc giao đất cho các hộ nông
dân thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng được cơ quan chức năng

Đặng Tuấn

7
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp

xem xét và cấp cho các nông hộ. Đến năm 1998 giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất được cấp cho 70% hộ nông dân, cuối năm 2000 con số này là 90%.
Đối với đất rừng ở khu vực trung du và miền núi nơi có rất nhiều phong tục
tập quán thì việc giao đất phức tạp hơn, quá trình cấp giấy chứng nhận diễn ra
chậm hơn và vẫn đang được tiếp tục. Vào năm 1998, người nông dân được
giao thêm hai quyền sử dụng nữa đó là quyền cho thuê lại và quyền được góp
vốn đầu tư kinh doanh bằng quyền sử dụng đất.
Năm 2001 những sửa đổi bổ sung Luật đất đai năm 1993 cho phép người
sử dụng đất được tặng cho đất đai cho họ hàng, bạn bè… của họ và được đền
bù nếu bị thu hồi đất. Sự bổ sung này cũng đưa ra hàng loạt các thay đổi liên

quan đến đất đai và thủ tục đăng ký đất đai . Luật đất đai mới ra đời thay thế
cho luật đất đai năm 1993 và các sửa đổi bổ sung của luật đất đai được ban
hành vào tháng 12 năm 2003 có hiệu lực tháng 7 năm 2004. Đối với đất nông
nghiệp không thay đổi thời hạn sử dụng và diện tích hạn điền so với luật đất
đai năm 1993; tuy nhiên lần đầu tiên đất đai được xem như là "hàng hóa đặc
biệt" có giá trị, chính vì thế có thể chuyển nhượng. Luật đất đai mới vẫn
khẳng định "đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý " và
cũng cần có sự khuyến khích với thị trường bất động sản bao gồm các quyền
sử dụng đối với khu vực thành thị. Cá nhân, người nông dân và các tổ chức
kinh tế được quyền tham gia vào thị trường này. Những thay đổi trong chính
sách đất đai của Việt nam từ nam 1981 đến nay đã góp phần đáng kể trong
việc tăng nhanh sản lượng nông nghiệp và phát triển khu vực nông thôn. Tổng
sản lượng nông nghiệp tăng 6,7%/ năm trong suốt giai đoạn 1994- 1999 và
khoảng 4,6% giai đoạn 2000- 2003. An ninh lương thực quốc gia không còn
là vấn đề nghiêm trọng nữa và nghèo đói đang từng bước được đẩy lùi
2.1.4. Quyền sử dụng đất đai ở Việt Nam từ Luật đất đai năm 1993 đến
năm 2003

Đặng Tuấn

8
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp

Các chính sách đất đai liên quan đến việc giao đất và các quyền của người
sử dụng đất cho phép sự phát triển của thị trường đất đai. Điều đó đã mang lại
hiệu quả trong việc phân bổ nguồn lực trong điều kiện hiện nay. Theo luật
pháp của nhà nước Việt Nam, đất đai là tài sản của toàn dân, Nhà nước thống

nhất quản lý với tư cách là người đại diện. Luật đất đai mới năm 2003 thừa
nhận răng chính phủ là "đại diện cho sở hữu toàn dân " Chính vì đất đai thuộc
sở hữu toàn dân nên không thể chuyển quyền sở hữu cho từng cá nhân (hay tổ
chức) mặc dù cá nhân hay tổ chức đó (có thể là người nước ngoài - Việt kiều)
có thể sở hữu hoặc chuyển nhượng tài sản trên đất, ví dụ như nhà cửa được
xây dựng trên thửa đất đó. Các cá nhân (trừ người nước ngoài), hộ nông dân
và các tổ chức có thể sử dụng hoặc chuyển quyền sử dụng đất . Những chính
sách đổi mới trong quản lý đất đai vào năm 1993 với mục đích giúp người
nông dân có được sự đảm bảo trong việc sử dụng đất thông qua việc giao đất
nông nghiệp sử dụng ổn định, lâu dài và cung cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, tuy nhiên thời hạn giao đất vẫn còn ngắn và cũng chưa được thay
đổi trong luật đất đai mới năm 2003. Điều này còn làm cho người dân vẫn
chưa an tâm đầu tư dài hạn trong nông nghiệp. Thêm vào đó tính linh hoạt
trong sử dụng đất vẫn bị ràng buộc, cá biệt là sự chuyển đổi sang các loại cây
trồng khác trên diện tích đất lúa truyền thống. Bằng việc tăng tính đảm bảo
chắc chắn cho người sử dụng đất; tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận
với các nguồn tín dụng thông qua việc cho phép họ có quyền thế chấp quyền
sử dụng đất và quyền sử dụng đất được xem như những mặt hàng có thể đem
ra kinh doanh.
2.2. Quan hệ đất đai trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam

