Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Luận văn Nhân vật trí thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (930.51 KB, 126 trang )

Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Antôn Pavlôvits Sêkhôp (1860-1904) là đại biểu xuất sắc cuối cùng
của chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỷ XIX. Ông “bước vào lịch sử văn học như
một nhà cách tân thiên tài trong lĩnh vực truyện ngắn và kịch” [40,349]. Đến
nay, nhân loại vẫn gọi ông là “nhà văn làm ta muôn thuở say mê” [108].
Toàn bộ truyện ngắn của Sêkhôp là bức tranh liên hoàn gồm nhiều
mảng nhỏ hợp lại dựng lên chân dung xã hội Nga những năm cuối thế kỷ
XIX. Đó là một “thời đại đau ốm”, con người sa vào thói dung tục, tha hoá
ngay trong “cảnh sống thừa”. Vượt lên thực tại tầm thường, Sêkhôp đã phê
phán sự bất lực của con người, nhất là giới trí thức, đồng thời nghiêm khắc
lên án “cái phi nhân” của chế độ xã hội bằng “tiếng thở dài khẽ mà sâu của
một trái tim trong sạch” [38,341].
Nam Cao (1917-1951) là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc
nhất của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Sự nghiệp sáng tác của nhà văn chỉ
gói gọn trong 15 năm (1936- 1951), song cho tới nay ông vẫn là hiện tượng
hấp dẫn, lôi cuốn giới nghiên cứu phê bình và bạn đọc “nghĩ tiếp”, khơi sâu
vào những “địa tầng” mới để kiếm tìm những “vỉa vàng” lấp lánh.
Trong sáng tác của Nam Cao, chúng ta bắt gặp những bức tranh rất
chân thực, sống động về những kiếp người nhỏ bé. Đó là số phận bi thảm của
người nông dân nghèo bị đẩy vào đường cùng, bị chà đạp tàn nhẫn, đặc biệt là
bị tha hoá, lưu manh hóa; những trí thức nghèo có hoài bão, tâm huyết, tài
năng, muốn vươn lên cao nhưng lại bị chuyện áo cơm ghì sát đất rơi vào bi
kịch “sống mòn”, “chết mòn”. Trái tim nhân đạo Nam Cao đã phê phán gay
gắt xã hội phi nhân tính tàn phá, huỷ diệt tâm hồn con người, đồng thời thể
hiện khao khát về một cuộc sống có ích và thực sự có ý nghĩa.
1.2. Theo kết quả khảo sát, lượng truyện xuất hiện nhân vật trí thức
trong sáng tác của Sêkhôp và Nam Cao chiếm tỷ lệ cao (trung bình 54%,
trong đó Sêkhôp có 32/60 truyện, Nam Cao có 27/50 truyện). Điều đó chứng


tỏ, nhân vật trí thức là đối tượng chính, giữ một vị trí đặc biệt trong sáng tác
của Sêkhôp và Nam Cao, bởi hơn ai hết họ thấu hiểu đời sống, tâm lý của giới
mình. Và hai ông đã trở thành nhà văn của những trí thức bình dân. Đây chính

1


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

là cơ sở, thu hút sự quan tâm của người đọc và giới nghiên cứu tiếp tục khơi
sâu vào những “địa tầng” mới về người trí thức.
1.3. Theo hồi ký của nhà văn Tô Hoài, trong bài “Người và tác phẩm
Nam Cao” đăng trên báo Văn nghệ năm 1956, có đoạn: “Những bạn gần Nam
Cao bây giờ nhắc lại còn cười với nhau vì đã nắm lần vui chuyện, hoặc quá
chén, cái anh chàng gầy gò, loeo khoeo ấy đỏ mặt đỏ tai lên, vừa rung đùi vừa
nói băm băm vào bàn tay, chửi bới rất hùng hổ, coi giời bằng vung, coi ai cũng
bằng cứt. Nào Gorki viết cũng xoàng. Lỗ Tấn thì khá hơn một tý. Mình sâu tý
nữa, có thể kịp Sêkhôp…” [71, 24]. Như vậy, Sêkhôp là nhà văn được Nam Cao
yêu thích và nể phục, giữa Sêkhôp và Nam Cao đã có những dấu nối quan trọng
giúp người đọc có thể đặt câu hỏi, phân tích, chứng minh ảnh hưởng của Sêkhôp
đối với Nam Cao nói riêng và văn học Nga đối với văn học Việt Nam nói chung.
Trong xu thế toàn cầu hoá, so sánh các nền văn học là hướng bổ sung
quan trọng cho việc nghiên cứu văn học dân tộc. Ở Việt Nam, hiện so sánh
đang là hướng nghiên cứu lý thú và có hiệu quả. Về sáng tác của Sêkhôp và
Nam Cao đã có một số bài nghiên cứu so sánh tiêu biểu, đó chính là những gợi
dẫn khoa học quan trọng giúp chúng tôi hứng thú tìm hiểu nét tương đồng và dị
biệt trong đề tài “Nhân vật trí thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao”.
1.4. Đề tài nghiên cứu này đối với chúng tôi có một ý nghĩa thiết thực:
Sêkhôp và Nam Cao là hai đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa hiện thực cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn Trung

học phổ thông, Cao đẳng, Đại học của Việt Nam. Việc nghiên cứu đề tài sẽ giúp
chúng tôi có phương pháp nghiên cứu, phục vụ tốt hơn công tác giảng dạy, đồng
thời thấy rõ hơn những cách tân nghệ thuật, vị thế và tầm ảnh hưởng của Sêkhôp
trong sự so sánh với Nam Cao. Trên cơ sở đó hiểu hơn những đóng góp cách tân
của Nam Cao trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề
2.1.Vấn đề nghiên cứu nhân vật trí thức trong sáng tác của A.Sêkhôp
Sêkhôp và những sáng tác của ông là “hạt ngọc ẩn dấu” đối với giới
nghiên cứu phê bình suốt hai thế kỷ qua. Trên thế giới và cả ở Việt Nam, các
học giả đã giành cho ông những tình cảm đặc biệt thể hiện qua những công
trình nghiên cứu chuyên sâu dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong quá trình

2


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

thực hiện đề tài “Nhân vật trí thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao”,
do hạn chế về ngoại ngữ, chúng tôi chỉ xin nêu những ý kiến có liên quan trực
tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề nghiên cứu dựa trên cơ sở những công trình
được dịch ra tiếng Việt và bài viết của các nhà nghiên cứu của Việt Nam.
Dường như tất cả các nhà văn nổi tiếng đương thời đều yêu mến, trân
trọng và đánh giá cao tài năng của Sêkhôp. Trong bức thư ngày 25 tháng 3 năm
1886 gửi Sêkhôp, nhà văn lão thành Đ.V.Grigôrôvich đã khẳng định Sêkhôp có
“một tài năng đích thực”. Ông khâm phục “tính chính xác, chân thực tuyệt vời
trong việc miêu tả nhân vật và thiên nhiên”, khen ngợi “khả năng phân tích nội
tâm chính xác”, “tài nghệ trong miêu tả”, “khả năng tạo hình” của Sêkhôp. Với
“tất cả sự chân thành” của “con tim trong sạch”, Grigôrôvich “tin vào tài năng”
của nhà văn trẻ thuộc trong số những người viết được những “tác phẩm xuất
sắc, những tác phẩm nghệ thuật thực sự” [63, 200-201].

L.Tônxtôi rất quý mến “con người tuyệt mỹ, chân thành và trung thực
Sêkhôp”. Đại thi hào cảm phục tài năng của Sêkhôp và không ngần ngại xem
ông là “Puskin trong văn xuôi” và khẳng định: “Cũng như Puskin, anh đã đẩy
hình thức tiến lên phía trước, và đây là một cống hiến lớn lao” [41,2].
Cũng như L.Tônxtôi, M.Gorki rất khâm phục “tài năng vĩ đại” của
Sêkhôp. Ông cho rằng: “A.P.Sêkhôp là nghệ sỹ duy nhất của thời đại ta nắm
vững đến mức điêu luyện cái nghệ thuật viết làm sao cho “lời chật mà ý rộng”.
Và “sức mạnh khủng khiếp của tài năng ông chính là ở chỗ ông không tự bịa đặt
ra một điều gì, không mô tả một cái gì không có trong cuộc đời này” [37,47].
Theo ông, sự độc đáo của tự sự Sêkhôp là “ở chỗ nào cũng phát hiện và nêu bật
sự dung tục” và “không ai hiểu được một cách rõ ràng và tinh tế cho bằng Antôn
Pavlôvits cái chất bi kịch của những chuyện vặt vãnh trong cuộc sống” [38,335341]. Ngoài những đánh giá của các nhà văn trên, M.Khrapchenkô,
G.N.Pospelôp, N.X.Lexcôp và các thế hệ nhà văn kế tục ở nhiều quốc gia đều
bày tỏ sự mến phục tài năng nghệ thuật độc đáo của Sêkhôp.
Về thế giới nhân vật của Sêkhôp, các nhà nghiên cứu cũng có nhiều
nhận xét tinh tế và thống nhất cho rằng, thế giới nhân vật của ông vô cùng
rộng lớn, đông đúc. Nữ nhà văn Pháp Elsa Triolet đã từng ca ngợi: “Chỉ cần
Sêkhôp đặt con mắt vào một người để người đó trở thành nhân vật… Mỗi

