Tải bản đầy đủ (.doc) (146 trang)

TÍCH hợp GIÁO dục đạo đức, lối SỐNG TRONG các môn học ở TIỂU học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.58 KB, 146 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

------------------

ĐINH HUYỀN PHƯƠNG

TÍCH HỢP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG
TRONG CÁC MÔN HỌC Ở TIỂU HỌC

Chuyên ngành: LL & PP giảng dạy Giáo dục Chính Trị
Mã số: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Trọng Hoàn

HÀ NỘI – 2014


LỜI CẢM ƠN
Lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tôi xin được gửi tới TS.
Nguyễn Trọng Hoàn là người thầy hướng dẫn trực tiếp của tôi. Trong
thời gian làm luận văn, tôi đã nhận được sự quan tâm, chỉ bảo, giúp
đỡ tận tình của thầy. Tôi học được ở thầy những kiến thức quý báu và
tác phong làm việc nghiêm túc, khoa học. Nhờ sự chỉ bảo của thầy tôi
thấy mình trưởng thành hơn rất nhiều. Em xin chúc thầy và gia đình
luôn hạnh phúc và thành công.
Tôi xin gửi lời cảm ơn và lời chúc sức khỏe tới thầy Chủ nhiệm
khoa TS. Đào Đức Doãn và các thầy cô giáo trong tổ phương pháp
giảng dạy khoa Giáo dục chính trị đã dạy dỗ và dìu dắt chúng tôi trong


thời gian học tập ở trường.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn tới Lãnh đạo và tập thể giáo
viên trường TH Kim Đồng- Quận Ba Đình- Hà Nội. Bạn bè và gia đình
đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình học tập cũng như
trong thời gian làm luận văn tốt nghiệp.
Tôi Xin chân thành cám ơn!


BẢNG KÍ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Giáo dục công dân

GDCD

2. Xã hội chủ nghĩa

XHCN

3. Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá

CNH-HĐH

4. Giáo dục và Đào tạo

GDĐT

5. Sách giáo khoa

SGK

6. Đại học


ĐH

7. Giáo sư, Tiến sĩ

GS. TS

8. Khoa học giáo dục

KHGD

9. Giáo viên

GV

10. Học sinh

HS

11.Giáo dục đạo đức

GDĐĐ

12. Tự nhiên xã hội

TNXH

13. Tiểu học

TH


14. Phương pháp dạy học

PPDH

15. Ngoài giờ lên lớp

NGLL

16.Thực nghiệm

TN

17. Đối chứng

ĐC


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển thì con người ngày càng hoàn thiện. Con
người hiện đại không chỉ hướng tới mục tiêu sở hữu tầm tri thức sâu rộng mà
hơn thế còn không ngừng rèn luyện về nhân cách để được sống thực sự, một
cuộc sống có chất lượng và hạnh phúc.
Thực tế đáng lo ngại trong xã hội hiện nay là tình trạng đạo đức của thế
hệ trẻ đang có nguy cơ xuống cấp. Học sinh rơi vào các tệ nạn xã hội: nghiện
ngập, cờ bạc, suy thoái đạo đức… Bạo lực học đường xẩy ra ở khắp nơi, ở

mọi cấp học, đáng chú ý là có những vụ việc học sinh nữ tự xử nhau gây sốt
trên mạng thời gian qua. Không thua kém gì các anh chị, ở lứa tuổi mầm non
các em đã biết chửi thề, bắt chiếc các hành vi nhạy cảm trong phim ảnh. Học
sinh tiểu học nói tục, xé bài vở trước mặt thầy cô khi bị điểm kém, vô lễ với
người lớn… những hành động đó khiến người ta không khỏi giật mình về
nhân cách và lối sống của thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại.
Ông cha ta thường nói: dạy con từ thủa còn thơ. Con người muốn có
nhân cách, lối sống tốt phải được giáo dục ngay từ khi mới sinh ra, đặc biệt là
giai đoạn đầu tiên ngồi trên ghế nhà trường. Ở lứa tuổi tiểu học, các em dễ
dàng học được những điều tốt và cũng dễ dàng nhiễm những thói hư, tật xấu.
Nếu ngay từ bậc học này, không có sự đầu tư quan tâm giáo dục đạo đức, lối
sống đúng đắn thì rất khó cho việc hình thành nhân cách người sau này.
Chính vì thế môn học đạo đức trong trường tiểu học có nhiệm vụ cung cấp
những tri thức cơ bản ban đầu về phẩm chất đạo đức của con người và rèn
luyện những hành vi ứng xử đúng đắn, những thói quen lành mạnh, đảm bảo
cho các em trở thành những người công dân tốt.

1


Từ năm 2008-2009 đến nay, các trường tiểu học trong cả nước đều
tham gia tích cực phong trào: học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh; đẩy mạnh cuộc vận động "Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương
đạo đức, tự học và sáng tạo" và phong trào thi đua "Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực". Đặc biệt, nội dung giáo dục đạo đức, lối sống
cho học sinh tiểu học đã có nhiều đổi mới: Giáo dục đạo đức, kỹ năng sống
cho học sinh thông qua các môn học được tăng cường; hoạt động giáo dục và
xây dựng quy tắc ứng xử văn hóa được đề cao. Nhà trường chủ động phối hợp
với gia đình và cộng đồng cùng tham gia chăm sóc, giáo dục đạo đức và kỹ
năng sống cho học sinh.

