Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

Loại hình tự sự trong văn học dân tộc Thái thời kì hiện đại (NCKH)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.35 MB, 134 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP ĐẠI HỌC

LOẠI HÌNH TỰ SỰ TRONG VĂN HỌC DÂN TỘC THÁI
THỜI KÌ HIỆN ĐẠI
Mã số: ĐH2015-TN07-01

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Thị Hải Anh

Thái Nguyên, tháng 3 năm 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP ĐẠI HỌC

LOẠI HÌNH TỰ SỰ TRONG VĂN HỌC DÂN TỘC THÁI
THỜI KÌ HIỆN ĐẠI
Mã số: ĐH2015-TN07-01

Xác nhận của tổ chức chủ trì

Chủ nhiệm đề tài

(ký, họ tên, đóng dấu)


(ký, họ tên)

Thái Nguyên, tháng 3 năm 2017


i

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

DANH SÁCH THÀNH VIÊN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

TT

1

Nội dung nghiên
cứu cụ thể được
giao

Đơn vị công tác và
lĩnh vực chuyên môn

Họ và tên

Ghi chú

Đơn vị công tác: Khoa
Chủ nhiệm đề tài,

Khoa học cơ bản, trường
NCS. Nguyễn Thị
thực hiện các nội
Đại học Công nghệ thông
Hải Anh
dung nghiên cứu
tin và Truyền thông
liên quan đến đề tài
Chuyên môn: Ngữ văn
Đơn vị công tác: Phòng

2

ThS.

Vương

Thị

Yến

KH-CN&HTQT, trường
Thư ký hành chính
Đại học Công nghệ Thông
đề tài
tin và Truyền thông
Chuyên môn: Toán
ĐƠN VỊ PHỐI HỢP CHÍNH

TT


1

Tên đơn vị
trong và ngoài nước

Nội dung phối hợp
nghiên cứu

Họ và tên
người đại diện đơn vị

Khoa Ngữ văn - Trường Phối hợp nghiên cứu, TS. Đào Thủy Nguyên
ĐHSP - ĐHTN

trao đổi chuyên môn

– Chủ nhiệm khoa

2

Hội Văn học nghệ
Cung cấp tư liệu, trao Nhà văn Cao Duy Sơn
thuật các dân tộc thiểu
đổi chuyên môn
– Phó Chủ tịch Hội
số Việt Nam

3


Hội Văn học nghệ Cung cấp tài liệu, trao Trần Đại Tạo – Chủ
thuật tỉnh Sơn La
đổi chuyên môn
tịch Hội

Ghi chú


ii

MỤC LỤC

MỤC LỤC ........................................................................................................................... I
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ....................................................................................... IV
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài .................................................... 1
1.1. Thể loại truyện (truyện ngắn, truyện vừa) ................................................................. 1
1.2. Thể loại truyện thơ, tiểu thuyết và trường ca ............................................................ 3
2. Tính cấp thiết ................................................................................................................... 4
3. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................................ 5
4. Cách tiếp cận ................................................................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................. 5
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 6
7. Nội dung nghiên cứu ....................................................................................................... 6
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ..................................................... 7
1.1. Môi trường địa - văn hóa của dân tộc Thái ở Việt Nam .................................................. 7
1.1.1. Đặc điểm địa lí tự nhiên và nguồn gốc lịch sử dân tộc .......................................... 7
1.1.2. Đặc trưng văn hóa dân tộc ..................................................................................... 8
1.2. Loại hình tự sự trong văn học dân tộc Thái................................................................ 11
1.2.1. Một số vấn đề lí thuyết về loại hình tự sự .......................................................... 11

1.2.2. Khái quát về loại hình tự sự trong văn học dân tộc Thái thời kì hiện đại ........... 15
Chương 2. CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT TRONG LOẠI HÌNH TỰ SỰ VĂN HỌC
DÂN TỘC THÁI THỜI KÌ HIỆN ĐẠI ........................................................................ 19
2.1. Cảm hứng sử thi ......................................................................................................... 19
2.1.1. Đề tài gắn với những sự kiện lớn lao có ý nghĩa đối với toàn cộng đồng ........... 19
2.1.2. Con người “hoàn tất” trong cảm hứng sử thi ....................................................... 22
2.1.3. Sự rạn nứt trong quan niệm về hiện thực chiến tranh .......................................... 24
2.2. Cảm hứng thế sự ......................................................................................................... 27
2.2.1. Trạng thái xã hội với những khiếm khuyết, băng hoại về nhân cách và lối sống ....... 27
2.2.2. Những “khoảng tối” nơi công quyền ................................................................... 29
2.2.3. Nỗi trăn trở sinh thái thời hiện đại ....................................................................... 32
Chương 3. CỐT TRUYỆN, NHÂN VẬT VÀ LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG
LOẠI HÌNH TỰ SỰ VĂN HỌC DÂN TỘC THÁI THỜI KÌ HIỆN ĐẠI ................. 36
3.1. Cốt truyện trong loại hình tự sự văn học dân tộc Thái ............................................... 36
3.1.1. Cốt truyện tuyến tính............................................................................................ 36
3.1.2. Cốt truyện khung .................................................................................................. 40


iii

3.1.3. Cốt truyện gấp khúc ............................................................................................. 43
3.1.4. Cốt truyện tâm lí................................................................................................... 47
3.2. Nhân vật trong loại hình tự sự văn học dân tộc Thái ................................................. 50
3.2.1. Thế giới nhân vật trong loại hình tự sự văn học dân tộc Thái ............................. 50
3.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong loại hình tự sự văn học dân tộc Thái ......... 53
3.3. Đặc điểm lời văn nghệ thuật trong loại hình tự sự văn học dân tộc Thái .................. 62
3.3.1. Lời văn đậm chất trữ tình, giàu giá trị biểu cảm .................................................. 62
3.3.2. Lời văn mộc mạc, tự nhiên................................................................................... 66
3.3.3. Lời văn mang tính trào lộng, châm biếm ............................................................. 69
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 77
PHỤ LỤC ......................................................................................................................... 82


iv

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CTr

:

Cốt truyện

ĐTNT

:

Độc thoại nội tâm

DTTS

:

Dân tộc thiểu số

LHTS

:


Loại hình tự sự

LLVH

:

Lí luận văn học

NVCN

:

Nhân vật chức năng

NVLH

:

Nhân vật loại hình

TPTS

:

Tác phẩm tự sự

VHDG

:


Văn học dân gian

VHHĐ

:

Văn học hiện đại


v

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Thông tin chung
- Tên đề tài: Loại hình tự sự trong văn học dân tộc Thái thời kì hiện đại.
- Mã số: ĐH2015-TN07-01.
- Chủ nhiệm: Nguyễn Thị Hải Anh.
- Cơ quan chủ trì: Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông.
- Thời gian thực hiện:2015 – 2016.
2. Mục tiêu
Qua việc nghiên cứu về loại hình tự sự trong văn học dân tộc Thái thời kì hiện đại,
đề tài nhằm làm rõ những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật, tính kế thừa, phát huy và
phát triển các giá trị truyền thống của loại hình tự sự văn học dân tộc Thái; phác họa diện
mạo của loại hình tự sự trong nền văn học Thái; đồng thời, góp phần khẳng định, tôn vinh
giá trị của loại hình tự sự văn học dân tộc Thái trong nền văn học các dân tộc thiểu số nói
riêng và nền văn học Việt Nam nói chung.
3. Tính mới và sáng tạo

