Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

MỘT số GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN VIỆT NAM TRONG bối CẢNH hội NHẬP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.38 KB, 55 trang )

CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP

1


MỤC LỤC

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết

Nông nghiệp được xem là một trong những ngành chủ lực của nền kinh tế Việt
Nam, thế nhưng khả năng cạnh tranh nông sản trên sân nhà và cả thị trường quốc tế
vẫn còn khá thấp. Sản xuất nhỏ lẻ, chưa đầu tư về mặt công nghệ cũng như thiếu liên
kết với hệ thống thu mua là những yếu tố khiến giá nông sản luôn bấp bênh.
Là một nước có trên 70% dân số sống về nghề nông, chúng ta đã thấy rõ rằng
nếu ta không tạo được thị trường trong hoặc ngoài nước - nhất là thị trường quốc
nội - nông, ngư dân không thể làm giàu được và do đó nông nghiệp nước nhà không
thể tiến xa hơn nữa. Các nước chung quanh ta đã thấy vấn đề trước ta từ lâu, và
đang tiếp tục cải tiến phẩm chất và sản lượng nông thuỷ sản của họ. Thậm chí một
số nước không làm nông nghiệp, như Singapore hoặc Hồng Kông, đã nhập nguyên
liệu nông thủy sản của nước khác về chế biến lại theo tiêu chuẩn cao để tái xuất.
Như vậy một quốc gia sản xuất nông thủy sản với khối lượng lớn như Việt Nam
phải làm gì để có thị trường ổn định cho nông dân được nhờ?
Trong thời buổi cạnh tranh ngày càng gay gắt, người ta càng thấy vai trò của
việc phát triển thị trường càng trở nên bức thiết. Nông dân chúng ta có thể trồng
hầu hết mọi nông sản nhưng không thể tiêu thụ hết các sản phẩm vì không có thị


trường. Một nông dân cá thể chỉ có thể sản xuất theo kiểu tự cấp thì được, nhưng
muốn sản xuất hàng hoá thì phải kết hợp nhau lại để có thể sản xuất khối lượng lớn,
chất lượng cao, cung cấp đúng thời điểm, và giá phải cạnh tranh. Việc xác định mặt
hàng nào cần sản xuất phải được điều nghiên thị trường một cách khoa học và chu
đáo, không thể dựa vào mắt thấy láng giềng bán được rồi mình cũng bắt chước sản
xuất theo. Đối với một nước kém phát triển như ta, nông dân còn nghèo, phần lớn
các công ty tư nhân chưa phát triển, và phần lớn các công ty quốc doanh lại kém
năng động, Nhà nước cần phải có chính sách đồng bộ để tạo thị trường
Các nước chung quanh ta đã thấy vấn đề trước ta từ lâu, và đang tiếp tục cải
tiến phẩm chất và sản lượng nông thuỷ sản của họ. Thậm chí một số nước không
làm nông nghiệp, như Singapore hoặc Hồng Kông, đã nhập nguyên liệu nông thủy
sản của nước khác về chế biến lại theo tiêu chuẩn cao để tái xuất. Như vậy một
quốc gia sản xuất nông thủy sản với khối lượng lớn như Việt Nam phải làm gì để có
3


thị trường ổn định cho nông dân được nhờ?
Từ khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, các lĩnh vực sản xuất
ngày càng phát triển. Những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới, sản xuất nông
nghiệp của cả nước xuất phát từ nền sản xuất nhỏ, manh mún, tự cung tự cấp, dựa
trên những thói quen và kinh nghiệm truyền thống, không gắn với thị trường
Thực tế đang đặt ra nhiều thách thức về tính bền vững của phát triển toàn ngành
nông nghiệp như: tăng trưởng nông nghiệp trong thời gian qua chủ yếu vẫn dựa vào
tăng diện tích, tăng vụ và dựa trên thâm dụng các yếu tố đầu vào như lao động, vốn, vật
tư và nguồn lực tự nhiên…. Những vấn đề đặt ra đã đưa tới sự cần thiết phải tìm được
lối ra cho nông sản Việt Nam, chú trọng tính hiệu quả, tính bền vững, từ bỏ cách phát
triển theo chiều rộng, chi phí cao, kém hiệu quả và không bền vững
2. Mục tiêu nghiên cứu

Đưa ra một số giải pháp nhằm định hướng cho đầu ra thị trường nông sản

Việt Nam
Đánh giá những khó khăn trong tiêu thụ nông sản Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng :Thị trường nông sản Việt Nam
Phạm vi :
Không gian: Việt Nam
Thời gian: 2010- 2015
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp biện chứng lí luận, Thống kê
5. Kết cấu chuyên đề
3 chương
Chương I : Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển thị trường tiêu thụ
nông sản Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
Chương 2 : Thực trạng phát triển thị trường tiêu thụ nông sản ở Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập
Chương 3 : Phương hướng và giải pháp phát triển thị trường tiêu thụ
nông sản Việt Nam

4


CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ NÔNG SẢN VIỆT NAM TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP
1. Cơ sở lý luận
1.1 Các khái niệm

Nông sản
Nông sản là những sản phẩm hoặc bán thành phẩm của ngành sản xuất hàng
hóa thông qua gây trồng và phát triển của cây trồng

Thị trường
Thị trường là nơi người mua và người bán gặp nhau để trao đổi hàng hóa và
dịch vụ. Theo nghĩa hẹp, thị trường là một cái chợ có địa điểm nhất định để trao đổi
hàng hóa và dịch vụ. Thị trường cũng có thể được xác định bằng nhu cầu về sản
phẩm hoặc dịch vụ. Theo định nghĩa này, thị trường là một nhóm người có nhu cầu
và sẵn sàng trả tiền để thỏa mãn nhu cầu đó.
Thị trường nông sản
Cụm từ "thị trường nông nghiệp" được sử dụng với ngụ ý phạm trù thị
trường được sử dụng có liên quan đến nông nghiệp nông thôn. Về bản chất, thị
trường nông nghiệp nói chung được hiểu là một tập hợp những thoả thuận, dựa vào
đó mà các chủ thể kinh tế trong và ngoài ngành nông nghiệp có thể trao đổi được
các hàng hoá nông sản hay các dịch vụ cho nhau.
Hội nhập quốc tế
Là hiện tượng/hành vi các nước mở rộng và làm sâu sắc hóa quan hệ hợp tác
với nhau trên cơ sở phân công lao động quốc tế có chủ đích, dựa vào lợi thế của mỗi
nước và mục tiêu theo đuổi.
Phát triển thị trường
Phát triển thị trường sản phẩm của doanh nghiệp ngoài việc đưa sản phẩm
hiện tại vào bán trong thị trường mới còn bao gồm cả việc khai thác tốt thị trường
hiện tại, nghiên cứu dự báo thị trường đưa ra những sản phẩm mới đáp ứng đựoc
yêu cầu của thị trường hiện tại và thị trường mới.
Xuất khẩu
Trong thương mại quốc tế, xuất khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ ( có thể
là hữu hình hoặc vô hình) cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm cơ sở
5


thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là tiền của một trong hai nước hoặc cũng có thể là
tiền dùng trong thanh toán quốc tế của một nước thứ ba nào đó.
Nhập khẩu

Trong lý luận thương mại quốc tế, là việc quốc gia này mua hàng hóa và dịch
vụ từ quốc gia khác. Nói cách khác, đây chính là việc nhà sản xuất nước ngoài cung
cấp hàng hóa và dịch vụ cho người cư trú trong nước
1.2 Đặc điểm về sản xuất và tiêu thụ nông sản Việt Nam