Bên cạnh những chuyển biến đáng mừng ấy thì việc giáo dục đạo
đức, lối sống ở cấp tiểu học hiện nay còn nhiều vấn đề tồn tại. Chương
trình sách giáo khoa quá ôm đồm, nặng về lý thuyết, thiếu quan tâm đến
những hành vi ứng xử thực tế, thời lượng dành cho môn học ít nên học sinh
không có thời gian thực hành. Các môn học trong trương trình quá tải làm
cho các em mệt mỏi, dẫn đến tâm lí chỉ chú trọng học môn văn hóa…Thực
trạng này làm cho việc giảng dạy đạo đức không phát huy được hiệu quả
của nó. Trong khi sự phát triển của đất nước thời kỳ hội nhập quốc tế đang
đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với hệ thống giáo dục, đòi hỏi nền
giáo dục phải đào tạo ra những con người "phát triển về trí tuệ, cường tráng
về thể lực, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức", trong đó giáo
dục đạo đức, lối sống ở bậc tiểu học có tính cốt lõi, nền tảng.
Tình hình đó đã đặt ra nhiệm vụ cấp bách cho những người làm công tác
giáo dục đó là: trong những năm tới, cần phải có sự đổi mới toàn diện môn Đạo
đức- GDCD ở cấp phổ thông nói chung và cấp tiểu học nói riêng để đáp ứng
yêu cầu xây dựng con người XHCN, phục vụ sự nghiệp CNH- HĐH đất nước.

2


Chiến lược phát triển giáo dục 2011- 2020 đã khẳng định: Đổi mới căn
bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa,
dân chủ hóa, hội nhập quốc tế, thích ứng với nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển giáo dục gắn với phát triển khoa học và
công nghệ, tập trung vào nâng cao chất lượng, đặc biệt chất lượng giáo dục
đạo đức, lối sống.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa
XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đưa ra mục tiêu cụ thể:
đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành
phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định

hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin
học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát
triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời.
Dự thảo Đề án xây dựng, triển khai chương trình, sách giáo khoa phổ
thông sau năm 2015 của Bộ Giáo dục và Đào tạo khẳng định: việc thực hiện
đổi mới chương trình và sách giáo khoa theo định hướng phát triển phẩm chất
và năng lực học sinh. Chương trình phải hướng tới phát triển các năng lực
chung mà mọi học sinh đều cần có trong cuộc sống đồng thời phát triển các
năng lực chuyên biệt liên quan đến từng lĩnh vực giáo dục/môn học/hoạt động
trải nghiệm sáng tạo.
Tạo điều kiện để học sinh được phát triển hài hòa cả thể chất và tinh
thần. Học sinh được giáo dục toàn diện đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ,
các kỹ năng cơ bản; được rèn luyện, phát triển các phẩm chất, năng lực cần
thiết và tiếp cận nghề nghiệp. Đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục
truyền thống cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực
hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội.
3


Trong hai ngày 10 và 11/8/2013, tại Hà Nội, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ
chức Hội thảo quốc gia về giáo dục Đạo đức- Công dân trong giáo dục phổ
thông Việt Nam. Với những kết luận quan trọng trong Hội thảo, sau 2015, bộ
môn Đạo đức ở tiểu học sẽ được biên soạn lại theo hướng tích hợp vào một
số môn học phù hợp. Môn học có ưu thế trong việc tích hợp đó là: Tiếng
Việt, Tự nhiên và Xã hội.
Trên đây là những căn cứ quan trọng để chúng tôi khẳng định rằng
việc đổi mới chương trình SGK nói chung, SGK Đạo đức- GDCD nói riêng
là hoàn toàn có cơ sở lí luận và thực tiễn. Trong đó điểm đặc biệt trong
trương trình đổi mới SGK Đạo đức- GDCD sau 2015 ở phổ thông là đổi mới

theo quan điểm tích hợp vào các môn học phù hợp.
Yêu cầu đặt ra hiện nay là chúng ta cần phải xây dựng được nội dung
chương trình, đề ra phương pháp tích hợp đạo đức, lối sống qua các môn học
khác đúng đắn, sáng tạo nhằm phát huy tối đa hiệu quả giáo dục, rèn luyện
nhân cách con người. Để góp phần nâng cao nhận thức và giải quyết vấn đề
trên, chúng tôi chọn đề tài: Tích hợp giáo dục đạo đức, lối sống trong các
môn học ở tiểu học” làm đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Trên thế giới
Tích hợp là một xu thế, một trào lưu dạy học và giáo dục phổ biến trên
thế giới trong nhiều thập kỷ qua. Quan niệm về tích hợp và giáo dục tích hợp
được nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu, các nhà sư phạm và các tổ chức quốc
tế quan tâm nghiên cứu.