- Lần đầu tiên, đề tài đã đem đến cho người đọc một cái nhìn hệ thống, một bức
tranh khái quát và cụ thể về loại hình tự sự văn học dân tộc Thái thời kì hiện đại, chỉ ra
cho người đọc thấy được bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, văn học dẫn tới sự ra đời của
bộ phận văn học này.
- Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về môi trường địa – văn hóa, đề tài đã
nhận diện và chỉ ra được sự ảnh hưởng, tác động của yếu tố này tới sự hình thành nhân
cách, bản lĩnh sáng tạo nghệ thuật cũng như truyền thống văn hóa, văn học của dân tộc
Thái ở Việt Nam
- Bên cạnh việc chỉ ra những đặc điểm chung của loại hình, đề tài cũng đã thể hiện
được những đặc trưng riêng của từng thể loại trong loại hình.
- Đề tài đã chỉ ra được tính kế thừa trong việc phát huy bản sắc dân tộc của văn học Thái
hiện đại - một yếu tố rất quan trọng làm nên giá trị, bản sắc của nền văn học mỗi dân tộc.


vi

4. Kết quả nghiên cứu
- Đề tài đã chỉ ra được diện mạo của loại hình tự sự trong văn học dân tộc Thái, qua đó,
góp một cái nhìn tổng quan, hệ thống về loại hình văn học này trong văn học dân tộc Thái;
- Đề tài đã chỉ ra được tính kế thừa trong việc phát huy bản sắc dân tộc của văn học
Thái hiện đại - một yếu tố rất quan trọng làm nên giá trị, bản sắc của nền văn học mỗi
dân tộc. Trên cơ sở lựa chọn và phân tích những vấn đề cơ bản về cảm hứng nghệ thuật,
cốt truyện, nhân vật và ngôn ngữ, đề tài đã chỉ ra những yếu tố bảo lưu bền vững, tính kế
thừa và phát huy những giá trị văn hóa, văn học cổ truyền của loại hình tự sự hiện đại;
- Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về môi trường địa – văn hóa, đề tài đã
nhận diện và chỉ ra được sự ảnh hưởng, tác động của yếu tố này tới sự hình thành nhân
cách, bản lĩnh sáng tạo nghệ thuật cũng như truyền thống văn hóa, văn học của dân tộc
Thái ở Việt Nam;
- Bên cạnh việc chỉ ra những đặc điểm chung của loại hình, đề tài cũng đã thể hiện
được những đặc trưng riêng của từng thể loại trong loại hình.

5. Sản phẩm
Ba bài báo đăng trên tạp chí trong nước:
[1]. Nguyễn Thị Hải Anh (2015), “Văn xuôi hiện đại dân tộc Thái trên hành trình phát
triển và hội nhập”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, Số 11 (525), tr. 91-98.
[2]. Nguyễn Thị Hải Anh (2016), ”Một khía cạnh cuộc sống và con người miền núi qua
văn xuôi hiện đại dân tộc Thái”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, Số 7 (533), tr.90-96.
[3]. Nguyễn Thị Hải Anh (2016), ”Hình tượng người anh hùng trong loại hình tự sự văn học
dân tộc Thái”, Tạp chí Văn hóa dân gian, Số 6 (168), tr.35-41.
6. Phương thức chuyển giao, địa chỉ ứng dụng, tác động và lợi ích mang lại của kết
quả nghiên cứu
- Phương thức chuyển giao: thông qua các bài báo trên tạp chí chuyên ngành (02 bài
trên tạp chí Nghiên cứu văn học; 01 bài trên tạp chí Văn hóa dân gian).
- Địa chỉ ứng dụng:
+ Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu giảng dạy hoặc tham
khảo trong nghiên cứu, giảng dạy về văn học dân tộc Thái
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu, giảng dạy về văn học dân tộc thiểu số.
- Tác động và lợi ích mang lại:


vii

+ Cung cấp một cái nhìn hệ thống, chỉnh thể về loại hình tự sự trong văn học dân tộc Thái;
+ Cơ sở cho việc khẳng định, tôn vinh và khuyến khích sự phát triển của nền văn
học dân tộc Thái;
+ Góp phần vào việc bảo tồn và phát huy vốn văn hoá văn học của các dân tộc thiểu số.
Ngày 15 tháng 03 năm 2017
Cơ quan chủ trì

Chủ nhiệm đề tài


Nguyễn Thị Hải Anh


viii

INFORMATION ON RESEARCH RESULTS
1. General information
Project title: Narrative forms in Thai ethnic group’s literature in modern era.
Code number: ĐH2015-TN07-01
Coordinator: Nguyen Thi Hai Anh.
Implementing institution: College of Information and Communication Technology,
Thai Nguyen University.
Duration: from 2015 to 2016
2. Objective(s)
By studying the narrative forms in the Thai ethnic group’s literature in modern era,
the project aims to clarify the characteristics of the content and art, inheritance,
promotion and development of traditional values of the narrative forms in Thai ethnic
group’s literature; to sketch the its face in Thai’s literature; meanwhile, to contribute to
affirm, to honor the value of narrative forms in Thai ethnic’s literature in ethnic
minorities’ literature in particular and in Vietnam literature in general.
3. The Novelty and creativeness
- It’s the first time that the project has given readers a systematic insight into as
well as a generalized and specific picture of narrative forms in Thai ethnic group’s
literature in modern era; and the project also has shown the reader the historical, social,
cultural, literary setting leading to the birth of this form of literature.
- By clarifying the basic issues about geographic-cultural environment, the
desertation has pointed out the effects and the impacts of this factor to the formation of
the personality, artistic creativity capacity as well as cultural and literary tradition of Thai
ethnic group in Vietnam.

- Besides pointing out the common characteristics of its kind, the dissertation has
figured out the distinctive characteristics of each category in this kind.
The dessertation has pointed out the inheritance in promoting the national cachet of
modern Thai literature - a crucially important factor making up the value, the cachet of
each ethnic group’s literature.
4. Research results
- The project has figured out its face in Thai ethnic group’s literature, thereby,
contributed a systematic overview of this type of literature in the Thai literature;


ix

- The project has figured out the inheritance in promoting the national cachet of
modern Thai literature - a very important factor making up the value and the cachet of each
ethnic group’s literature. On the basis of selection and analysis of the basics of artistic
inspiration, plot, character and language, the project has pointed out sustainable
maintaining factors, inheritance and promotion of cultural values, traditional literature of
modern narrative forms;
- On the basis of clarifying the fundamental issues about the geographic-culture
environment, the project has identified and pointed out its effects and the impacts to the
formation of personality, creative skill and spirit for arts as well as cultural and literature
tradition of Thai ethnic group in Vietnam;
- In addition to pointing out the common characteristics of this form, the project has
also demonstrated its own features of each genre in this form.
5. Products
Three scientific papers have been published in domestic journals.
[1] Nguyen Thi Hai Anh (2015), “Thai ethnic group’s Modern Prose on the journey to
development and integration”, Journal of Literary Studies, No. 11 (525), pp. 91-98.
[2] Nguyen Thi Hai Anh (2016), “An aspect of human life and the mountainous people through
Thai ethnic group’s Modern Prose”, Journal of Literary Studies, No. 7 (533), pp. 90- 96.

[3] Nguyen Thi Hai Anh (2016), “The image of heroes in narrative forms in Thai ethnic
group’s literature”, Journal of Folklore, No. 6 (168), pp. 35-41.
6. Mode of transfer, applicable addresses, effects and benefits of the research results
- Mode of transfer: The research results can be transferred via the published
papers on specialized journals (02 papers in Journal of Literary Studies; 01 paper in
Journal of Folklore Culture).
- Applicable Address:
+ The results of the research can be used as teaching materials or reference in the
research and teaching of Thai ethnic group’s literature
+ The results of the research can be used as a reference in the research and
teaching of the ethnic minorities’ literature.
- The effects and benefits:
+ To provide a holistic and systematic insight into narrative forms in the Thai
ethnic group’s literature;


x

+ To be the basis to assert, honor and encourage the development of the Thai
ethnic group’s literature;
+ To contribute to the preservation and promotion of the ethnic minorities’
culture and literature.