1.2.1. Đặc điểm sản xuất nông sản
a. Sản xuất nông nghiệp nước ta phổ biến còn là sản xuất nhỏ
- Cần thấy hết những tồn tại, khó khăn của sản xuất nhỏ để quản trị kinh
doanh có hiệu quả. lấy ví dụ về ngành xuất khẩu gạo. các mô hình kinh doanh sản
xuất về lúa gạo của Việt nam, có rất nhiều khâu, qua nhiều trung gian và dẫn đến
ảnh hưỡng đến chất lượng và giá trị xuất khẩu.
Khi phân tích chuổi giá trị của ngành sản xuất, xuất khẫu gạo bắt đầu từ khâu
sản xuất, nông dân Việt nam, được chia đất với diện tích nhỏ, một gia đình nông
dân qua nhiều đời kinh doanh trên một diện tích, sau đó diện tích đó lại được phân
chia cho nhiều người con trong gia đình, diện tích trên mỗi hộ trồng lúa ngày một
nhỏ đi, do đó quá trình sản xuất lúa gạo ngày càng manh mún và nhỏ lẻ.
Ngành Nông nghiệp việt nam cần có sự phối hợp mang tính lợi ích cho các
khâu trong chuổi giá trị để làm ra các thương hiệu lớn, để thương hiệu này có thể
đứng vững nhờ chất lượng và uy tính thương hiệu, Nông nghiệp Việt Nam cần có
những công ty lớn có tầm nhìn đầu tư vào thương hiệu, để huy động mọi nguồn lực
của xã hội, trong đó sự can thiệp của nhà nước cần minh bạch và giúp cho mọi khâu
trong chuổi giá trị được công bằng, tạo ra động lực để phát triễn bền vững. Các
thương hiệu lớn này cần có sự đầu tư về chất lượng sản phẩm, uy tín thương hiệu và
đặc biệt đầu tư về truyền thông và phân phối ở các thị trường tiêu thụ lớn.Có như
vậy Nông nghiệp Việt nam mới phát triễn bền vững và tạo ra lợi thế cạnh tranh so
với các đối thủ khác trong khu vực
- Phải nhận thức đúng tính tất yếu của sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu trong

6



nền nông nghiệp hàng hoá và thực hiện tốt việc đổi mới tổ chức quản lý sản xuất
kinh doanh trong doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp quốc doanh và tập thể
theo chủ trương, chính sách của nhà nước. Quy hoạch sản xuất tổng thể trên toàn
quốc và cung cấp đầy đủ thông tin cho nông dân.
Sản xuất nông nghiệp luôn xảy ra tình trạng tự phát, làm theo phong trào như
cá ba sa; chưa giải quyết xong hậu quả dư thừa do phát triển quá mức lại lo thiếu
nguyên liệu vào vụ tới; phá cây ăn quả đồng bằng sông Cửu Long để trồng lúa, cà
phê, hồ tiêu... nông dân phải tự mầy mò, lựa chọn loại cây trồng, vật nuôi, giải pháp
kỹ thuật, thị trường bán sản phẩm. Nguyên nhân chính là do nông dân thiếu thông
tin. Hiện nay, cách tiếp cận thông tin chính của nông dân là qua đài, báo, truyền
hình, mạng lưới khuyến nông. Tuy nhiên, các thông tin này thường chỉ tập trung
vào kỹ thuật sản xuất, trong khi đó câu hỏi đầu tiên đặt ra cho các nhà sản xuất phải
là sản xuất cho ai, bao nhiêu? Sau đó mới là sản xuất như thế nào? Các thông tin bà
con nông dân tiếp cận được rất chung chung về nhu cầu và giá các sản phẩm cho
tiêu dùng nội địa và xuất khẩu, đại loại như “tới đây sẽ thiếu nguyên liệu cá ba sa”,
“nhu cầu của thị trường rất lớn”, “sẽ xuất khẩu sang thị trường EU”
b. Trong nông nghiệp nước ta, ruộng đất bình quân theo đầu người thấp, sức
lao động nông nghiệp nhiều nhưng phân bố không đều giữa các vùng và các miền
Đặc điểm này đòi hỏi các doanh nghiệp một mặt phải có những giải pháp mở
rộng các ngành sản xuất nông nghiệp, phát triển các ngành công nghiệp chế biến và
dịch vụ để sử dụng đầy đủ và hợp lý các yếu tố sản xuất, mặt khác phải tiến hành
cân đối lại lực lượng lao động để có thể rút ra lực lượng lao động dư thừa bổ sung
cho các ngành kinh tế quốc dân khác.
Khi sản xuất manh mún, mỗi hộ gia đình áp dụng giống lúa, phân bón và quá
trình trồng trọt khác nhau, dẫn đến chất lượng đầu vào không đồng đều, sau đó lại
được bán cho đối tượng trung gian chuyên đi mua để bán cho các nhà máy, các nhà
máy chỉ chuyên khâu mua lúa và bán cho các công ty xuất khẫu. như vậy chất lượng
đầu ra của các công ty xuất khẩu không đồng đều, các công ty này lại bán lại cho
các công ty chuyên làm nhiệm vụ xuất khẫu, bán cho một số đầu mối theo các hợp


7


đồng và hạn ngạch xuất khẫu theo các đơn đặt hàng chính phủ hoặc của các nước.
như vậy kinh doanh ngành lúa gạo Việt nam vừa manh mún lại vừa bị kiểm soát và
điều phối bởi các nhà xuất khẩu thuộc các công ty lớn với các hợp đồng chi phối
theo từng thương vụ.
c. Sản xuất nông nghiệp nước ta chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới ẩm
gió mùa
Nền nhiệt ẩm cao, khí hậu phân mùa tạo điều kiện cho chúng ta phát triển
nền nông nghiệp lúa nước, tăng vụ, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi. Cần tận dụng
mặt thuận lợi này để không ngừng nâng cao năng suất cây trồng và nhanh chóng
phục hồi lớp phủ thực vật trên đất trống bằng mô hình nông-lâm kết hợp.
-Tính chất thường của các yếu tố thời tiết và khí hậu gây khó khăn cho hoạt
động canh tác, cơ cấu cây trồng, kế hoạch thời vụ, phòng chống thiên tai, phòng trừ
dịch bệnh….trong sản xuất nông nghiệp.
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên cho phép nước ta phát triển

1.

một nền nông nghiệp nhiệt đới. • Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa: phân hóa rất rõ rệt
theo chiều Bắc Nam và theo chiều cao của địa hình có ảnh hưởng đến cơ cấu mùa
vụ và cơ cấu sản phẩm nông nghiệp. • VD: -Ở miền Bắc, vụ đông xuân là vụ chính,
tranh thủ lượng mưa vào cuối đông, đầu xuân -Ở miền Nam, vụ hè thu là vụ chính,
tránh lụt.
Nền nông nghiệp nhiệt đới • Sự phân hóa các điều kiện địa hình và đất trồng

2.


→ phải áp dụng các hệ thống canh tác khác nhau giữa các vùng. VD: Ở trung du và
miền núi, thế mạnh là các cây lâu năm và chăn nuôi gia súc lớn. Ở đồng bằng, thế
mạnh là các cây trồng ngắn ngày, thâm canh, tăng vụ và nuôi trồng thủy sản.
Nền nông nghiệp nhiệt đới Khó khăn: • Tính chất nhiệt đới gió mùa của thiên

3.

nhiên nước ta làm tăng thêm tính chất bấp bênh vốn có của nông nghiệp. Việc
phòng chống thiên tai, sâu bệnh hại cây trồng, dịch bệnh đối với vật nuôi luôn là
nhiệm vụ quan trọng.
4.

Nền nông nghiệp nhiệt đới trù phú

5.

Nền nông nghiệp nhiệt đới b. Nước ta đang khai thác ngày càng có hiệu quả

8


đặc điểm của nền nông nghiệp nhiệt đới. • Các tập đoàn cây, con được phân bố phù
hợp hơn với các vùng sinh thái nông nghiệp. • Cơ cấu mùa vụ có những thay đổi
quan trọng, với các giống ngắn ngày, chống chịu sâu bệnh và có thể thu hoạch trước
mùa bão, lụt hay hạn hán.
Nền nông nghiệp nhiệt đới • Tính mùa vụ được khai thác tốt hơn. Việc trao

6.