3


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

người đàn ông và đàn bà trở thành một chiếc chìa khoá để hiểu hàng chục,
hàng trăm đồng loại lớn nhỏ” [103,22]. Nhà nghiên cứu người Nga Vasily
Grossman đã có một so sánh khá thú vị về số lượng nhân vật của Sêkhôp:
“hãy điểm lại số lượng nhân vật của A.P.Sêkhôp, có lẽ may ra chỉ có Bandắc
là người biết đưa vào ý thức tập thể một số lượng đông đúc như vậy” [39,7].
Có thể nói, ở Việt Nam sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Nguyễn

Tuân là nhà nghiên cứu đầu tiên tuyển chọn và viết bài giới thiệu cho tập
“Truyện ngắn của Sêkhôp”. Như “một thiên hồi ức ngắn”, bài viết đã kể lại sự ra
đời, tác động của cuốn sách trong lòng bạn đọc, nhất là giới cầm bút. Đặc biệt,
ông đã có những nhận xét rất đáng chú ý có liên quan đến vấn đề chúng tôi quan
tâm. Theo Nguyễn Tuân, truyện ngắn Sêkhôp đã khái quát lên bức tranh cuộc
sống đương thời: “luôn luôn bốc lên cái hơi ngạt độc đoán chuyên chế làm
nghẹn ngào và ngạt thở bao tâm hồn, bao con người… Những người ấy như bị
lắc trong một cái hũ nút khổng lồ”. Sêkhôp đã phát hiện ra một kiểu nạn nhân
khiếp sợ trật tự xã hội đến mức bị “cái áo bao trùm kín lấy một kiếp người có ăn
có nghĩ” và có “biết bao kẻ mang áo bao ấy vẫn nhan nhản sờ sờ” trong cuộc
sống thường ngày, mặc dù nhân vật trí thức Bêlicôp (Người trong bao) đã chết.
Đặc biệt về nghệ thuật xây dựng nhân vật, Sêkhôp “không chen vào mà giải
quyết vấn đề”. Ông để “nhân loại nhân vật” tự nói lên tư tưởng nghệ thuật, thái
độ của mình đối với nghề nghiệp và cuộc sống [103,12-13-19].
Trong số những người yêu quý và say mê Sêkhôp ở Việt Nam không thể
không kể tới Phan Hồng Giang. Trong bài giới thiệu “Sêkhôp tuyển tập truyện
ngắn” năm 1994, tuy nhà nghiên cứu không đề cập trực tiếp đến nhân vật trí
thức, song lại có những gợi dẫn quý báu về mối liên hệ chặt chẽ, sự ảnh hưởng
qua lại giữa đời sống hiện thực với sáng tác văn học. Với “đôi mắt tinh tường
“nhìn thấu bốn cõi”, Sêkhôp đã làm được điều khó khăn là “chỉ cho con người
thấy tính quái thai ở những con người thoạt nhìn tưởng như bình thường vô tội,
ở những hiện tượng lặp lại hàng ngày, không mấy ai để ý” [35,9].
Năm 1960, trong bài “Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm của Sêkhôp”,
La Côn đã chỉ ra “cảm tình của Sêkhôp hướng về những người lao động” và
“khinh bỉ những kẻ ngồi không ăn bám”. Sau khi phân tích một loạt truyện
ngắn, La Côn đã có những nhận xét đáng chú ý động chạm đến đối tượng
chúng tôi nghiên cứu về nhân vật trí thức, tuy nhiên mới chỉ ở mức độ khái

4



Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

quát: Một mặt, Sêkhôp chỉ ra sự sa đọa của giới trí thức trong xã hội Nga
hoàng, phê phán học thuyết của Tônxtôi và sự đề cao một cách mù quáng
thuyết “những việc thiện nho nhỏ” của một số trí thức ảo tưởng. Mặt khác, ông
đặt niềm tin vào những thanh niên trí thức tích cực mong muốn đoạn tuyệt với
đời sống lười biếng ươn hèn, muốn đấu tranh để thay đổi cuộc sống [23,69].
Trong bài viết “Sêkhôp, nhà văn vĩ đại của nhân dân Nga”, Mai Thúc
Luân cũng đưa ra nhận xét gợi dẫn: “Sêkhôp không đồng ý với triết lý “việc
nhỏ” mà giới trí thức Nga những năm 90 kêu gọi mọi người hướng đến”. Ông
đã cho ra đời hàng loạt truyện ngắn nổi tiếng: “Người trong bao”, “Người đàn
bà có con chó nhỏ”, “Cuộc đấu súng”… để chống lại sự “sa đọa của tâm hồn
con người”. Tác giả còn chỉ ra những đặc điểm cơ bản trong thi pháp nghệ
thuật của nhà văn, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả nhân vật “từ bên trong”, cách
miêu tả thiên nhiên “qua ấn tượng của nhân vật” [65,267-275].
Một số bài nghiên cứu chuyên sâu về những vấn đề trong sáng tác của
Sêkhôp được chúng tôi đặc biệt chú ý khi giải quyết vấn đề. Đầu tiên phải kể đến,
“Cái mới trong truyện ngắn của A.Sêkhôp” của giáo sư Nguyễn Hải Hà. Bài viết
đã đưa ra nhiều nhận xét quan trọng về thi pháp Sêkhốp, tiêu biểu như: thế giới
nhân vật với “những người lao động giản dị, trung thực, thuộc đủ ngành nghề”,
đặc điểm tự sự đan xen yếu tố miêu tả, kể và bình luận, dòng chảy ngầm... Đặc
biệt vấn đề nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật thông qua độc thoại nội tâm là gợi
dẫn quan trọng cho người viết trong triển khai nội dung đề tài [41,7-12].
Trong bài “Tchekhov, nhà văn xuôi tự sự, nhà viết kịch”, Phạm Vĩnh Cư
đã phát biểu những ý kiến quan trọng về nghệ thuật của Sêkhôp trên nhiều
phương diện. Trước hết, nhà nghiên cứu khẳng định Sêkhôp là “nghệ sĩ có một
cảm hứng đặc biệt với cái thường thường bậc trung, cái ít mang dấu ấn ngoại
biệt, cái không đập vào mắt ai”. Cuộc sống đời thường đã “tập trung hết tâm
não” của ông, trở thành “địa hạt” tiến hành những khảo sát chuyên sâu và thực

hiện những khám phá “làm hiển lộ chất bi thường trực của đời thường lẩn khuất
khỏi con mắt nhiều người khác”. Chính vì vậy, cảm thức cuộc sống trong truyện
của Sêkhôp “bộc lộ tính “đa thanh”, “phức điệu” cực độ”. Người trí thức càng
bận tâm tha thiết hơn với sự đời: “Cuộc sống sẽ đi đến đâu? Thu thút tâm não
nhiều người trong họ hơn mọi câu hỏi của đời sống thực tiễn” [24,142-143-154].

5


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

Việc nghiên cứu sự tiến triển của tiếng cười Sêkhôp từ những sáng tác giai
đoạn đầu đến sáng tác giai đoạn chín chắn giúp tác giả đi tới kết luận về sự đa
dạng trong sắc thái của nó: “từ hồn nhiên, nhẹ nhõm, vô tâm đến nặng trĩu ưu
tư hay thấm đượm chất trữ tình”, đồng thời phát hiện “sự đan thoa lấp lánh đầy
bất ngờ giữa cái hài và cái nghiêm” trong cốt truyện và trong nhiều nhân vật
của Sêkhôp. Nhà nghiên cứu đã đưa ra những nhận xét thú vị về mối quan hệ
giữa tác giả - nhân vật và người đọc trong thế giới của nhà văn, đặc biệt là quan
niệm sáng tác của Sêkhôp, trong đó có đánh giá về vai trò của người trí thức:
“Tôi không tin vào giới trí thức của chúng ta, đạo đức giả, dối trá, thao cuồng,
vô giáo dục, lười biếng; tôi không tin ngay cả khi họ đau khổ và kêu ca, bởi
những kẻ hà hiếp họ xuất thân ngay từ tầng lớp của họ [24,176].
Đào Tuấn Ảnh trong bài nghiên cứu “Cách tân nghệ thuật của A.Sêkhôp”
đã khái quát tính cô đọng hướng về nguyên tắc “im lặng” tối giản nhằm hướng
nội, tính khách quan, mạch ngầm văn bản, sự tin cậy của nhà văn vào khả năng
đồng sáng tạo của bạn đọc. Nhà nghiên cứu nhận xét chính xác: “Trạng thái tâm
lý nhân vật của Sêkhôp không diễn ra liên tục mà luôn phá vỡ những cái từ bên
ngoài đưa vào. Những tự bạch, tự phân tích, mổ xẻ, giằng xé nội tâm, trăn trở
của nhân vật luôn bị đứt quãng… Dòng tâm lý của con người xen lẫn dòng đời
bất tận” [4,15-18]. Đào Tuấn Ảnh còn đi sâu phân tích phương pháp thể hiện

tâm lý của Sêkhôp và khẳng định: “kiểu miêu tả “đoán bệnh” với sự trợ giúp của
các thủ pháp nghệ thuật tượng trưng và ấn tượng đã giúp Sêkhôp tái hiện được
thế giới bên trong nhân vật với sự chuyển động và độ sâu không cùng của nó”.
Đó chính là những cách tân nghệ thuật Sêkhôp đưa vào trong sáng tác của mình
dựa trên cơ sở của “sự trông cậy vào độc giả” [4,24].
Trong cuốn “Giáo trình văn học Nga”, tác giả Đỗ Hải Phong đã nêu bật
những bước chuyển và đặc điểm nghệ thuật trong sáng tác của Sêkhôp qua
các giai đoạn, đặc biệt chỉ ra chất “bi kịch đời thường” gắn bó mật thiết với
chính thời đại, cuộc đời của nhà văn bác sỹ Sêkhôp. Đồng thời cho rằng,
trong giai đoạn sáng tác cuối của Sêkhôp “luôn có sự kết hợp tính tự sự và
tính trữ tình làm thành “giọng điệu trữ tình- mỉa mai nước đôi” ẩn dưới mạch
ngầm văn bản tạo nên “mối liên hệ tích cực giữa ba thành tố của hoạt động
nghệ thuật: tác giả- văn bản nghệ thuật- độc giả”. Tác giả đã phân tích “Mạch