1

MỞ ĐẦU
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài
1.1. Thể loại truyện (truyện ngắn, truyện vừa)
Cho đến nay, truyện (bao gồm cả truyện ngắn và truyện vừa) là thể loại có nhiều

thành tựu và nhận được nhiều sự quan tâm chú ý của các nhà nghiên cứu hơn cả. Trong
đó, chủ yếu là các bài viết bàn về một tác giả, tác phẩm cụ thể.
Trong số các nhà văn hiện đại dân tộc Thái, La Quán Miên là tác giả nhận được nhiều
sự quan tâm của các nhà phê bình, nghiên cứu hơn cả. Điều này được thể hiện qua một loạt
các bài viết của các tác giả như: Độc đáo La Quán Miên của tác giả Bùi Việt Thắng đăng
trong phụ trương Văn nghệ Dân tộc và Miền núi, Báo Văn nghệ, số 3, năm 1997; cũng
năm 1997, tác giả Lò Ngân Sủn có bài viết Những làn gió nhẹ thoang thoảng hương rừng
đăng trên Tạp chí Văn hóa các dân tộc, số 9; năm 1999, tác giả Nguyên An có bài viết Một
số ghi nhận về cách viết của La Quán Miên đăng trên Tạp chí Văn hóa các dân tộc; cũng
năm 1999, Phạm Đình Ân có bài viết Trời đỏ (tên một tập truyện kí của La Quán Miên N.T.H.A), in trong Phụ trương Văn nghệ Dân tộc và miền núi, Báo Văn nghệ…
Theo nhận xét chung của các nhà nghiên cứu, cuộc sống, con người và thiên nhiên
miền núi nói chung, vùng Tây Bắc nói riêng là những mảng đề tài được các nhà văn dân
tộc Thái đặc biệt quan tâm và có nhiều thành công hơn cả. Phạm Đình Ân nhận thấy:
“những trang văn La Quán Miên viết về rẻo cao, về DTTS rất hoạt, mềm mại, rất có
không khí” [5, tr. 5]. Nhà văn Phạm Duy Nghĩa nhận định: “Truyện của La Quán Miên
đặt ra vấn đề nhân quả, báo ứng từ sự phá vỡ cân bằng trong mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên, phát hiện cái bí ẩn thuộc về đời sống tâm linh ở miền núi.”[57, tr.
64]. Còn theo nhà nghiên cứu Trần Đại Tạo thì: “Từ truyện, kí đến kịch của anh (Sa
Phong Ba - N.T.H.A) đều đặc quánh nhựa sống của văn hoá các dân tộc Tây Bắc, nhất
là văn hoá Thái, Mường, Dao.” [69, tr. 28]. Cũng theo nhà nghiên cứu, nhờ “biết gắn bó
với đời sống” và sự “tỉnh táo nhạy cảm” của nhà văn, truyện ngắn của Sa Phong Ba đã “soi
lật và lẩy ra được vấn đề thu hút sự quan tâm của người đọc”. Đó là vấn đề con người
“cần biết giữ lấy sự trọn vẹn và cái đẹp của nhân cách” [59, tr. 25]…
Tìm hiểu về nghệ thuật xây dựng CTr và cách kể chuyện của La Quán Miên,
Nguyên An nhận thấy tuy các truyện và kí của ông thường không dài nhưng “ở mỗi
truyện hoặc kí đều có cấu trúc rất chặt”, “diễn biến của truyện nói chung là nhanh,
hoạt, rất dễ theo dõi” [1, tr. 23]. Cách kể chuyện của nhà văn Kha Thị Thường cũng
được đánh giá là “đơn giản nhưng nhờ cảm xúc mạnh và giàu dữ liệu cuộc sống nên đã



2

lôi cuốn người đọc từ đầu đến cuối” [79, tr. 4-5]. Cách dẫn chuyện của Sa Phong Ba
trong một số tác phẩm được Nguyễn Ngọc Thiện nhận xét là “tinh tế, tự nhiên” cùng
giọng kể “linh hoạt, gần gũi với người đọc” [59, tr. 15].
Cách kết thúc truyện của nhiều nhà văn được đánh giá là “linh hoạt, biến hóa” [1, tr.
23] và “hợp lí”, “gọn, bất ngờ” [59, tr. 15]. Đánh giá về cách kết truyện của Kha Thị
Thường, tác giả Dương Thuấn viết: “Trong các câu chuyện, Kha Thị Thường đã kết thúc
không để cho có hậu mà mở ra như cuộc sống vẫn còn tiếp tục”. Nhờ đó mà người đọc có
thể “hình dung về hiện thực của miền núi đúng thực tế hơn.” [79, tr. 4-5].
Về ngôn ngữ, cây bút văn xuôi La Quán Miên được đánh giá là có “một ngôn ngữ rất
Thái - cổ xưa nhưng không hề cũ kĩ” và “lối hành văn mộc mạc, giàu hình ảnh” [32].
Bên cạnh những thành công trên, lối viết của những cây bút truyện ngắn dân tộc Thái
cũng bộc lộ những hạn chế. Bàn về vấn đề này, Lò Ngân Sủn chỉ rõ: nhiều truyện và kí của
La Quán Miên chưa thành truyện “vì còn quá đơn giản, sơ sài, mới chỉ là kể việc, thống kê
việc, ít tình tiết, tình huống truyện”, “nhân vật trong truyện chưa nổi bật lên được, còn mờ
nhạt, chưa đạt tới độ sâu sắc, ít chất văn” [63, tr. 20]. Còn Bùi Hồng thì nhận thấy: “thói
quen giải thích, cắt nghĩa” “nhiều khi hơi quá tỉ mẩn” của La Quán Miên trong Bản nhỏ tuổi
thơ khiến cho câu chuyện của ông nhiều lúc “trở nên rườm rà, lan man” [32, tr. 15]. Theo
Trần Đại Tạo, điều khiến Sa Phong Ba chưa thuyết phục được độc giả là “phê phán cái xấu
còn quá lộ ý đồ tác giả, nghe như có sự bực bội, cá nhân; chưa để cho tự thân nhân vật thể
hiện ý đồ tác giả; người đọc cứ cảm tưởng rằng ở đâu cũng đầy rẫy tiêu cực, bế tắc; niềm tin
vào một cái mới đang lên còn mờ nhạt; đôi lúc quá lạm dụng ngôn ngữ báo chí” [69, tr. 35].
Một số truyện ngắn của nhà văn Cầm Hùng cũng bị đánh giá là “có kết cấu chưa hợp lí”,
“tính hệ thống chưa chặt chẽ”, ngôn ngữ có “hiệu quả nghệ thuật chưa cao” [55, tr. 40].
Những kết quả nghiên cứu về truyện dân tộc Thái chứng tỏ thể loại này đã nhận được sự
quan tâm, chú ý của các nhà nghiên cứu. Các công trình trên đã chỉ ra được một số mạch
nguồn cảm hứng chính của thể loại truyện dân tộc Thái như: cảm hứng trân trọng, ngợi ca
cuộc sống và con người miền núi với những phẩm chất tốt đẹp.; cảm hứng chiêm nghiệm triết
lí. Về nghệ thuật, một số đặc điểm cơ bản về nghệ thuật xây dựng nhân vật, CTr, ngôn ngữ

tuy đã được làm rõ, nhưng chủ yếu mới dừng lại ở từng tác phẩm hoặc từng nhà văn riêng lẻ.
Mặt khác, những công trình nói trên chủ yếu được triển khai trong khuôn khổ của những bài
viết, lời giới thiệu về một, hai tác phẩm cụ thể, thể hiện những nhận định chưa đầy đủ về một
nhà văn. Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về truyện và kí dân tộc
Thái trong cái nhìn toàn cảnh về thể loại.