4


Lý thuyết tích hợp là một triết lý (trào lưu suy nghĩ) được Ken Wiber
đề xuất. Lý thuyết tích hợp tìm kiếm sự tổng hợp tốt nhất của hiện thực “XưaPre-modern, nay- modem, và mai sau- postmodern”. Nó được hình dung như
là một lý thuyết về mọi sự vật và cung cấp một đường hướng kết hợp nhiều
mô thức rời rạc hiện tại thành một mạng hoạt động phức hợp, tương tác nội
tại của nhiều cách tiếp cận. Lý thuyết tích hợp đã được nhiều nhà thực hành lý
thuyết áp dụng trong hơn 35 lĩnh vực chuyên môn và học thuật khác nhau
“Esbjorn-Hargens, 2010”.
Tháng 9-1968 Hội đồng quốc gia về giảng dạy khoa học, với sự bảo trợ
của UNESCO đã tổ chức tại Varna (Bungari), “Hội nghị tích hợp việc giảng
dạy các khoa học”, Hội nghị này đặt ra hai vấn đề: Vì sao phải dạy học tích
hợp các khoa học? Dạy học tích hợp các khoa học là gì?
Tiếp theo UNESCO lại tổ chức Hội nghị đào tạo giáo viên để dạy học
tích hợp các khoa học vào tháng 4- 1973 tại ĐH tổng hợp Maryland.

Theo quan điểm chung qua 2 lần hội nghị của UNESCO thì: xu thế
phát triển của khoa học ngày nay là tiếp tục phân hoá sâu, song song với tích
hợp liên môn, liên ngành ngày càng rộng. Việc giảng dạy các khoa học trong
nhà trường phản ánh sự phát triển hiện đại của khoa học, bởi vậy không thể
cứ tiếp tục giảng dạy các khoa học như những lĩnh vực tri thức riêng rẽ. Mặt
khác ngày nay sự phối hợp tri thức đang gia tăng nhanh chóng mà thời gian
học tập trong nhà trường lại có hạn, do đó phải chuyển các môn học riêng rẽ
sang dạy các môn học tích hợp.
Đồng thời tại Hội nghị tháng 4-1973, UNESCO đã đưa ra khái niệm
dạy học tích hợp các khoa học còn bao gồm cả dạy học tích hợp các khoa
học với công nghệ học. Phương pháp dạy học tích hợp là gắn lí thuyết với
thực hành và nêu rõ mục tiêu của dạy học tích hợp dựa trên quan điểm của
Xaviers Roegirs.
5


Lý thuyết tích hợp được ứng dụng vào giáo dục trở thành một quan
điểm (một trào lưu tư tưởng) lý luận dạy học phổ biến trên thế giới hiện
nay. Xu hướng tích hợp còn gọi là xu hướng liên hội đang được thực hiện
trên nhiều bình diện, cấp độ trong quá trình phát triển các chương trình
giáo dục. Chương trình được xây dựng theo quan điểm tích hợp, trước hết
dựa trên quan điểm giáo dục nhằm phát triển năng lực người học (Xavier
Roegiers với cuốn “Khoa sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển
năng lực ở nhà trường”, (Đào Trọng Quang và Nguyễn Ngọc Nhị dịch),
Nhà xuất bản Giáo dục 1996).
Hội thảo quốc tế đón chào thế kỷ 21“Kết nối hệ thống tri thức trong
một thế giới học tập” với sự tham gia của gần 400 nhà giáo dục thuộc 18 quốc
gia được tổ chức từ ngày 6-8/12/2000 tại Manila (Philippines). Một trong
những nội dung chính được bàn luận sôi nổi tại hội thảo này là những con
đường và cách thức kết nối hệ thống tri thức hướng vào người học trong thời

đại thông tin.
2.2. Trong nước
Bàn về lý thuyết tích hợp và tích hợp giáo dục là mối quan tâm hàng
đầu của các nhà khoa học, nhà sư phạm. Chúng tôi xin nêu một số nghiên cứu
tiểu biểu trong những năm gần đây.
GS.TS Trần Bá Hoành có bài viết “Dạy học tích hợp” đăng trên Tạp
chí KHGD số 12 năm 2006 (Viện Khoa học giáo dục Việt Nam), đã nghiên
cứu: vì sao phải dạy học tích hợp các khoa học? Dạy học tích hợp các khoa
học là gì? Dạy học tích hợp như thế nào? điều kiện triển vọng để thực hiện
dạy học tích hợp trong trương trình giáo dục phổ thông ở nước ta hiện nay.

6


PGS.TS Cao Văn Sâm có bài viết Một số định hướng về dạy học tích
hợp (Hội giảng giáo viên dạy nghề toàn quốc 2006) đã đưa ra quan điểm: để có
thể thực hiện có hiệu quả triết lý đào tạo theo năng lực thực hiện thì việc trước
tiên các chương trình khung đào tạo nghề cần phải được tổ chức xây dựng (đối
với chương trình mới) và điều chỉnh (đối với chương trình cũ) theo đúng hướng
tiếp cận năng lực thực hiện mà bản chất là dạy nghề gắn kết giữa lí luận và thực
tiễn, giữa học với hành, giữa giáo dục đào tạo gắn liền với sản suất.
Hội thảo khoa học “Dạy học tích hợp ở tiểu học hiện tại và tương lai”,
Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh năm 2012 đã tổng kết 23 bài viết
của các nhà giáo, nhà khoa học bàn về: những thành tựu về nghiên cứu và tìm
hiểu lí luận dạy học tích hợp trên thế giới và Việt Nam; những thành tựu về
ứng dụng lí luận dạy học tích hợp vào thực tiễn xây dựng chương trình sách
giáo khoa, giáo trình, hoạt động giảng dạy; định hướng và giải pháp cho việc
gia tăng năng lực nghiên cứu và ứng dụng lí luận dạy học tích hợp vào dạy
học ở trường tiểu học và đào tạo giáo viên tiểu học trong tương lai.
PGS.TS Đào Thái Lai và TS Nguyễn Anh Dũng có bài viết “Đề xuất