đổi nông sản giữa các vùng, nhất là giữa các tỉnh phía Bắc và các tỉnh phía Nam

ngày càng mở rộng có hiệu quả. • Đẩy mạnh sản xuất nông sản xuất khẩu (gạo, cà
phê, cao su, hoa quả…) là một phương hướng quan trọng để phát huy thế mạnh của
nông nghiệp nhiệt đới.
d. Hướng tới xuất khẩu
Thời gian qua, thị trường nông sản của Việt Nam không những ngày càng
đáp ứng tốt hơn thị trường trong nước, mà không ngừng mở rộng ra thị trường thế
giới. Theo số liệu của Viện Nghiên cứu Thương mại Bộ Công Thương, ngành nông
nghiệp nước ta tạo ra khoảng 20% GDP và thu hút trên 55% lao động cả nước, với
hàng chục triệu hộ nông dân, 10.500 hợp tác xã nông nghiệp và hơn 33.000 doanh
nghiệp, trong đó đã có 16 doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được
cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận. Việt Nam hiện có hàng chục mặt hàng
nông sản xuất khẩu chủ lực mang tầm vóc quốc tế, trong đó xuất khẩu hạt tiêu đứng
thứ nhất, gạo, cà phê, sắn đứng thứ 2, cao su đứng thứ 4, thuỷ hải sản đứng thứ 5,
chè đứng thứ 7 thế giới và nhiều mặt hàng khác.
Hướng đến sản xuất lớn và mở rộng thị trường
Nếu năm 2010, Việt Nam mới chỉ có 18 thị trường xuất khẩu đạt hơn 1 tỷ
USD, thì đến năm 2015 đã tăng lên 28 thị trường. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng
hoá của các thị trường hơn 1 tỷ USD chiếm gần 90% kim ngạch xuất khẩu chung
của cả nước. Tuy năm 2015 so với năm 2014, do khó khăn về thời tiết, nhu cầu và
giá cả thị trường khiến giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính đạt 14,04 tỷ
USD, giảm 1,9%; nhưng xuất khẩu nông nghiệp vẫn có nhiều điểm sáng tích cực,
tổng giá trị xuất siêu đạt 7,09 tỷ USD. Xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính đạt
7,23 tỷ USD, tăng 10,2%. Đặc biệt, có sự cải thiện cơ cấu theo hướng nâng cao tỷ lệ

9


thành phẩm cao cấp và ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất, bảo quản nông sản
xuất khẩu, tiêu biểu là trong 6,55 triệu tấn gạo xuất khẩu, thì gạo trắng cao cấp và
gạo thơm chiếm 47% (gạo trắng cao cấp chiếm gần 28,5%, tăng gần 36,5% và gạo

thơm chiếm gần 23%, tăng gần 18,5%). Xuất khẩu tiêu đạt 135.000 tấn, với giá trị
kim ngạch 1,26 tỷ USD, tuy giảm 13% về khối lượng, nhưng tăng 5% về giá trị.
Xuất khẩu điều đạt 328.000 tấn, tăng 8,3% và là năm đầu tiên đạt kim ngạch hơn
2,5 tỷ USD, tăng 20,2%. Điều này đã thể hiện đầu tư công nghệ chế biến và máy
móc thiết bị, năng xuất lao động từng bước được nâng cao.
Tại một số thị trường mới như Trung Đông, Singapo, lượng tiêu thụ điều
Việt Nam cũng tăng rất mạnh, đến gần 80%. Việt Nam hiện đang chế biến tới 50%
sản lượng điều xuất khẩu trên thế giới. Tuy vậy, nhu cầu xuất khẩu tăng, nhưng sản
lượng điều thô trong nước chỉ đáp ứng được 40% nên Việt Nam phải nhập khẩu tới
60% từ châu Phi, Indonesia về để chế biến. Một thuận lợi cho ngành điều Việt Nam
là hầu hết 11 nước thành viên TPP đều có nhu cầu cao nhập khẩu điều của Việt
Nam. Nếu theo đúng cam kết, khi thực thi TPP, thuế nhập khẩu điều vào các thị
trường này giảm từ 2 - 5% xuống còn 0%, sẽ giúp cho Việt Nam tăng sức cạnh
tranh về mặt hàng này.
Điểm đáng chú ý, trong sản xuất, chuỗi cung ứng trong tiêu thụ nông sản
ngày càng được quan tâm hơn. Vùng nông thôn đã từng bước hình thành tổ chức
sản xuất đa dạng như doanh nghiệp, kinh tế hợp tác, trang trại, làng nghề, kinh tế
hộ,… Đời sống, thu nhập của nông dân ngày càng được nâng cao hơn, khoảng cách
giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn giảm rõ nét. Ở nhiều nơi, đã xuất hiện một
số chuỗi cung ứng sản phẩm nông nghiệp như rau an toàn, bò sữa, hợp tác xã sản
xuất giống,… góp phần giảm chi phí, nâng cao giá trị gia tăng nông sản, ổn định sản
xuất và thị trường.
1.3 Đặc điểm về thị trường tiêu thụ nông sản Việt Nam

Những đặc điểm của thị trường nông sản gắn liền với những đặc điểm của
sản xuất nông nghiệp ,với sản phẩm nông nghiệp. Những đặc điểm đó là :

10



-

Sản phẩm nông nghiệp và TTNS mang tính chất vùng và khu vực
Đặc điểm này xuất phát từ đặc điểm của sản xuất nông nghiệp gắn chặt với
điều kiện tự nhiên mang tính chất vùng. Lợi thế so sánh và lợi thế tuyệt đối của các
vùng đó là yếu tố rất trong quan trọng trong việc lựa chọn hướng sản xuất kinh
doanh của cơ sở sản xuất kinh doanh và tổ chức hợp lý của quá trình tiêu thụ sản
phẩm . Có sản phẩm chỉ thích ứng với một vùng ,tiểu vùng và lợi thế có được coi

-

như là những đặc điểm mà các vùng khác , khu vực khác không có.
Tính chất mùa vụ của sản xuất nông nghiệp có tác động mạnh mẽ đến cung – cầu
của thị trường nông sản và giá cả nông sản . Sự khan hiếm dẫn đến giá cả cao vào
đầu vụ ,cuối vụ và sự dư thừa làm cho giá cả giảm vào chính vụ là biểu hiện của đặc
điểm này. Việc chế biến ,bảo quản và dự trữ sản phẩm là để đảm bảo cung cầu
tương đối ổn định là một yêu cầu cần được chú ý trong quá trình tổ chức tiêu thụ

-

sản phẩm.
Sản phẩm nông nghiệp rất đa dạng phong phú và trở thành nhu cầu tối thiểu hàng
ngày của mọi người ,với thị trường rất rộng lớn nên việc tổ chức tiêu thụ sản phẩm
phải hết sức linh hoạt . Sản phẩm cồng kềnh ,tươi sống, khó bảo quản chuyên chở
xa , vì vậy cần tổ chức các chợ nông thôn , các cửa hàng

lưu động và nhiều

lĩnh vực linh hoạt và thuận tiện cho người tiêu dùng , hoặc sơ chế trước khi đem đi
tiêu thụ , đồng thời phải sử dụng các phương tiện chuyên dụng riêng khi vận

-

chuyển,bảo quản.
Tình trạng độc quyền tương đối phổ biến trên thị trường nông nghiệp . Nền nông
nghiệp vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước chịu tác động
của quy luật cạnh tranh thị trường . Về lý luận có 2 loại cạnh tranh thị trường nông
nghiệp , đó là thị trường cạnh tranh hoàn hảo và thị trường cạnh tranh độc quyền .
Về mặt thực tiễn cho thấy ,không phải mọi thị trường đều có tính chất cạnh tranh
,mà ngược lại trong thị trường nông nghiệp ,độc quyền một người bán và độc quyền