3

1.2. Thể loại truyện thơ, tiểu thuyết và trường ca
Đây là ba thể loại ít được bàn đến. Bởi vậy, tư liệu mà chúng tôi tập hợp được còn
rất mỏng. Đặc biệt, chúng tôi chưa ghi nhận được một bài nghiên cứu nào về trường ca.
Đây cũng chính là lí do mà chúng tôi đưa các thể loại này vào cùng một mục để tìm hiểu
về tình hình nghiên cứu.
Năm 1967, nhân dịp sự ra mắt của truyện thơ Ing Éng, Hà Văn Thư có bài viết Giới
thiệu truyện thơ Ing Éng của Vương Trung đăng trên Tạp chí Văn học, số 10. Bài viết này sau
được tác giả đưa vào nội dung tập phê bình tiểu luận Về văn hóa văn nghệ các dân tộc thiểu
số xuất bản năm 1996. Đánh giá về chủ đề và nội dung tư tưởng của truyện thơ, tác giả viết:
“Cùng với việc giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội”, truyện thơ “đã lên án một tập
tục hiện còn hạn chế bước tiến của thanh niên, tục gả bán ép uổng và ở rể bắt buộc trong
dân tộc Thái” [79, tr. 193], và “khuyến khích việc đấu tranh cải tạo cái cũ cái lạc hậu”. Về
nghệ thuật, ông nhận định: “Vương Trung dùng lối kể chuyện giản dị, mạch lạc và khá hấp
dẫn. Nó phảng phất mạch điệu của Xống chụ son sao… Nhiều đoạn tả cảnh khá đậm nét.
Tác giả khéo chọn lọc hình ảnh ngôn ngữ để biểu hiện sự việc, tâm tư con người, với nhiều
sắc thái dân tộc” [79, tr. 204].
Năm 1999, ghi nhận những thành công của nhà văn Vương Trung trong cuốn tiểu
thuyết đầu tay Mối tình Mường Sinh, Lò Ngân Sủn cho rằng, thành công của tác phẩm nằm
ở “lối kể chân thật”, “gần với lối kể dân gian dân tộc, mà vẫn hiện đại, cuốn hút người
đọc”. Hạn chế của tác phẩm, theo ông nằm ở chỗ “cốt truyện có vẻ hơi cũ, mảng phong tục
tập quán hơi nhiều, hơi tham. Nhân vật anh giáo nông thôn miền núi hoạt động còn ít,

chưa nổi bật lên…” [64, tr. 105].
Năm 2008, Cầm Hùng có bài viết “Cảm nhận khi đọc“Đất bản quê cha” của Vương
Trung” đăng trên Tạp chí Suối reo, số 6. Bàn về ngôn ngữ của tác phẩm, nhà văn viết: “Về
ngôn ngữ và đối thoại, anh (Vương Trung - N.T.H.A) vận dụng rất điêu luyện đồng thời
cũng là thế mạnh giàu vốn sống về cách nói, cách đối thoại nhẹ nhàng, với lối ví von đầy
hình ảnh, dễ vào lòng người của dân tộc Thái” [39, tr. 86].
Như vậy, so với các thể loại tự sự dân gian, các thể loại tự sự của VHHĐ nhận được ít sự
quan tâm hơn của các nhà nghiên cứu. Bên cạnh đó, số lượng các công trình nghiên cứu
thường chỉ tập trung vào một thể loại hoặc cụ thể. Điều này có thể được giải thích bởi hai
nguyên nhân: thứ nhất, các nhà nghiên cứu chưa thật sự quan tâm đối với các thể loại; thứ hai,
trên thực tế, thành tựu của chính thể loại còn rất khiêm tốn.
Tóm lại, trên cơ sở điểm lại tình hình nghiên cứu về LHTS trong văn học dân tộc Thái
thời kì hiện đại, chúng tôi nhận thấy, cho đến thời điểm này, chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách tổng quan, khái quát, hệ thống về các phương diện nội dung và nghệ


4

thuật của loại hình trong văn học dân tộc Thái. Trong khi trên thực tế, đây lại là một trong
những loại hình văn học có những thành tựu đặc biệt quan trọng, góp phần tạo nên một diện
mạo hoàn chỉnh, đa dạng, giàu bản sắc của văn học dân tộc Thái. Nhận thức về “khoảng trống”
còn bỏ ngỏ này, chúng tôi đã chọn vấn đề Loại hình tự sự trong văn học dân tộc Thái thời kì
hiện đại làm đề tài nghiên cứu của đề tài.
2. Tính cấp thiết
2.1. Đất nước ta đang trong thời kì đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Đây là thời cơ, vận hội lớn nhưng đồng thời
cũng là những thách thức không nhỏ đối với nền văn học, nghệ thuật dân tộc. Để thực
hiện được mục tiêu xây dựng một “nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc”, một trong những chủ trương và giải pháp được Đảng và Nhà nước hết
sức quan tâm đề ra trong Nghị quyết 23 NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 16/06/2008 về

Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kì mới là “có chính sách
đặc biệt hỗ trợ sự phát triển của ngôn ngữ, chữ viết và văn học, nghệ thuật các dân tộc
thiểu số”. Do vậy, nghiên cứu về văn học dân tộc thiểu số (DTTS) là một việc làm phù
hợp và thiết thực nhằm góp phần thực hiện thành công chủ trương của Đảng và Nhà
nước trong xây dựng, phát triển văn học nghệ thuật nói chung cũng như văn học, nghệ
thuật các DTTS nói riêng.
Là một bộ phận cấu thành của nền văn học Việt Nam, văn học các DTTS trong suốt
quá trình tồn tại, vận động đã có những đóng góp quan trọng, tạo nên một nền văn học
dân tộc giàu bản sắc, đa dạng và thống nhất. Bởi vậy, nghiên cứu văn học Việt Nam
không thể không nghiên cứu văn học các DTTS.
2.2. Trong nền văn học dân tộc Thái, tự sự là một trong những loại hình văn học kết
tinh được nhiều thành tựu. Trong số không nhiều các DTTS (19 trên tổng số 53 DTTS anh
em) có văn học viết, dân tộc Thái trong hơn nửa thế kỉ phát triển văn học viết của mình đã
xây dựng được một nền văn học khá toàn diện với đầy đủ các thể loại văn xuôi, thơ, kịch
và một lực lượng sáng tác tương đối đông đảo (14 tác giả, chỉ đứng sau dân tộc Tày).
Những thành tựu này có vai trò quan trọng góp phần tạo nên diện mạo hoàn chỉnh của nền
văn học Thái cũng như góp phần khẳng định vai trò, vị trí của loại hình tự sự (LHTS) văn
học Thái nói riêng và của nền văn học Thái nói chung trong nền văn học các DTTS cũng
như nền văn học cả nước.
Mặc dù đã có những công trình nghiên cứu về LHTS trong văn học dân tộc Thái,
nhưng do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, những công trình này mới chỉ
dừng lại ở việc tiếp cận trên những góc độ riêng lẻ. Cho đến nay, chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về LHTS trong nền văn học Thái.