Đặng Tuấn

9
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp


Việc đổi mới phương thức điều tiết quan hệ đất đai từ nền kinh tế tự cung
tự cấp sang nền kinh tế thị trường, về thực chất là một quá trình giải phóng
sức lao động và sức sử dụng đất đai
Nó gắn liền với quá trình chủ yếu sau:
- Quá trình hình thành thị trường về tư liệu sản xuất, vốn, sức lao động,
bất động sản (trong đó có đất đai )và sản phẩm nông nghiệp.
- Quá trình hình thành và phát triển của các chủ thể sản xuất- kinh doanh
thuộc tất cả các thành phần kinh tế.
Hai quá trình này tác động lẫn nhau làm cho quá trình sản xuất - kinh
doanh vận động với tốc độ nhanh hơn và được sử dụng có hiệu quả cao hơn.
Sự vận động của các quan hệ đất đai - tư liệu sản xuất đặc biệt trong giai đoạn
chuyển sang nền kinh tế thị trường cũng không nằm ngoài quá trình chung đó.
Đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn, từ mô hình HTX tập thể hóa
triệt để đất đai và các tư liệu sản xuất khác trong sự điều hành quản lý tập
trung - đến sự ra đời của khoán 100, khoán 10 và hội nghị ban chấp hành
Trung ương lần thứ VI khẳng định hộ nông dan là đơn vị kinh tế tự chủ. Xét
về bản chất đây là sự điều chỉnh một bước rất cơ bản quan hệ sở hữu trong
nông nghiệp, trong đó có quan hệ đất đai và các tư liệu sản xuất khác. Các hộ
nông dân được quyền sở hữu các tư liệu sản xuất, còn đất đai được giao ổn
định lâu dài. Đây là một bước đột phá có tính chất quyết định làm hồi sinh
kinh tế hộ nông dân và sự ra đời đa dạng của hình thức kinh tế hợp tác mới
trong nông thôn, nông nghiệp. Cùng với sự đổi mới trong chính sách quản lý
vĩ mô của nhà nước, sự đổi mới về quan hệ sở hữu trong nông nghiệp đã góp
phần quan trọng vào phát triển nông nghiệp của nước ta trong những năm
qua. Tuy nhiên bước phát triển kinh tế tiếp theo của nền nông nghiệp sang sản
xuất hàng hóa trong nền kinh tế thị trường đang đặt ra những yêu cầu mới,
nảy sinh những mâu thuẫn trong quan hệ đất đai đó là:

Đặng Tuấn


10
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp

- Sự đòi hỏi phân phối bình quân đất đai tạo nên sự manh mún về đất đai
(nhất là đồng bằng Bắc Bộ nơi đất chật người đông) với việc phải tích tụ tập
trung đất đai tới những quy mô sản xuất hợp lý cho sản xuất hàng hóa trong
nền kinh tế thị trường với mục tiêu hiện đại hóa nền nông nghiệp.
- Sức ép về dân số và lao động ở những vùng đất chật người đông) với
việc phải tích tụ tập trung đất đai với quy mô hợp lý cho sản xuất hàng hóa
nền nông nghiệp.
- Sức ép về dân số và lao động ở những vùng đất chật người đông với sự
phân công lao động ở trình độ thấp trong khi ngành nghề dịch vụ còn kém
phát triển.
- Năng lực vốn, năng lực sản xuất - kinh doanh của một bộ phận không
nhỏ còn rất thấp, đặc biệt là trong một thời gian dài trong cơ chế tập trung,
bao cấp. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng đất đai.
Xét về xu thế phát triển của nền kinh tế quốc dân trong những năm tới đòi
hỏi phải rút bớt lao động và dân số sống bằng nông nghiệp. Như vậy quan hệ
đất đai phải được nhìn nhận và giải quyết theo quan điểm phát triển.
Để tạo cho quan hệ đất đai vận hành trong nền kinh tế thị trường thì trước
tiên phải làm rõ mối quan hệ giữa Nhà nước và người nông dân về vấn đề đất
đai, việc "người cày có ruộng" là một thành quả vĩ đại của Cách mạng. Tuy
nhiên quan hệ đất đai trong cơ chế cũ đã bộc lộ tính kém hiệu quả của nó, vấn
đề đặt ra là phải xác định một mối quan hệ cấu trúc mới của quan hệ đất đai
về thực chất là xác định rõ quyền năng của nhà nước và quyền của các hộ
nông dân. Do tính chất đặc biệt, quan hệ đất đai chứa đựng hai phương diện
chủ yếu sau đây;

- Đất đai là lãnh thổ quốc gia, là tài nguyên không thể thay thế được của
mỗi quốc gia, là không gian sinh tồn của cả dân tộc. Đó là kết quả của quá
trình chế ngự thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm của cả dân tộc từ thế hệ này

Đặng Tuấn

11
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp

sang thế hệ khác. Do đó cả nhà nước và mọi công dân phải có quyền và nghĩa
vụ bảo vệ và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai.
- Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt trong nông nghiệp, nó phải là kết quả
đầu tư lao động sống, vốn, sức lao động cải tạo … của con người, trong nhiều
trường hợp được truyền từ đời nay sang đời khác ngay trong một gia đình. Vì
tính chất đặc biệt đó ruộng đất là điều kiện tồn tại chủ yếu của kinh tế hộ
nông dân. Với tư cách là người lao động, họ phải là chủ thể của quyền sử
dụng đất. Quan hệ sở hữu đất đai được chế định bởi hai phương diện chủ yếu
đó, thể hiện mối quan hệ đặc biệt giữa Nhà nước và nông dân. Vai trò của nhà
nước thể hiện không chỉ với tư cách là người quản lý tối cao đối với đất đai
mà còn là người quyết định những nội dung của quan hệ sở hữu đất đai với
tính cách là chủ sở hữu tối cao (thay mặt toàn dân) đối với toàn bộ đất đai
trong lãnh thổ của quốc gia. Sự quyết định của nhà nước vào đất đai có thể
với những mức độ khác nhau đối với những loại đất khác nhau. Dưới sự quản
lý thống nhất của Nhà nước, mỗi thửa đất phải được xác định cụ thể về người
sử dụng nó. Như vậy quan niệm đúng đắn về sở hữu về đất đai phải là một thể
thống nhất giữa quyền năng tối cao của nhà nước và các quyền cụ thể của chủ
sử dụng đất, khi quyền lợi về đất đai được xác định rõ ràng và mang tính hiện