6


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

ngầm tự sự và mạch ngầm trữ tình trong “Một truyện đùa nhỏ”, truyện ngắn
“Người trong bao” và khẳng định “Sêkhôp là một bậc thầy của nghệ thuật xây
dựng mạch ngầm văn bản” và chính điều đó tạo nên nét đặc sắc cho các
truyện ngắn và truyện vừa của ông. Đây thực sự là những gợi dẫn quý báu cho
đề tài [83,141-144-146].
Bài “A.Sêkhôp- người trần thuật điềm tĩnh tài hoa” của Nguyễn Trường
Lịch lại chú ý đến giọng điệu, điểm nhìn của người trần thuật “toát lên bút
pháp khách quan tự nhiên nhi nhiên bằng một giọng điệu điềm tĩnh”, được thể
hiện qua việc nhà văn “không cầm tay dẫn dắt người đọc tới tận chốn cái gì
đấy, mà chỉ bình thản giới thiệu nhằm hướng tới một chân trời mới” [62,11].
Đánh giá Sêkhôp từ cái nhìn của một nhà văn- bác sỹ có “tài chẩn

bệnh”, “bắt mạch”, “kê đơn” cho căn bệnh kinh khủng của thời đại. Trong bài
“Sêkhôp: nghệ sĩ và bác sĩ”, Lê Huy Bắc cho rằng: “Với tư cách là một nghệ
sỹ- bác sỹ, Sêkhôp đã thực sự tạo nên phong cách độc đáo của riêng mình. Là
nhà văn hiện thực, con mắt nghề nghiệp (bác sỹ) đã giúp ông bắt mạch, lần
tìm và mổ xẻ đúng căn bệnh trầm kha của thời đại. Là nghệ sỹ trác tuyệt, tâm
hồn ông vươn tới tận miền sâu thẳm, đầy bí ẩn trong vô thức, trong bản thể
con người” [14,28]. Tác giả đã thấy được mối liên hệ đặc biệt giữa khoa học
và nghệ thuật làm nên thành công trong sự nghiệp văn học của Sêkhôp. Trong
“Ngòi bút chẩn bệnh của A.Sêkhôp”, tác giả Hà Thị Hòa nhìn nhận: “Nhiều
truyện của ông như những tấm phim hiện hình của những thói đời dung tục”,
từ đó đi lý giải sâu sắc “thói sợ hãi cấp trên” đã nhiễm sâu vào tâm lý con
người nhất là tầng lớp trí thức, công vụ bậc trung. Tác giả còn chỉ ra biệt tài
chẩn bệnh “rất tài tình” của Sêkhôp, đồng thời đưa ra khả năng phòng tránh
để nhân vật “vươn lên mà sống theo đúng nghĩa làm người” [48,37-38].
Năm 2004, kỷ niệm 100 năm ngày mất của A. Sêkhôp, Hội nghị khoa
học “A.Sêkhôp và nhà trường Việt Nam” tổ chức tại Hà Nội, với sự tham gia
của nhiều nhà nghiên cứu phê bình và những người mến mộ ông. Ngoài
những bài nghiên cứu nêu trên, còn có rất nhiều bài viết cảm thụ và phân tích
những tác phẩm riêng lẻ, cũng như cảm nghĩ về Sêkhôp với người đương thời
và hậu thế của các tác giả tiêu biểu như: Thành Đức Hồng Hà, Nguyễn Diệu

7


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

Linh, Lê Nguyên Cẩn, Đinh Thị Khang, Lê Thời Tân, Trần Lê Bảo, Lê Lưu
Oanh…đã đưa ra những gợi dẫn bổ ích đối với người viết luận văn.
Ngoài ra, có hơn chục khoá luận, luận văn đã nghiên cứu về thế giới
nhân vật của Sêkhôp ở những góc độc khác nhau cũng đã có những đúc rút

quan trọng, thuyết phục, là tài liệu tham khảo hữu ích.
Xung quanh sáng tác của Sêkhôp, các bài viết tập trung nghiên cứu đặc
điểm thi pháp Sêkhôp trên nhiều cấp độ. Đặc biệt nhiều bài viết đã đề cập đến
nhân vật trí thức, tuy chưa hệ thống và đầy đủ. Hơn nữa, vấn đề so sánh nhân
vật trí thức của Sêkhôp với các tác giả khác, nhất là Nam Cao của Việt Nam
còn là vấn đề khá mới mẻ. Dựa trên những tài liệu nghiên cứu trên, chúng tôi
mạnh dạn triển khai đề tài với mong muốn đóng góp một góc nhìn đối sánh về
nhân vật trí thức của Sêkhôp với Nam Cao.
2.2. Vấn đề nghiên cứu nhân vật trí thức trong sáng tác của Nam Cao
Nam Cao cũng là một trong những nhà văn được giới nghiên cứu, phê
bình Việt Nam chú ý hơn suốt nửa thế kỷ nay. Về đề tài người trí thức đã có
những ý kiến đánh giá ở nhiều khía cạnh khác nhau. Trong quá trình thực hiện
đề tài, chúng tôi xin lược điểm những công trình và ý kiến đánh giá quan
trọng liên quan đến số phận bi kịch, đời sống tâm lý thể hiện qua sức mạnh
của độc thoại nội tâm và giọng điệu trần thuật.
Ngay từ đầu những năm 1960, Huệ Chi và Phong Lê đã “đột phá”, mở
đầu bằng hai bài viết: “Đọc truyện ngắn Nam Cao, soi lại bước đường đi lên
của nhà văn hiện thực” và “Con người và cuộc sống trong tác phẩm Nam
Cao”. Đây là những bài viết đã có nhiều khám phá đáng chú ý về tác phẩm
của Nam Cao, nhất là nhân vật trí thức tiểu tư sản. Về nghệ thuật miêu tả tâm
lý, Huệ Chi và Phong Lê đã đánh giá: “Anh khai thác sâu vào những diễn
biến của các tâm tư và qua chiều sâu của tâm tư những mẩu đời chật hẹp cỏn
con của người tiểu tư sản, những mẩu đời quanh đi quẩn lại động cựa mãi
cuối cùng vẫn đứng im một chỗ… cứ hiện dần lên như những bóng góc cạnh
và rõ nét một cách tàn nhẫn” [19,2].
Người có quá trình nghiên cứu công phu, tâm huyết và nhiều phát hiện
mới mẻ về nhà văn Nam Cao là giáo sư Hà Minh Đức. Năm 1961, chuyên luận
“Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc” là công trình nghiên cứu đầu tiên về

8



Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

sáng tác của Nam Cao trước và sau cách mạng của ông. Ở phần “Đời sống và
hoạt động văn học của Nam Cao”, tác giả giới thiệu về cuộc đời, những ảnh
hưởng của gia đình, hoàn cảnh xã hội tới sự nghiệp của Nam Cao, trong đó
sớm có sự so sánh đáng chú ý: “Bước vào đời văn, Nam Cao thích hơn cả là
những tác phẩm của Đôtxtôiepxki và Tsêkhôp, đặc biệt là Tsêkhôp. Cũng
không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao quý mến Tsêkhôp. Nam Cao tìm thấy ở
Tsêkhôp sự gần gũi về quan niệm sáng tác cũng như về phong cách …Tsêkhôp
thích đi sâu phân tích tâm lý nhân vật, đặc biệt là những nhân vật tiểu tư sản trí
thức nghèo với những tâm trạng đầy mâu thuẫn. Chủ đề sáng tác của Nam Cao
về con người tiểu tư sản trí thức nghèo nhiều điểm gần gũi với những chủ đề
của Tsêkhôp… Những tác phẩm của Đôtxtôiepxki và Tsêkhôp có ảnh hưởng ít
nhiều đến sáng tác của Nam Cao về nội dung cũng như hình thức biểu hiện” .
Đề cập đến “Chủ đề tiểu tư sản” ở phần hai “Thời kỳ trước Cách mạng tháng
Tám”, nhà nghiên cứu đã đề xuất khái niệm “nhân vật trí thức kiểu Nam Cao”
và đặc biệt quan tâm đến tính chân thực của hình tượng này: “Nhân vật trí thức
kiểu Nam Cao được tập trung phản ánh một số nét điển hình và chân thực về
tâm lý và sinh hoạt của các tầng lớp trí thức thành thị trong thời kỳ Đại chiến
thế giới lần thứ II. Đó là thời kỳ bản thân họ đang phải đấu tranh gay gắt tìm
đường thoát khỏi tình trạng bế tắc của cuộc sống, vươn tới lý tưởng tốt đẹp
hơn” [31,30-110]. Ngoài ra, Hà Minh Đức nhận xét khái quát về nghệ thuật
miêu tả tâm lý nhân vật. Nhưng phải đến năm 1982, trong bài “Nam Cao và
nghệ thuật sáng tạo tâm lý”, ông mới đi sâu nghiên cứu chuyên biệt về nghệ
thuật sáng tạo tâm lý. Hà Minh Đức nhận xét: Nam Cao đã thể hiện một nghệ
thuật miêu tả tâm lý già dặn và đặc biệt chú ý “chất tâm lý” của nhân vật trí
thức, đến việc miêu tả thiên nhiên gắn với việc thể hiện tâm lý nhân vật, sự tự
nhận thức…. và nhất là “Nam Cao sử dụng nhiều độc thoại nội tâm để biểu

hiện nhân vật… Nam Cao không phải là nhà văn đầu tiên sử dụng độc thoại nội
tâm nhưng là tác giả vận dụng nhiều nhất độc thoại nội tâm và có hiệu quả
nhất”. Hà Minh Đức còn cho rằng: “dòng tâm lý trong tác phẩm của Nam Cao
vận động qua nhiều cảnh ngộ nhưng vẫn quẩn quanh, tù túng, không tìm được
hướng giải thoát. Nó không được giao lưu với hành động nên có những phát