-

một người mua là nét đặc trưng.
Thị trường Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào khu vực và thế giới
Môi trường thi trường hội nhập và mở cửa với điều kiện bên ngoài là điều
kiện thúc đẩy quá trình hội nhập của nông nghiệp Việt Nam với thế giới và khu
vực . Hiện nay chính phủ ta

11

đã cam kết trong các Hiệp định quốc tế với

lộ


trình xác định, gồm :
1/ Hiệp định tham gia AFTA : Năm 2006 thuế nhập khẩu đối với tất cả các
mặt hàng không vượt quá 5%
2/ Hiệp định thương mại Việt – Mỹ : Mặc dù được kí kết muộn hơn
(tháng7/2000) ,nhưng từ năm 2004 -2006 các doanh nghiệp mỹ được phép kinh

doanh nhập khẩu và phân phối một số sản phẩm ,trong đó có động vật sống ở thị
trường Việt Nam
3/ Nước ta đã chấp nhận yêu cầu tự do hóa thương mại của IMF và WB theo
hướng bỏ các hạn chế định lượng với AFTA trên cơ sở quy chế tối huệ quốc vào
năm 2003
.
1.4 Vai trò của phát triển thị trường tiêu thụ nông sản Việt Nam
Hoạt động sản xuất nông sản góp phần quan trọng vào việc đảm bảo nhu cầu
tiêu thụ hàng nông sản trong nước, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động.
Hoạt động xuất khẩu hàng nông sản đóng góp phần đáng kể vào việc tích luỹ
vốn cho quá trình công nghiệp hoá đất nước, giải quyết công ăn việc làm cho người
lao động, giảm bớt nhập siêu, giảm bớt căng thẳng trong cán cân thanh toán cũng
như nhu cầu ngoại tệ.
Hoạt động xuất khẩu hàng nông sản đã tác động trực tiếp đến đời sống của
người nông dân trên nhiều phương diện. Khi thực hiện xuất khẩu, một lượng hàng
nông sản dư thừa trên thị trường nội địa sẽ được giải quyết, lập lại quan hệ cung cầu
ở mức giá cao hơn, nông dân không những bán được nông sản mà còn bán được
giá. Hoạt động này làm cho nông dân có thu nhập cao hơn từ đó làm tăng sức mua
của dân cư trong thị trường nông thôn rộng lớn với 80% dân số. Đây chính là một
động lực thúc đẩy quá trình sản xuất trong nước.
Hoạt động xuất khẩu hàng nông sản sẽ khai thác tối đa lợi thế của Việt Nam
về điều kiện khí hậu, tài nguyên đất nước, nguồn nhân lực... Hơn nữa hiện nay
Đảng và nhà nước ta đang thực hiện xây dựng các mô hình kinh tế mới như kinh tế
trang trại, cao su tiểu điền, tổ hợp tác tự nguyện, hợp tác xã kiểu mới ... thì hoạt

12


động xuất khẩu nông sản càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, hoạt động này sẽ

góp phần quan trọng thúc đẩy các mô hình kinh tế mới phát triển.
Nông nghiệp là công cụ hiệu quả trong công tác giảm nghèo. Tăng trưởng
nông nghiệp có ảnh hưởng tích cực và mạnh tới công tác giảm nghèo tại tất cả các
quốc gia. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, tốc độ tăng trưởng GDP trong
nông nghiệp có hiệu quả giảm nghèo hơn gấp đôi so với tăng trưởng GDP của các
ngành khác. Cụ thể, tại Trung Quốc, hiệu quả giảm nghèo của tăng trưởng nông
nghiệp ước tính tăng gấp 3,5 lần so với mức tăng trưởng nhờ các ngành khác. Đối
với Mỹ La tinh là 2,7 lần. Tăng trưởng nông nghiệp nhanh ở Ấn Độ sau cuộc cách
mạng về giống cây trồng, vật nuôi và tại Trung Quốc nhờ cải cách thể chế và quản
lý trong nông nghiệp thông qua hệ thống khoán hộ và cải cách thị trường đã đưa đế
những thành tích giảm nghèo nông thôn rất đáng kể
Tại nhiều nước đang phát triển, nông nghiệp cho thấy là ngành dẫn đầu trong
tăng trưởng kinh tế. Điều này thể hiện: (i) Đối với các nước mà lương thực, thực
phẩm chưa phải là mặt hàng thương mại do chi phí giao dịch cao và các sản phẩm
nông sản địa phương đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tại chỗ nhưng lại không phải là mặt
hàng dễ bán. Vì vậy, những nước này đa phần vẫn phải tự túc lương thực. Trong
khi, năng suất nông nghiệp quyết định giá nông sản, lương thực thực phẩm, mà giá
lương thực lại quyết định chu phí tiền lương và tính cạnh tranh của các ngành có
khả năng thương mại khác. Vì thế, năng suất nông nghiệp nói chung và năng suất
ngành sản xuất lương thực thực phẩm chủ yếu là chìa khóa cho sự tăng trưởng (ii)
Trong quá trình đầu của công nghiệp hóa, lợi thế so sánh trong thương mại vẫn
thuộc về các ngành sản xuất thô (nông nghiệp và khai khoáng), sơ chế nông sản do
vẫn còn nguồn tài nguyên dồi dâo nhưng môi trường trường đầu tư khó khăn hơn so
với các ngành chế tạo. Để thu ngoại tệ, hầu hết các nước này đều phải dựa vào xuất
khẩu nông sản thô, nông sản sơ chế và khoáng sản, một phần từ du lịch. Vì vậy,
tăng trưởng cả phần thương mại và phi thương mại trong nông nghiệp sẽ hỗ trợ tăng
trưởng của các ngành khác trong nền kinh tế theo tác động cấp số nhân. Vì vậy, tại
hầu hết các nền kinh tế mà nông nghiệp còn đóng vai trò chi phối thì đẩy mạnh phát

13



triển nông nghiệp được coi là nền tảng của tăng trưởng kinh tế ở trong giai đoạn đầu
của quá trình phát triển. Thực tế đã chứng minh, tăng trưởng nông nghiệp chính là
yếu tố tiên phong của các cuộc cách mạng công nghiệp đã diễn ra trên thế giới (ở
Anh vào giữa thế kỹ XVIII và ở Nhật vào cuối thế kỷ XIX) và tốc độ tăng trưởng
nhanh của nông nghiệp tại một số quốc gia châu Á những năm gần đây như tại
Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam ... cũng đã tạo tiền đề cho phát triển công nghiệp.
Nông nghiệp có sức mạnh đặc biệt, làm cơ sở cho tăng trưởng cho thời kỳ đầu của
quá trình công nghiệp hóa tại nhiều nước trên thế giới.
Bản thân ngành nông nghiệp cũng đang thay đổi nhanh chóng. Nông nghiệp
phát triển và gắn kết với thị trường một cách năng động hơn; việc đổi mới tổ chức
quản lý và đổi mới công nghệ sản xuất đã mang lại tác động lâu dài cho tăng trưởng
nông nghiệp. Việc thay đổi vai trò của nhà nước, khu vực tư nhân và xã hội dân sự
đã mang lại những đặc điểm bối cảnh mới cho nông nghiệp. Nông nghiệp ngày nay
đang phát triển theo xu hướng chuỗi giá trị nông sản toàn cầu với sự liên kết mạnh
mẽ của các tác nhân tham gia trong chuỗi giá trị với vai trò đầu tàu của doanh
nghiệp trong kết nối nhà sản xuất với người tiêu dùng. Ngành nông nghiệp với các
nông sản chính và CIEM, Trung tâm Thông tin – Tư liệu 8 hàng hóa xuất khẩu
truyền thống cũng phải tìm kiếm thị trường mới vì nó càng trở nên khác biệt hóa
nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu thay đổi của người tiêu dùng và lợi ích từ hội nhập
thị trường. Tuy nhiên, nông nghiệp ngày nay cũng đang phải đối mặt với những
biến động lớn và khó dự đoán và cần phải thận trọng hơn trong đáp ứng nhu cầu về
an toàn vệ sinh thực phẩm. Tầm nhìn mới về nông nghiệp đối với phát triển cũng
đang xác định lại vai trò của khu vực tư nhân trong nông nghiệp. Trong nền nông
nghiệp truyền thống, sản xuất nông nghiệp chủ yếu được đảm nhận bởi các hộ gia
đình nông dân nhỏ lẻ và thường được coi là những nhà sản xuất có hiệu quả nhất,
đặc biệt khi họ có sự hỗ trợ từ các tổ chức. Nhưng khi những tổ chức này không thể
tranh thủ được hiệu quả kinh tế trong sản xuất và tiếp thị thì khi đó nông nghiệp
thương mại cần nhiều nhân công hơn lại chiếm ưu thế. Thị trường lao động công