thực, phù hợp với quy luật khách quan thì đó sẽ là cơ sở của một nền nông
nghiệp hàng hóa phát triển trong cơ chế thị trường.
- Với mục tiêu phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH - HĐH
phải đổi mới quan hệ đất đai theo ba tiêu chí chủ yếu sau:
+ Đảm bảo quyền quản lý tối cao của Nhà nước và lợi ích Quốc gia đối
với mọi loại đất đai và mọi sự vận động của quan hệ đất đai;
+ Xác định quyền làm chủ thực sự của các hộ nông dân trong sử dụng
đất ( bao gồm cả quyền sử dụng ổn định lâu dai, quyền chuyển nhượng, cho
thuê, thừa kế, thế chấp …)

Đặng Tuấn

12
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp

+ Đưa quan hệ đất đai vào quan hệ thị trường có sự quản lý chặt chẽ
của nhà nước để từng bước hình thành thị trường bất động sản.
Sự chuyển đổi quy mô, cơ cấu ruộng đất ở nông thôn hiện nay là bước
khởi đầu quan trọng, làm tiền đề cho quá trình CNH - HĐH nông nghiệp,
nông thôn. thông qua sự chuyển đổi ruộng đất tạo ra các ô thửa có quy mô
diện tích đủ lớn, song song với việc quy hoạch lại đồng ruộng, hoàn thiện hồ
sơ địa chính, cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sử dụng ổn định lâu
dài cho hộ nông dân sẽ tạo ra hành lang pháp lý đủ mạnh cho quan hệ đất đai
vận động trong cơ chế thị trường, đảm bảo cho nhà nước quản lý được sự vận
động này.Việc chuyển đổi quy mô ô thửa cũng tạo ra điều kiện thuận lợi cho
quy trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong nông thôn gắn với chuyển
đổi cơ cấu kinh tế.

Nền nông nghiệp phát triển gắn với quá trình CNH càng đẩy mạnh thì tất
yếu sẽ xuất hiện nhu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo xu thế từ đất
nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp, hoặc từ đất trồng lúa sang đất trông
cây công nghiệp, chăn nuôi, nuôi thủy sản… Nếu không thừa nhận quá trình
đó, một mặt sẽ làm cho quá trình này tuột khỏi sự quản lý của Nhà nước đi
theo hướng kênh ngầm. Mặt khác sẽ ngăn cản sự vận động của quan hệ đất
đai theo hướng sử dụng hợp lý hơn, có hiệu quả hơn. Việc chuyển đổi, chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cũng là điều kiện tiền đề quan trọng trong quan hệ
đất đai vận đọng theo quy luật kinh tế khách quan. Đất đai được tích tụ tập
trung một cách hợp lý vào những người chủ có năng lực sản xuất - kinh doanh
thực sự có hiệu quả, đồng thời quá trình này sẽ là một trong những động lực
thúc đẩy sự phân công lại lao động ở nông thôn theo hướng "ai giỏi nghề gì
làm nghề đấy" từng bước rút bớt lao động nông nghiệp sang lao động công
nghiệp, dịch vụ. Tuy nhiên nhà nước từng bước có biện pháp hỗ trợ tài chính
cho các địa phương để quy hoạch lại đồng ruộng, chuyển đổi cơ cấu sản xuất

Đặng Tuấn

13
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp

khuyến khích nông dân chuyển đổi ruộng đất cho nhau để khắc phục tình
trạng manh mún.
2.3. Những kinh nghiệm về tập trung ruộng đất ở một số nước.
Tình trạng manh mún ruộng đất xảy ra ở nhiều nơi và nhiều nước trên
thế giới tại các thời kỳ khác nhau của lịch sử phát triển. Những nguyên nhân
dẫn đến tình trạng manh mún cũng rất đa dạng, như: Đặc điểm phân bố địa lý,

sức ép gia tăng dân số, tính chất của nền nông nghiệp còn kém phát triển, đặc
điểm tâm lý của cộng đồng dân cư nông thôn, hệ quả của một hay nhiều chính
sách ruộng đất, hoặc sự quản lý lỏng lẻo kém hiệu quả trong công tác quản lý
đất đai, … muốn giải quyết triệt để tình trạng này đòi hỏi phải có những hiểu
biết cụ thể về nguyên nhân của vấn đề này.
Tích tụ và tập trung ruộng đất là một yêu cầu đặt ra trong quá trình CNHHĐH nông nghiệp, nông thôn của các nước. Tập trung ruộng đất tạo điều kiện
thuận lợi để áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất thâm canh tăng
năng suất lao động, tăng khối lượng và tỷ suất nông sản hàng hóa, giảm chi
phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Vì vậy việc tích tụ ruộng đất trong quá
trình CNH hầu như đã trở thành quy luật , diễn ra ở nhiều nước. Tuy nhiên
chủ trương, biện pháp và mức độ tích tụ ruộng đất ở mỗi quốc gia không hoàn
toàn giống nhau.
2.3.1 Tích tụ ruộng đất ở một số nước châu á
Các nước châu á bình quân ruộng đất ít, quy mô trang trại nhỏ nên việc
tích tụ ruộng đất không thể dễ dàng như ở các nước âu mỹ, ngay ở Nhật bản
là một nước có trình độ công nghiệp hóa cao trong lĩnh vực nông nghiệp cũng
có tình trạng như vậy.
a/ Ở Trung Quốc, nhà nước Trung Quốc đã tiến hành cải cách nông
nghiệp và nông thôn từ năm 1978. Quá trình cải cách được chia thành 2 giai

Đặng Tuấn

14
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp

đoạn, giai đoạn 1 từ năm 1978 đến 1984, giai đoạn 2 từ năm 1985 đến 1990 và
sau đó có đề ra phương hướng phát triển nông nghiệp và nông thôn cho thập kỷ 90.