5

2.3. Từ những lí do trình bày ở trên, chúng tôi thấy, việc nghiên cứu LHTS trong
văn học dân tộc Thái theo hướng tiếp cận hệ thống và mang tính chỉnh thể là hướng tiếp
cận cần thiết trong việc tìm hiểu về văn học Thái. Với cách tiếp cận này, chúng ta sẽ có

được một cái nhìn khá toàn cảnh về LHTS trong văn học dân tộc Thái, về sự ảnh hưởng
của LHTS VHDG truyền thống đến LHTS trong văn học hiện đại (VHHĐ) cũng như
thấy được những thành tựu, đóng góp và vai trò, vị trí của LHTS trong văn học Thái nói
riêng, văn học dân tộc Thái nói chung trong nền văn học Việt Nam. Đồng thời, qua đó,
cũng sẽ góp phần khẳng định, tôn vinh một nền văn học, một dân tộc đã có nhiều công
lao, đóng góp cho sự nghiệp phát triển văn hoá, văn nghệ các DTTS nói riêng và đất
nước nói chung. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn vấn đề Loại hình tự sự trong văn học dân
tộc Thái thời kì hiện đại làm đề tài nghiên cứu của đề tài.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Đề tài đi sâu làm rõ những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật, tính kế thừa, phát
huy và phát triển các giá trị truyền thống của LHTS văn học dân tộc Thái; phác họa diện
mạo của LHTS trong nền văn học Thái
- Góp phần khẳng định, tôn vinh giá trị của văn học dân tộc Thái trong nền văn học
các DTTS nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung.
4. Cách tiếp cận
Đề tài tiếp cận các vấn đề nghiên cứu trên quan điểm hệ thống, quan điểm lịch sử.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại: được sử dụng trong quá trình thu thập
và xử lí tư liệu nhằm đưa ra được những con số, bảng biểu thống kê, phân loại cụ thể, xác
thực và đáng tin cậy phục vụ quá trình nghiên cứu.
- Phương pháp chuyên gia: được sử dụng trong quá trình thu thập tư liệu, gặp gỡ,
phỏng vấn sâu với các nhà văn Thái hiện đại.
- Phương pháp so sánh: được dùng để khảo sát những mối liên hệ giữa các thể loại
thuộc LHTS văn học dân tộc Thái với nhau, trong mối tương quan với nền văn học của
các DTTS khác và với nền văn học dân tộc Kinh. Qua đó, chỉ ra những ảnh hưởng cơ bản
và mối quan hệ giữa chúng với nhau, đồng thời cũng dùng để chỉ ra những ảnh hưởng
của LHTS dân gian đối với LHTS hiện đại trong văn học dân tộc Thái
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Mỗi một hiện tượng, tác phẩm, thể loại văn
học đều nằm trong mối quan hệ quy chiếu đa chiều với các ngành khoa học khác như dân
tộc học, văn hóa học, lịch sử học,… Sử dụng phương pháp này, tác giả có thể tìm hiểu,

cắt nghĩa, phân tích, lí giải các hiện tượng, tác phẩm, thể loại văn học đó trong tính phức
hợp, đa chiều vốn có.


6

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được áp dụng để phân tích các tác phẩm, tác
giả cụ thể, qua đó rút ra những kết luận, nhận định khái quát chứng minh cho các luận
điểm khoa học của đề tài.
- Phương pháp hệ thống hóa: LHTS bản thân nó đã là một hệ thống bao gồm nhiều
thể loại khác nhau. Trong mỗi thể loại lại bao gồm hệ thống các tác phẩm được biểu
hiện qua các phương diện nội dung, hình thức nghệ thuật… Phương pháp hệ thống hóa
sẽ giúp tác giả đề tài nhận thức một cách toàn diện, rõ ràng, theo hệ thống những vấn đề
nghiên cứu đã đặt ra.
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6.1. Đối tượng nghiên cứu
Để thực hiện đề tài Loại hình tự sự trong văn học dân tộc Thái thời kì hiện
đại, chúng tôi hướng đến đối tượng nghiên cứu là các tác phẩm thuộc LHTS VHHĐ
dân tộc Thái.
6.2. Phạm vi nghiên cứu
6.2.1.Phạm vi tư liệu nghiên cứu
- Các tác phẩm thuộc LHTS trong VHHĐ dân tộc Thái, bao gồm các tổng tập, tuyển
tập, hợp tuyển, truyện cổ đã xuất bản.
- Các bài viết, công trình nghiên cứu về LHTS trong văn học viết dân tộc Thái nói
riêng và của văn học các DTTS nói chung.
- Một số tác phẩm, tác giả tiêu biểu của các dân tộc khác làm cơ sở cho việc đối
chiếu, so sánh làm nổi bật những đặc điểm tiêu biểu của LHTS trong văn học dân tộc Thái.
6.2.2. Phạm vi vấn đề nghiên cứu
- Chúng tôi giới hạn phạm vi vấn đề nghiên cứu qua 4 thể loại: truyện (truyện ngắn
và truyện vừa), tiểu thuyết, trường ca và truyện thơ. Cho đến nay, đây là 4 thể loại kết

tinh được nhiều thành tựu hơn cả. Ở các thể loại này, chúng tôi chủ yếu lựa chọn, khảo
sát những tác phẩm, tác giả tiêu biểu đã được xuất bản thành sách và một số tác phẩm
được in trên các tạp chí địa phương.
7. Nội dung nghiên cứu
Phần Nội dung của đề tài được triển khai thành ba chương. Cụ thể như sau:
Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến đề tài
Chương 2. Cảm hứng nghệ thuật trong loại hình tự sự văn học dân tộc Thái
Chương 3. Cốt truyện, nhân vật và lời văn nghệ thuật trong loại hình tự sự văn
học dân tộc Thái


7

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Môi trường địa - văn hóa của dân tộc Thái ở Việt Nam
1.1.1. Đặc điểm địa lí tự nhiên và nguồn gốc lịch sử dân tộc
1.1.1.1. Đặc điểm địa lí tự nhiên
Dân tộc Thái ở Việt Nam cư trú chủ yếu ở vùng Tây Bắc. Về mặt địa giới hành
chính, vùng văn hóa Tây Bắc “bao gồm các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, một
phần của Hòa Bình, Lào Cai, Yên Bái và miền núi các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An” [53,
tr. 47]. Đây là vùng rừng núi điệp trùng hiểm trở với những ngọn núi cao nhất nước
(như Phanxipăng, Yam Phình...). Xen giữa những dãy núi trùng điệp là các cao nguyên
rộng lớn (Mộc Châu, Tả Phình,…) và những cánh đồng lòng chảo nổi tiếng từng đi vào
câu tục ngữ: “Nhất Thanh, nhì Lò, tam Tấc, tứ Than”. Hệ thống sông suối của Tây Bắc
khá dày đặc. Do ảnh hưởng của địa hình nên dòng chảy của các sông suối ở Tây Bắc
thường đột ngột và dữ dội, đặc biệt là vào mùa mưa.
Khí hậu nơi đây là khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt. Một năm có thể chia ra hai mùa
chính: mùa nóng và mưa, mùa rét và hanh khô. Vào mùa rét, nhiệt độ có khi hạ xuống
đến mức dưới 00C (nhiệt độ âm) gây ra hiện tượng băng tuyết. Vào mùa nóng, nhiệt độ

có thể lên tới 390C và mỗi tiểu vùng lại có những kiểu khí hậu khác nhau. Khí hậu khắc
nghiệt cùng với địa hình núi non hiểm trở khiến vùng Tây Bắc xưa từng bị coi là vùng
“rừng thiêng nước độc”. Người xưa có câu “Nước Sơn La, ma Hòa Bình” nhằm nói về
cái dữ dội của thiên nhiên nơi đây.
Tuy có địa hình phức tạp song về tổng thể, có thể ví vùng Tây Bắc rộng lớn như
“một ngôi nhà lớn có hai tầng: tầng 1 (vùng thấp), tầng 2 (vùng cao). Vùng thấp là
vùng cư trú chính của các dân tộc Thái, Mường, Lào, Lự, nhưng gương mặt văn hóa
vùng thấp Tây Bắc là văn hóa Thái” [53, tr. 48]. Vùng cao là nơi cư trú của các dân tộc
Mông, Dao, Hà Nhì, Si La, Khơ Mú. Gương mặt văn hóa vùng cao là văn hóa Mông.
Sống trong một vùng địa lí tự nhiên khắc nghiệt, hiểm trở nhưng cũng rất thơ mộng, trữ
tình, đồng bào các DTTS Tây Bắc, trong đó có người Thái, đã sớm biết cách chung sống hài
hòa với tự nhiên, khai thác các nguồn lợi từ nó để phục vụ cho cuộc sống. Ở chiều ngược lại,
những đặc điểm riêng về địa lí tự nhiên của vùng cũng để lại những dấu ấn đậm nét và ảnh
hưởng lớn đến tập quán cư trú, canh tác, lối sống và văn hóa tộc người.