bằng và hiệu quả là công cụ chính để giảm nghèo trong nông thôn. Khu vực tư nhân

14


thúc đẩy việc tổ chức các chuỗi giá trị hàng nông sản để các hộ sản xuất nhỏ tiếp
cận thị trường. Trong mối quan hệ này, nhà nước, thông qua việc tăng cường năng
lực và các hình thức quản lý mới để điều chỉnh những thất bại của thị trường, điều
tiết cạnh tranh và tham gia có tính chiến lược vào những quan hệ đối tác nhà nước –
tư nhân (PPP) nhằm thúc đẩy tính cạnh tranh trong kinh doanh nông nghiệp, hỗ trợ
ngày càng nhiều cho nông hộ nhỏ và người lao động ở nông thôn.
1.5. Nhân tố ảnh hưởng
1.5.1. Chất lượng sản phẩm, số lượng sản phẩm
Vấn đề lớn của nông nghiệp nước ta sau thời kỳ đổi mới là chất lượng nông
sản còn thấp, vì chủ yếu xuất khẩu nông sản thô, quy mô sản xuất nhỏ nên giá thành

cao, năng suất lao động thấp. Muốn tăng giá trị nông sản, cần cải tiến chất lượng
sản phẩm bằng cách phát triển các sản phẩm có xuất xứ địa lý, sản phẩm bảo đảm
tiêu chuẩn vệ sinh và an toàn thực phẩm quốc tế và sản phẩm hữu cơ. Để làm được
việc này, cần xây dựng một thể chế quản lý chất lượng nông sản đi đôi với việc phát
triển công nghiệp chế biến nông sản.
Thể chế thị trường nông sản, nếu chủ yếu chỉ dựa vào quan hệ nông dân doanh nghiệp theo kiểu hợp đồng nông nghiệp sẽ dẫn đến sự độc quyền của doanh
nghiệp chế biến và lưu thông. Nông dân, những người sản xuất trực tiếp vẫn chịu
nhiều thiệt thòi. Muốn giải quyết tình trạng này, phải phát triển các hợp tác xã bao
gồm cả hoạt động chế biến và buôn bán, lưu thông thì việc phân phối thu nhập mới
được công bằng. Nhà nước không thể trợ giúp nông dân thông qua các doanh
nghiệp nhà nước, vì thu lợi nhuận là mục tiêu chính và trước hết của doanh nghiệp,
bởi vậy, phải thực hiện các hỗ trợ của Nhà nước thông qua các dịch vụ công. Hiện
nay, các dịch vụ công phục vụ phát triển nông nghiệp còn yếu, đặc biệt các hộ
nghèo ít được hưởng lợi. Chúng ta đã xây dựng được một số hệ thống cung cấp dịch

vụ công do các tổ chức nông dân thực hiện cùng với Nhà nước và thị trường, cho
phép nâng cao hiệu quả của việc cung cấp dịch vụ cho nông dân, tới đây cần nhân
rộng các mô hình này.
Một vấn đề khác là, giá đầu vào của sản xuất nông nghiệp đang tăng mạnh,
15


giá nông sản không theo kịp, nông dân không còn hăng hái với sản xuất nông
nghiệp, lao động nông thôn đang bỏ ra đô thị kiếm việc làm, lao động nông nghiệp
đang bị nữ hóa, già hóa và chuyển từ thâm canh sang quảng canh, chăn nuôi và
nghề phụ đang bị giảm sút... Giá một số nông sản như lúa mì, ngô, đậu tương đang
tăng rất nhanh trên thị trường thế giới mà chúng ta vẫn nghĩ đến việc nhập khẩu,
không nhân cơ hội này để phát triển sản xuất trong nước. Nông thôn đang có xu
hướng quay trở về độc canh cây lúa, từ bỏ việc đa dạng hóa sản xuất. Trong điều
kiện này, chúng ta thiếu các biện pháp để chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao
động, thiếu biện pháp để tăng năng suất lao động. Tình trạng này sẽ dẫn đến nguy
cơ mất an ninh lương thực và thực phẩm như các nước công nghiệp mới ở Đông Á
và Đông Nam Á. Theo dự báo của các tổ chức quốc tế, trong thế kỷ XXI, thế giới sẽ
thiếu lương thực, đây có phải là một thời cơ cho chúng ta phát triển nông nghiệp
không?
Khoa học - kỹ thuật phục vụ nông nghiệp nước ta chưa phát triển. Các câu
hỏi của công nghệ nông nghiệp thế kỷ XXI như vấn đề hướng công nghệ sinh học
bảo đảm các nguy cơ đối với sức khỏe của con người và môi trường, vấn đề nông
nghiệp hữu cơ với dự báo sẽ chiếm lĩnh thị trường nông sản thế giới, vấn đề phòng
chống hiện tượng nóng lên của khí quyển, nước biển dâng cao làm ngập các đồng
bằng - vốn được coi là những vựa lúa của nước ta, vấn đề nông nghiệp chính xác áp
dụng công nghệ định vị, vấn đề nông nghiệp thẳng đứng hay không đất để giải
quyết vấn đề thiếu đất và bảo vệ môi trường..., hầu hết vẫn chưa tìm được câu trả
lời.
Các vấn đề biến đổi khí hậu và rủi ro trong nông nghiệp ngày càng tăng, mà

chúng ta chưa có các biện pháp bảo vệ nông nghiệp, chống thiên tai và rủi ro. Hệ
thống bảo hiểm chống thiên tai và rủi ro mặc dù phức tạp, nhưng không phải không
có cách thực hiện được.
Chúng ta cũng chưa có một chiến lược công nghiệp hóa nông nghiệp và nông
thôn, hiện đại hóa nông nghiệp như thế nào trong điều kiện đất ít, người đông, quy
mô sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp.