Văn kiện số 01 năm 1984 quy định “ Kéo dài thời hạn khoán ruộng đất
để khuyến khích nông dân đầu tư, bồi bổ sức đất, thực hiện thâm canh”. Chủ
trương này nhằm kiện toàn chế độ khoán sản phẩm đến hộ nông dân, khắc
phục tình trạng nông dân "bóc ngắn cắn dài”, sản xuất có tính chất lạm dụng
độ màu mỡ của đất đai. Thời hạn khoán ruộng đất từ 15 năm trở lên, đối với
loại kinh doanh chu kỳ sản xuất dài có tính chất khai hoang như vườn, rừng,
đồi hoang,… thì thời hạn khoán cần phải dài hơn. Trước khi kéo dài thời hạn
khoán, nếu quần chúng có yêu cầu điều chỉnh ruộng đất thì có thể dựa vào
nguyên tắc “đại ổn định, tiểu điều chỉnh” ( nghĩa là, về cơ bản phải ổn định
nhưng có thể điều chỉnh một phần nhỏ ruộng đất khoán chưa hợp lý) thông
qua thương lượng một cách đầy đủ sau đó tập thể thống nhất điều chỉnh.
Ngoài ra Văn kiện này còn cho phép hộ nông dân có quyền nhượng ruộng
khoán, cụ thể là “khuyến khích từng bước tập trung ruộng đất vào tay những
người làm ruộng giỏi”.
Chỉ thị số 18 năm 1990 của Trung Quốc quy định “ổn định quan hệ
ruộng đất nhận khoán không có nghĩa là không cho phép có sự điều chỉnh về
mảnh ruộng và số lượng ruộng khoán, những thửa ruộng quá phân tán, không
thuận tiện cho việc canh tác thì có thể căn cứ vào nguyện vọng của quần
chúng mà tiến hành điều chỉnh theo nguyên tắc số lượng và giá trị ngang
bằng”. Trong quá trình thực hiện khoán ruộng đất cho các hộ nông dân, một
số địa phương đã thực hiện việc khoán đất tốt kèm đất xấu, cho nên ruộng đất
nhận khoán phân tán, manh mún không thuận tiện cho nông dân canh tác.
Những năm gần đây một số địa phương đã căn cứ nguyện vọng của quần
chúng, tiến hành nhận ruộng đất và điều chỉnh. Kết quả đã diễn ra tốt, nhưng
cần phải giữ vững hai nguyên tắc:

Đặng Tuấn

15
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH



Khoá luận tốt nghiệp

Một là, tôn trọng nguyện vọng của quần chúng, không được áp đặt.
Hai là, phải đảm bảo theo nguyên tắc số lượng và giá trị ngang bằng.
Như vậy từ những năm 1978 Trung Quốc đã tiến hành cải cách nông
nghiệp, thực hiện hình thức khoán sản lượng đến hộ nông dân mà thực chất là
khoán ruộng đất hoàn thành công cuộc thiết kế lại đồng ruộng thông qua
chuyển đổi ruộng đất.
Tỉnh Sơn Đông của Trung Quốc cũng đã thực hiện chương trình dồn
điền đổi thửa từ năm 1988, quy định quy mô tối đa là 4 thửa/hộ, giúp giảm từ
7,6 thửa/hộ xuống còn 3,4 thửa/hộ. Khả năng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật tăng từ 7 đến 15 % so với trước dồn điền đổi thửa. Tuy nhiên, đến năm
1998, đa số nông dân chống đối phong trào này vì dồn điền đổi thửa không
phù hợp với điều kiện và chiến lược phát triển sản xuất của nông hộ. Qua kinh
nghiệm này cho thấy dồn điền đổi thửa cần dựa trên sự tự nguyện của nông
dân và áp dụng một cách linh hoạt đối với từng địa bàn, khu vực khác nhau
sao cho phù hợp.
Không chỉ Trung Quốc, nhiều nước khác cũng nóng vội muốn can
thiệp hành chính một lần để giảm chi phí giao dịch vì họ cho rằng nếu để hộ
nông dân tự làm thông qua thị trường điều chỉnh thì chi phí sẽ rất cao và mất
nhiều thời gian. Tuy nhiên, việc can thiệp hành chính này không đảm bảo
được rằng ruộng đất sẽ không bị chia nhỏ lại sau dồn điền đổi thửa (bán một
lần, chia thừa kế cho con cái, …). Hơn nữa các biện pháp can thiệp hành
chính thường phải tiến hành song song với việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông
thông, nhưng Chính Phủ lại thường thiếu vốn để đầu tư cho việc này.
b/ Ở Nhật Bản, xuất phát điểm từ chính sách trước những năm 1960
mỗi hộ nông dân Nhật có nhiều thửa ruộng phân tán, xa nhau quy mô mỗi
thửa chỉ từ 500 m2 đến 1000 m2.