8

1.1.1.2. Nguồn gốc lịch sử dân tộc
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học và những ghi chép trong các tập sử
thi của người Thái thì họ là cư dân cổ của vùng Tây Nam và Vân Nam (Trung Quốc).
Từ đó, họ thiên di vào Tây Bắc Việt Nam theo nhiều đợt kể từ thế kỉ VII đến thế kỉ
XIV, trong đó có 3 đợt thiên di lớn vào thế kỉ IX đến thế kỉ XI. Cũng có ý kiến cho
rằng, ngành Thái Trắng và bộ phận Thái Đen Mường Thanh có nguồn gốc bản địa (tổ
tiên của họ là người Tày - Thái cổ). Vào đầu thiên niên kỉ I CN, tổ tiên người Tày Thái cổ dã từng tham gia vào việc xây dựng quốc gia Âu Lạc của Thục An Dương
Vương, sau đó, một bộ phận di cư sang phía tây, tách khỏi bộ phận gốc là người Tày
hiện nay. Còn bộ phận Thái Đen có mặt tại Mường Lò (Văn Chấn, Yên Bái) là con cháu
của Tạo Xuông, Tạo Ngần gốc từ Vân Nam, Trung Quốc di cư sang (vì thế người Thái
Đen ở Thuận Châu luôn coi Mường Lò là “quê cha, đất tổ”).
Ở Việt Nam, người Thái phân chia thành hai ngành: Thái Đen [Tay (Thay) Đăm] và

Thái Trắng [Tay (Thay) Khao hay Đón].
Từ rất lâu, nhóm Thái Đen đã theo nếp cũ coi mình thuộc dòng tộc mẹ, mang biểu
tượng rồng ở nước kết hợp với dòng tộc cha mang biểu tượng chim én ở cạn (núi). Người
Thái Trắng coi mình thuộc dòng dõi mẹ - chim - cạn (núi) kết hợp với cha - rồng - nước
[62, tr. 15]. Dân số của cộng đồng người Thái là 1.550.423 người [11, tr. 14].
1.1.2. Đặc trưng văn hóa dân tộc
1.1.2.1. Văn hóa vật chất
Là chủ nhân của vùng thấp Tây Bắc, cuộc sống của người Thái gắn liền với núi
rừng, với những dòng sông, con suối. Chính địa bàn cư trú này đã tạo ảnh hướng lớn và
để lại những dấu ấn đậm nét trong văn hóa dân tộc. Trải qua hàng ngàn năm khai thác tự
nhiên Tây Bắc, người Thái đã tạo được hệ sinh thái nhân văn thường được gọi là “văn
hóa thung lũng”.
Người Thái ở Việt Nam là cư dân nông nghiệp, sống bằng nghề làm ruộng
nước là chính. Kĩ thuật trồng lúa của người Thái đạt đến trình độ cao so với nhiều
DTTS anh em khác. Bên cạnh việc trồng cấy lúa nước, người Thái còn có tập quán
làm nương rẫy. Ngoài làm ruộng và nương, người Thái còn chăn nuôi (trâu, bò, lợn,
gà, cá ruộng,…), săn bắn (muông thú), hái lượm (lâm thổ sản, rau, măng,…) và đánh
cá (ở các sông, suối).
Để tự cung tự cấp, các gia đình Thái trước đây đều làm nghề thủ công. Hầu hết đàn
ông đều biết đan lát, làm đồ dùng cho nông nghiệp, đánh cá. Theo tập quán, người con
gái Thái, khi lấy chồng phải mang theo của hồi môn bắt buộc là chăn, đệm, gối cho gia


9

đình nhà chồng. Vì vậy, con gái Thái học dệt từ rất sớm. Phụ nữ Thái nổi tiếng trong việc
dệt vải thổ cẩm và thêu thùa với những mặt hàng tinh xảo mang đậm bản sắc dân tộc.
Đối với người Thái, gạo nếp là lương thực chính. Hiện nay, người Thái đã bắt đầu có
thói quen ăn gạo tẻ. Mặc dù vậy, đối với họ, “nếp vẫn là thứ lương thực lí tưởng, đồng
thời vẫn là vật đặc trưng cho văn hóa tộc người” [86, tr. 169].

Người Thái ưa dùng đồ nướng. Trong các món ăn của người Thái, cá có một vị trí
quan trọng. Ngoài ra, khi nói tới phong tục ẩm thực của người Thái không thể không
nhắc tới rượu. Rượu là thức uống trong các dịp vui buồn và là vật tượng trưng của các
nghi thức. Do đó, trong cuộc sống, với ý nghĩa nào đó, dân tộc này đã xem nó như một
thức uống cần thiết hàng đầu, dùng quanh năm, ngang tầm với cơm (lảu khảu), trong đó
nổi tiếng nhất là rượu cần (lảu xá). Theo người Thái, cuộc sống sung túc lí tưởng là đạt
tới mức như câu tục ngữ đã tổng kết: “Đi, ăn cá; về, uống rượu; đêm đến đắp chăn nằm
đệm” (pay, kin pa; ma, kin lảu; tảu, non xứa hốm ha).
Theo truyền thống xưa thì người Thái ở nhà sàn. Điều đặc biệt của kiến trúc nhà sàn
cổ của người Thái là không phải dùng đến một mẩu sắt nhỏ nào trong thiết kế. Thay vào
đó là cả một hệ thống dây chằng, buộc, thắt khá công phu và tinh xảo bằng lạt tre, giang
và mây hoặc vỏ những cây chuyên dùng được gọi là hu, xa, năng, xiều. Nhìn vào cấu trúc
mái, ta có thể phân biệt kiểu nhà sàn của từng nhóm địa phương khác nhau. Nhà sàn của
người Thái Đen và Thái Trắng ở Mộc Châu, Sơn La thì có mái “vòm khum mai rùa” (tụp
môn, côm, xlăng táu) và thường đặt ở hai đầu hồi hình biểu tượng tạc bằng gỗ quét vôi
trắng hai thanh tre, tựa như hai đôi sừng gọi là khau cút. Nhà sàn của người Thái Trắng ở
Mường Lay, Mường Tè, Phong Thổ (Lai Châu) do có mặt phẳng cắt hình chữ nhật gần
vuông nên có 4 mái thẳng và gấp góc (tụp lặt). Nhà sàn của người Thái ở vùng Thanh
Hóa, Nghệ An có mái thấp, lòng nhà hẹp, có dáng gần với nhà sàn của người Mường.
Đối với người Thái, nếp nhà sàn không chỉ là một đơn vị không gian chứa đựng
một tế bào của xã hội (nên người Thái mới gọi là “cộng đồng nhà” (chua hươn)) hay
mang ý niệm là “nơi chứa đựng cộng đồng những người thuộc dòng máu cha” [86, tr.
124] (nên có tên “nhà tông - nhà cúng” (hươn đẳm - hươn pang) mà còn là không gian
chứa đựng văn hóa tâm linh.
So với nam giới, trang phục nữ của người Thái được cho là độc đáo vì đã làm tăng
vẻ đẹp trời ban của người con gái. Phụ nữ của hai ngành Thái là Đen và Trắng đều mặc
váy đen, áo ngắn (xửa cỏm). Áo cỏm được may khéo léo ôm bó sát người làm tôn vẻ đẹp
khỏe mạnh, tự nhiên và vóc dáng “thắt đáy lưng ong” của cơ thể. Dọc hai đường viền vạt
áo có khuy cài bằng bạc hình bướm hoặc ve. Điểm khác biệt trong chiếc áo của phụ nữ