9


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

triển ở bên trong, ngày càng đi sâu vào nội tâm. Ở đây có những trạng thái tâm
lý gần gũi với miêu tả tâm lý của Đốtxtôiépxki và đặc biệt là Sêkhốp” [32,73].
Trong bài “Nam Cao phê phán và tự phê phán” năm 1992, Hà Minh
Đức lại tiếp tục chỉ ra: “Yếu tố tự phê phán trong tác phẩm của Nam Cao bắt
nguồn từ sự ý thức của Nam Cao trong cuộc sống hàng ngày” và “ý thức phê
phán của nhân vật thực chất là sự phê phán hoàn cảnh... nhân vật trí thức của
Nam Cao có nội lực khỏe nên ý thức tự phê phán mạnh” đã tạo nên ở các
nhân vật cái ranh giới rất rõ rệt không thể vượt qua: ranh giới giữa cái tốt và
cái xấu. Chính vì vậy, “yếu tố tâm lý trở thành đối tượng miêu tả trực tiếp” và
“độc thoại nội tâm là phương thức biểu hiện quan trọng” trong miêu tả sự vận
động ý thức của nhân vật trí thức [33,42]. Những bài viết của Hà Minh Đức
có ý nghĩa đặc biệt đối với người viết trong quá trình tìm hiểu nhân vật trí
thức của Nam Cao.
Trong “Nam Cao khát vọng về một cuộc sống lương thiện, xứng đáng”,
giáo sư Nguyễn Văn Hạnh đã cho rằng: Nam Cao dồn nhiều suy nghĩ thiện
cảm cho người trí thức nghèo- “có trình độ học vấn, có ý thức hơn về số phận,
có nhiều điều băn khoăn về ý nghĩa của cuộc sống, về giá trị làm người”. Qua
họ, “Nam Cao đã đề cập đến một tấn bi kịch của con người và xã hội mà càng
từng trải, càng có ý thức về nhân phẩm, về cống hiến, về ý nghĩa của cuộc

sống, người ta càng thấy ghê rợn, đó là bi kịch sống mòn” [44,22-26].
Trong “Bi kịch tự ý thức- nét độc đáo trong cảm hứng nhân đạo của
Nam Cao”, Đinh Trí Dũng đã đi sâu khẳng định một khía cạnh liên quan đến
vấn đề chúng tôi đang quan tâm, đó là “chưa ai đưa được vấn đề tự ý thức của
nhân vật lên đến mức sâu sắc, thường trực, nhất quán như ở ngòi bút của Nam
Cao”. Và “trong cuộc đấu tranh vươn tới lẽ sống nhân đạo ở các nhân vật tiểu
tư sản của Nam Cao… có nhiều mất mát, bi kịch” nhưng “sự tự ý thức dường
như là tự nhiên, thường trực trở thành một bộ phận không thể thiếu của con
người” [28,35].
Bài viết “Nam Cao và sự lựa chọn một chủ nghĩa hiện thực kiểu mới”
của Phạm Xuân Nguyên đã khẳng định sự vượt trội của Nam Cao so với các
tác giả cùng thời. Về nhân vật trí thức, ông đã vạch ra mâu thuẫn “giằng xé
giữa cái sống và kiếm sống với cái làm nghệ thuật và phụng sự nghệ thuật”

10


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

bằng cách “tác giả nhập vào nhân vật để nó tự suy nghĩ phân tích”, tạo “một
khả năng mới trong mối quan hệ tác giả- nhân vật”. Kết quả, “Nam Cao đã đa
thanh hoá giọng điệu tự sự, giọng tác giả và giọng nhân vật đan xen, hoà trộn
vào nhau, tiếng nói tác giả và tiếng nói nhân vật phụ hoạ nhau, tranh cãi
nhau” [72,74].
“Lối văn kể chuyện của Nam Cao” của Phan Diễm Phương là một bài
viết chuyên sâu đưa ra nhiều phát hiện mới mẻ về nghệ thuật kể chuyện của
Nam Cao. Tác giả khẳng định giọng văn Nam Cao phong phú mà sinh động,
hấp dẫn: “Trong truyện của Nam Cao, ta gặp lối kể chuyện bằng nhiều chất
giọng: nghiêm nghị và hài hước; trân trọng, nâng niu và nhạo, đay, mỉa”. Đặc
biệt giọng văn Nam Cao vừa mang tính chất triết lý nhưng cũng thấm đẫm

chất trữ tình, với đặc điểm này, “truyện ngắn Nam Cao có thể ôm vào mình
những cặp đặc điểm đối nghịch: sắc lạnh và tình cảm, tỉnh táo nghiêm ngặt và
chứa chan trữ tình” [86,134-136].
Nhân kỷ niệm 50 năm ngày mất của Nam Cao, Trần Đăng Suyền cho ra
đời chuyên luận “Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao”. Đây là công trình công
phu, khẳng định sự đóng góp to lớn cũng như những cách tân nghệ thuật của
nhà văn đối với văn học hiện thực phê phán nói riêng và văn học Việt Nam
nói chung. Về phương diện nhân vật, nhà nghiên cứu đã giành nhiều trang đi
sâu tìm hiểu nhân vật trí thức và cho rằng: “Đề tài người trí thức tiểu tư sản
khá quen thuộc đối với văn học Việt Nam 1930-1945. Nhưng chỉ đến Nam
Cao, với ngòi bút hiện thực tỉnh táo, nghiêm ngặt, với sự phân tích tâm lý sắc
sảo, hình ảnh những nhân vật trí thức tiểu tư sản mới hiện lên thật cụ thể và
sinh động qua những tấn bi kịch và bi hài kịch cùng với những cuộc đấu tranh
tư tưởng đầy căng thẳng nhưng bế tắc. Qua cuộc đời những người trí thức
tiểu tư sản… Nam Cao truyền đến cho người đọc cái không khí tù túng, ngột
ngạt của một xã hội ở tận cùng của sự bế tắc đang quằn quại trong những
ngày cuối cùng của chế độ thực dân phong kiến”. Đặc biệt, tác giả còn đi sâu
làm rõ tấn bi kịch tinh thần của những cuộc đời mòn mỏi trong những lo toan
căng thẳng vì miếng cơm manh áo”, và trong các hình tượng người trí thức
nổi bật nhất là nhân vật Thứ “điển hình có ý nghĩa khái quát sâu sắc nhất của
bi kịch”. Nhà nghiên cứu còn chỉ ra sắc thái đa giọng và giọng chủ đạo trong

11


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

truyện ngắn Nam Cao [91,152-162]. Đây là những gợi dẫn khoa học quan
trọng cho vấn đề chúng tôi quan tâm.
Trong cuốn giáo trình “Văn học Việt Nam 1900- 1945” xuất bản năm

2004, phần viết về “Nam Cao”, Hà Văn Đức đã đi sâu tìm hiểu đề tài người
trí thức nghèo và nhấn mạnh đến bi kịch vỡ mộng và bi kịch chết mòn về
tinh thần cũng như cuộc đấu tranh để vượt lên chính mình và hoàn cảnh.
Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra 4 đặc điểm thành công của nghệ thuật miêu
tả tâm lý là: Khắc hoạ tâm trạng, độc thoại nội tâm, kết cấu tâm lý và hình
thức tự truyện [30, 483-489].
Có thể thấy, các tác giả đã nghiên cứu nhân vật trí thức trong sáng tác
của Nam Cao từ nhiều phương diện nhưng còn mang tính khái quát, chứ chưa
đặt nhân vật trí thức trong cái nhìn đối sánh với các nhà văn khác trên thế giới,
cụ thể là A.Sêkhôp của văn học Nga. Song những nhận định thống nhất, chính
xác về nhân vật, đời sống tâm lý của người trí thức và giọng điệu kể chuyện là
tiền đề quan trọng để chúng tôi thực hiện đề tài.
2.3. Vấn đề so sánh Sêkhôp và Nam Cao ở Việt Nam
Ở Việt Nam, hướng tiếp cận Nam Cao từ góc độ so sánh với các tác gia
văn học nước ngoài đã manh nha từ thập niên 60,70,80 của thế kỷ XX. Các
nhà nghiên cứu như Phan Cư Đệ, Hà Minh Đức, Nguyễn Đức Đàn, Phong Lê
đã đưa ra những lời nhận định có tính chất khái quát về Sêkhôp và Nam Cao
nhưng chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu từ góc độ văn học so
sánh. Trong “Nam Cao- nhìn từ cuối thế kỷ”, giáo sư Phong Lê định hướng:
“Vấn đề đánh giá sự phát triển nghệ thuật của Nam Cao với tư cách người
nghệ sỹ, và sự soi sáng vấn đề từ một chân dung khác- Tsêkhôp trong văn học
Nga, quả gợi được nhiều điều thú vị. Đạt đến đỉnh cao của chủ nghĩa hiện
thực ở thời kỳ tiền Cách mạng, thực hiện tích cực cuộc canh tân văn học trong
hoàn cảnh xã hội thuộc địa, Nam Cao có vị trí tựa như Tsêkhôp, không chịu
lui vào bóng rợp của hai cây đại thụ Đốtxtôiepxki và Tônxtôi, mà tự vạch lấy
đường đi cho mình vào những năm giao thời giữa hai thế kỷ. Cả hai, Nam
Cao và Tsêkhôp đều tìm về chủ nghĩa hiện thực đời thường, soi chiếu các giá
trị phổ quát của đời sống vào “Những chuyện không muốn viết”, vào những
điều tưởng như chi ly, vặt vãnh” [59,108].