Đặng Tuấn

16
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp

Vào thời kỳ này, sản xuất nông nghiệp chủ yếu sử dụng lao động thủ
công và sức kéo gia sức. Đã xuất hiện sự chênh lệch lớn về thu nhập giữa lao
động nông nghiệp và lao động của các ngành khác. Để chấn hưng nông nghiệp,
năm 1961 Chính phủ Nhật Bản đã ban hành Luật cơ bản về nông nghiệp. Một
trong ba mục tiêu chính của Luật cơ bản nông nghiệp là đưa nông nghiệp từ
quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Để thực hiện mục tiêu này Bộ nông nghiệp đề ra
“Sự nghiệp xây dựng ruộng đất với ba mục tiêu: rộng, chắc chắn, sâu”.
- Rộng: nâng kích thước thửa ruộng lên 0,3 ha.
- Chắc chắn: cải tạo nền đất yếu, nhiều bùn, hay mún trên cơ sở kiến
thiết xây dựng thoát nước cho từng thửa ruộng và toàn khu vực để có thể sử
dụng máy móc thuận lợi.
- Sâu: cải tạo tầng canh tác ruộng đất đảm bảo độ dày khoảng 1m (theo
các chuyên gia Nhật Bản thì Nhật Bản học tập kinh nghiệm chuyển đổi xử lý
đất của Cộng hoà Liên Bang Đức).
Để đáp ứng nhu cầu trên phải làm hai việc:
- Về mặt hành chính: đó là xử lý chuyển đổi đất từ các thửa nhỏ ở xa
nhau thành các thửa có kích thước lớn.
- Về mặt kỹ thuật: gắn liền với việc xử lý kích thước thửa ruộng là việc
xây dựng hệ thống tưới tiêu và san ủi mặt bằng. Việc chuyển đổi đất là công
việc rất phức tạp vì đất đai thuộc sở hữu tư nhân và việc chuyển đổi phải tiến
hành đồng thời với một số biện pháp, công việc khác mới phát huy có hiệu

quả. Trước khi chuyển đổi phải xây dựng quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp
cho mục đất phi nông nghiệp với yêu cầu ít nhất 8 năm kể từ khi xử lý, không
được thay đổi mục đích. Việc quy hoạch đất nông nghiệp và mục đích phi
nông nghiệp cũng nhằm mục đích kêu gọi đầu tư tạo việc làm, tăng thu nhập
cho nông dân, giảm việc nông dân di cư vào thành phố. Giới hạn tối đa cho
diện tích này là 30% diện tích toàn khu nông nghiệp.

Đặng Tuấn

17
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp

Việc chuyển đổi đất dựa trên nguyên tắc tương ứng về diện tích và giá
trị với ba điều kiện:
1) Đất phi nông nghiệp xen kẽ được chuyển đổi ra khu đất quy hoạch
cho mục đích phi nông nghiệp.
2) Đất được chuyển đổi tương ứng với đất có sẵn về diện tích, vị trí và
giá trị trong đó giá trị là yếu tố chính.
3) Yêu cầu của một thửa ruộng sau chuyển đổi tối thiểu là 3000m2,
nhưng phải tiếp giáp với mương tiêu, mương tưới và đường giao thông.
Sự nghiệp chuyển đổi là khó khăn phức tạp vì vậy có nơi làm dần từng
bước, lúc đầu từ 500m2 lên 1000m2, sau vài năm lên 2000m 2, vài năm sau lên
3000m2.
Kết quả là khoảng 2 triệu ha trong 2,7 triệu ha đất trồng lúa nước đã
được xử lý, chuyển đổi. Số còn lại chủ yếu là đất trồng cỏ. Trước chuyển đổi
bình quân một hộ có 3,4 thửa ruộng, sau khi chuyển đổi còn 1,8 thửa. Việc xử
lý chuyển đổi đất nông nghiệp đã làm tăng hiệu suất của máy nông nghiệp,

tăng sức sản xuất của đất đai, làm tăng năng suất lao động của người nông
dân, tạo điều kiện phát triển hàng hoá để nâng cao sức cạnh tranh của nông
nghiệp. Vì vậy, cùng những yêu cầu khác, việc chuyển đổi xử lý đất nông
nghiệp đã góp phần quan trọng đưa năng suất lúa từ 3000 kg gạo/ha năm
1960, lên 6000 kg gạo/ha năm 1992. Hiện nay việc chuyển đổi xử lý ruộng
đất được tiếp tục khuếch trương lên 1ha hoặc 2 ha, có thể lên tới 3 ha hoặc
6ha, tiến gần đến quy mô thửa ruộng
c/ Ở Đài Loan, sau năm 1949 dân số tăng đột ngột do sự di dân từ trong
lục địa ra. Lúc đầu chính quyền Tưởng Giới Thạch thực hiện cải cách ruộng
đất theo nguyên tắc phân phối đồng đều ruộng đất cho nông dân. Ruộng đất
đã được trưng thu, tịch thu, mua lại của các địa chủ rồi bán chịu, bán trả dần
cho nông dân, tạo điều kiện ra đời các trang trại gia đình quy mô nhỏ. Năm