10

hai ngành Đen và Trắng là chi tiết cổ áo. Trang phục nữ Thái Đen còn có khăn piêu mầu
đen, hai đầu có thêu những hoa văn kỉ hà bằng chỉ nhiều màu sắc.
Kiểu để tóc của phụ nữ Thái phân biệt khá rõ hai ngành Đen và Trắng. Khi chưa
chồng, nữ Thái Đen búi tóc đằng sau gáy (khót phôm), khi có chồng búi tóc ngược lên
đỉnh đầu để hơi nghiêng về bên trái (tẳng cảu). Chồng chết, trong thời gian để tang thì búi
ở lưng chừng giữa đỉnh đầu với gáy gọi là “búi tóc kiêng” (khót phôm me mải), hết tang
lại tiếp tục búi tóc ngược như khi chồng còn sống.
Người Thái có ngôn ngữ và văn tự riêng. Ngôn ngữ của dân tộc này thuộc hệ ngôn
ngữ Thái - Ka đai (tức hệ ngôn ngữ Nam - Thái), bắt nguồn từ hệ chữ Sanscrit (Ấn Độ). Do
có chung một cội nguồn, ngôn ngữ Thái có tỉ lệ thống nhất cao. Việc có văn tự và chữ viết
riêng chứng tỏ trình độ phát triển văn minh cao của người Thái.
1.1.2.2. Về văn hóa tinh thần
Khác với nhiều dân tộc khác trên dải đất hình chữ S này, người Thái không chịu
ảnh hưởng của Phật giáo hay các tôn giáo ngoại lai khác. Bên cạnh trạng thái tôn giáo
nguyên thủy “vạn vật hữu linh”, xưa nay, “dân tộc này vẫn tin và thờ một lực lượng
siêu nhiên mà thuật ngữ Thái gọi là “phi”” [86, tr. 403]. Người Thái quan niệm, mỗi
một cá thể người có “30 hồn ở phía trước và 50 hồn ở phía sau” (xam xíp khuôn mang
nả; hả xíp khuôn mang lăng).
Khi giải thích về sự tồn tại của linh hồn, người Thái cũng tin rằng: người có linh
hồn của người; bản, mường có linh hồn của bản mường và cõi trời cũng có nơi chứa
đựng “những linh hồn bất biến” [62, tr. 139]. Khi con người còn sống, linh hồn tồn tại
trong thể xác, gọi là phi khoăn. Khi con người chết đi, một phần hóa thành ma ác và một
phần (hồn chủ) thì trở thành ma nhà, tức tổ tiên (phi hươn). Tương tự như vậy, người
Thái có Phi bản, Phi mương (Thần bản, Thần mường) và Phi phạ, Phi Then (Cõi trời),...
Quan niệm và niềm tin trên về các loại phi (linh hồn) của người Thái đã dẫn đến sự
ra đời của các nghi thức và nghi lễ liên quan như: lễ “sửa hồn” (peng khuôn), lễ “gọi hồn
lạc” (hiệck khuôn lông) và lễ “cúng hồn” (xên khuôn), lễ “cúng nhà” (xên hươn), nghi lễ

và nghi thức liên quan đến việc cúng linh hồn bản, mường gọi là xên bản, xên mường...
Ngày nay, việc cúng bản, cúng mường và cúng then đã không còn được tổ chức trong
cộng đồng người Thái. Tuy nhiên, với quan điểm gìn giữ bản sắc dân tộc, các loại lễ xên
bản, xên mường đang được Nhà nước khuyến khích phục dựng.
Ngoài các nghi thức, nghi lễ liên quan đến linh hồn mang đặc trưng văn hóa tộc
người, đồng bào Thái còn có những lễ hội nổi tiếng khác như lễ hội Xăng khan, hay còn
gọi là lễ hội Kin chiêng boóc mạy hoặc hội Chá chiêng; lễ hội Hoa ban,…


11

Nguyên tắc cơ bản trong hôn nhân của người Thái là ngoại hôn dòng họ. Việc kết
hôn lại tuân theo nguyên tắc hôn nhân thuận chiều trên cơ sở ba mối quan hệ cơ bản
trong dòng họ của người Thái là Ải noọng - Lung ta và Nhinh xao. Hôn nhân của người
Thái mang “tính phụ quyền và tính mua bán, thể hiện rõ ở vai trò quyết định của cha
mẹ, tiền thách cưới” [55, tr. 135].
Theo phong tục truyền thống, người Thái có tục ở rể. Thời gian ở rể có thể kéo dài
từ 8 đến 12 năm. Ngày nay, do sự mai một của truyền thống, lễ cưới của người Thái cũng
giản tiện đi nhiều và thời gian ở rể cũng được rút ngắn, nhiều nơi không quá 3 năm.
VHDG cổ truyền của đồng bào Thái được lưu giữ lại nhờ phương thức truyền
miệng và ghi chép thành văn. Cho đến nay, dân tộc này còn giữ được cả một kho tàng
VHDG phong phú và độc đáo, bao gồm gần như đầy đủ tất cả các thể loại như thần
thoại, truyền thuyết, sử thi, truyện cổ tích, truyện thơ, tục ngữ, câu đố, truyện cười,…
trong đó, có nhiều tác phẩm lớn đã được giới thiệu rộng rãi và được nhiều bạn đọc trên
cả nước yêu mến đón nhận như Xống chụ xon xao, Quam tô mương,… Cùng với những
thành tố văn hóa khác, đây được coi là những thành tựu nổi trội của một dân tộc sớm có
chữ viết, có năng lực tư duy và khiếu thẩm mĩ được đánh giá cao trong cộng đồng các
dân tộc anh em Việt Nam.
Tóm lại, nền văn hóa của người Thái thể hiện rõ sự thích nghi, thích ứng của đồng
bào đối với địa bàn cư trú và những đặc điểm riêng trong lịch sử phát triển tộc người.