12


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

Sang thập niên 90, đã có những bài viết chuyên sâu so sánh Nam Cao
với một số nhà văn trên thế giới. Đặc biệt, trong bài viết “A.Sêkhôp và Nam
Cao- một sáng tác hiện thực kiểu mới”, dưới góc độ lý luận văn học nhà nghiên
cứu Đào Tuấn Ảnh đã đi tìm sự tương đồng trong sáng tác của hai nhà văn
“trên cơ sở phương pháp loại hình”, để từ đó “vượt” qua sự giống nhau “bên
ngoài” đi vào sự giống nhau về bản chất “bên trong”. Tác giả nhấn mạnh:
“Sêkhôp giống như một lăng kính lớn qua đó thấy rõ hơn các góc cạnh sáng tác
của Nam Cao” và xác định một số đặc điểm trong hệ thống thi pháp của Nam
Cao làm sáng tác của ông gần gũi với Sêkhôp, nhất là “quá trình diễn biến tâm
lý phức tạp qua đó làm nổi bật lên tính bi kịch của đời thường” [3,205]. Dựa
trên những thành tựu nghiên cứu đã có, Đào Tuấn Ảnh tiếp tục cho ra đời hai
bài viết so sánh trên những góc độ thi pháp là “Kết cấu thời gian trong truyện
ngắn Sêkhôp và Nam Cao” và “A. Sêkhôp và Nam Cao nhìn từ góc độ thi
pháp”, tác giả đã chỉ ra sự tương đồng và khác biệt giữa Sêkhôp và Nam Cao
trên hai phương diện cụ thể: Cốt truyện và kết cấu thời gian trong truyện ngắn.
Những bài viết này đã gợi dẫn, tạo tiền đề cho người viết đưa ra vấn đề so sánh
về nhân vật trí thức.
Năm 2004, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày mất của A.Sêkhôp, đã có
nhiều bài viết so sánh Sêkhôp với các nhà văn trên thế giới, trong đó có bài viết
quan trọng so sánh trực diện giữa Sêkhôp và Nam Cao của giáo sư Phong Lê với
nhan đề: “Sêkhôp và Nam Cao nhìn từ hai nền văn học”. Tác giả đã “lần lượt”
tìm đến những nét giống nhau và khác nhau giữa Sêkhôp và Nam Cao. Từ đó
khẳng định sự tương đồng giữa hai nhà văn thể hiện ở “vai trò và sứ mệnh của
mỗi người đối với lịch sử văn học dân tộc”, “ở vai trò kết thúc và đưa lên đỉnh
cao chủ nghĩa hiện thực vào giai đoạn cuối của nó; một lối tư duy nghệ thuật độc

đáo- đào sâu vào đời sống tâm lý và hướng vào cuộc sống nhỏ nhặt thường
ngày; ở một tiếng nói thâm trầm, chua xót, giàu suy nghĩ và triết lý; ở một lối
văn kiệm lời- “lời chật mà ý rộng”, giàu sức chứa và sức mở” [60,189-203]. Tác
giả đã dành cả phần IV đề cập đến người trí thức và những cảnh sống thừa. Đây
là định hướng quan trọng, nền tảng giúp chúng tôi triển khai đề tài.
Ngoài ra, luận án tiến sỹ “Chủ nghĩa hiện thực hiện đại qua sáng tác
của Nam Cao (so sánh với sáng tác của Sêkhôp)” của Lý Thị Quỳnh Anh đã

13


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

làm rõ chủ nghĩa hiện thực hiện đại những thập niên đầu thế kỷ XX thông qua
sự phân tích sáng tác của Nam Cao so với Sêkhôp, chỉ ra những nét tương đồng
trên các khía cạnh như hiện thực tâm lý, những yếu tố hiện thực hiện đại qua
nghệ thuật tổ chức truyện trong sáng tác của Nam Cao so sánh với sáng tác của
Sêkhôp [1].
Các công trình nghiên cứu về nhân vật, nhất là nhân vật trí thức nói
chung và dưới góc độ so sánh giữa Sêkhôp và Nam Cao nói riêng là chưa thật
chuyên sâu, song những kết luận mang tính phát hiện là cơ sở quan trọng giúp
chúng tôi triển khai đề tài “Nhân vật trí thức trong truyện ngắn Sêkhôp và
Nam Cao”.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhân vật trí thức của Sêkhôp trong so sánh với nhân vật trí
thức của Nam Cao, chúng tôi mong muốn chỉ ra sự “gặp gỡ” trong quan điểm
và tư duy nghệ thuật của Sêkhôp và Nam Cao về người trí thức, trên cơ sở đó
làm nổi bật những sáng tạo của hai nhà văn trong hành trình khám phá nội
tâm người trí thức mang bi kịch đời thường. Qua đó, chúng ta thấy được

những cách tân nghệ thuật, vị thế của Sêkhôp trong so sánh với Nam Cao và
vai trò của Nam Cao trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc và sự hòa
nhập vào dòng chảy của văn học thế giới.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn, chúng tôi không có tham vọng giải quyết toàn bộ
vấn đề về nhân vật trí thức của Sêkhôp và Nam Cao mà chỉ tập trung khảo sát,
nghiên cứu trên 3 bình diện: Bi kịch đời thường, sức mạnh của độc thoại nội tâm
trong miêu tả tâm lý người trí thức và giọng điệu trần thuật của hai nhà văn.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài “Nhân vật trí thức trong truyện ngắn Sêkhôp và
Nam Cao”, chúng tôi khảo sát 32 truyện ngắn của Sêkhôp và 27 truyện ngắn
của Nam Cao (trước Cách mạng tháng Tám năm 1945) viết về người trí thức
được in trong các tuyển tập sau:
- “Antôn Sêkhôp- tuyển tập tác phẩm”, Vương Trí Nhàn tuyển dịch,
NXB Văn học, 1999.
- “Truyện ngắn Sêkhôp”, Phan Hồng Giang dịch, NXB Văn hóa Thông tin, 2001.

14


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

- “Tuyển tập Nam Cao”, tập 1, 2, NXB Văn học, 2001.
- “Nam Cao tuyển tập”, tập 1, 2, NXB Văn học, 2002.
4. Giới thuyết đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Khái niệm nhân vật trí thức
Theo cách hiểu thông thường, “trí thức” được dùng để chỉ những người
lao động trí óc. Cách hiểu này chủ yếu nhằm để phân biệt giữa trí thức với các
giai tầng khác trong xã hội như: công nhân, thợ thủ công, nông dân, thương
nhân... Ngoài ra, còn nhiều quan niệm, định nghĩa khác về người trí thức.

Theo C.Mac, trí thức là một tầng lớp lao động làm thuê, là giai cấp vô
sản lao động trí óc. Trong xã hội tư bản, giống như các giai cấp khác: công
nhân, nông dân... đa số những người thuộc tầng lớp này cũng bị giai cấp tư
sản áp bức, bóc lột về sức lao động. Vì thế, họ có một vai trò nhất định trong
liên minh công- nông- binh- trí thức trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh
giải phóng dân tộc.
Trong “Từ điển Tiếng Việt”, Hoàng Phê định nghĩa: “Trí thức là những
người chuyên lao động trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt
động nghề nghiệp của mình” [81,1034].
Trong luận án tiến sĩ “Những cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn của A.
P. Sêkhôp”, Nguyễn Thị Minh Loan đưa ra khái niệm về người trí thức như sau:
Trí thức bao gồm trí thức cao cấp, trung cấp và trí thức bình dân, mở rộng ra còn
có cả quan, tu sĩ, doanh nhân, quý tộc, sinh viên, viên chức, nghệ sỹ [63,93].
Như vậy, các định nghĩa về người trí thức trên đều thống nhất cho rằng:
trí thức là những người lao động trí óc. Tuy nhiên, nếu chỉ định nghĩa như vậy
về người trí thức thì chưa thật đầy đủ. Vì vậy, chúng tôi xin đưa ra quan điểm
về trí thức trong cuốn giáo trình “Chủ nghĩa xã hội khoa học”: trí thức bao
gồm những người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo, có trình độ học vấn đủ
để am hiểu và hoạt động trong lĩnh vực lao động của mình. Họ hoạt động chủ
yếu trong lĩnh vực nghiên cứu, giảng dạy, ứng dựng khoa học, văn học, nghệ
thuật, lãnh đạo và quản lý [85,191]. Định nghĩa trên sẽ giúp chúng ta có một
cơ sở để xác định về tầng lớp trí thức trong đời sống cũng như trong văn học.
Mặt khác, chúng ta lưu ý rằng, trí thức không phải là một giai cấp, mà chỉ
là một đội ngũ, một tầng lớp có học vấn trong xã hội. Nhưng tầng lớp này lại kết