phương án tích hợp và phân hoá trong giáo dục phổ thông sau 2015”, Tạp
chí giáo dục số 301, tháng 1/2013 đã đề xuất các phương án thực hiện tích
hợp các môn học ở phổ thông hiện nay như sau:
Thứ nhất là liên kết các nội dung có liên quan của các phân môn trong
một môn học.

7


Thứ hai là tích hợp trong phạm vi rộng, có hai hình thức: hình thức 1 là
tích hợp các kiến thức có liên quan tới hai lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội thành các môn học tích hợp; hình thức 2 là tích hợp nhưng vẫn giữ
hệ thống nội dung và tính đặc thù của môn học truyền thống và xây dựng các
chủ đề có tính chất liên môn, hoặc tổ chức các hoạt động/bài tập thực hành
theo dự án. Theo đó thì phương án tích hợp cụ thể ở tiểu học sau 2015 mà các
giả đưa ra là: tăng cường tính tích hợp trong nội bộ môn học Toán, Tiếng
Việt, Đạo đức, Tự nhiên và Xã hội (1, 2, 3). Đồng thời xây dựng hai môn học
mới ở lớp 4 và lớp 5 là môn Khoa học và công nghệ trên cơ sở môn Khoa học
và công nghệ (môn kỹ thuật). Môn Tìm hiểu xã hội trên cơ sở môn Lịch sử và
Địa lí các lớp 4 và lớp 5 trong chương trình hiện hành.
Gần đây nhất là Hội thảo khoa học Đạo đức- GDCD trong giáo dục phổ
thông Việt Nam do Bộ giáo dục và Đào tạo tổ chức vào tháng 8/2013 tại Hà
Nội. Hội thảo tập hợp rất nhiều bài viết của các nhà khoa học, nhà sư phạm
bàn về nội dung và phương pháp dạy học Đạo đức - GDCD theo quan điểm
đổi mới. Kết luận quan trọng mà Hội thảo đưa ra là: đổi mới chương trình
SGK Đạo đức- GDCD sau 2015 theo hướng tích hợp.
Tích hợp trong giáo dục từ lâu đã được các nước trên thế giới quan tâm,
nghiên cứu và ứng dụng, hiện nay trở thành xu thế giáo dục chung của các
quốc gia tiên tiên tiến. Ở nước ta trong những năm gần đây tích hợp giáo dục
đã trở thành đề tài nóng của các nhà nghiên cứu, được luận bàn nhiều ở các hội

thảo khoa học. Đặc biệt Bộ giáo dục và Đào tạo chỉ đạo chương trình đổi mới
sách giáo khoa sau 2015 là đổi mới dựa trên quan điểm tích hợp các môn học
Trên cơ sở kế thừa, tham khảo các công trình của những nhà nghiên
cứu trước đó, tác giả luận văn đi sâu nghiên cứu về nội dung và phương pháp
tích hợp môn Đạo đức, lối sống trong các môn học ở tiểu học, đây là vấn đề
hết sức mới mẻ, ở Việt Nam chưa có đề tài nào nghiên cứu đến.
8


3. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề tích hợp giáo dục
đạo đức, lối sống trong các môn học ở tiểu học.
- Đưa ra nội dung và những giải pháp thực hiện tích hợp nhằm đạt hiệu
quả giáo dục cao nhất.
- Thiết kế các giáo án thực nghiệm tích hợp đạo đức, lối sống trong các
môn học ở tiểu học, tiến hành thực nghiệm và đối chứng để kiểm tra tính hiệu
quả, khả thi của đề tài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực hiện tích hợp giáo dục đạo đức,
lối sống vào môn Tiếng Việt, môn Tự nhiên và Xã hội cho học sinh tiểu học.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu các bài học của môn
Tiếng Việt, môn Tự nhiên và Xã hội có khả năng phù hợp để thực hiện tích
hợp giáo dục đạo đức, lối sống.
+ Giới hạn phạm vi thực nghiệm: việc thực nghiệm được thực hiện tại
trường TH Kim Đồng- Quận Ba Đình- Hà Nội.
5. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả
5.1. Những luận điểm cơ bản
- Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề tích hợp giáo dục đạo

đức, lối sống trong các môn học ở tiểu học.
- Xây dựng nội tích hợp và đề xuất những giải pháp để thực hiện tích hợp
đạo đức, lối sống trong môn Tiếng Việt, môn Tự nhiên và Xã hội ở tiểu học
đạt hiệu quả.
5.2. Những đóng góp mới của tác giả
9