Đặng Tuấn

18
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp

1953 ở Đài Loan đã có 679.000 trang trại với quy mô 1,29 ha. Đến năm 1961
đã lên tới 823.256 trang trại với quy mô chỉ còn 1,08 ha. Tuy nhiên, quá trình
công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn sau này đòi hỏi phải mở rộng quy mô
của các trang trại gia đình nhằm ứng dụng các tiến bộ khoa học để giảm chi
phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm. Nhưng do người Đài Loan coi ruộng
đất là tiêu chí đánh giá vị trí của họ trong xã hội nên mặc dù có thị trường đất
đai nhưng ruộng đất vẫn không được trao đổi để có thể tích tụ (có nhiều người
tuy là chủ đất nhưng đã chuyển sang làm nghề phi nông nghiệp). Để giải
quyết tình trạng này năm 1983 Đai Loan công bố Luật phát triển nông nghiệp

trong đó có công nhận phương thức sản xuất uỷ thác của các hộ nông dân, có
nghĩa là Nhà nước công nhận quyền chuyển quyền sử dụng đất cho các hộ
khác nhưng chủ cũ vẩn được thừa nhận quyền sở hữu. Ước tính đã có 75 % số
trang trại áp dụng phương thức này để mở rộng quy mô ruộng đất để sản xuất.
Ngoài ra để mở rộng quy mô các trang trại, trong cùng thôn xóm còn tiến
hành các hoạt động hợp tác như làm đất, mua bán chung một số vật tư, trang
thiết bị máy móc nông nghiệp; nhưng lại không chấp nhận phương thức tập
trung ruộng đất, lao động để sản xuất.
Bảng 2.1 Tình hình tích tụ ruộng đất của các trang trại ở một số nước Châu á
Nước

Quy mô trang trại

Nhật Bản

Năm 1950
0,80

Năm 1970
1,10

Năm 1990
1,40

Đài loan

1,20

0,83


1,21

Hàn quốc

0,86

0,94

1,20

Thái Lan

3,50

3,56

4,52

Nguồn: Hội khoa học kinh tế Việt nam (1988) [5]

Đặng Tuấn

19
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp

2.3.2 Tích tụ ruộng đất ở một số nước Âu mỹ
Các nước Âu Mỹ bình quân ruộng đất trên đầu người khá cao, tốc độ đô

thị hóa nhanh, nhu cầu lao động công nghiệp nhiều, chính quyền khuyến
khích việc đẩy nhanh tốc độ tích tụ ruộng đất, mở rộng quy mô trang trại bằng
các chế độ và chính sách cụ thể, khuyến khích sản xuất kinh doanh của các
trang trại lớn. Tuy nhiên để tránh tích tụ ruộng đất quá lớn trong tổng địa
phương, một số nước như Pháp, Anh có biện pháp quản lý thông qua hội đồng
quy hoạch đất đai của tỉnh, huyện, với hội đồng quản trị gồm những đại diện
nông dân địa phương, những chuyên viên ruộng đất và hai ủy viên chính phủ.
Hội đồng này mua đất trên thị trường tạo ra quỹ đất dự trữ và bán lại công
khai cho các hộ nông dân mua đất theo giá thị trường.
kể từ sau cách mạng nông nghiệp lần thứ 2 cuối thể kỷ 19 đầu thế kỷ
20, một loạt các trang trại nhỏ, manh mún năng suất thấp đã bị loại bỏ thay
thế vào đó là các trang trại quy mô vừa năng suất lao động cao. Ví dụ ở Pháp
năm 1950 có xấp xỉ 2,29 triệu nông hộ với quy đất 14ha/hộ, đến năm 1993 chỉ
còn 0,8 triệu hộ với quy mô 35 ha/hộ.
Bảng 2.2. Tình hình biến động về số lượng và quy mô trang trại nông nghiệp
ở một số nước Châu Âu.
Tên nước

Năm

1955

1960

1970

1987

Số lượng, quy mô
Pháp

Số trang trại (nghìn)
2885
1588
1263
982
Diện tích bình quân (ha)
14
19
23
29
Đức
Số trang trại (nghìn)
2051
1709
1075
983
Diện tích bình quân (ha)
11
10
14
15
Anh
Số trang trại (nghìn)
543
467
327
254
Diện tích bình quân (ha)
36
41

55
71
Hà Lan
Số trang trại (nghìn)
349
308
181
128
Diện tích bình quân (ha)
7
9
12
16
(Nguồn: Nguyễn Điền, Nông nghiệp Châu Âu những kinh nghiệm phát triển)

Đặng Tuấn

20
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp

Ở nước Mỹ năm 1950 với quy mô bình quân 86 ha/hộ đến năm 1992
chỉ còn 1,92 triệu hộ với quy mô 198 ha/hộ. Tiến trình tích tụ ruộng đất và
vốn nhanh chóng của các nông hộ ở các nước phát triển chủ yếu là nhờ thành
tựu khoa học công nghệ phát triển trong quá trình cơ giới hoá nông nghiệp
của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2.
Ngoài ra có một số nghiên cứu khác trong các nước phát triển về quá
trình tập trung hay phân hoá quy mô nông hộ trong đó có quy mô ruộng đất.