15


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao


tinh những tư tưởng tiến bộ của xã hội. Họ là lực lượng quan trọng tạo ra những
bước chuyển đột phá trong mỗi thời kỳ phát triển của xã hội. Cho nên, trong văn
học nhà văn thường hay xây dựng những nhân vật trí thức, qua đó thể hiện được
quan điểm, tư tưởng nghệ thuật của mình về con người và cuộc sống.
Nhân vật trí thức đã trở thành một chủ đề lớn trong văn học nói chung và
văn học Nga- Việt nói riêng. Họ thường là những con người khổng lồ, mang
trong mình những trăn trở, dằn vặt lớn lao của thời đại: Phải làm gì? Và sống
như thế nào?... Nhưng phải đến Sêkhôp và Nam Cao, người trí thức mới hiện lên
với tất cả những mặt mâu thuẫn, phức tạp.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình tìm hiểu đề tài “Nhân vật trí thức trong truyện ngắn
Sêkhôp và Nam Cao”, chúng tôi vận dụng ba phương pháp chủ yếu sau:
Phương pháp tiếp cận hệ thống, tiếp cận thi pháp, đặc biệt để hiểu sâu đối
tượng nghiên cứu, một trong những phương pháp tiếp cận cơ bản là xem xét
đối tượng trên bình diện so sánh với những đối tượng khác có cùng loại hình.
Chính vì vậy, so sánh loại hình là phương pháp xuyên suốt nhằm phát hiện
những điểm tương đồng và những đặc trưng riêng về nhân vật trí thức trong
sáng tác của Sêkhôp và Nam Cao.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn vận dụng một số
thao tác khác như phân tích, tổng hợp, thống kê, phân loại… nhằm phục vụ
mục đích của đề tài.
5. Ý nghĩa của đề tài
Thông qua việc tìm hiểu bi kịch đời thường, sức mạnh của độc thoại
nội tâm trong thể hiện tâm lý nhân vật trí thức và giọng điệu trần thuật của
Sêkhôp và Nam Cao, chúng tôi mong muốn vận dụng một hướng nghiên cứu
có nhiều tiềm năng để thấy được sự giao thoa, gặp gỡ giữa hai mô hình đồng
dạng, mang tính đặc thù của các nền văn học Nga- Việt nói riêng và quy luật
vận động, phát triển mang tính tất yếu của văn học thế giới nói chung.
Hơn nữa, chúng tôi hy vọng kết quả nghiên cứu sẽ là tài liệu hữu ích
đối với việc dạy học tích hợp giữa tác phẩm văn học nước ngoài và trong

nước ở trường phổ thông Việt Nam.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu, 3 chương, Kết luận, Tài liệu tham khảo

16


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

Chương 1: Những bi kịch đời thường
Chương 2: Sức mạnh của độc thoại nội tâm
Chương 3: Giọng điệu trần thuật

17


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

Chương 1: NHỮNG BI KỊCH ĐỜI THƯỜNG
CỦA NHÂN VẬT TRÍ THỨC
Như một quy luật tất yếu, văn chương không phải lúc nào cũng là bản
anh hùng ca, là cái đẹp viên mãn hay tiếng cười sảng khoái. Văn chương đôi
khi chính là những tiếng thở dài, xung đột gay gắt, xuất phát từ những đòi hỏi,
khát vọng chân chính của con người... Nói cách khác, văn chương là cuộc
sống, nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì cuộc sống. Cuộc sống ở khía
cạnh bản chất nhất chính là cuộc sống thường ngày- cuộc sống đời thường.
Nhiệm vụ của người nghệ sỹ phải tìm ra cái quy luật chung có tính tất yếu về
“sự thật của bản thân đời sống” biểu hiện trong cái hàng ngày.
Viết về nhân vật trí thức, Sêkhôp và Nam Cao khơi sâu vào tấn “bi kịch
tinh thần” chứ không đề cập đến ý thức chính trị hay lập trường cách mạng.

Sự vĩ đại của hai nhà văn là khám phá sự thật đời thường, phát hiện “bi kịch
đời thường” luôn tiền ẩn trong những cái vụn vặt, những điều vặt vãnh lặp đi
lặp lại hàng ngày. Nâng “bi kịch tinh thần” thành “bi kịch của vĩnh cửu”, bắt
những điều vặt vãnh nhất cũng phải nói lên tiếng nói về ý nghĩa cuộc sống đó
là mục đích của cả Sêkhôp và Nam Cao. Tất cả những chuyện bình thường
của anh, của tôi, của chúng ta dưới ngòi bút sắc sảo của nhà văn đều trở thành
những vấn đề có ý nghĩa xã hội lớn lao. Từ “sự nhàm chán, buồn tẻ, loãng
nhạt, vô vị đó mà cất một câu hỏi lớn- một cuộc sống như vậy có đáng gọi là
cuộc sống không? Và ý nghĩa của cuộc đời là gì?” [60,192].
1.1. Bi kịch đời thường- những khám phá tương đồng của Sêkhôp và Nam Cao
1.1.1. Khám phá sự thật đời thường
Trong quá trình sáng tác, Sêkhôp và Nam Cao đã sớm tìm ra “cái chung
có tính quy luật”, “tính tất yếu” làm nên “sự bất tử” của truyện ngắn, đó là sự
thật đời thường. Sêkhôp đã từng phát biểu về sứ mạng ngòi bút của mình: “Văn
học được coi là có tính nghệ thuật vì nó vẽ tả cuộc sống như vốn có trong thực
tế. Mục tiêu của văn học là sự thật tuyệt đối và trung thực...” [41,4]. Mượn lời
nhà văn Điền trong “Giăng sáng”, Nam Cao phát biểu: “Nghệ thuật không cần
là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là
tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”. Nhiệm vụ của người

18


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

nghệ sỹ phải “đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động
của đời…”. Sêkhôp và Nam Cao đã có sự gặp gỡ trong quan điểm sáng tác:
nghệ thuật chân chính phải trung thành với hiện thực khách quan của đời sống;
người cầm bút phải miêu tả chân thực, nhìn thẳng vào sự thực “tàn nhẫn”,
phanh phui cả cái tích cực và cái tiêu cực, cả cái tốt đẹp và cái bùn lầy, nói lên

nỗi thống khổ, cùng quẫn của nhân dân, thôi thúc con người đến cái đẹp.
Cái hàng ngày, cái đời thường là mảng đề tài phổ biến nhất, là nguồn
cảm hứng dồi dào, bất tận để Sêkhôp và Nam Cao tìm kiếm, khám phá sự thật
đời thường. Trong cái phong phú và phức tạp của cuộc sống hàng ngày, hai nhà
văn hướng đến cái nhỏ bé, cái đời thường, thậm chí là tầm thường. Đó là những
“Chuyện đùa nho nhỏ”, “Chuyện đời vặt vãnh”, “Chuyện không muốn viết” xảy
ra hàng ngày hết sức đơn giản, không có gì quan trọng, không gây sự chú ý,
giật gân. “Chuyện đời vặt vãnh” của Sêkhôp có thể là chuyện viên y sĩ nhổ răng
cho viên trợ tế nhà thờ, chuyện cả đời mơ ước được ăn quả phúc bồn tử chua
loét, chuyện giáo sư già ngẫm lại cuộc đời đã qua của mình, chuyện người đàn
bà phù phiếm, thích hư danh, luôn mơ ước hão huyền; còn ở Nam Cao là
những chuyện “Nhỏ nhen”, chuyện “Quên điều độ”, chuyện dạy trẻ con quét
nhà, chuyện mua một căn nhà mới, chuyện vợ chồng cắn rứt nhau…Dường
như trong cuộc sống có bao nhiêu biến cố, bao nhiêu sự kiện, bao nhiêu lát cắt
đời thường đều có thể trở thành một trong những thiên truyện ngắn của hai ông.
Tất cả những gì diễn ra hàng ngày, tất cả những số phận, những kiếp người dù
chỉ một lần thoáng gặp, thoáng đi qua cuộc đời của nhà văn cũng đều có thể trở
thành cảm hứng sáng tạo của hai ông. Trong những “Chuyện đời vặt vãnh”,
“Những chuyện không muốn viết”, Sêkhôp và Nam Cao đã nhìn thấy những
đặc tính tiêu biểu của nếp sống chung, chỉ ra những cái không bình thường
trong cái tưởng như là bình thường. Đó là cuộc sống với sự vận động bề mặt
hết sức đơn điệu, tẻ nhạt nhưng lại ngầm ẩn chứa những vận động tâm trạng
hết sức phức tạp và tinh tế, những day dứt bức bối, những bừng ngộ bất ngờ,
những dự cảm, ước mơ đôi khi còn mơ hồ chưa ý thức được hết. Có thể nói,
trong quan niệm sáng tác của Sêkhôp và Nam Cao cái hàng ngày không chỉ