- Về mặt lí luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài đã góp phần bổ sung, hệ
thống hóa làm rõ một số vấn đề lí luận về dạy học tích hợp, về tầm quan trọng
của giáo dục Đạo đức, lối sống với học sinh tiểu học. Đặc biệt là khả năng
phù hợp để thực hiện tích hợp Đạo đức, lối sống qua môn Tiếng Việt, môn Tự
nhiên và Xã hội.
- Về thực tiễn:
+ Luận văn sau khi bảo vệ thành công sẽ góp phần vào việc đổi mới
nội dung chương trình SGK môn Đạo đức ở tiểu học theo quan điểm tích hợp
vào môn Tiếng Việt, môn Tự nhiên và Xã hội.
+ Đồng thời hệ thống các giải pháp mà luận văn đề xuất sẽ góp phần
tích cực và hiệu quả vào đổi mới phương pháp dạy học theo quan điểm tích
hợp trên cơ sở nội dung đã xây dựng
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nền tảng xuyên suốt quá trình nghiên cứu luận văn là
phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Các phương pháp nghiên cứu lí luận: phương pháp phân tích và tổng
hợp, phương pháp logic và lịch sử, phương pháp so sánh và hệ thống…
- Các phương pháp thực nghiệm
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm
+ Phương pháp điều tra, khảo sát, phỏng vấn
+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia

+ Phương pháp thống kê…
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:

10


- Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài.
- Chương 2: Nội dung và giải pháp tích hợp giáo dục đạo đức, lối sống
trong các môn học ở tiểu học.
- Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

11

.


NỘI DUNG

Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Những vấn đề chung về dạy học tích hợp
1.1.1.1. Quan niệm về tích hợp và dạy học tích hợp
Trong tiếng Anh, tích hợp được viết là “integration” một từ gốc Latin
(integer) có nghĩa là “whole” hay “toàn bộ, toàn thể”. Có nghĩa là sự phối hợp
các hoạt động khác nhau, các thành phần khác nhau của một hệ thống để bảo
đảm sự hài hòa chức năng và mục tiêu hoạt động của hệ thống ấy.
Theo Từ điển tiếng Pháp nghĩa của từ Tích hợp là: gộp lại, sát nhập vào

thành một tổng thể.
Theo Từ điển Tiếng Việt tích hợp là : sự hợp nhất, sự hòa nhập, sự kết hợp.
Theo Từ điển giáo dục học thì tích hợp là: hành động liên kết các đối
tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực
khác nhau trong cùng một kế hoạch giảng dạy. Kế hoạch giảng dạy ở đây cần
được hiểu trong một phạm vi rộng, từ kế hoạch giảng dạy của một chương
trình đến kế hoạch giảng dạy của một môn học, kế hoạch giảng dạy của bài
học. Cũng theo các tác giả của từ điển này thì có hai kiểu tích hợp là tích hợp
dọc và tích hợp ngang với nhiều nội dung tích hợp khác nhau.
Tích hợp dọc là: loại tích hợp dựa trên cơ sở liên kết hai hoặc nhiều môn
học thuộc cùng một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực gần nhau. Còn tích hợp ngang
là: tích hợp dựa trên cơ sở liên kết các đối tượng học tập, nghiên cứu thuộc các
lĩnh vực khoa học khác nhau xung quanh một chủ đề.

12


Từ định nghĩa như thế, một số nhà giáo dục đưa ra các nội dung tích
hợp như: tích hợp bộ môn, tích hợp chương trình, tích hợp giảng dạy, tích hợp
học tập, tích hợp kiến thức, tích hợp kỹ năng.
Theo từ điển Bách Khoa toàn thư [33] “Tích hợp hệ thống là phối hợp
các thiết bị và công cụ khác nhau để cùng làm một việc với nhau trong một hệ
thống - một chương trình nhằm giải quyết những nhiệm vụ chung nào đó”.
Trong lĩnh vực khoa học giáo dục, Theo Dương Tiến Sỹ “Tích hợp là
sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống các kiến thức( khái niệm) thuộc các
môn học khác nhau thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối
quan hệ về lý luận và thực tiễn được đề cập trong các môn học đó”.
Theo Xaviers Roegirs [11, 24] “Khoa sư phạm tích hợp là một quan
niệm về quá trình học tập trong đó toàn thể các quá trình học tập góp phần
hình thành ở học sinh những năng lực rõ ràng, có dự tính trước những điều

cần thiết cho học sinh nhằm phục vụ cho quá trình học tập tương lai, hoặc
hoà nhập học sinh vào cuộc sống lao động. Khoa sư phạm tích hợp làm cho
quá trình học tập có ý nghĩa”
Từ góc độ lý luận dạy học, theo Nguyễn Văn Khải [18] “Dạy học tích
hợp tạo ra các tình huống liên kết tri thức các môn học, đó là cơ hội phát
triển các năng lực của học sinh. Khi xây dựng các tình huống vận dụng kiến
thức, học sinh sẽ phát huy được năng lực tự lực, phát triển tư duy sáng tạo.”.
Dạy học tích hợp được UNESCO định nghĩa là “Một cách trình bày
các khái niệm và nguyên lí khoa học cho phép diễn đạt sự thống nhất cơ bản
của tư tưởng khoa học tránh nhấn qúa mạnh hoặc quá sớm giữa các lĩnh vực
khoa học khác nhau” (Hội nghị phối hợp trong trương trình của UNESCO,
Paris 1972).