Quy mô ruộng đất được thể hiện qua kinh tế quy mô trong nông nghiệp ở hai
khía cạnh:
+ Sự phù hợp giữa quy mô các nguồn lực (đất đai, đàn gia súc, vốn, lao
động và công nghệ) và khả năng quản lý sử dụng các nguồn lực trong nông
hộ. Theo khái niệm này, quy mô kinh tế được mở rộng nhằm hạ giá thành,
tăng sức cạnh tranh của nông sản. Các chi phí có thể được giảm nhờ tăng quy
mô bao gồm: chi phí quản lý trang trại, chi phí áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật, chi phí tư vấn, đào tạo, …
+ Sự phù hợp giữa quy mô các mảnh thửa trong trồng trọt và các đàn
gia súc trong chăn nuôi với khả năng đầu tư thâm canh và áp dụng hiệu quả
khoa học tiến bộ kỹ thuật.
Phương thức tăng quy mô ô thửa có thể hỗ trợ quá trình đầu tư, thâm
canh, cơ giới hoá qua đó có thể làm tăng hiệu quả sản xuất/1đơn vị diện tích.
Nhưng nhiều ý kiến cho rằng quá trình tập trung thâm canh trên đây chỉ phát
huy tác dụng khi sản xuất hàng hoá phát triển. Nói cách khác quy mô của các
ô thửa, đàn gia súc, ... phụ thuộc vào quy mô sản xuất, trình độ sản xuất và
khả năng đầu tư của nông hộ. Trong trường hợp lao động dư thừa và sản xuất
có nhiều rủi ro, người nông dân nhỏ thường chọn giải pháp đầu tư vào lao
động hơn là đầu tư vào các nguồn lực khác và vì thế họ ít quan tâm đến việc
dồn điền đổi thửa. Quy mô sản xuất phụ thuộc vào đặc điểm của các loại hình
Đặng Tuấn

21
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp

nông hộ và khả năng áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất …Ví dụ như
quy mô sản xuất có hiệu quả hiện nay ở Pháp là từ 50ha đến 100ha/nông hộ,

nhưng ở Mỹ (do khả năng cơ giới hoá cao) quy mô ruộng đất nông hộ phải từ
200ha đến 300ha thì mới đạt hiệu quả cao nhất.
Tuy nhiên cũng cần nhấn mạnh rằng trong điều kiện sản xuất của các
nông hộ nhỏ, sự manh mún không phải lúc nào cũng gây khó khăn. Trên thực
tế ruộng đất manh mún cũng có những ưu điểm nhất định đối với sản xuất
nhỏ như: cho phép đa dạng hoá cây trồng, giảm rủi ro trong sản xuất, khắc
phục được dư thừa lao động và khắc phục được tính phi hiệu quả của thị
trường lao động và thị trường đất đai.
+ Vấn đề hạn điền ở một số nước dặt ra chủ yếu là trong thời kỳ cải
cách ruộng đất, quy định hạn mức ruộng đất ở những người có nhiều ruộng
được dữ lại, vượt quá hạn mức nhà nước sẽ trưng mua để bán lại cho nông
dân thiếu đất như ở Nhật Bản, Đài Loan… đến thời kỳ công nghiệp hóa phát
triển thì vấn đề hạn điền thường không cần đặt ra. Theo Macheal Lipton, 2002
nền công nghiệp của các nước đang phát triển ở châu á được đặc trưng bởi
các yếu tố sau;
+ Tỷ lệ lao động nông nghiệp , nông thôn khá lớn và dư thừa.
+ Nền nông nghiệp thâm canh sản xuất lương thực, đặc biệt là lúa nước
chủ yếu dựa vào đầu tư lao động của nông hộ quy mô nhỏ
+ Sự tăng trưởng của khu vực nông nghiệp có tính chất quyết định đến
tăng trưởng kinh tế nông thôn.
Vì vậy để xoá đói giảm nghèo cần phải tạo thêm nhiều công việc làm cho
lực lượng lao động ở nông thôn. Thành quả của những cuộc cải cách ruộng
đất thời gian qua đã tạo công việc làm và điều kiện cho các nông hộ phát triển
kinh tế. Cho nên việc tập trung ruộng đất, phát triển trang trại quy mô lớn
không hợp lý thì có nguy cơ làm tăng thất nghiệp trong nông thôn.

Đặng Tuấn

22
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH



Khoá luận tốt nghiệp

Kinh nghiệm chung của các nước là tích tụ ruộng đất phải đi đôi với giải
quyết việc làm cho lực lượng nông dân cho thuê hoặc bán ruộng cho người
khác. Việc làm ở đây bao gồm các công việc ngay trong lĩnh vực nông nghiệp
như; Làm thuê cho các trang trại lớn( có thể làm thuê cho chính người mình
cho họ thuê đất hay bán ruộng ) Song chủ yếu vẫn là tạo ra các việc làm ngoài
nông nghiệp (công nghiệp, dịch vụ nông thôn…) để chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông thôn.
2.4 Chuyển đổi ruộng đất khắc phục tình trạng manh mún ruộng đất
trong sản xuất nông nghiệp
2.4.1. Những khái niệm về manh mún ruộng đất
Manh mún ruộng đất nghĩa là một hộ nông dân có nhiều thửa ruộng, là
một đặc điểm quan trọng trong nông nghiệp của nhiều nước, nhất là các nước
đang phát triển. ở Việt Nam manh mún ruộng đất rất phổ biến, đặc biệt ở
miền Bắc. theo con số thống kê ước tính toàn quốc có khoảng 75 triệu mảnh,
trung bình một hộ nông dân có khoảng 7-8 mảnh. Manh mún đất đai là một
trong những rào cản của sự phát triển nông nghiệp nhất là sản xuất trồng trọt.
Cho nên rất nhiều nước đã và đang thực hiện chính sách khuyến khích tập
trung đất đai. ở Việt Nam cũng đang thực hiện chính sách này trong những
năm gần đây, dưới quan điểm kinh tế, nếu manh mún đất đai làm cho lao
động và các nguồn lực khác phải chi phí nhiều hơn thì việc giảm mức độ
manh mún đất đai sẽ tạo điều kiện để các nguồn lực này được sử dụng ở các
ngành nghề khác có hiệu quả hơn. Như vậy, trên tổng thể nền kinh tế sẽ đạt
được lợi ích khi ta giảm mức độ manh mún đất đai.
2.4.2. Tình trạng manh mún ruộng đất ở Việt Nam
ở Việt Nam tình trạng manh mún ruộng đất diễn ra khá phổ biến, đặc biệt
là ở các tỉnh Trung du, miền núi Bắc Bộ. Trên thực tế, khái niệm manh mún

ruộng đất xuất hiện từ khi chia ruộng cho hộ nông dân theo tinh thần Nghị
Đặng Tuấn