19


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao


biểu hiện trên phương diện đề tài mà còn là hạt nhân tạo nên ý nghĩa thẩm mỹ
và ý nghĩa triết lý cho các truyện ngắn của hai ông.
Tính chân thật là sức mạnh trong sáng tác của Sêkhôp và Nam Cao. Hai
nhà văn đã gặp gỡ trong phương pháp, cách thức khám phá sự thật đời
thường. M. Gorki từng khẳng định: “Tất cả những con người ấy, kẻ xấu cũng
như người tốt, đều sống trong câu chuyện của Sêkhôp đúng như họ sống trong
hiện thực. Trong truyện ngắn của Sêkhôp không có cái gì mà lại không có
trong cuộc sống. Cái sức mạnh khủng khiếp của tài năng Sêkhôp chính là ở
chỗ ông không bao giờ tự bịa đặt ra một cái gì, không bao giờ miêu tả một cái
gì không có trên đời này, tuy có thể là tốt đẹp, có thể là đáng mong ước. Ông
không bao giờ tô vẽ con người…” [37,47]. Nhà nghiên cứu Trần Đăng Suyền
cũng nhận xét đặc điểm nổi bật trong sáng tác của Nam Cao: “Đưa truyện trở
về dạng “đời thật” nhất, đồng thời, soi rọi vào đó một luồng ánh sáng rất
mạnh của tư tưởng, bắt những chuyện vặt vãnh, những cảnh đời thường hàng
ngày quen thuộc nói lên những ý nghĩa sâu sắc về con người, về cuộc sống và
nghệ thuật” [91,45].
Nguyên tắc miêu tả chân thực trong sáng tác có mối liên hệ trực tiếp với
quan niệm của Sêkhôp và Nam Cao về sứ mệnh, nhiệm vụ của người nghệ sỹ.
Sêkhôp nói: “… công việc của người nghệ sỹ không phải là giải quyết những
vấn đề chuyên môn hẹp… Nghệ sỹ chỉ nên xét đoán về điều gì anh ta hiểu
biết; phạm vi của anh ta cũng có hạn như phạm vi của bất cứ chuyên gia
nào… hai khái niệm: giải quyết vấn đề và đặt đúng vấn đề. Chỉ có điểm sau là
bắt buộc đối với nghệ sỹ”. Đặc biệt, ông đề cao cộng đồng sáng tạo: “khi viết
tôi hoàn toàn tin cậy vào bạn đọc vì cho rằng những yếu tố chủ quan còn
thiếu, bạn đọc sẽ thêm vào” [22,447]. Qua lời của văn sỹ Hộ trong “Đời
thừa”, Nam Cao đã phát biểu nhiệm vụ của người cầm bút: “Văn chương
không cần những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho.
Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi
những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những gì chưa có”. Sêkhôp và Nam

Cao đã “đào sâu”, khơi trúng cái sự thật đời thường bằng ngòi bút chân thực
khách quan của một chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo, nghiêm ngặt với một tấm

20


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

lòng thiết tha sôi nổi rất mực yêu thương những con người bình thường với tất
cả những mặt xấu tốt của nó.
Nhân vật hoạ sỹ trong “Ngôi nhà có căn gác nhỏ” thay lời Sêkhôp khẳng
định mục đích lớn lao mà mỗi tác phẩm nghệ thuật đích thực phải hướng tới:
“…nền khoa học và nghệ thuật chân chính không nhằm mục đích riêng lẻ,
nhất thời mà bao giờ cũng hướng về những gì chung mà vĩnh viễn. Khoa học
và nghệ thuật đi tìm sự thật và ý nghĩa của cuộc sống, tìm Thượng đế, tìm tâm
hồn…”. Nam Cao thì khẳng định: “Một tác phẩm có giá trị, phải vượt lên bên
trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho tất cả loài
người. Nó chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa
phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình…Nó làm cho
người gần người hơn”. Với mục đích chân chính đó, Sêkhôp và Nam Cao đặt
chúng ta đối diện với cuộc sống, nhìn thẳng vào nó mà hiểu mà thấy mình
đang sống “tồi tệ” và “buồn tẻ”, “nghèo” và “hèn” như thế nào. Truyện của
Sêkhôp và Nam Cao có tác dụng lay động và “thức tỉnh trong con người lòng
kinh tởm đối với cuộc sống tẻ nhạt, cái cuộc sống chẳng khác cái chết mấy
đỗi này” [38,344].
Quan điểm của Sêkhôp và Nam Cao về sứ mệnh nghệ thuật, về nhiệm vụ
của nghệ sỹ là nhất quán, thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa nghệ thuật và
cuộc sống, nhà văn và bạn đọc, khẳng định một lần nữa cái nhìn khách quan, có
chừng mực của hai ông về cuộc sống. Sêkhôp và Nam Cao đã phát ngôn đầy đủ
và sâu sắc hơn về đặc trưng và nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa hiện thực.

Trên cơ sở “nghệ thuật vị nhân sinh”, hai ông khơi sâu vào cái hàng ngày, tìm ra
“sự thật đời thường”, khám phá bi kịch tinh thần của người trí thức.
1.1.2. Khám phá bi kịch đời thường
Theo “Từ điển tiếng Việt”, “bi kịch” được hiểu trước hết là “thể loại kịch
thể hiện sự diễn biến gay gắt của mâu thuẫn, thường kết thúc bằng sự thất bại,
hi sinh của nhân vật chính diện”. Hai là “cảnh éo le, mâu thuẫn dẫn đến đau
thương” [81,60].
Mục đích mà chúng ta tìm hiểu là bi kịch của những khát vọng con
người, chứ không đề cập đến phạm trù rộng cái bi. Đó là bi kịch phổ biến mà

21


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

con người thường gặp lại ở ngay trong chính cuộc sống xã hội của con người,
bắt nguồn chủ yếu từ những mâu thuẫn, xung đột của những cá nhân trong
cuộc sống hàng ngày, được biểu hiện trong những hoàn cảnh cụ thể rất đa
dạng. Đó là bi kịch trong cái hàng ngày hay còn gọi là bi kịch đời thường.
Con người bình thường mà Sêkhôp và Nam Cao quan tâm nhất trong
thời buổi rối ren là những người trí thức. Trong truyện ngắn Sêkhôp, họ là
những trí thức bình dân làm nhiều nghề nghiệp khác nhau, nhiều nhất là bác
sỹ, giáo viên, luật sư… Họ xuất thân trong những gia đình bình thường, phải
kiếm sống bằng chính sức lao động của mình. Cuộc sống của những giáo khổ
trường tư, những nhà văn “vỡ mộng”, những anh học trò nghèo thất nghiệp
với những lo lắng tẹp nhẹp về vật chất, cơm áo cũng đi vào sáng tác của Nam
Cao một cách tự nhiên như chính hiện thực ngoài đời mà nhà văn đã trải qua.
Viết về người trí thức, Sêkhôp và Nam Cao không chỉ phản ánh đời sống
vật chất tầm thường, dù không ít lần đề cập đến cuộc sống thiếu thốn. Mục
đích cao nhất của hai ông là tập trung xoáy sâu, làm nổi bật tấn bi kịch tinh

thần của họ trong cuộc sống hàng ngày. Đó là trạng thái đau khổ về tinh thần
khi con người đứng trước những mâu thuẫn, xung đột không thể hoá giải,
điều hoà giữa ước mơ, khát vọng chân chính đời thường và thực tiễn cuộc
sống. Họ tự ý thức được tình trạng của mình, song bàng quan, thoả hiệp, sợ
hãi chui vào bao, tha hóa hoặc cố tìm lối thoát nhưng không tìm được, sống
trong dằn vặt, đau đớn, dày vò. Đặc biệt trong quá trình đi sâu phân tích tấn bi
kịch tinh thần, khám phá “con người trong con người”, Sêkhôp và Nam Cao
phát hiện bi kịch của người trí thức nằm ngay trong cuộc sống hàng ngày mà
họ không chịu thừa nhận hoặc cố tình lẩn trốn nó.
Không phải ngẫu nhiên, Sêkhôp và Nam Cao quan tâm đến đời sống tinh
thần, chỉ ra bi kịch đời thường của người trí thức. Nhà văn chỉ có thể viết hay
nhất, sâu sắc nhất về những gì mà mình nếm trải. Cùng sinh trưởng trong
những gia đình nghèo, sớm phải tự thân kiếm sống, bệnh tật đeo đuổi, Sêkhôp
và Nam Cao am hiểu và thấm thía sâu sắc thân phận chính mình và bi kịch
tinh thần của người trí thức nghèo. Họ là những người có học, có ước mơ hoài
bão nhưng sống “buồn tẻ”, “nghèo hèn”, không phát huy được tài năng, hoặc
quên lãng khát vọng chân chính của mình.