16


1.5.2. Cơ chế, chính sách
Xu hướng nổi bật trong thời đại ngày nay là sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng
nhiều hơn giữa các quốc gia và các khu vực trên thế giới trong quá trình phát triển
của từng quốc gia riêng biệt. Đối với nền kinh tế nói chung và nông nghiệp nói
riêng của nước ta, việc tăng cường khả năng cạnh tranh của nền nông nghiệp, từng
bước hội nhập vào thì trường khu vực và quốc tế là một đòi hỏi khách quan. Trong
điều kiện còn chênh lệch nhiều về qui mô và trình độ sản xuất, muốn tăng cường
khả năng cạnh tranh, từng bước hội nhập vào thị trường quốc tế hiện đang cạnh
tranh gay gắt và được bảo vệ bằng những hàng rào rất tinh vi của các quốc gia,
chúng ta cần phải:
- Củng cố và tăng cường vị trí vốn có ở các thị trường quen thuộcvà các bạn
truyền thống.
- Tích cực mở rộng và tạo thế đứng trên các thị trường mới.
- Tham gia nhiều hơn vào các hiệp định và công ước quốc tế có liên quan
đến kinh tế và thương mại.
- Sử dụng linh hoạt và có hiệu quả các công cụ kinh tế trong quan hệ ngoại
thương đối với các sản phẩm xuất nhập khẩu (nhập khẩu vật tư nông nghiệp và xuất
khẩu nông sản). Cần đặc biệt coi trọng những vấn đề sau đây:
+ Hoàn thiện việc xét và cấp quota xuất nhập khẩu, ngăn chặn những tiêu
cực có thể xảy ra trong việc xét và cấp quota. Sử dụng một cách khéo léo các công

cụ phi thuế phù hợp với thông lệ quốc tế.
+ Rà soát và hoàn thiện hệ thống thuế xuất nhập khẩu. Cần có chính sách bảo
hộ thoả đáng và phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết hội nhập của Đảng và
Nhà nước ta với các đối tác trên thế giới. Để tăng cường khả năng cạnh tranh của
các đơn vị tham gia xuất nhập khẩu các sản phẩm có liên quan đến nông nghiệp.
Trong điều kiện cho phép, mạnh dạn mở rộng quyền hoạt động xuất nhập khẩu cho
các doanh nghiệp không phải của nhà nước có đủ khả năng và điều kiện.

17


+ Điều hành tỷ giá hối đoái phù hợp và linh hoạt để thúc đẩy các quan hệ
buôn bán trên thị trường quốc tế.
- Thực hiện việc kiểm soát buôn bán tiểu ngạch và chống buôn lậu có hiệu
qủa.
1.5.3. Nhu cầu thị trường quốc
VN sẽ nằm trong khu vực sôi động của thị trường hàng nông sản thế giới, do



đó có điều kiện để tiếp cận thị trường và tăng cường buôn bán các sản phẩm nông
nghiệp với các thị trường khác;
Thị trường các nước đang phát triển không phải là những thị trường khó tính



và mức bảo hộ thấp sẽ mang lại những cơ hội tiếp cận thị trường tốt cho các sản
phẩm nông nghiệp VN;
Đồng thời với quá trình phát triển thị trường các sản phẩm nông sảnsẽ là việc




hình thành và phát triển thị trường công nghệ đáp ứng yêu cầu nâng cao năng suất,
chất lượng và hiệu quả các sản phẩm nông nghiệp của các nước đang phát triển.
Điều này sẽ tạo điều kiện cho VN tham gia thị trường công nghệ phục vụ sản xuất
nông nghiệp, đặc biệt trong môi trường có nhiều điểm tương đồng giữa các nước
trong khu vực.
Thị trường các nước đang phát triển là thị trường có thu nhập thấp có thể sẽ



làm giảm lợiích xuất khẩu hàng nông sản VN;
Các lợi thế tương đối của sản xuất nông nghiệp VN sẽ bị hạn chế do tính chất



tương đồng của các sản phẩm trong cùng một khu vực tự nhiên, mức chênh lệch về
giá lao động;
Đồng thời với khả năng tăng xuất khẩu là sức ép về tăng nhập khẩu hàng



nông sản nước ta;
Nếu không tiếp cận được các thị trường tiêu thụ trực tiếp và xây dựng chiến



lược sản phẩm thích hợp thì VN có nguy cơ trở thành nước xuất khẩu nguyên liệu
thô, ít qua chế biến sang các nước khác trong khu vực.
Thứ ba, trên thị trường thế giới đang diễn ra hướng gia tăng nhanh chóng giá

trị xuất nhập khẩu các sản phẩm như thịt chế biến, dầu mỡ, sữa của nhóm các nước
18


đang phát triển. Đây là cơ hội lớn để thúc đẩy ngành chăn nuôi trong nước, cải thiện
cơ cấu giá trị xuất khẩu hàng nông sản VN, đồng thời tạo ra khả năng chống lại sự
dao động cao của giá cả các sản phẩm trồng trọt, mang lại sự ổn định hơn cho sản
xuất nông nghiệp trong nước. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận thị trường nước ngoài
của các sản phẩm thịt chế biến của VN còn ở mức độ thấp so với yêu cầu thị trường
thế giới và so với sản phẩm của các nước khác trong khu vực, do đó, sẽ bất lợi lớn
nếu không có chiến lược phát triển sản phẩm này một cách thận trọng.
Thứ tư, xu hướng phát triển của thị trường nông sản thế giới sẽ chịu tác động
lớn của các cuộc thương lượng mậu dịch mang tầm quốc tế. VN sẽ phải đối mặt với
sản phẩm nông nghiệp của các nước thành viên trong tổ chức WTO cả ở thị trường
trong nước và nước ngoài. Những khó khăn về cạnh tranh thị trường xuất khẩu các
sản phẩm nông nghiệp VN sẽ lớn hơn khi mà sản xuất nông nghiệp vẫn trong tình
trạng lạc hậu, năng suất, chất lượng sản phẩm thấp, chi phí cao và nhất là sự yếu
kém của ngành công nghiệp chế biến.
Thứ năm, là sự dao động về giá cả các sản phẩm nông nghiệp trên thị trường
thế giới luôn ở mức độ cao và xảy ra thường xuyên, bởi nguyên nhân chủ yếu là sự
bất ổn định của sản xuất nông nghiệp (sự phụ thuộc vào thiên nhiên). Các sản phẩm
trồng trọt và sản phẩm thô có biên độ dao động cao hơn các sản phẩm chăn nuôi và
sản phẩm chế biến. Trong hoàn cảnh nông nghiệp VN vẫn còn nặng về các sản
phẩm trồng trọt, xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm thô, ít qua chế biến,sự tác động
của tính chất giá cả các sản phẩm nông nghiệp trên thị trường thế giới và các xu
hướng thứ sinh đối với sản xuất các sản phẩm nông nghiệp VN có phần không
thuận lợi. Xu hướng giảm giá diễn ra phổ biến ở hầu hết các mặt hàng nông sản chủ
yếu của nước ta như lúa, gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều và một số mặt hàng khác đã
gây ra tác động tiêu cực, đó là nông sản tồn đọng lớn, thu nhập của nông sản giảm
tương đối, kéo theo giảm sức mua thị trường nông thôn, giảm khả năng đầu tư vốn

của họ vào phát triển sản xuất nông sản. ở tầm vĩ mô, chỉ số giá lương thực, thực
phẩm giảm kéo theo xu hướng giảm sút của chỉ số giá và làm gia tăng tình trạng
giảm phát của toàn bộ nền kinh tế.

19


2. Cơ sở thực tiễn
2.1 Thái Lan

Thái Lan vốn là một nước nông nghiệp truyền thống với dân số nông thôn
chiếm khoảng 80% dân số cả nước. Để thúc đẩy sự phát triển bền vững nền nông
nghiệp, Thái Lan đã áp dụng một số chiến lược như: Tăng cường vai trò của cá
nhân và các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; đẩy mạnh phong trào
học tập, nâng cao trình độ của từng cá nhân và tập thể bằng cách mở các lớp học và
các hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn; tăng cường
công tác bảo hiểm xã hội cho nông dân, giải quyết tốt vấn đề nợ trong nông nghiệp;
giảm nguy cơ rủi ro và thiết lập hệ thống bảo hiểm rủi ro cho nông dân.
Đối với các sản phẩm nông nghiệp, Nhà nước đã hỗ trợ để tăng sức cạnh
tranh với các hình thức, như tổ chức hội chợ triển lãm hàng nông nghiệp, đẩy mạnh
công tác tiếp thị; phân bổ khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách khoa học và
hợp lý, từ đó góp phần ngăn chặn tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi và kịp thời
phục hồi những khu vực mà tài nguyên đã bị suy thoái; giải quyết những mâu thuẫn
có liên quan đến việc sử dụng tài nguyên lâm, thủy hải sản, đất đai, đa dạng sinh
học, phân bổ đất canh tác. Trong xây dựng kết cấu hạ tầng, Nhà nước đã có chiến
lược trong xây dựng và phân bố hợp lý các công trình thủy lợi lớn phục vụ cho
nông nghiệp. Hệ thống thủy lợi bảo đảm tưới tiêu cho hầu hết đất canh tác trên toàn
quốc, góp phần nâng cao năng suất lúa và các loại cây trồng khác trong sản xuất
nông nghiệp. Chương trình điện khí hóa nông thôn với việc xây dựng các trạm thủy
điện vừa và nhỏ được triển khai rộng khắp cả nước…