13


Các định nghĩa trên nêu rõ mục đích của dạy học tích hợp là hình thành
và phát triển năng lực của người học đồng thời cũng nêu rõ, các thành phần
tham gia tích hợp là loại tri thức hoặc các thành tố của quá trình dạy học.
Như thế có thể định nghĩa dạy học tích hợp là: quá trình dạy học mà ở
đó các thành phần năng lực được tích hợp với nhau trên cơ sở các tình huống
cụ thể trong đời sống để hình thành năng lực của người học.
Từ những quan niệm trên đây có thể thấy tích hợp và dạy học tích hợp
là xu hướng cần thiết và quan trọng của thời đại khoa học công nghệ.
1.1.1.2. Các nguyên tắc tích hợp trong giáo dục đạo đức, lối sống
Trong những tài liệu nghiên cứu về nguyên tắc tích hợp giáo dục, người
ta thường đề cập đến ba nguyên tắc cơ bản sau:
- Tích hợp nhưng không làm thay đổi đặc trưng của môn học. Ở đề tài
này đang luận bàn về tích hợp đạo đức, lối sống. Như vậy khi thực hiện tích
hợp phải đảm bảo yêu cầu không biến bài học bộ môn thành bài học giáo dục

đạo đức, lối sống. Nghĩa là các kiến thức về đạo đức, lối sống được tiềm ẩn
trong nội dung bài học phải có mối quan hệ logic, chặt chẽ với các kiến thức
sẵn có về đạo đức, lối sống. Theo nguyên tắc này các kiến thức trong bài học
được coi như là cơ sở cho các kiến thức về đạo đức, lối sống.
- Khai thác nội dung giáo dục đạo đức, lối sống có chọn lọc, tập trung
vào chương, mục nhất định, không tràn lan, tùy tiện. Theo nguyên tắc này các
kiến thức giáo dục đạo đức, lối sống phải có hệ thống, được sắp xếp một cách
hợp lí. Làm cho kiến thức môn học thêm phong phú, sát với thực tiễn về đạo
đức, lối sống, tránh sự trùng lặp, thích hợp với trình độ của học sinh, không
gây quá tải làm ảnh hưởng đến việc tiếp thu nội dung chính.

14


- Phát huy cao độ tính tích cực nhận thức của học sinh và kinh
nghiệm thực tế của các em đã có, tận dụng tối đa mọi khả năng để học sinh
rèn luyện các hành vi đạo đức. Theo nguyên tắc này, các kiến thức giáo dục
đạo đức, lối sống đưa vào bài học phải phản ánh thực tế các sự việc diễn ra
trong cuộc sống, từ đó giúp các em thấy được vấn đề một cách cụ thể, trực
quan và sâu sắc.
Tuy nhiên để thực hiện tích hợp đạt hiệu quả ngoài những nguyên tắc
trên giáo viên cần phải:
- Dựa vào cấu trúc của chương trình: do đặc điểm của chương trình
môn Tiếng Việt, môn Tự nhiên và Xã hội được xây dựng theo cấu trúc đồng
tâm từ lớp dưới lên lớp trên nên trong quá trình tích hợp cần rà soát lại toàn
bộ các chủ đề có liên quan đến giáo dục đạo đức, lối sống có trong chương
trình để việc sắp xếp kiến thức về giáo dục đạo đức, lối sống theo một trình tự
hợp lý và logic, tránh sự trùng lặp, giảm hứng thú học tập của học sinh.
- Xác định nội dung những kiến thức được tích hợp sao cho:
+ Giúp học sinh khắc sâu kiến thức đạo đức, lối sống, mở mang thêm

những vấn đề mới mẻ. Có thời gian và điều kiện rèn luyện và thực hành các
kiến thức được học vào thực tiễn cuộc sống.
+ Khi tích hợp kiến thức đạo đức, lối sống cần phải được chọn lọc và
tinh giản cho phù hợp với thời lượng của môn học và phù hợp trình độ nhận
thức của học sinh.
1.1.1.3. Các hình thức tích hợp trong giáo dục đạo đức, lối sống
Căn cứ vào lý thuyết tích hợp, các nhà nghiên cứu đã đưa ra 3 hình
thức tích hợp sau:

15


- Hình thức tích hợp (Integration): Ở hình thức này một phần nội dung
của các môn học chính là nội dung giáo dục đạo đức, lối sống được đưa vào
chương trình và sách giáo khoa. Ở đây nội dung giáo dục đạo đức, lối sống có
thể là một chủ đề hay một số bài học trọn vẹn. Hình thức này còn được gọi là
mức độ tích hợp toàn phần.
Đối với những bài học lồng ghép giáo dục đạo đức, lối sống mức độ
này, giáo viên giúp học sinh hiểu, cảm nhận đầy đủ, sâu sắc nội dung bài học
chính là góp phần giáo dục trẻ một cách tự nhiên ý thức rèn luyện nhân cách.
Các bài học này là điều kiện tốt nhất để nội dung giáo dục đạo đức, lối sống
phát huy tác dụng đối với học sinh thông qua môn học.
- Hình thức lồng ghép (Infusion): Ở hình thức này một số kiến thức
của môn học cũng chính là kiến thức giáo dục đạo đức, lối sống được đưa vào
chương trình và sách giáo khoa theo các mức độ khác nhau.
+ Có thể chiếm một mục, một đoạn hay một vài câu trong bài học.
+ Có thể là các bài đọc thêm sau bài đọc chính nhằm bổ sung kiến thức
về giáo dục đạo đức, lối sống. Hình thức tích hợp này còn được gọi là mức độ
tích hợp bộ phận.
Khi dạy các bài học tích hợp ở mức độ này giáo viên cần lưu ý:

+ Nghiên cứu kỹ nội dung bài học
+ Xác định nội dung đạo đức, lối sống cần tích hợp là gì?
+ Nội dung giáo dục đạo đức, lối sống tích hợp vào nội dung nào, hoạt
động dạy học nào trong quá trình tổ chức dạy học?
+ Cần chuẩn bị thêm những đồ dùng dạy học gì?