22


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

Sinh ra và lớn lên ở hai đất nước, hai thời kỳ lịch sử khác nhau nhưng
Sêkhôp và Nam Cao cùng chứng kiến những chuyện chướng tai gai mắt của
chế độ đương thời. Những năm 80 thế kỷ XIX, khi Sêkhôp bắt đầu hoạt động
văn học, cả nước Nga đang trong “buổi hoàng hôn” ảm đạm của “một xã hội
cổ lỗ, mà lại hoang dại tối tăm, và cái chính là nó cứ mòn mỏi trôi qua trước
mắt mọi người. Một ít cải cách có được thực hiện, song rút cục mọi chuyện
vẫn đâu đóng đấy” [76,16]. Người trí thức Sêkhôp đã vượt lên trên thực tại

tầm thường, sôi sục một tinh thần dân chủ triệt để, chống đối những mưu toan
loại bỏ văn nghệ ra ngoài cuộc đấu tranh xã hội, không đồng ý với triết lý
“việc nhỏ” mang tính cải lương và phê phán những thói tật của giới trí thức
đương thời. “Cuộc sống tẻ nhạt, cái cuộc sống chẳng khác chết mấy đỗi này”
cần phải thay đổi đó là mục đích mà Sêkhôp muốn thức tỉnh con người.
Nam Cao xuất hiện trên văn đàn khi chế độ nửa thực dân phong kiến vẫn
đang tồn tại, phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, chiến tranh thế giới lần thứ
hai sắp xảy ra, nhân dân Việt Nam đang sống trong cảnh một cổ hai tròng. Phản
ánh trung thực cuộc sống quẩn quanh, mòn mỏi của người trí thức tiểu tư sản,
Nam Cao đã đụng chạm đến căn bệnh một thời của những người tiểu tư sản Việt
Nam. Họ nghèo đói, thiếu thốn về vật chất, bị tù túng, giam hãm về tinh thần nên
mang một tâm lý chung: thụ động, sợ đổ vỡ, ngại thay đổi, sợ va chạm…Tâm lý
yếu đuối này bắt nguồn từ địa vị kinh tế và chính trị bấp bênh, tính chất hay dao
động và do dự của giai cấp tiểu tư sản Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Nam Cao đã phản ánh trung thực, dũng cảm vạch trần những mặt thấp kém, xé
toang lớp vỏ hào nhoáng bên ngoài để chỉ ra căn nguyên, ngọn nguồn khởi phát
bi kịch đời thường.
Hoàn cảnh lịch sử, bối cảnh văn học, cuộc đời của mỗi nhà văn đã lý giải
tại sao Sêkhôp và Nam Cao lại đi sâu vào những chuyện vặt vãnh đời thường,
những chuyện tưởng chừng như không muốn viết về tầng lớp mình, cuộc đời
mình. Vương Trí Nhàn đã nhận xét khi viết về Sêkhôp và có thể song trùng với
cả sáng tác của Nam Cao: “Như những bức tranh có một gam màu duy nhất, và
thoạt trông ai cũng biết ngay là tác giả” và “truy nguyên đến cùng, cái cảm giác
về đời sống toát lên từ những trang văn Sekhov hẳn có điều gì đó liên quan tới
hoàn cảnh lịch sử mà nhà văn này đang sống” [76,12- 16].

23


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao


Khám phá bi kịch tinh thần, Sêkhôp và Nam Cao đã phát hiện ra bi kịch
đời thường của người trí thức. Họ không phải là Anđrây Bônkônxki (Chiến
tranh và hoà bình), hay Raxkônnhikôp (Tội ác và hình phạt) theo đuổi những
hoài bão, tư tưởng lớn lao mang tầm vóc thời đại mà hướng suy nghĩ, trăn trở
vào cuộc sống thường ngày. Họ đang vật lộn trong những mâu thuẫn, xung
đột tưởng như bình thường không ai băn khoăn, thắc mắc đang gặm nhấm,
đầu độc cuộc sống con người và đẻ ra hàng loạt những cuộc sống thừa, những
cảnh đời thừa, đẩy con người đứng trước bờ vực của sự tha hoá ngay trong
nhịp sống uể oải hàng ngày. Nhà nghiên cứu Đào Tuấn Ảnh khái quát: “Đây
chính là “thái độ dân chủ đối với chất liệu, là chủ nghĩa nhân văn cao cả của
Sêkhôp và Nam Cao, là sự mẫn cảm đặc biệt của những nhà văn lớn trước
những yêu cầu, đòi hỏi mới của thời đại- thời đại diễn ra quá trình hiện đại
hoá, dân chủ hoá gấp rút trong lĩnh vực văn hoá, văn nghệ [6,100].
1.2. Bi kịch đời thường của nhân vật trí thức trong truyện ngắn Sêkhôp
Qua ngòi bút chẩn bệnh tài tình của Sêkhôp, bi kịch đời thường của người
trí thức hiện ra với những biến dạng rất tinh vi: bi kịch người trong bao, bi kịch
sự tha hoá, bi kịch của sự bừng tỉnh muộn màng.
1.2.1. Bi kịch người trong bao
Hình ảnh “cái bao” là sáng tạo độc đáo của Sêkhôp trong truyện ngắn
“Người trong bao”. Ngoài ý nghĩa cụ thể, nó còn là một biểu tượng mang ý
nghĩa ẩn dụ. Nói như thầy giáo Burkin, thứ bao này là “một dạng tính cách”
của “cái thứ người bản tính vốn ưa sống đơn độc như con ốc, con sên lúc nào
cũng cố thu mình vào trong vỏ ốc”. Để tránh mọi ảnh hưởng bên ngoài,
Bêlikốp- một giáo viên dạy tiếng Hy Lạp đã tạo cho mình một thứ bao hoàn
hảo, làm nên phong cách trong bao. Đó là một chân dung chìm lấp đi trong
lớp lớp những cái bao khác nhau: bao trang phục, bao thân hình, bao vật
dụng, bao ý nghĩ... Trong công việc, hắn khống chế trường học bằng bao thận
trọng, đa nghi suốt mười lăm năm trời. Hắn ca ngợi quá khứ, “những chỉ thị,
thông tư, những bài báo cấm đoán điều này điều nọ mới là những cái rõ ràng”,

còn “mọi chuyện vi phạm khuôn phép, hơi trái với lẽ thường đều làm hắn rầu
rĩ”, lo lắng ra mặt và luôn miệng nói “nhỡ có chuyện gì xảy ra”. Hắn “duy trì
tốt mối quan hệ với các bạn đồng nghiệp” bằng cách “chẳng nói chẳng rằng,

24


Luận văn: Nhân vật tri thức trong truyện ngắn Sêkhôp và Nam Cao

mắt nhìn xung quanh…ngồi im như phỗng thế rồi một giờ sau thì cáo từ”.
Trong cuộc sống sinh hoạt, hắn thu mình vào cái bao vật chất chật cứng, kín
mít. Đến cả hạnh phúc riêng tư hắn cũng cân nhắc trong bao phận sự, nghĩa
vụ, tương lai...Bị tiếng cười của Varenka tấn công, Bêlikốp sợ hãi đến cùng
cực, chui sâu hơn vào bao và chỉ thấy mãn nguyện khi “được chui vào cái bao
mà từ đó không bao giời hắn phải thoát ra nữa”. Sau câu chuyện kể về cuộc
đời Bêlikốp- một kiểu “người trong bao”, bác sỹ Ian Ivannứts đã nhận thức và
thốt lên rằng: “Chúng ta sống chui rúc ở thành phố này trong không khí ngột
ngạt, chúng ta viết những giấy tờ vô dụng, đánh bài, đánh bạc, những cái đó
há chẳng phải là một thứ bao sao? Chúng ta sống cả đời bên những kẻ vô
công rồi nghề, những kẻ xui nguyên giục bị, những mụ đàn bà nhàn rỗi ngu si,
chúng ta nói và nghe đủ thứ chuyện nhảm nhí, vô nghĩa đó chẳng phải là một
thứ bao sao?”. Như vậy, cái bao vừa là biểu tượng cho cuộc sống ngột ngạt,
bức bối, bó buộc, vừa là biểu tượng cho lối sống che đậy, thu mình, ích kỷ,
bảo thủ trì trệ, vừa là biểu tượng cho tâm lý nô lệ, tha hóa nhân cách đến mức
trốn tránh thực tế, luôn luôn rúm ró trước bất cứ điều gì. Sêkhôp đã phát hiện
và nhận thức sâu sắc những “cái bao” đang giam hãm, kìm kẹp con người,
mỗi cái một vẻ, phong phú, độc đáo. Chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu những “cái
bao” đang bủa vây, đẩy người trí thức vào bi kịch sợ hãi chui vào bao.
Thẩm phán Aliôkhin (Một câu chuyện tình yêu) là một trí thức có tài.
Nhiều năm nay, cuộc sống của anh vẫn giậm chân tại chỗ, chấp nhận “sống

mòn” nơi làng quê, xa rời tất cả những hứng thú và đam mê nghiên cứu khoa
học. Tức là Aliôkhin tự nguyện, chấp nhận lối sống trong bao- buồn bã, tẻ
nhạt, để cuộc đời trôi đi vô vị giữa một trang ấp mênh mông. Nguy hiểm hơn,
lối sống trong bao đã chi phối cả suy nghĩ, hành động của Aliôkhin. Khi làm
thẩm phán của hội đồng thành phố, anh đã thầm yêu Anna Alêchxâyépna một phụ nữ đã có chồng, trẻ trung, xinh đẹp, phúc hậu, thông minh và có học
thức. Trước những suy nghĩ, đắn đo tính toán về hạnh phúc hay bất hạnh, về
sự trung thực trong tình yêu, về sự tự ti của bản thân, Aliôkhin đã không đủ
dũng cảm, quả quyết đến với tình yêu, đánh mất vĩnh viễn hạnh phúc của
mình, đẩy Anna vào tâm trạng bức bối, suy nhược thần kinh. Cuối cùng, anh
sống trong day dứt, dằn vặt và Anna mãi mãi dời xa anh.

25


×