Về lĩnh vực công nghiệp phục vụ nông nghiệp, chính phủ Thái Lan đã tập
trung vào các nội dung sau: Cơ cấu lại ngành nghề phục vụ phát triển công nghiệp
nông thôn, đồng thời cũng xem xét đến các nguồn tài nguyên, những kỹ năng truyền
thống, nội lực, tiềm năng trong lĩnh vực sản xuất và tiếp thị song song với việc cân
đối nhu cầu tiêu dùng trong nước và nhập khẩu.
Thái Lan đã tập trung phát triển các ngành mũi nhọn như sản xuất hàng nông

20


nghiệp, thủy, hải sản phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp chế biến
nông sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, nhất là các nước công nghiệp phát
triển. Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm ở Thái Lan phát triển rất mạnh nhờ
một số chính sách sau:
- Chính sách phát triển nông nghiệp: Một trong những nội dung quan trọng
nhất của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2000-2005 là kế hoạch cơ cấu
lại mặt hàng nông sản của Bộ Nông nghiệp Thái Lan, nhằm mục đích nâng cao chất
lượng và sản lượng của 12 mặt hàng nông sản, trong đó có các mặt hàng: gạo, dứa,
tôm sú, gà và cà phê. Chính phủ Thái Lan cho rằng, càng có nhiều nguyên liệu cho
chế biến thì ngành công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm mới phát triển và
càng thu được nhiều ngoại tệ cho đất nước. Nhiều sáng kiến làm gia tăng giá trị cho
nông sản được khuyến khích trong chương trình Mỗi làng một sản phẩm và chương
trình Quỹ làng.
- Chính sách bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm: Chính phủ Thái Lan
thường xuyên thực hiện chương trình quảng bá vệ sinh an toàn thực phẩm. Năm
2004, Thái Lan phát động chương trình “Năm an toàn thực phẩm và Thái Lan là bếp
ăn của thế giới”. Mục đích chương trình này là khuyến khích các nhà chế biến và
nông dân có hành động kiểm soát chất lượng vệ sinh thực phẩm để bảo đảm an toàn
cho người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó, Chính phủ thường
xuyên hỗ trợ cho doanh nghiệp cải thiện chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Do

đó, ngày nay, thực phẩm chế biến của Thái Lan được người tiêu dùng ở các thị
trường khó tính, như Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU, chấp nhận.
- Mở cửa thị trường khi thích hợp: Chính phủ Thái Lan đã xúc tiến đầu tư,
thu hút mạnh các nhà đầu tư nước ngoài vào liên doanh với các nhà sản xuất trong
nước để phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, thông qua việc mở cửa
cho các quốc gia dù lớn hay nhỏ vào đầu tư kinh doanh. Trong tiếp cận thị trường
xuất khẩu, Chính phủ Thái Lan là người đại diện thương lượng với chính phủ các
nước để các doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu thực phẩm

21


chế biến. Bên cạnh đó, Chính phủ Thái Lan có chính sách trợ cấp ban đầu cho các
nhà máy chế biến và đầu tư trực tiếp vào kết cấu hạ tầng như: Cảng kho lạnh, sàn
đấu giá và đầu tư vào nghiên cứu và phát triển; xúc tiến công nghiệp và phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Xúc tiến công nghiệp là trách nhiệm chính của Cục Xúc
tiến công nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp, nhưng việc xúc tiến và phát triển công
nghiệp chế biến thực phẩm ở Thái Lan do nhiều cơ quan cùng thực hiện. Chẳng
hạn, trong Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã, cùng với Cục Xúc tiến nông nghiệp, Cục
Hợp tác xã giúp nông dân xây dựng hợp tác xã để thực hiện các hoạt động, trong đó
có chế biến thực phẩm; Cục Thủy sản giúp đỡ nông dân từ nuôi trồng, đánh bắt đến
chế biến thủy sản. Cơ quan Tiêu chuẩn sản phẩm công nghiệp thuộc Bộ Công
nghiệp xúc tiến tiêu chuẩn hoá và hệ thống chất lượng; Cơ quan Phát triển công
nghệ và khoa học quốc gia xúc tiến việc áp dụng khoa học và công nghệ cho chế
biến; Bộ Đầu tư xúc tiến đầu tư vào vùng nông thôn.
2.2 Nhật Bản

Xuất nhập khẩu nông sản, Nhật Bản là nước dẫn đầu thế giới, ước tính chiếm
18% thị phần thương mại nông sản của toàn cầu.Từ năm 1960 đến năm 2014, Nhật
Bản luôn thặng dư về thương mai các sản phẩm nông nghiệp, ví dụ như xuất khẩu

nông sản năm 2014 ước tính đạt 149.5 tỷ đô la, chiếm hơn 10% tổng số kim ngạch
xuất khẩu tất cả các mặt hàng và thặng dư mậu dịch nông nghiệp lên đến hơn 38.5
tỷ đô la Mỹ.
Trong những năm gần đây, giá trị thị trường của sản lượng nông nghiệp Nhật
Bản đã đạt hơn 200 tỷ đô-la, bao gồm 45 tỷ đô-la từ thịt gia súc và da bò; gần 40 tỷ
đô-la từ các loại hạt như ngô, lúa mì và các loại hạt dầu như đậu nành; gần 24 tỷ đôla từ gia cầm và trứng; 20 tỷ đô-la từ sữa và các sản phẩm bơ sữa và 12 tỷ đô-la từ
cừu và lợn. Mặc dù Nhật Bản luôn trong tình trạng thâm hụt thương mại nhưng lại
thặng dư trong thương mại nông sản. Sản phẩm nông nghiệp có giá trị xuất khẩu
lớn, khoảng 75 - 80 tỉ USD mỗi năm. Theo số liệu năm 2014, Nhật Bản xuất khẩu
98,45 tỷ đô-la, trong năm 2015 giá trị xuất khẩu của nhóm mặt hàng này đạt 103,12
tỷ USD, trong đó, phần lớn nhất được xuất sang các nước Châu Á, mặc dù Canada

22


và Mêhicô là hai thị trường có đóng góp lớn nhất trong sự tăng trưởng mới đây của
xuất khẩu nông sản. Khoảng ¼ sản lượng đầu ra của các nông trại Nhật Bản được
xuất khẩu. Các sản phẩm nông nghiệp chính của Hoa Kỳ gồm lúa mỳ, các loại ngũ
cốc khác, ngô, hoa quả, bông, thịt bò, thịt lợn, gia cầm, sản phẩm sữa, lâm sản, cá.
Sở dĩ nền nông nghiệp Nhật Bản phát triển như vậy là nhờ có chính sách hỗ
trợ nông nghiệp của chính phủ ngày từ thời kỳ đầu. Chính phủ đã đưa ra các chính
sách ủng hộ sự phát triển của nông nghiệp, chính sách bảo tồn, dưỡng đất dự trữ.
Hiện nay, chính phủ đang chú trọng đến xuất khẩu nông sản, và đặc biệt quan tâm
đến tính vững bền của lực lượng lao động nông nghiệp…Chính nhờ các chính sách
hỗ trợ một cách hiệu quả này đã mang lại cho ngành nông nghiệp Nhật Bản một kết
quả tốt đẹp như ngày hôm nay. Cùng với đó là tính tự chủ và sáng kiến của nông
dân. Họ có tính tự chủ rất cao, cần cù, sáng tạo, kiên nhẫn và đầy nhiệt huyết. Năm
1790 nông dân Nhật chiếm 90% dân số. Số lượng nông dân giảm liên tiếp qua thời
gian, đến năm 1920, nông dân Nhật chiếm 30.8% tổng dân số, đến năm 1960, họ
chiếm 8,3% tổng dân số và đến thời điểm năm 2014, ước tính số lượng nông dân