16


Khi tổ chức dạy học, giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học bình
thường, phù hợp với hình thức tổ chức và phương pháp dạy học của bộ môn.
Trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học giáo viên giúp học sinh hiểu,
cảm nhận đầy đủ và sâu sắc phần nội dung bài học liên quan đến giáo dục đạo
đức, lối sống chính là góp phần giáo dục trẻ một cách tự nhiên về nhân cách,
lối sống. Giáo viên lưu ý khi lồng ghép, tích hợp phải thật nhẹ nhàng, phù
hợp, và phải đạt mục tiêu của bài học theo đúng yêu cầu của bộ môn
- Hình thức liên hệ (Permeation): Ở hình thức này các kiến thức về đạo
đức, lối sống không được nêu rõ trong sách giáo khoa, nhưng dựa vào kiến
thức bài học, giáo viên có thể bổ sung các kiến thức bằng cách liên hệ các
kiến thức về giáo dục đạo đức, lối sống vào bài giảng sao cho phù hợp.
Khi chuẩn bị bài dạy, giáo viên cần có ý thức tích hợp, chuẩn bị những
vấn đề gợi mở, liên hệ nhằm giáo dục học sinh hiểu, khắc sâu hơn về đạo đức,
lối sống.
Khi dạy học, giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học bình thường, phù
hợp với hình thức tổ chức và phương pháp dạy học của bộ môn.
Trong quá trình dạy - học, giáo viên hướng dẫn học sinh liên hệ, mở rộng
kiến thức về đạo đức, lối sống một cách thật tự nhiên, hài hoà, đúng mức, tránh
lan man, sa đà, gượng ép, không phù hợp với đặc trưng của môn học.
1.1.1.4. Mục tiêu của tích hợp trong giáo dục
- Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa


17


Tích hợp giáo dục làm cho quá trình học tập có ý nghĩa bằng cách đặt
các quá trình đó trong hoàn cảnh có ý nghĩa đối với học sinh. Do đó trong dạy
học tích hợp, các quá trình học tập không cô lập với cuộc sống hàng ngày mà
được tiến hành trong tình huống cụ thể mà học sinh gặp sau này, những tình
huống có ý nghĩa đối với học sinh. Không còn hai thế giới riêng biệt, thế giới
nhà trường và thế giới cuộc sống, trái lại người ta tìm cách hoà nhập thế giới
nhà trường vào thế giới cuộc sống.
Để làm cho quá trình học tập có ý nghĩa, dạy học tích hợp yêu cầu sự
đóng góp của nhiều môn học.
- Phân biệt cái cốt yếu và cái ít quan trọng hơn
Cần tránh đặt tất cả các quá tình học tập ngang bằng với nhau. Có rất
nhiều điều chúng ta dạy học sinh nhưng không thật có ích. Ngược lại có
những năng lực cơ bản không được dành đủ thời gian. Một số học sinh khi kết
thúc tiểu học không có khả năng đọc diễn cảm một bài thơ, bài văn.
Một quá trình học tập là quan trọng vì chúng có ích trong cuộc sống
hàng ngày hoặc vì chúng là cơ sở của quá trình học tập tiếp theo. Cần phải
nhấn mạnh các quá trình học tập đó. Ngược lại, có thể dành ít thời gian cho
quá trình học tập có tính nâng cao nếu chúng ta bị thúc ép bởi thời gian.
- Dạy sử dụng kiến thức trong tình huống
Tích hợp giáo dục cũng nhằm nêu bật các cách thức sử dụng kiến thức
mà học sinh đã lĩnh hội được. Thay vì việc bằng lòng nhồi đầy đầu học sinh
những kiến thức đủ loại, tích hợp giáo dục còn làm cho học sinh trở thành
công dân có trách nhiệm, người lao động có năng lực, người tự lập.
Do đó, phải giảng dạy sao cho các kiến thức không chỉ là lí thuyết, mà có
thể phục vụ rất cụ thể trong cuộc đời làm cha mẹ, làm người lao động, người
công dân.