23
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp

định 64/ CP năm 1993 của Chính phủ. Số liệu tổng hợp của Bộ tài nguyên và
Môi trường cho thấy hiện nay cả nước có khoảng 75 triệu thửa đất, bình quân
mỗi hộ có khoảng 0,25 - 0,5 ha đất nông nghiệp với con số bình quân 6,8 thửa
đất/ hộ. Khu vực có mức độ manh mún nhiều nhất là trung du miền núi phía
Bắc, đồng bằng sông hồng và khu bốn cũ.
Khái niệm manh mún ruộng đất trong nông nghiệp được hiểu trên hai khía cạch:
+ Sự manh mún về ô thửa đối với một đơn vị sản xuất (hộ nông dân)
một hộ có nhiều thửa ruộng với kích thước mỗi thửa tương đối nhỏ
+ Sự manh mún thể hiện về quy mô đất đai trên một đơn vị sản xuất
(hộ nông dân) quy mô diện tích quá nhỏ không tương thích với số lượng lao
động và các yếu tố sản xuất khác.
Hai kiểu manh mún này đều dẫn đến tình trạng chung là hiệu quả sản xuất
thấp, hạn chế khả năng đổi mới và ứng dụng các tiến bộ khoa học ký thuật,
làm cản trở bước tiến của quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn
Bảng 2.3
STT

1
2
3
4

5
6
7

Mức độ manh mún của các vùng ở Việt Nam

Vùng sinh thái

Tổng số thửa/ hộ
(thửa)
Trung
Cá biệt
bình

Diện tích bình quân/ thửa
(m2)
Đất lúa

Trung du miền núi
10 - 20
50
150 - 300
bắc bộ
Đồng bằng sông
7
25
300 - 400
Hồng
Duyên hải Bắc
7 - 10

30
300 - 500
Trung bộ
Duyên hải Nam
5 - 10
30
300 - 1000
Trung bộ
Tây nguyên
5
25
200 - 500
Đông Nam bộ
4
25
1000 - 3000
Đồng bằng sông
3
10
3000 -5000
Cửu long
Nguồn: Tổng cục địa chính năm 1997

Đặng Tuấn

Đất rau
100 -150
100 - 150
200 - 300
200 - 1000

1000 - 5000
1000 - 5000
5000 - 10000

24
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


Khoá luận tốt nghiệp

Tại Tỉnh Thái Bình, việc giao đất nông nghiệp ổn định, lâu dài cho hộ
nông dân đã được thực hiện từ năm 1993 theo nghị định 64/NĐ-CP của chính
phủ, quyết định 652/QĐ-UB ngày 17/11/1993 của UBND tinh Thái Bình và
quyết định số 948/2000/QĐ-UB này 25/9/2000 của UBND tỉnh Thái Bình về
việc giao ruộng đất ổn định, lâu dài và cấp GCNQSDD cho hộ nông dân. Do
tiến độ giáo đất nông nghiệp ổn định, lâu dài cho các hộ nông dân của Thái
Bình diễn ra khá nhanh, đến cuối năm 1993, đã cơ bản hoàn thành. và điều
chỉnh bổ sung năm 2000 Đất được giao phân tán tại nhiều xứ đồng khác nhau:
Số lượng thửa đất của mỗi hộ được giao còn quá lớn ( bình quân số thửa / hộ
toàn tỉnh từ 10- 15 thửa: các xã vùng chuyên canh lúa bình quân 7- 8 thửa /
hộ: nhiều vùng trồng màu bình quân trên 15 thửa / hộ: cá biệt có hộ được giao
đến 25 thửa ruộng). Ngoài ra, quỹ đất công ích không tập trung, nhiều nơi chỉ
có trên sổ sách, còn trên thực địa nằm lẫn trong diện tích giao ổn định, lâu dài
của một số hộ nông dân. Nhưng xét về cả quy mô diện tích trung bình của
một hộ và diện tích/ thửa đất so với cả nước thì ruộng đất của Tỉnh Thái Bình
manh mún hơn nhiều.
Nguyên nhân của tình trạng này là do cách tư duy lệch lạc về “ Công bằng
xã hội” mà thực chất là do ảnh hưởng của tư tưởng tiểu nông “ Bình quân chủ
nghĩa” Do đó, ruộng đất được xé nhỏ và phân đều cho mỗi hộ có ruộng gần,
ruộng xa; có tốt, có xấu và có thuận lợi, có khó khăn trong sản xuất….

Bốn nguyên nhân dẫn đến tình trạng manh mún ruộng đất
Nguyên nhân đầu tiên, quan trọng nhất dẫn đến tình trạng manh mún
ruộng đất là sự phức tạp của địa hình đất đai ở mỗi địa phương trong tỉnh Thái
Bình. Là hầu như mỗi xã đều có 3 loại đất :đất vàn và đất thấp.
Nguyên nhân thứ 2 là chế độ thừa kế chia đều ruộng đất cho tất cả con
cái. ở Việt Nam ruộng đất của cha mẹ thường được chia đều cho tất cả các

Đặng Tuấn

25
LỚP QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI (2006-2010) TẠI THÁI BÌNH


×