Nhật thực sự hoạt động trên đồng ruộng chỉ chiếm khoảng 1% trong tổng số toàn
dân Nhật. Nông dân Nhật sử dụng máy móc rất thành thạo, có trình độ hiểu biết cao
về nông nghiệp và kinh tế, nhiều người có bằng đại học. Họ chú trọng vào việc cải
thiện kỹ thuật trồng trọt, kỹ thuật chăn nuôi gia súc dẫn đến sản lượng nông nghiệp
tăng mạnh. Hình ảnh người nông dân Nhật ngày nay là hình ảnh của người công
nhân nông nghiệp. Họ hay mặc quần jean, áo carô màu, sống trong những khu vực
đầy đủ tiện nghi. Thu nhập của người làm nghề nông ở Nhật khá cao, mức lương
trung bình hiện nay của một công nhân nông nghiệp Nhật là 61.000 đô la/năm. Tính
trên hộ gia đình thì thu nhập trung bình của một gia đình nông dân năm 1960 là
4.654 đô la, đến năm 2012 thì thu nhập trung bình là 108.814 đô la, tăng 23,38 lần
trong thời gian 52 năm. Cuối cùng là việc áp dụng phương tiện và kỹ thuật hiện đại
trong sản xuất nông nghiệp. Với diện tích đất canh tác rộng lớn nên việc áp dụng
các phương tiện và kỹ thuật hiện đại trong sản xuất nông nghiệp đã khiến cho năng
suất lao động tăng mạnh. Bên cạnh đó, mặc dù có những đợt lũ lụt và hạn hán
nhưng nhìn chung lượng nước mưa tương đối đấy đủ, nước sông và nước ngầm cho
phép tưới tiêu tại các tiểu bang thiếu nước. Vùng đất phía Tây thuộc miền Trung

23


nước Nhật có đất đai canh tác màu mỡ. Chính vì vậy khi đến Nhật, người ta thường
thấy những cánh đồng ngô, đậu nành, lúa mì, cam, cánh đồng cỏ, rộng mênh mông,
xanh tươi, bát ngát.
2.3 Bài học kinh nghiệm

Thành công
Nhìn lại ngành nông nghiệp Việt Nam, cho đến thời điểm này, năng suất lao
động trong ngành nông nghiệp của Việt Nam luôn thấp nhất trong nhóm các nước
có mức thu nhập trung bình thấp và không thể bắt kịp được năng suất lao động của
các nước này kể từ năm 2005. Trong khi đó, năng suất lao động của ngành nông

nghiệp lại đang có xu hướng chững lại, hiện chỉ bằng 1/3 so với năng suất chung
của cả nước.
Theo thông tin từ Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông
thôn (IPSARD), giá trị gia tăng nông nghiệp trên mỗi lao động của Việt Nam năm
2011 đạt chưa tới 400 USD/người, thấp hơn cả Lào và Campuchia. Mặc dù nông
nghiệp cũng là lĩnh vực duy nhất của Việt Nam luôn có xuất siêu trong nền kinh tế.
Trong vòng gần 3 thập niên, nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng đều đặn, đưa Việt
Nam trở thành nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới với các sản phẩm như gạo,
tiêu, điều, sắn, chè, cao su.
Thái Lan hái Lan đã áp dụng một số chiến lược như: Tăng cường vai trò các
cá nhân và các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; đẩy mạnh phong trào
học tập, nâng cao trình độ của từng cá nhân và tập thể bằng cách mở các lớp học và
các hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn; tăng cường
công tác bảo hiểm xã hội cho nông dân, giải quyết tốt vấn đề nợ trong nông nghiệp;
giảm nguy cơ rủi ro và thiết lập hệ thống bảo đảm rủi ro cho nông dân. Đối với các
sản phẩm nông nghiệp, Nhà nước đã hỗ trợ để tăng sức cạnh tranh với hình thức
như: Tổ chức hội chợ triển lãm hàng nông nghiệp, đẩy mạnh công tác tiếp thị…
Ngoài ra, Nhà nước Thái Lan còn tính toán phân bổ khai thác tài nguyên thiên nhiên
một cách khoa học và hợp lý, từ đó góp phần ngăn chặn tình trạng khai thác tài
nguyên bừa bãi và kịp thời phục hồi những khu vực mà tài nguyên đã bị suy thoái;
Giải quyết tốt những mâu thuẫn về tư tưởng trong nông dân có liên quan đến việc
sử dụng tài nguyên lâm, thủy hải sản, đất đai, đa dạng sinh học, phân bổ đất canh

24


tác. Về xây dựng kết cấu hạ tầng, Nhà nước đã có chiến lược trong xây dựng và
phân bố hợp lý các công trình thủy lợi lớn phục vụ cho nông nghiệp. Hệ thống thủy
lợi bảo đảm tưới tiêu cho hầu hết đất canh tác trên toàn quốc, góp phần nâng cao
năng suất lúa và các loại cây trồng khác trong sản xuất nông nghiệp. Chương trình

điện khí hóa nông thôn với việc xây dựng các trạm thủy điện vừa và nhỏ được triển
khai rộng khắp cả nước…
Về lĩnh vực công nghiệp phục vụ nông nghiệp, Chính phủ Thái Lan đã tập
trung vào các nội dung sau: Cơ cấu lại ngành nghề phục vụ phát triển công nghiệp
nông thôn, đồng thời cũng xem xét đến các nguồn tài nguyên, những kỹ năng truyền
thống, nội lực, tiềm năng trong lĩnh vực sản xuất và tiếp thị song song với việc cân
đối nhu cầu tiêu dùng trong nước và nhập khẩu.
Cụ thể, Thái lan đã tập trung phát triển các ngành mũi nhọn như sản xuất
hàng nông, thủy hải sản phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp chế biến
nông sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, nhất là các nước công nghiệp phát
triển. Ngành Công nghiệp chế biến thực phẩm ở Thái Lan phát triển rất mạnh nhờ
một số chính sách sau:
- Chính sách phát triển nông nghiệp: Một trong những nội dung quan trọng
nhất của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2000-2005 là kế hoạch cơ cấu
lại mặt hàng nông sản của Bộ Nông nghiệp Thái Lan, nhằm mục đích nâng cao chất
lượng và sản lượng của 12 mặt hàng nông sản, trong đó có các mặt hàng: gạo, dứa,
tôm sú, gà và cà phê. Chính phủ Thái Lan cho rằng, càng có nhiều nguyên liệu cho
chế biến thì ngành Công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm mới phát triển và
càng thu được nhiều ngoại tệ cho đất nước. Nhiều sáng kiến làm gia tăng giá trị cho
nông sản được khuyến khích trong chương trình “One Tambon, One Product OTOP” (mỗi làng, một sản phẩm) và chương trình quỹ làng (Village Fund
Program).
- Chính sách đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, Chính phủ Thái Lan
thường xuyên thực hiện chương trình quảng bá vệ sinh an toàn thực phẩm. Năm
2004, Thái Lan phát động chương trình “Năm an toàn thực phẩm và Thái Lan là bếp
ăn của thế giới”. Mục đích chương trình này là khuyến khích các nhà chế biến và
25


×