18


Khi chúng ta đánh giá những điều học sinh đã lĩnh hội được, chúng ta
không chỉ bằng lòng với những kiến thức lĩnh hội được, mà chúng ta chủ yếu
tìm cách đánh giá học sinh có khả năng sử dụng các kiến thức trong tình huống
có ý nghĩa hay không. Đó là điều mà chúng ta gọi là năng lực hay mục tiêu tích
hợp.
- Lập mối liên hệ giữa các khái niệm đã học
Cuối cùng tích hợp giáo dục nhằm thiết lập mối qua hệ giữa các khái niệm
khác nhau của cùng một môn học cũng như của những môn học khác nhau.
Theo chiều hướng này, tích hợp giáo dục nhằm đáp lại một trong những
thách thức lớn của xã hội chúng ta là đảm bảo cho mỗi học sinh khả năng huy
động có hiệu quả những kiến thức và năng lực của mình để giải quyết một
cách hữu ích một tình huống xuất hiện và nếu có thể để đối đầu với một khó
khăn bất ngờ, một tình huống chưa từng gặp.
1.1.2 Quan niệm về đạo đức, lối sống
1.1.2.1. Vai trò của đạo đức, lối sống đối với việc hình thành nhân cách
* Quan niệm về đạo đức, giáo dục đạo đức
- Quan niệm về đạo đức
L.A Ilina tiếp cận khái niệm đạo đức với tư cách là những tiêu chuẩn,
những quy tắc xã hội, những chuẩn mực và hành vi của con người quyết định
nghĩa vụ, thái độ của con người đối với con người, con người đối với xã hội.
L.A Ilina đã đề cập đến hai vấn đề: Thứ nhất, những chuẩn mực đạo đức, quy
tắc đạo đức bên ngoài phản ánh những yêu cầu của xã hội đề ra đối với sự
hình thành và phát triển con người, điều chỉnh thái độ, hành vi giữa người với
người, con người với thế giới đồ vật xung quanh, với công việc và với chính
bản thân họ trong quá trình sống. Thứ hai những tiêu chuẩn đạo đức, quy tắc
đạo đức bên ngoài này được xác định trong mối quan hệ với hệ thống những
động cơ bên trong của con người.

19


Karol Vojtyla quan niệm: Nói tới đạo đức là bàn tới đời sống đạo đức
mà đời sống đạo đức đơn thuần là cuộc sống của con người, cá nhân và xã
hội, nếu xem xét nó dưới ánh sáng của những quy tắc đạo đức.
Theo từ điển triết học thì: Đạo đức là những quy tắc chung trong xã hội
và hành vi của con người, quy định nghĩa vụ của người này đối với người
khác và đối với xã hội.
Theo nhà nghiên cứu Phạm Minh Hạc: đạo đức là một hình thái ý thức
xã hội, tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh
cách đánh giá, hành vi ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan
hệ với xã hội, được thể hiện bằng niềm tin cá nhân, sức mạnh truyền thống và
sức mạnh dân tộc.
Tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt khẳng định: đạo đức nảy sinh từ
nhu cầu của xã hội, điều hoà và thống nhất các mâu thuẫn giữa lợi ích chung
và lợi ích riêng nhằm xây dựng trật tự xã hội, khả năng phát triển của xã hội
và cá nhân. Để giải quyết được những mâu thuẫn đó một trong những phương
thức của xã hội là đề ra các yêu cầu dưới dạng chuẩn mực giá trị được mọi
người công nhận và được củng cố bằng sức mạnh của phong tục, tập quán, dư
luận xã hội, bằng lương tâm con người đó là chuẩn mực đạo đức.

20


Tác giả Hà Nhật Thăng khẳng định: đạo đức cá nhân là một hệ thống
chuẩn mực được mỗi cá nhân lựa chọn, xác lập theo nguyện vọng mong muốn
của mình. Đạo đức cá nhân là sự tổng hợp của một nhóm đạo đức theo chuẩn
mực xã hội, của một cộng đồng dân tộc, và nguyện vọng riêng về các giá trị
phù hợp với quyền lợi của mỗi các nhân. Như vậy phạm trù đạo đức được tiếp

cận dưới góc độ là một yếu tố thành phần thuộc nhân cách con người, được
thể hiện trong chính cuộc sống, trong hoạt động của con người, đồng thời
cũng là yếu tố mà những người xung quanh nhìn nhận để đánh giá con người
như một nhân cách. Thực tế không tồn tại phạm trù đạo đức cá nhân thuần tuý
mà là sự giao thoa của nhiều chuẩn mực đạo đức, một thành phần bị chế ước
bởi những giá trị dân tộc, giá trị của thời đại, một phần chịu ảnh hưởng trực
tiếp của các chuẩn mực đạo đức của nhóm, của cộng đồng xã hội mà họ
thường xuyên giao lưu, hoạt động vì những quyền lợi kinh tế, tâm lý, tình
cảm… đồng thời mỗi cá nhân lại không thể sống tách rời cùng với gia đình,
hàng xóm, láng giềng… là một sản phẩm của tồn tại xã hội, đạo đức cũng
không ngừng biến đổi cùng với sự biến đổi của xã hội.
Các định nghĩa trên đều tập trung vào hai vấn đề:
Thứ nhất, các tác giả đều thống nhất cho rằng đạo đức là một tập hợp
các quan niệm xã hội mang tính nguyên tắc, chuẩn mực, chi phối thái độ và
hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ hai đạo đức được biểu hiện trong đời sống con người, trong thái
độ, nhận thức và hành vi mà con người thực hiện trong quá trình sống. Là hệ
thống các chuẩn mực xã hội được chuyển hoá trong đời sống cá nhân và
được thể hiện trong hoạt động, lao động và các mối quan hệ xã hội mà cá
nhân đó thực hiện.

21


×