Trải qua quá trình xây dựng và phát triển lâu dài, chúng tạo thành “gen” văn hóa, thành
bản sắc văn hóa dân tộc. Chất “gen” ấy không chỉ ảnh hưởng và để lại dấu ấn đậm nét
trong trong lối sống, trong cách cảm, cách nghĩ, trong thói quen tư duy nghệ thuật của
riêng người Thái mà còn tạo ảnh hưởng lớn đến cả một vùng văn hóa Tây Bắc.
1.2. Loại hình tự sự trong văn học dân tộc Thái
1.2.1. Một số vấn đề lí thuyết về loại hình tự sự
1.2.1.1. Vấn đề phân loại trong văn học và khái niệm “loại hình tự sự”
Việc phân loại văn học luôn là vấn đề nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu. Lí luận văn học (LLVH) xưa nay đã biết đến nhiều cách phân loại khác nhau. Trong
đó, cổ xưa và phổ biến nhất là cách chia tác phẩm văn học ra làm ba loại là tự sự, trữ tình
và kịch. Người đầu tiên đề xuất sự phân chia này là Aristote trong công trình Nghệ thuật
thi ca của ông. Bàn về ba “phương thức mô phỏng” của thơ ca (tức nghệ thuật ngôn từ),
ông cho rằng: “Có thể mô phỏng bằng cùng một phương tiện và cùng một đối tượng bằng
cách kể về một sự kiện như về một cái gì tách biệt với mình như Homère đã làm, hoặc là
người mô phỏng tự nói về mình mà không thay đổi ngôi nhân xưng, hoặc trình bày tất cả
các nhân vật được mô phỏng bằng động tác và hoạt động của chúng” [3, tr. 23]. Các


12

“phương thức mô phỏng” mà Aristote vạch ra về sau được gọi là loại văn học. “Khái niệm
đó bao hàm các đặc điểm của các thuộc tính cả nội dung lẫn hình thức của tác phẩm văn
học nghệ thuật” [19, tr. 8]. Cách chia ba của Aristote được nhiều học giả sau này như
Hegel, Belinski,… tiếp tục kế thừa và phát triển. vỞ Việt Nam, cách “chia ba” cũng được
áp dụng phổ biến trong các giáo trình về VHDG hay LLVH.
Các tác giả cuốn Lí luận văn học (GS.TSKH. Phương Lựu chủ biên) áp dụng cách
chia ba, nhưng chọn trình bày bốn thể loại tiêu biểu: thơ trữ tình, kịch, tiểu thuyết và kí
[44, tr. 350]. Đây đồng thời cũng là cách chia của GS.TS Trần Đình Sử trong các sách
giáo khoa về văn viết cho Trung học phổ thông, các năm 1991, 1992. GS.TSKH Lê
Ngọc Trà gọi tên ba loại là: truyện, thơ và kịch. Theo đó, LHTS bao gồm các thể loại cơ

bản như: khúc ca anh hùng (anh hùng ca), trường ca, truyện (tiểu thuyết đoản thiên), tiểu
thuyết, truyện ngắn, ngụ ngôn,… [44, tr. 380].
Về cơ bản, cách “chia ba” được dựa trên những tiêu chuẩn phân loại tương đối nhất
quán. Đó là phân chia dựa vào các quy luật xây dựng hình tượng, phương thức phản ánh
đời sống của tác phẩm văn học. Trong đề tài, chúng tôi chọn phân loại này để tiếp cận
LHTS trong văn học dân tộc Thái. Bởi qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về nền văn
học dân tộc Thái nói chung, LHTS văn học dân tộc Thái nói riêng, chúng tôi nhận thấy,
đây là cách tiếp cận phù hợp và hiệu quả.
Về mặt thuật ngữ, “tự sự” là khái niệm được bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ, espos
có nghĩa là lời nói, lời kể. Dựa vào kết quả phân loại văn học như trên đã trình bày, tự
sự được hiểu là một trong những “phương thức tái hiện đời sống, bên cạnh hai phương
thức khác là trữ tình và kịch được dùng làm cơ sở để phân loại tác phẩm văn học” [23,
tr. 385]. Về phương diện thể loại văn học, trên cơ sở phương thức phản ánh tự sự đã
hình thành LHTS [23, tr. 386].
Theo quan điểm này, trong đề tài, khái niệm “loại hình” được dùng tương đương với
khái niệm “loại”, mang ý nghĩa là cấp độ lớn nhất trong phân chia văn học, gồm nhiều thể
loại. Thuật ngữ “loại hình” là cách dùng của tác giả các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi trong Từ điển thuật ngữ văn học [23, tr. 385,406],... Thuật ngữ “loại” là cách
dùng của các tác giả trong sách Lí luận văn học (Phương Lựu (chủ biên) [44, tr. 348],…
Như vậy, về mặt thuật ngữ, trong đề tài, thuật ngữ “loại hình tự sự” được chúng tôi sử
dụng có ý nghĩa tương đương với thuật ngữ “loại tự sự”, mang ý nghĩa là một loại hình văn
học, bên cạnh hai loại hình còn lại là trữ tình và kịch.
Nằm trong loại hình văn học, tác phẩm tự sự mang những đặc điểm riêng so với các
tác phẩm thuộc hai loại hình trữ tình và kịch.


13

Nếu như tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó thông qua
các sự kiện thì tác phẩm trữ tình phản ánh hiện thực trong sự cảm nhận chủ quan về nó.

Thế giới của TPTS là thế giới tồn tại bên ngoài người trần thuật, không phụ thuộc vào ý
muốn và tình cảm của họ. Tất cả những sự việc của đời sống được nhà văn kể lại như một
đối tượng khách quan ở bên ngoài mình. Bàn về điều này, Belinski viết: “Thơ tự sự chủ
yếu là thơ khách quan, bề ngoài cả trong quan hệ với chính nó, với nhà thơ và với cả
người đọc… Ở đây không thấy nhà thơ; thế giới được xác định một cách lập thể, tự nó
phát triển, và nhà thơ dường như chỉ là người trần thuật giản đơn những gì đã tự nó xảy
ra” (Dẫn theo [44, tr. 375]). Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm rằng, tính khách quan ở
đây chỉ mang nội dung tương đối. Về bản chất, đời sống khách quan được tái hiện lại
thông qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ, tức thông qua sự nhận thức, khái quát,
đánh giá, thể hiện mang tính chủ quan của nhà văn. Trong TPTS, nhà văn cũng thể hiện
tư tưởng và tình cảm của mình. Bởi vậy, tác phẩm văn học là sự thống nhất biện chứng
giữa tính chủ quan và tính khách quan. Nhấn mạnh tính khách quan của TPTS là trên cơ
sở đối sánh bản chất so với tác phẩm trữ tình, đồng thời được hiểu với nghĩa là nội dung
được phản ánh trong tác phẩm mang tính khách quan so với NKC. Tính khách quan
chính là nguyên tắc tái hiện đời sống của TPTS.
1.2.1.2. Các yếu tố cơ bản của cấu trúc tác phẩm tự sự
Ðể có cái nhìn khách quan, TPTS tập trung phản ánh đời sống qua các sự kiện, hệ
thống sự kiện. Sự kiện “là những sự việc xảy ra trong đời sống, là những hành động,
việc làm, những sự gặp gỡ... có khả năng làm bộc lộ bản chất nhân vật, thay đổi mối
quan hệ người và người, làm thay đổi cảm xúc, tình cảm, nhận thức, thậm chí số phận
nhân vật” [61, tr. 160]. Đó có thể là những biến cố, sự kiện bên ngoài, tức là phần tồn tại
vật chất với các việc làm, hành động cụ thể có thể thấy được, cũng có thể là những biến
cố, sự kiện bên trong bao gồm tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ.... Những biến cố, sự kiện bên
trong thường không được biểu hiện trực tiếp mà được xem như một đối tượng để đem ra
phân tích, nhận biết. Nhờ việc miêu tả cuộc sống qua các sự kiện, hệ thống sự kiện mà
TPTS mở ra một phạm vi hết sức rộng lớn trong việc miêu tả hiện thực khách quan.
Cốt truyện (plot) là "hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và
nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của
các tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch" [23, tr.99].
Về mặt cấu trúc, CTr thường có các thành phần cơ bản như: trình bày, thắt nút, phát

triển, cao trào, mở nút. Trật tự CTr thường được kể theo trật tự tuyến tính, theo dòng lịch
sử. Trong truyện tự sự hiện đại, năm thành phần cơ bản này có thế thiếu vắng một thành


×